Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2016

Tư hương vận lục/ Ghi chép linh tinh chút cảm xúc về quê hương

Con trai: Bố! Con không thích đi sang Việt Nam.
Bố: Vì sao?
Con trai: Vì đi máy bay, có thể rơi.
Bố: Thì mình về với Chúa! Không sợ nữa.
Con trai: Nhưng con không thích Việt Nam, vì Việt Nam không có Freunde  (Bạn bè)của con
Bố: Sao lại không có? Con có em Sóc, chị Hân, anh Nhật Anh, …
Con trai: Nhưng không phải richtig Freunde (bạn thực sự) của con. Con thích ở Deutschland (Đức) vì có những người bạn thực sự của con. Họ hiểu con muốn gì! Nói gì! Ở Việt Nam thì không.
Bố: Nhưng mà ở VN, bố cũng có những người bạn thực sự của bố. Họ hiểu bố muốn gì ! Nói gì! Còn ở Deutschland thì không.
Con trai: Bố cũng có thể có bạn ở Deutschland mà, bố có thể kết bạn, tìm bạn mà!
Bố: Nhưng bố không giỏi nói tiếng Deutsche (tiếng Đức) như con, bố không nói được nhiều, người Deutsche (người Đức) không hiểu bố nói gì cần gì.
Con trai: Bố nói không đúng, bố có nói Deutsche, đấy vừa nói đấy.
Bố: Nhưng đấy không nhiều, đấy chỉ là làm việc, là bán hàng thôi, chỉ 1 ít thôi.
Con trai: Bố có thể học mà!
Bố: Nhưng bố già rồi không học được nhiều và nhanh như con.
Con trai: Ô Ồ ! (Chán nản) Bố vẫn học mà, langsam (chậm) mà, rồi ok!
Bố: Ở VN vẫn còn Oba, Oma (ông bà), các bác, các cô, các chú, còn nhiều Verwanten (họ hàng) của mình mà. Mình phải về besuchen (thăm) nữa, làm sao không thích được?
Con trai: Như thế thì chỉ cần 1 Woche(1 tuần) thôi.
Bố: 1 Tuần làm sao mà đủ được. Phải 1 Monat (1 tháng). Mình còn phải kaufen (mua) nhiều thứ nữa mà!
Con trai: Ô Gott! Bố bảo tất cả mọi người muốn Kaufen đều phải về VN hả!. Cả thế giới này phải về VN để mua đồ hả! Mọi thứ đồ trên thế giới này đều ở VN mua được hả! Ở khác thì Không?
Bố: Nhưng 1 tuần không đủ!
Con trai: Con nói là ein paar Woche (1 vài tuần)
Bố: Thế thì con ở lại Deutschland đi. Bố về VN.
(Cau có, quay mặt vào tường.)
(Vài phút sau)
Bố: Ok, chỉ về thăm thôi. 1 vài tuần. Nhưng mà bố không giỏi tiếng Đức. Con chả bao giờ dạy papa.
Con trai: Vì bố niemal(không bao giờ) hỏi.
Bố: Ok từ bây giờ bố hỏi, thì con phải dạy bố. Con phải dịch cho bố nhé.
Con trai: Ok!
Bố: Bố muốn nói là Bố yêu con thì nói thế nào
Con trai: Ich liebe dich!
Bố: Ok, Ich liebe dich. Bố muốn nói là Bố yêu Mẹ thì nói thế nào?
Con trai: Ich liebe dich auch!
Bố: Ok. Ich liebe dich auch.

Nhớ đoạn Kinh Thánh – Cựu ước/ Giô-suê 1:3-4/  3Phàm nơi nào bàn chân các ngươi đạp đến, thì ta ban cho các ngươi, y như ta đã phán cùng Môi-se. 4 Địa phận các ngươi sẽ lan ra từ đồng vắng và Li-ban này cho đến sông cái, là sông Ơ-phơ-rát, tràn cả xứ dân Hê-tít cho đến biển cả về hướng mặt trời lặn.

Nhớ bài Tiếng hát con tàu / Chế Lan Viên
Khi ta ở, chi là nơi đất ở 
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn! 

Nhớ bài ĐỘ TANG CÀN - Giả Đảo賈島

Khách xá Tinh Châu dĩ thập sương, 
Quy tâm nhật dạ ức Hàm Dương. 
Vô đoan cánh độ Tang Càn thuỷ, 
Khước vọng Tinh Châu thị cố hương.
Tinh Châu đất khách trải mươi hè, 
Hôm sớm Hàm Dương bụng nhớ quê 
Qua bến Tang Càn, vô tích nữa 
Tinh Châu ngoảnh lại đã thành quê.(
Tản Đà dịch/Tạp chí Ngày nay, số 79, ngày 3-10-1937).

Nhớ tời Tư Hương vận lục của Lê Quang Bí. 

Tìm thấy bài Gửi thư mượn nhạn – Lê Quang Bí/ Tô công phụng sứ thi.

Khôn lấy mồi thơm dỗ tiết ngay,
Cho nên lưu lạc nước non này,
Bốn mùa đắp đổi kho trăng gió,
Một áng thừa lưa lộc tháng ngày.
Chẳng những lòng vàng trên bể Bắc,
Đã nguyền đầu bạc dưới đền Tây.
Tấc niềm bộc bạch hàng thư lụa,
Phó mặc bên trời chiếc nhạn bay.
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Quang_B%C3%AD

Nhớ đến bài văn của 1 nữ sinh Trung Quốc- Tổ quốc tôi ông là ai ? http://tinhhoa.net/bai-dien-van-chan-dong-sau-sac-cua-nu-sinh-17-tuoi-to-quoc-toi-ong-la-ai.html

Lại nhớ đến câu chuyện Tổ quốc trong tập truyện ngắn của Liên Xô (Hãy tha thứ cho em- một người không có lỗi) đã đọc từ lâu lâu lắm.

Vậy cái Tư hương vận lục của Tô quận công còn ý nghĩa gì trong thời kỳ Toàn cầu hóa này. Khi nơi nào đó trên thế giới này chiến tranh bom đạn, cướp giết cùng hủy diệt. Kẻ mạnh đè đầu kẻ yếu, có tiền vênh vang với nghèo đói, … tống tiền, hãm hiếp, cướp giật … đâu đâu đó. Thì 1 nơi yên bình với gia đình nhỏ bé 5 người, với 1 công việc đơn điệu có thể mang đồ ăn đến đủ hàng ngày, môi trường trong lành tĩnh lặng … có phải là Tổ quốc, có phải là quê hương?.

Sao khi sinh ra, con người ta đã phải mang 1 trách nhiệm nặng nề với bản thân mình là phải yêu thương cái gọi là Tổ Quốc, cái gọi là Quê Hương, khi mà Tổ quốc và quê hương đó còn ngập ngụa trong bao điều trăn trở, lo toan. Phải Yêu nước, phải hướng về đất nước ư! Phải ủng hộ Kiều hối ư! Phải nghe nghe đâu thấy tiếng nói quê hương thì phải tìm đến, phải tụ bạ nhau với những thói thường của dân Việt: Nhậu nhẹt, chè chén, bài bạc, trăng hoa, sắm sửa khoe khoang, cúng giỗ ông bà, mê tín dị đoan … vào cái gọi là Tổ Tiên, cái gọi là Bản sắc, cái gọi là … nói thẳng ra là cái Ngôi chùa Phật giáo mà ngày nay dân Việt đi đâu cũng tha nó theo. Coi nó như là quy tụ về tinh thần dân tộc, dân túy lắm lắm. Nhưng biết đâu rằng có những người đã nhận ra từ lâu, nó là cái ổ của dâm ô, dục vọng, cái ổ của rửa tiền, để thánh hóa mọi thứ tội lỗi và ban u mê tăm tối cho người Việt Nam cả trong lẫn ngoài nước. Cái Phật giáo ngày nay đã mất đi cái phần nhân văn sâu lắng trong cõi tâm hồn mà nặng nề về hình thức, hủ bại về nội dung, coi trọng về vật chất, khoe khoang về cái trí thức nhỏ bé của cá nhân. Câu chuyện càng đi càng xa. Như dân Do Thái ngày xưa tin vào lời hứa của Đức Chúa trời mà ra đi tìm đất mới. Lưu lạc mấy nghìn năm, bị bức hại mấy nghìn năm. Giờ lại trở về Phục quốc trên đất cũ đã bị mấy ông anh Ả-rập Hồi giáo chiếm giữ. Theo Kinh Thánh thì cả dân Do Thái lẫn dân Ả- rập đều là con cháu của Áp-braham.  Tổ tiên Người Do Thái là em, nhưng lại tranh quyền trưởng nam của Tổ tiên người Ả-rập (là anh). Nhưng trong Kinh Thánh có chép là anh em đã hòa giải. Vậy mà giờ đây họ coi nhau như kẻ thù, chiếm giữ nhà nhau, cướp giết hủy diệt nhau. Trong khi họ cùng thờ lạy 1 đấng duy nhất là Đức Chúa Trời, một bên gọi bằng Bố, một bên gọi bằng Papa.
Vậy quê hương tôi ơi! Thực sự ông ở đâu! Cũng như những bạn bè xuất ngoại khác, người đi Mỹ, đi Úc, người Pháp, Canada, người Nga, người Tiệp, người Đức, … Con cái họ cũng hỏi đáp như con trai người đàn ông ở Đức đã nói ở bên trên thì Quê hương tôi ơi! Thực sự ông ở đâu.
Có phải như lời Kinh Thánh Cựu ước, Giô-suê 1, câu 3 và 4. Chúa đã phán cùng con: Phàm nơi nào bàn chân các ngươi đạp đến, thì ta ban cho các ngươi, y như ta đã phán cùng Môi-se.
Vậy nơi nào chân ta đặt đến là nơi đất chúa đã ban cho chúng ta. Chúng ta còn quê hương nào khác là Thiên đàng nơi Chúa đang chờ chúng ta – Đứa con hoang đàng trong ngày trở về.

Không, quê hương của chúng ta là nơi có tình yêu thương. Nơi nào có tình yêu thương thì nơi đó chính quê hương. Câu trả lời là như thế nhưng mà con người ta cứ giằng xé trong lòng, như thấy cái cảnh sắp về với Chúa mà vẫn mong Chúa cho sống thêm, khỏe mạnh để làm việc này việc kia. Không biết người đã Khuất thì thế nào chứ người đang sống khỏe mạnh thì đúng là họ mong như thế đấy. Than ôi! Quê hương tôi ơi. 
Viết lại suy tư, tại quê nhà ....; Ngày ... tháng ... năm 20... 
Danh Kim 

Thứ Tư, 20 tháng 7, 2016

60 câu thành ngữ tiếng Đức / 60 Sprichtwörter auf Deutsch

Sprichtwörter Tục ngữ
1.  Wer das ABC recht kann, hat die schwerste Arbeit getan. Ai có thể làm những việc cơ bản thì người đó đã làm xong những công việc khó nhất.
2.  Bei Nacht sind alle Katzen grau. Ban đêm nhà ngói cũng như nhà tranh.
3.  Absicht ist die Seele der Tat . Ý định là linh hồn của hành động.
4.  Der Kluge wartet die Zeit ab. Người khôn biết chờ thời
5.  Was bald zunimmt, das nimmt bald ab. Dục tốc bất đạt.
6.  Alles hat seine Grenzen. Tất cả đều có giới hạn của nó.
7.  Alles hat sein Warum . Tất cả đều có lý do của nó!
8.  Wo in Wille ist, ist auch ein Weg . Ở đâu có một lý do, ở đó có một con đường
9.  Sage nicht alles, was du weißt. Aber wisse alles, was du sagst. Đừng nói tất cả những gì mình biết. Nhưng phải biết những gì mình nói.
10.Alles vergeht, Wahrheit besteht. Tất cả sẽ trôi qua , nhưng sự thật sẽ tồn tại mãi.
11.Alt genug und doch nicht Klug. Già rồi mà không khôn.
12.Alte Liebe rostet nicht. Tình già không phai.
13.Das Alter soll man ehren. Kính lão đắc thọ.
14.Andere Länder, andere Sitte. Nước nào phong tục đó.
15.Eine Hand Wäscht die andere. Lá lành đùm lá ráchLa lanh dum la rach.
16.Alle Anfang ist schwer . Vạn sự khởi đầu nan.
17.Guter Anfang, gutes Ende. Bắt đầu tốt, kết thúc tốt.
18.Der eine Sät, der andere erntet . Người này gieo, kẻ khác gặt.
19.Glücklich ist, wer vergißt, was doch nicht zu ändern ist. Hạnh phúc là người biết quên đi điều không thể thay đổi được.
20.Arbeit macht das Leben süß. Công việc làm cuộc sống tươi đẹp.
21.Arbeit ist das Lebens Würze. Công việc là gia vị của cuộc sống.
22.Arm oder reich, der Tod macht alles gleich. Giàu hay nghèo, ai cũng phải chết.
23.Bittere Arzneien sind die wirksamsten. Thuốc đắng giã tật.
24.Mäßigkeit ist die beste Arznei. Sự điều độ là liều thuốc tốt nhất.
25.Die Zeit heilt alle Wunden. Thời gian chữa lành mọi vết thương.
26.Aus dem Augen, aus dem Sinn. Xa mặt cách lòng
27.Die Augen sind der Spiegel der Seele. Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn.
28.Viele Bächer machen einen Fluß. Tích tiểu thành đại.
29.Bellende Hund beißen nicht. Chó sủa là chó không cắn.
30.Liebe kann Berge versetzen. Tình yêu có thể dời núi non.
31.Je weiser, je bescheidener. Càng khôn ngoan càng khiêm tốn.
32.Einmal sehen ist besser als zehnmal hören. Trăm nghe không bằng một thấy.
33.Besser etwas als nichts/ Besser spät als nie. Có còn hơn không /Trễ còn hơn không đến.
34.Im Munde Bibel, im Herzen übel. Miệng nhân từ mà ruột hiểm sâu.
35.Den Baum muß man biegen, solange er jung ist. Uốn tre từ lúc còn là măng.
36.Ein faules Eis verdirbt den ganzen Brei . Một con sâu làm rầu nồi canh.
37.Dank ist der beste Klang. Cám ơn là âm thanh ngọt ngào nhất.
38.Wie der Topf, so der Deckel. Nồi nào úp vung đấy.
39.Wer im Sommer nicht erntet, muß im Winter derben.
40.Wer im Sommer nicht erntet, muß im Winter derben. Ai không biết lo xa, tất có ưu hoàn gần.
41.Denke zweimal, ehe du einmal sprichst . Suy nghĩ hai lần trước khi nói.
42.Der Mensch denkt, Gott lenkt. Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
43.Auch ein Kluger Dieb wird einmal gefangen. Đi đêm hoài cũng có ngày gặp ma.
44.Geld ist ein gutter Diener, aber ein böser Herr . Tiền bạc là đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu.
45.Wer Disteln sät, wird Stacheln ernten. Ai gieo gió, người ấy ắt sẽ gặp bão.
46.Geteilte Freude ist doppelte Freude. Niềm vui được chia sẻ là niềm vui được nhân đôi.
47.Wie du mir, so ich dir . Anh đối với tôi sao, tôi đối với anh vậy.
48.Besser arm in Ehren als reich im Schanden. Thà nghèo mà vinh còn hơn là giàu mà nhục.
49.Wie der Vogel, so das Eis. Chim nào trứng đó.
50.Wie der Vater, so der Sohn. Cha nào con đó.
51.Wer Hass sät, erntet Reue. Ai gieo sự hận thù sẽ nhận nhiều hối tiếc.
52.Wer Wind sät, wird Sturm ernten. Ai gieo gió ắt sẽ gặp bão.
53.Je höher arm, je tiefer Fall . Trèo cao té đau
54.Feuer prüft das Geld, Unglück das Herz. Lửa thử vàng gian nan thử sức.
55.Sich irren ist menschlich . Nhân vô thập toàn.
56.Besser einen Sperling in der Hand als eine Taube auf dem Dach. Một chim sẻ trong tay tốt hơn là một bồ câu trên mái nhà.
57.Alle Wege Führen nach Rom . Mọi con đường đều dẫn tới La Mã.
58.Wer fragt, der lernt . Ai hỏi là người ấy học.
59.Fragen kostet nicht. Hỏi thì không mất tiền mua.

60.Geben ist seliger als Nehmen. Cho thì tốt hơn là nhận. 

Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2016

Di sản Hán Nôm/ Bài thơ khắc gỗ, khảm trai của Cử Nhân Hoàng Thúc Hội

Bài thơ khắc gỗ, khảm trai, đề ở một ngôi đền thuộc khu vực ven đê sông Hồng, mạn Văn Giang, Hưng Yên. Nhân chuyến công vụ Hưng Yên năm nào đã đọc. Hồi đó chỉ nhăm nhăm chép câu đối và tìm Bia Đá, còn phải dành thời gian đi di tích khác, nên đền mới dựng lại không có chữ nghĩa gì. Duy có bức này là cổ kính. Đọc xong không có thời gian, phải đi ngay. Không có máy ảnh mà chụp. Giờ lại gặp trên Facebook, đúng là kỳ ngộ vườn Face. Dịch cho nó khuây khuây ngày Chúa Nhật, đêm vắng nơi đất khách. 
Nếu tôi nhớ không nhầm thì Đền gần chùa Mễ Sở, Văn Giang, Hưng Yên.
Vì bài thơ 4 câu, có 2 địa danh là Lão Động (còn đọc là Liêu Động) và Nhị Thủy.
Có thể ý nói về 1 vị thời Lý Nam Đế (cũng có thể là chính vịnh về Lý Nam Đế). Vì  Lý Nam Đế gắn với địa danh Động Khuất Lão và mất ở đây (có thể gọi tắt là Lão Động).
Chữ thứ 4 câu 2, nhiều bạn đọc là Vân, theo tôi là không đúng. Tự dạng, mạch văn, vần thơ có thể luận ra đây là chữ Trọng, do các bác thợ khắc làm khéo nên giông giống chữ Vân, tưởng là Mây nhưng không phải Mây. Đúng là Mây Tan/ Vân Tĩnh đó. 

Nguyên văn chữ Nho:
成泰丙午十二月上澣吉日敬書
獠洞煙嵐事不平
綱常繫重此身輕
興亡底局英雄恨
宿夜風涛珥水聲
舉人黄叔會拜題邑子阮伯澗黄玉芽奉
Phiên âm chữ Nho:
Dịch nghĩa chữ Nho:
Kính viết ngày tốt Thượng tuần tháng 12 năm Bính Ngọ niên hiệu Thành Thái (1906)
Sương khói nơi động Lão chuyện bất bình xảy đến,
Trụ cột cương thường mới là trọng thì thân này xem nhẹ có xá chi.
Thịnh suy rút cục lưu hận cho người anh hùng,
Chỉ còn tiếng ầm ầm sóng gió Nhị thủy ngày đêm.
Cử nhân là Hoàng Thúc Hội cúi đề.
Người tông ấp là Nguyễn Bá Giản, Hoàng Ngọc Nha kính khắc.
Dịch thơ:
Chuyện xưa động Lão sương mờ,
Cương thường làm trọng thờ ơ thân này.
Thịnh suy để hận xưa nay,
Chỉ còn sóng gió đêm ngày Nhị giang. 
Nguyễn Nam Đường dịch t7/2016

Chú thích:
Tác giả Hoàng Thúc Hội (1870 - 1938), hiệu Cúc Hương, tự Gia Phủ; là một nhà thơ, nhà văn Việt Nam thời Pháp thuộc.
Ông sinh năm Canh Ngọ (1870) tại làng Hạ Yên Quyết (về sau gọi là làng Cót), phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội).
Năm Bính Ngọ (1906), ông thi đỗ Cử nhân, nhưng không ra làm quan.
Năm 1932, đền Hai Bà Trưng (Hà Nội) trùng tu. Dịp này, báo Trung Bắc tân văn mở cuộc thi thơ để kỷ niệm. Sau đó, bài của ông đã trúng giải nhất, và được khắc vào bia đá nơi đền thờ ấy [1].
Ông mất năm Mậu Dần (1938), hưởng thọ 68 tuổi. Sinh thời, đạo đức và tài văn chương của ông được nhiều sĩ phu kính trọng [2].
Con ông là Hoàng Thúc Trâm (1902 - 1977), cũng là một người có tiếng trong sử học  văn học Việt.
Tác phẩm của Hoàng Thúc Hội có:
·         Trưng vương lịch sử
·         An Sơn tùy bút tập (3 quyển).
·         Sài Sơn thực lục.
·         Hà đê đối sách.
·         Đàm Phật lục.
Dưới đây là bài thơ Vịnh Hai Bà Trưng đã đạt giải vừa nói trên:
Ngựa Gióng đã lên không,
Rừng Thanh voi chửa lồng.
Nẩy chồi hoa lưu Lạc,
Mở mặt nước non Hồng.
Trăng dọi gương hồ Bạc,
Mây tan dấu cột đồng,
Nén hương lòng cố quốc,
Xin khấn một lời chung.

Nhà gần đền Hai Bà Trưng, khi nào có dịp xin chụp ảnh giới thiệu cả bộ cho quý hóa.