Thứ Hai, 27 tháng 5, 2013

Văn bia của Tiến sĩ Vũ Thạnh soạn tại chùa Đại Minh, xã Duyên Trường, Thường Tín

Đình nguyên Thám hoa Vũ Thạnh và văn bia chùa Đại Minh
                                                Thích Minh Tín[1]
(Bài đăng Tạp chí Hán Nôm số 6/109-2011)
Chùa Đại Minh ở thôn Duyên Trường, xã Duyên Thái huyện Thường Tín, Hà Nội. Đây là một ngôi chùa cổ lâu đời. Theo thông tin từ các vị cao niên và căn cứ tên chùa thì có lẽ chùa được xây dựng từ thời Thuộc Minh. Trên chuông đồng tại chùa có ghi lời nhận định: 吾 延 長 賀 泰 二 社 有 寺 曰 大 明 其 祀 於 胡 末 之 屬 于 明 乎/ Hai xã Diên Trường Hạ Thái ta có ngôi chùa  là Đại Minh. Có lẽ chùa từ cuối đời nhà Hồ xây dựng thời thuộc Minh chăng![2]. Trải qua mưa nắng lâu ngày, chùa đã qua nhiều lần trùng tu khởi tạo. Trong quá trình điền dã tại địa phương, chúng tôi phát hiện tại chùa còn lưu giữ một văn bia do Đình nguyên Thám hoa triều Lê là Vũ Thạnh soạn.
Vũ Thạnh 武晠(1664 - ?), tự là Phác Phủ 仆甫người làng Đan Loan, huyện Đường An, trấn Hải Dương (nay là huyn Bình Giang, tỉnh Hi Dương). Theo văn bia tại chùa Đại Minh, ông còn có hiệu là Đoan Phủ端甫. Ông xuất thân là con nhà nghèo, sau lưu lạc đến ở khu vực chùa Báo Thiên trong kinh thành Thăng Long[3]. Từ thuở nhỏ ông đã theo thờ Tiến sĩ Vũ Công Đạo[4] làm thầy. Đến năm t Su (1685) niên hiện Chính Hòa thứ 6 đời Lê Hy Tông, đỗ Đình nguyên Thám hoa lúc mới 23 tuổi. Ông làm quan, lần lượt giữ các chức vụ quan trọng như: Hồng lô tự khanh, Thiêm đô ngự sử, Bồi tụng.
Sau vì ông đem việc các quan hoạn hay cầu cạnh, xin xỏ trong việc kiện tụng ra nói ở phủ Tiết chế, Chúa cả giận giao triều đình luận bàn, rồi cho bãi chức ông vì tội gièm pha. Ông về mở trường dạy học tại nhà ở làng Hào Nam (nay thuộc quận Đng Đa, Hà Ni. Đình làng Hào Nam suy tôn ông làm Thành hoàng làng). Một thời gian sau, ông được khởi phục, làm đến chức Tự khanh.
Vũ Thạnh là người ưa thực nghiệp, ghét hư văn, ra sức cải cách văn phong. Nghe tiếng ông, hàng ngàn học trò xa gần đến thụ nghiệp ở trường ông, nhiều người đỗ đại khoa, có nhiều người làm quan có danh tiếng.
Vũ Thạnh mất năm nào không rõ, được triều đình truy tặng chức Tham chính. Con ông là Tiến sĩ Vũ Huy, cũng đậu Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1712) niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 8, làm quan đến chức Hữu Thị lang.
Hiện nay đường vào khu tập thể Hào Nam (qun Đng Đa, Hà Ni), nơi ông dạy học xưa kia được gắn biển phố mang tên ông. Tác phẩm của Vũ Thạnh có Hào Nam văn tập 豪南文集(nay đã bị thất lạc) và một số văn bia. Hiện trong Toàn Vit thi lc 全越詩錄còn lưu lại 24 bài thơ viết bằng ch Hán của ông[5]. Qua những vần thơ ấy, người ta biết ông là “một trí thức ước mong một cuộc sống thanh cao, nhàn dật trong cảnh điền viên. Cũng có lúc than thở về nhân tình thế thái, nhưng giữ thái độ an bần lạc đạo, giữ vẹn tình nghĩa ở đời. Lời thơ tao nhã, chân thực, ít gò bó, có phong vị dân tộc[6].
Tư liệu về danh nhân Vũ Thạnh hiện còn trong tình trạng tản mát, thất lạc. Việc sưu tầm các thơ văn trước tác của ông là một việc làm có ý nghĩa, nhân chuyến đi công tác của mình chúng tôi sưu tầm thác bản và giới thiệu dịch nghĩa tấm bia này, góp phần sưu tầm, bổ sung tư liệu để tìm hiểu sâu sắc hơn về thân thế cuộc đời, và sự nghiệp thơ văn của nhà khoa bảng Vũ Thạnh, nhà giáo, danh nhân thời Lê Trung hưng.
Nguyên văn tấm bia 2 mặt:
大 明 寺
MẶT 1.
山 南 道 常 信 府 青 池 延
, , !
 宮 嫀 陳 氏 題 號 妙 提 者, 縣青 . . ,
  . . . , . .
. , . , .
, , 殿, . , 殿 , . ,
, 蠢眾. 使 . . 滿.
此 而 有 祝 聖 之場, 有 祈 福 之 所. 老 幼 目 而 仰 望, 不 傾 心 而 敬 慕 焉. 乃 相 與 語 曰: 人 言
佛 在 兜 率 之 天, 誰 知 我 之 邑 亦 有 降 生 此 佛 乎! 始 信 山 不 在 高 有 仙 則 名 而 心 即 佛 也. 因 共 論 冒 瀆 保
請 尊 奉          正 府 侍 內 宮 嫀 陳 氏 題 號 妙 提 為 大 明 寺 後 佛. 其 儀 禮 具 有 恒 式, 其 香 火 約 等 長 天, 方 面
承 一 許 更 心 誓 數 言. , ,   . .
  . 常或 .
,   , . !
.
,
.
,
.
,
殿 .
,
.
,
.
,
.
,
.
,
.
,
.
, , , ,
MẶT 2
 
 
,
,
,
,   , , ,  
,
,  
祿,   .  
, ,  
調,   ,
,  
,  
, , ,  
, ,
. . 殿  
 
西
, , , , .
  綿 綿 .  
         
阮貴
 
 
Dịch nghĩa:
CHÙA ĐẠI MINH TỰ
Bài Tựa và bài Minh bia Hậu Phật chùa Đại Minh ở hai xã Duyên Trường, Hạ Thái huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, đạo Sơn Nam.
Nói rằng ôi, người có công đức với dân tất hưởng báo đáp của dân, mà đội ơn của người mà có thể không truy ân người mà phụng tự người ta hay sao! Kính rằng đây có bà Thị nội cung tần trong chính phủ thời  thánh triều ta là bà Trần Thị Đề hiệu Diệu Đề, là người trong xã, ở huyện Thanh Trì. Sinh ra được vẻ đẹp tú lệ, cốt cách tiên nhân, đức sùng phật tử.
Đến kì cập mà được tuyển vào hầu cận bên vua. Lòng sủng ái khắp cả tiêu phòng[7]Sinh con hiền như  điềm hiện móng  lân[8], đức trung hiếu như Đông Bình đời Hán[9]. Tuổi cao lại phát bồ đề tâm[10]. Lòng hoan lạc vui chơi miền Thứu lĩnh[11]. Theo lối nhà  Mâu học gương từ bi Quan Thế[12]. Lại thấy lời sư trụ trì. Rằng chùa  Đại Minh tự ấy cổ tích danh lam của hai xã (Duyên Trường, Hạ Thái). Nay đội phong sương đã lâu, lại thêm mối mọt phá hoại. (Bà) liền  hưng công đức làm phúc mở  phát tiền tài, chẳng ngại kinh phí, gỗ đá như núi, thợ thuyền như mây. Đã tạo nhà tiền đường một tòa, lại  trùng tu nhà thiêu hương, nhà thượng điện, nhà hậu đường các bên. Trong chốc mà thành, cảnh đẹp như cung điện vàng son, lâu đài ngọc bích. (Bà) lại đóng góp đồng tốt, đúc đại hồng chung[13], chuông lớn giữa trời âm Kình ngân tiếng[14], vang đại thanh để giác ngộ kẻ tối ngu. Thế là  tiên cung pháp khí đầy đủ hoàn toàn. Lại hậu ban thêm tiền đồng ruộng mẫu. Cử một lần mà việc thiện duyên viên mãn.
Hai  ấp dân tự đây thờ thánh có nơi, cầu phúc có chốn. Trai gái trẻ già, ai là không giương mắt ngóng trông, ai là không thuận lòng kính mộ. Thế mới có lời rằng:
Người ta bảo Phật trên trời  Đâu Suất [15],
Ai hay ấp ta cũng có Phật đấy giáng sinh!
Mới biết núi chẳng phải vì cao,
Có tiên mà danh nổi
Tâm ấy là Phật, Phật ấy tại tâm
Nhân cùng luận bàn, mạo muội phiền nhiễu, bầu xin thỉnh tôn phụngChính phủ thị nội cung tần Trần Thị Đề, hiệuDiệu Đề làm hậu phật chùa Đại Minh. Nghi lễ thờ phụng đã có cách thức, để cho hương hỏa thờ bà được với trường thiên.
Lại hứa một lần mà lòng thề mấy chữ . Những kẻ hậu sinh của hai ấp, làm dân ở đây, phải suy xét chớ quên, phụng thờ chớ bỏ. Nghìn năm như một buổi, muôn thủa giữ một lòng.
Tuy chùa này có cũ mà nghi lễ này không gì có từ khởi thủy không giữ cho mới. Tuy bia này có mòn vạt mà tâm ấy không từng mai một. Được như  thế thì ơn trạch của bậc tôn đức[16] còn mãi mãi muôn kiếp trường tồn mà hai  ấp dân ta tục nhân phong, được hưởng thăng bình ích lợi, mãi mãi với đất trời; mà TrườngThái các  [17] nhật nguyệt chiếu soi. Thế chẳng hay đẹp lắm sao ! nhân xin lời văn làm tựa khắc vào đá cứng để truyền lưu muôn đời.
Vậy làm bài minh rằng
Quê Thanh đẹp xuất .
Sủng ái tiêu phòng [18],
Chùa Minh trùng tu[20] ,
Điện đường kiến trúc .
Lại đúc  hồng chung ,
Để tỉnh muôn vật .
Tiền cung làm phúc,
Ruộng  cúng tế thực .
Lời bầu rõ ràng,
Ghi bia cao ngất .
Truyền giới chớ thường ,
Thơ báo thành thật[21] .
Đời có muôn  niên ,
Ngày lành đầu đông năm Giáp Tuất niên hiệu Hoàng triều Chính Hòa thứ 15  (1694) muôn muôn năm.
BIA HẬU PHẬT
tên
Kê tên
Cùng ghi danh các vị hương lão trên dưới  lớn nhỏ.
Từng nghe rằng cỏ thơm muôn dặm, ắt có cây nổi danh. Mà một ấp mười nhà tất có người trung tín. Nay hai xã nhân dân thấy bà Trần Thị Đề hiệu Diệu Đềcung tần thị nội trong chính người xã Thanh Trì trong  bản huyện, phát bồ đề tâm hưng công làm phúc, tu tạo tiền đường lại trùng  tu thượng điện, thiêu hương, hậu đường của chùa Đại Minh, nguyêncổ tích danh lam tự của cả hai . Vậy nhân dân hai xã từ ông Nguyễn Tiến Thiện đến ông Trần Văn Giáo trên dưới lớn nhỏ người người đều ngưỡng mộ, phát tâm hoan hỉ  kính bầuTrần Thị Đề hiệu Diệu Đề làm hậu phật, để cung việc thờ tự, để cầu cho (gương tốt bà) được  lưu truyền. Vậy thừa bầu, có ruộng các  sở khai trần vào bên trái.
rằng
Một, giỗ ngày 28/7
Một, kính phụngChính phủ thị nội cung tần Trần Thị Đề làm hậu phật.
Một,  mỗi năm hễ đến tiết  Thường Tiên[28] và ngày sinh nhật. Nhân dân hai xã đều phải kính lễ.
Một, khi bà trăm tuổi, thì dân hai  xã kính giỗ com chay 18 cỗ.
Một, hứa cho hai ruộng tám mẫu. Các sởđông tây 4 phía bốn mẫu làm việc phụng sự hậu phật. Hai mẫu làm giỗ cho các cụ: Hiển khảo Trần nhất lang, tên  tự Huệ Ninh giỗ ngày 10/9 cỗ chay hai cỗ. Cụ bà, là Hiển tỉ quý thị tên hiệuTừ Nhân tên thụyVinh Kính, giỗ ngày 17/4 cỗ chay hai cỗ[29].
Hai  mẫu để cho bản tự  lo việc cúng phật, và dự cáo ngày giỗ các vị hầu gái, cháu bà là các vị: Trần Thị Bình hiệu Diệu Công, Trần Thị Nỗi, Trần Thị Triêu, Trần Thị Thiểm, Trần Thị Hiểu.
Quan viên hương trưởng 2 xã Duyên Trường Hạ Thái huyện Thanh Trì phủ Thường Tín từ ông Nguyễn Tiến Phổ chí Trần Văn Giáo trên dưới lớn nhỏ, chia phần ruộng cho xã Duyên Trường 2 phần, xã Hạ Thái một phần.
(Văn bia thêm người cung tiến). Thường nói rằng  triều đình lấy kỉ cương làm pháp tắc, nhân dân lấy kính nhượng làm đầu. Nay hai ngưỡng trông bà Nhũ mẫu dưỡng dục cho Vương tử, là người  bản huyện Thanh Trì tên Nguyễn Thị Cẩm hiệu Diệu Thuận Ngọc Thịnh kim cương bồ tát[30], góp sức hưng sùng phật pháp. Đức ngầm thì hiếu hạnh kiêm toàn, nói tài thì tài năng vượt  thế. Hai tự ông Nguyễn Tiến Thiện cho đến ông  Trần Văn Giáo trên dưới cùng ứng kính bầuNguyễn Thị Cẩm hiệu Diệu Thuận làm hậu phật, cũng tùy nghi thứ bực phụng sự, để việc nối mãi muôn đời, để hưởng phúc đến trường cửu. Vậy nên , bầu đặt các thửa ruộng khai trần vào bên trái.
Một,  hứa cho hai ruộng 1 mẫu, lại một sào tại chùa làm dự cáo trước ngày.
Một, khi bà trăm tuổi kính giỗ cỗ chay ba cỗ.
Cho chồng bà là Trần quý công tên tựThuần Đức.
Tên thụyĐôn Hậu phủ quân giỗ ngày 11/7 thất nguyệt thập nhất nhật, cỗ chay 1 cỗ.
Bia ghi lập ngày 12 tháng 11 năm niên hiệu Hoàng triều Chính Hòa thứ 15 (1694).
Ruộng  tại chùa, hòa thượng lo lấy 2 mẫu 2 sào làm việc phụng sự.



[1] Trường Trung cấp Phật học Hà Nội.
[2] Đại Minh tự chung大明寺鍾.(Bản dịch tư liệu cá nhân)
[3] Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Ất sửu niên hiệu Chính Hòa năm thứ 6 (1685)/Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, 1 người: Vũ Thạnh 武晟người phường Báo Thiên huyện Thọ Xương. (nay thuộc phường Hàng Vải quận Hoàn Kiếm Tp. Hà Nội).
[4] Vũ Công Đạo, người làng Mộ Trạch, Đường An - nay là Bình Giang, Hải Dương. Đỗ tiến sĩ  năm 1659, làm quan dưới các đời chúa Trịnh Căn, Trịnh Tạc. Từng được cử đi sứ Trung Quốc, làm Đốc đồng  Sơn Tây, rồi thăng lên đến Thượng thư bộ Hộ. Vũ Công Đạo còn là một thầy giáo xuất sắc, thu nhận nhiều học trò danh tiếng.
[5] 全越詩錄. A.132/4 Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm.
[7] Tiêu phòng: Đời nhà Hán gọi hoàng hậu là tiêu phòng , đời sau gọi họ nhà vua là tiêu phòng chi thân   đều là ý ấy cả. Đây nói là bà Trần Thị Đề vào làm cung tần trong chính phủ, được vua sủng ái.
[8] Lân chỉ麟指: tức Móng con Lân, cũng là tên bài thơ trong Kinh Thi. Lân là loài thú không ăn sinh vật, không dẫm lên cỏ xanh, người xưa cho là loài nhân thú, tượng trưng cho đức tính nhân hậu, chỉ người con cháu có tài đức. Kinh Thi có thơ: "Lân chỉ" khen ngợi những người con hay cháu tốt, có tài có đức. Đây ý nói bà Trần Thị Đề làm cung tần trong Chính phủ, được vua yêu chiều, sinh được con hiền như là móng con Lân vậy.
[9] Đông Bình chi trung hiếu東平之忠孝: Điển tích đời Hán, Lưu Vũ dòng dõi vua Hán, là người đôn hậu, trung hiếu, được phong là Tư vương ở đất Đông Bình, luôn có lòng nhớ về kinh sư. Người đời sau dùng điển Đông Bình東平 để chỉ người con cháu trong hoàng tộc có lòng trung hiếu, có lòng mong nhớ khôn nguôi.
[10] Bồ đề tâm 菩提心: Lòng Bồ đề tức chỉ Phật tâm, tâm từ bi hỉ xả, gây dựng Phật pháp gọi là tâm Bồ đề.
[11] Thứu lĩnh 鷲嶺: Núi Thứu lĩnh nơi đức Phật tu hành đắc đạo. Sau dùng từ Thứu lĩnh để chỉ đất Phật
[12] Mâu gia 牟家: Mâu tức chỉ Phật Thích Ca Mâu Ni, nhà Mâu cũng nói là Phật vậy ; Quan thế 觀世: tức là Quan thế âm, các cụ bà tu hành theo Phật pháp thường lấy gương từ bi tu hành của Quan Thế âm
[13] Đại hồng chung大洪鍾: Chuông lớn
[14] Kình âm 鯨音: âm Kình. Kình là 1 loại cá lớn ngoài biển, mỗi khi sóng lớn thường gào thét vùng vẫy như muốn sô bờ để bắt con Bồ lao, là con thú trong truyền thuyết, thường làm treo ở móc chuông, con Bồ lao cũng thét lên rất lớn mỗi khi cá Kình sô lại, nên người đời sau mới dùng hình tượng Kình hay Bồ lao để ví với tiếng chuông.
[15] Đâu Suất兜率: cõi cung trời tối cao thanh tịnh chỉ những bậc tu hành giác ngộ cứu thế gian mới lên được, theo truyền thuyết Phật ngự ở cõi này.
[16] Bậc tôn đức: người có đức cao đáng tôn, đã giúp dân xã dựng chùa. Được dân xã suy tôn là bậc Tôn đức.
[17] Trường – Thái : viết tắt của hai xã Duyên Trường, Hạ Thái, mà cũng là lời cầu mong cho dân hai xã được lâu dài thái bình
[18] Tiêu phòng: Đời nhà Hán gọi hoàng hậu là tiêu phòng , đời sau gọi họ nhà vua là tiêu phòng chi thân   đều là ý ấy cả. Đây nói là bà Trần Thị Đề vào làm cung tần trong chính phủ, được vua sủng ái.
[19] Đâu Suất兜率: cõi cung trời tối cao thanh tịnh chỉ những bậc tu hành giác ngộ cứu thế gian mới lên được, theo truyền thuyết Phật ngự ở cõi này
[20] Chùa Minh 明寺: tên gọi tắt chùa Đại Minh là chùa Minh
[21] Lời Kinh Thi có nói, sự báo đáp như quà tặng cho nhau cành đào thì báo lại cành mận. Điều ấy là sự thật không sai.
[22] Vũ Thạnh (1664 - ?) là nhà thơ, nhà giáo Việt Nam thời .người làng Đan Loan, huyện Đường An, trấn Hải Dương. Năm Ất Sửu (1685) đời Lê Hy Tông, ông đỗ Đình nguyên Thám hoa lúc mới ngoài 20 tuổi. Ông làm quan, lần lượt giữ các chức vụ quan trọng như: Hồng lô tự khanh, Thiêm đô ngự sử, Bồi tụng. Sau vì ông đem việc các quan hoạn hay cầu cạnh, xin xỏ trong việc kiện tụng ra nói ở phủ Tiết chế; phủ tâu lên chúa Trịnh. Chúa cả giận giao triều đình luận bàn, rồi cho bãi chức ông vì tội gièm pha. Về mở trường dạy học tại nhà ở làng Hào Nam, it lâu sau, ông được khởi phục, làm đến chức Tự khanh. Vũ Thạnh là người ưa thực nghiệp, ghét hư văn, ra sức cải cách văn phong; nghe tiếng hàng ngàn học trò xa gần đến thụ nghiệp, đỗ đại khoa đến hơn 70 người, về sau có nhiều người làm quan có tiếng tăm. Vũ Thạnh mất năm nào không rõ, được triều đình truy tặng chức Tham chính. Hiện nay đường vào khu tập thể Hào Nam (quận Đống Đa, Hà Nội), nơi ông dạy học xưa kia được gắn biển phố mang tên ông. Tác phẩm của Vũ Thạnh có Hào Nam văn tập (đã thất lạc) và một số văn bia. Hiện trong Toàn Việt thi lục còn lưu lại vài chục bài thơ viết bằng chữ Hán của ông. Qua số thơ ấy, người ta biết ông là “một trí thức ước mong một cuộc sống thanh cao, nhàn dật trong cảnh điền viên. Cũng có lúc than thở về nhân tình thế thái, nhưng bao giờ cũng tỏ ra an bần lạc đạo, giữ vẹn tình nghĩa ở đời. Lời thơ tao nhã, chân thực, ít gò bó, có phong vị dân tộc”.
[23] Giám sinh: Học vị Giám sinh
[24] Quan viên tử: Tước ăn theo bổng lộc của cha. Cũng như Quan viên tôn, tước ăn theo bổng lộc của ông
[25] Sinh đồ: Học vị Sinh đồ
[26] Xã sử: 1 chức danh  thuộc việc trong xã, ngoài ra còn các chức Xã tư
[27] Thủ hợp cũng là 1 chức danh trong hàng Xã
[28] Lễ Tường Tiên là lễ Cơm mới, còn gọi là Thường Tân.
[29] Tức là cụ ông cụ bà thân sinh ra bà Trần Thị Đề cũng được phối hưởng cũng giỗ
[30] Bà Nguyễn Thị Cẩm là nhũ mẫu cho con vua.
[31] Tức cụ ông thân sinh ra bà Nguyễn Thị Cẩm
[32] Con trai bà Nguyễn Thị Cẩm
PHỤ LỤC ẢNH THÁC BẢN
Mặt 1 Đại Minh tự
Mặt 2 Hậu Phật bi