Thứ Tư, 17 tháng 8, 2016

Lại Tứ quân tử : Mai – Lan – Cúc – Trúc trên đồ khảm trai.

Lại Tứ quân tử : Mai – Lan – Cúc – Trúc trên đồ khảm trai.
Nhân ngày đọc đồ khảm trai trên trang Facebook Hán Nôm kinh … kỳ, lôi lại mấy bức ảnh của bạn Face Từ Quang Đức đã gửi từ lâu lắm. Vận não so tìm trên Internet ra được đủ xuất xứ 4 bức. Thế mới thấy nghề khảm trai Ta thật là Kinh Kỳ. Chỉn chu chữ nọ chữ kia thì nói làm chi, đây là chữ nọ sọ chữ kia mới Lạ. Người không gắng mà lịch duyệt … sao chơi được đồ khảm trai.

Mai:

山中
Tuyết mãn sơn trung cao sĩ ngọa
Nguyệt minh lâm hạ mỹ nhân lai
Xuất xứ từ câu Tuyết mãn sơn trung cao sĩ ngọa/ Nguyệt minh lâm hạ mỹ nhân lai trong bài Mai hoa của Cao Khải đời Minh:
琼姿只合在瑶台,谁向江南处处栽?雪满山中高士卧,月明林下美人来。
寒依疏影萧萧竹,春掩残香漠漠苔。自去何郎无好咏,东风愁寂几回开。
 Lan: 

何妨
来未肯
Khai xứ hà phòng y tiên triệt,
Chiết lai vị khẳng luyến kim bình.
Xuất xứ từ câu Khai xứ hà phòng y tiên triệt/ Chiết lai vị khẳng luyến kim bình trong bài Lan của Lưu Khắc Trang đời Nam Tống
深林不语抱幽贞,赖有微风递远馨。开处何妨依藓砌,折来未肯恋金瓶

Cúc: 

也销造化无多力
未受阳和一点恩.
Dã tiêu tạo hóa vô đa lực
Vị thụ dương hòa nhất điểm ân
Xuất xứ từ câu Dã tiêu tạo hóa vô đa lực/ Vị thụ dương hòa nhất điểm ân trong bài Cúc của Lý Sơn Phủ đời Đường:
篱下霜前偶得存,忍教迟晚避兰荪。也销造化无多力未受阳和一点恩。栽处不容依玉砌,要时还许上金尊。陶潜殁后谁知己,露滴幽丛见泪

Trúc:

移得萧骚从远寺
洗来疏净见前峰
Di đắc tiêu tao tòng viễn tự,
Tẩy lai sơ tịnh kiến tiền phong
Xuất xứ từ câu Di đắc tiêu tao tòng viễn tự/ Tẩy lai sơ tịnh kiến tiền phong trong bài Trúc của Trịnh Cốc đời Đường:
宜烟宜雨又宜风,拂水藏村复间松。移得萧骚从远寺,
洗来疏净见前峰。侵阶藓拆春芽迸,绕径莎微夏荫浓。
无赖杏花多意绪,数枝穿翠好相容


                              Rằm tháng 7 theo Á lịch. Hàn dạ vô liêu, nhớ mẹ ốm nơi quê xa. Chắc mẹ lo cái lễ Cúng cô hồn tháng 7. Vất quá sinh lao lực. Mong mẹ tin Chúa Jesus là cứu Chúa của cuộc đời, để từ bỏ những thói tục mê hoặc đè lên vai dân tộc hàng nghìn năm qua. Con yêu mẹ nhiều.

Bức khảm trai nữa (không rõ lai lịch): Xuân hoà phi hủy cộng phân phương- 春和飛卉共芬芳

Bức khảm nữa trên Facebook Hán Nôm Kinh …Kỳ. Các thầy Lê Quốc Việt và Xuân Như đã đọc hộ hết cả


春和飛卉共芬芳,
佛種由來獨異常,
玉笋纎纎遙指月,
全兼色味与清香

Xuân hoà phi hủy cộng phân phương,
 Phật chủng do lai độc dị thường,
Ngọc duẩn tiêm tiêm dao chỉ nguyệt,
Toàn kiêm sắc vị dữ thanh hương.

Xuân hòa hoa cỏ đưa hương
Còn đây dấu Phật khác thường từ xưa
Trăng tròn tay ngọc măng đưa
Thanh hương Sắc, Vị mãn vừa cả hai.

          Cơ Đốc nhân dịch tạm ra thơ

Di sản Hán Nôm trên đồ khảm: Tùng - Cúc - Trúc - Mai tứ quân tử.

Nước ta có cái trò làm đồ khảm trai chữ Nho, chép thơ Ta thơ Tàu lẫn lộn. Nhiều khi câu cú cũng “dị bản-tam sao”. Chữ lỗ mỗ, đọc phải luận toét cả mắt, không cứ hình thể tự dạng mà cả văn cả vận nữa. Hán Nôm mới sành điệu cái món này. Người chơi đồ cổ khảm chữ này, không rành thì mất cả cái thú đi.  Ngày nay có Internet, có công cụ tra cứu, có font chữ, … truy tìm trên Google cũng nhanh lắm.
Mình cá nhân thì rất ham, rất thích nhưng độc ghét những kẻ lười biếng, chỉ độc câu/mồi anh em thành thạo đọc “chay” hộ. Thôi thì Tư văn của Công. Nhân có người Tư Văn mà lập cái Facebook Hán Nôm Kinh Kỳ (nghe rất Kinh mà … Kỳ), có mấy bạn “soi” tập Chùa Trấn Cuốc của mình cài với ông Mạnh. Mình cùng lên coi cho biết. Không commt được (thôi miễn). Cũng nhân đó mà được đọc những bức đẹp như thế này. Mình copy diễn lại cho vui thôi.

Bốn bức Tùng – Cúc – Trúc - Mai như sau:

百尺昂霄君子操
四时蓊 大夫
Ch Đại nguyên đồ Khảm trai lèm nhèm có khi đọc là Trượng cũng thông. Nhưng vì nó có chữ Phong mà chúng tôi đồ chừng là ý từ bài Đề Ngũ Tùng dịch của Lý Thiệp đời Đường.
云木苍苍数万株,此中言命的应无人生不得为松树,却遇秦封作大夫。——李涉《题五松驿》
http://baike.baidu.com/link?url=QJmDBS3KoBD2VfFwlGwlce0bLoBBlQjDZpHmctkC31FArUpPYvsTeyEoQKd9CRx_43138hCFJN-wkrueq76s7K
Trăm thước ngang trời ngời quân tử
Bốn mùa xanh tốt xứng đại phu



莫嫌老捕 秋容淡
犹有黄花晚节香
Chữ Bộ là khảm sai của chữ Phố. Nguyên văn của Tàu khựa là: 莫嫌老圃秋容淡,且看黄花晚节
http://chengyu.zzstep.com/mingju_content.php?classid=955&contentid=18257
Chẳng hiềm vườn rộng trời thu lạnh
Vẫn có hoa vàng cuối tiết hương



节不随流俗靡
虚心自有化龙枝
Gióng cứng chẳng theo thói tục
Lòng không tự có nhánh thành rồng



不随呂叟争红白
先占名魁早报春
Chẳng theo Lữ tẩu đua danh lợi
Trước đã danh khôi báo xuân về
Lữ tẩu ở đây là Lữ thượng – Khương tử Nha, muốn yên định thiên hạ, không xu thời mà ngồi câu bên ngòi Vị. Chờ xe của Chu Văn vương tới rước về Bái tướng, đồ mưu diệt Trụ, mở nghiệp nhà Chu. Câu này còn ý nói Lữ Thượng còn ham danh lợi lắm (hồng mới cả bạch đó). Nguyên văn Tẩu bộ Nữ kìa, nhưng dân ta khảm trai lèm nhèm nên đọc phải luận

Taucha, thu tháng 8, 2016.

Nguyễn Đức Toàn.

Thứ Tư, 10 tháng 8, 2016

Bút tích Chu Mạnh Trinh đề Đền Dương Thiên Hậu - Hưng Yên

Chu Mạnh Trinh (朱孟楨, 1862-1905), tự Cán Thần, hiệu Trúc Vân, là một danh sĩ thời Nguyễn, tác giả bài phú Hàm Tử quan hoài cổ.
Ông sinh năm 1862, người làng Phú Thị, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Cha ông là Chu Duy Tĩnh, từng làm quan đến chức Ngự sử.
Từ nhỏ, ông nổi tiếng thông minh, có tài văn phú. Khi 19 tuổi, ông đỗ Tú tài. Sau đó ông sang thụ giáo Phó bảng Phạm Hy Lượng và được thầy gả con gái cho. Đến 25 tuổi, ông đỗ Giải nguyên trường Hương khoa thi Bính Tuất (1885). Khoa thi Hội năm Nhâm Thìn (1892), ông đậu Tiến sĩ.
Sau khi thi đỗ Tam giáp tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (đời Thành Thái thứ tư), ông được bổ làm Tri phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nội, có tiếng là công minh chính trực. Có lần ông đã phạt đánh roi một tu sĩ người Pháp có hành động cậy thế lộng hành.
Làm Tri phủ ít lâu thì cha mất, Chu Mạnh Trinh xin cáo quan về cư tang. Sau đó, ông được giao chức Án sát tỉnh Hà NamHưng YênBắc NinhThái Nguyên.
Ông mất năm 1905, khi mới 43 tuổi.
Chu Mạnh Trinh là một người đa tài. Ngoài tài thơ, ông còn là một nhà kiến trúc.
Ngôi đền Đa Hòa thuộc tổng Mễ Sở quê ông (nay thuộc xã Bình Minh huyện Khoái châu) thờ Chử Đồng Tử, do chính ông thiết kế, và đứng ra vận động xây dựng. Chu Mạnh Trinh cũng là người thiết kế chùa Thiên Trù (chùa Trò) ở khu danh thắng Hương Sơn huyện Mỹ Đức.
Dưới đây là bút tích của ông đề đền Thiên Hậu Hưng Yên. Chúng tôi theo ảnh và thông tin của các bạn hữu trên Internet, so chiếu tìm hiểu thêm, chưa từng đi thực tế. Nếu có nhầm lẫn xin được chỉ bảo cho. Tự làm lời dịch để tiêu ma một ngày không khuây khỏa. 

Đền Dương Thiên Hậu_ Hưng Yên[1]
故國山河渺夕煙,
巋巋祠庙峙南天。
仇元遺恨波濤壯,
存宋孤貞日月懸。
𣗳風摇環珮響,
一湖秋洗鏡光圓。
慈雲普作千家廕,
乾海靈聲合並傳。
壬辰科進士,光禄寺少卿,領興安按察使,朱孟楨拜奉書。
成泰丙申秋
Dịch nghĩa
Nước cũ non sông xa xôi lảng lặng khói sương chiều,
Trời Nam ngôi miếu trơ trơ.
Thù giặc Nguyên còn hận sóng to gió lớn,
Mong giúp Tống một lòng trung trinh với nhật nguyệt.
Gió lay muôn cây xào xạc như ngọc hoàn reo,
Một hồ nước thu rửa sạch như kính tròn đầy.
Mây lành phủ khắp muôn nhà nhờ ơn ấm,
Đền cửa Cờn hải tiếng thơm cùng mãi lưu truyền.
Tiến sĩ khoa Nhâm thìn (1892), Quang lộc tự Thiếu khanh, lĩnh Án sát sứ tỉnh Hưng Yên là Chu mạnh Trinh kính chép.
Đầu thu năm Bính thân niên hiệu Thành Thái (1896).
Dịch thơ
Non sông cố quốc khói sương chiều,
Trời Nam tòa miếu sững cô liêu.
Thù Nguyên còn hận cơn sóng cả,
Giúp Tống lòng trinh nhật nguyệt treo.
Gió lay cành ngọc rung xào xạc,
Hồ thu tẩy sạch kính trong veo.
Mây lành phủ khắp muôn nhà ấm,
Cờn hải đền thiêng cũng tiếng nêu.

Cổ Hoan viễn xứ nhân phỏng dịch.
Âu lịch đầu thu tháng 8 . 2016




[1] Đền Dương Thiên hậu ở 56 Trưng Trắc, Hưng Yên. Thờ Dương Thiên Hậu. Nguyên là Hậu cung của Tống triều bên Trung Hoa, vì nạn giặc Nguyên mà chạy ra biển mất. Trôi dạt về cửa biển Cờn Hải ở Nghệ An. Dân chúng suy tôn lòng trung trinh nên lập đền thờ ở đó. Dân ven biển miền Nam Trung Hoa cũng suy tôn bà là thần hộ mệnh cho những người đi biển. Những thương nhân người Hoa đến Hưng Yên (Phố Hiến) buôn bán, lập nghiệp đã cho dựng đền này để thờ bà.