Thứ Tư, 3 tháng 3, 2021

Phụ lục biểu: Những điểm nhầm lẫn trong bản dịch Hoàng Việt Địa Dư chí của Phan Đăng (2012)

Phụ lục biểu: Những điểm nhầm lẫn trong bản dịch Hoàng Việt Địa Dư chí của Phan Đăng (2012)

Tiếp theo bài trao đổi 

http://yeuhannom.blogspot.com/2021/02/nguyen-uc-toan-trao-oi-ve-ban-dich-cua.html

HVĐDC. Phan Đăng dịch. (1997-2012)

 

Số trang bản dịch

Số trang nguyên văn

Nguyên văn

Nên dịch là

Hiếu Triết vương (Nguyễn Phúc Tần)

902

2b/

孝昭王

Hiếu Chiêu vương (Nguyễn Phúc Lan)

Núi Hương Trăn

903

3b/

香盌

Núi Hương Oản

những vật dụng làm từ răng voi ngà voi và trồng cây thì thật là việc tối ưu của cả 4 trấn

903

3b

象牙樹木多優於四鎮

nghề làm ngà voi, trồng cây nhiều hơn cả 4 trấn (so với Tứ trấn Đàng Ngoài)

Cửa Nhuyễn

 

4a/

堧海門

Chữ Nôm Eo giống chữ Nhuyễnnhưng thực ra là chữkhắc nhầm

từ ấy bờ biển sông ngòi ngày được mở mang thêm về phía Quảng Nam vậy

904

4a

自此沿江日餘即廣南地

từ đây men theo đường sông hơn 1 ngày là đến đất Quảng Nam

Thuận Hóa hỏa thành ở phía Hạ lưu

904

4b

順化大城在下流nhầm chữ đại  thành chữ hỏa

thành lớn Thuận Hóa ở phía Hạ lưu

Tẩy Nguyên, chú là Tây Nguyên (BVV)

904

4b

洒源

Nguồn Sái

thường mang những thứ có vị mặn, thực phẩm khô, các thứ kim loại như đồng sắt thiếc bạc lên vùng thượng du đổi lấy

904

4b5a

商人多載鹽鹹乾薑鐵器銅錫鐵釵諸雜物往蛮人地易取

thương nhân thường đem các đồ tạp phẩm, mắm muối, gừng khô, đồ sắt đồng, thiếc đến đất người ma để đổi lấy

dùng voi chở về

 

5a

傭象載回

thuê voi chở về

núi này chạy liền với những ngọn núi ở Lệ Thủy

907

7b

連山在麗水縣

núi Liên Sơn ở huyện Lệ Thủy

Phá Nhật Lệ

 

8a

日麗坡

Bờ Nhật Lệ

một loại ốc đẹp thường gọi là ốc thông

910

11a

其文螺有名沃𦖻㺔

ch Nôm

có loại ốc văn loa có tên là ốc tai voi

họ thường đốt rừng làm rẫy, cứ tháng giêng làm, đến tháng 5 quá nắng có khi không thu hoạch được do không biết lịch canh tác

911

12a

刀耕火植正月作而五月熟不獲而捋不知日曆

phát rừng đốt nương, tháng giêng làm thì tháng 5 chín, không thu hoạch mà chỉ đi mót thôi. Không biết lịch pháp

Huyện Phú Xuân

912

13b

同春縣

huyện Đồng Xuân

Thành Tân Kiến – Không thấy chép gì về thành này

916

16b

新建城鎮府縣

Những thành trấn, phủ, huyện mới đặt

Phần về Hà Nội, văn bản khắc thêm các trang Thượng đóng lên trên các trang thường. Hết phần trang có chữ Thượng lại đánh số bình thường.

các thứ tự trang theo bản dịch

Thứ tự của nguyên văn

 

 

Đất này phía tây có núi Trị Sơn, phía đông giáp biển

919

18a

其地西界沿山東畔臨海

Đất này phía tây men núi, phía đông hướng biển

Thượng đạo thì nổi tiếng về văn vật nhưng khí tượng lại kém. Hạ đạo thì vật chất phong phú nhưng con người thì thô thiển

 

18a - b

上則文勝而氣浮下則質多而樸重

Miền thượng đạo thì  văn minh, mà khí thức bề nổi; miền hạ đạo thì chuộng thực chất mà thích mộc mạc

Xã Ái Mạc

920

19 thượng b

愛慕

Xã Ái Mộ

Quách Đạt

 

 

郭逵

Quách Quỳ

bến đò Đông Luật

 

 

東津渡

bến đò Đông Tân

920

sắp nhầm 19a thượng

 

sắp nhầm số trang nên cũng dịch nhầm. Đang từ Sông Tô Lịch  chuyển sang Phủ Thường Tín(Tất nhiên Phủ Thường Tín cũng có 1 đoạn sông Tô Lịch)

bị con thuồng luồng hiếp

 

19b

bị con thuồng luồng bắt

nên các xã Hữu Định, Nhuệ Giang và Hợp Khâm lập đền thờ

921 dịch từ tờ 20 thượng a-b

20thượng a

社與銳江合襟từ 19b nhảy sang 20thượng: đang từ đền Bộ Đầu của Thường Tín lại quay về sông Tô Lịch phủ Hoài Đức

có xã … hợp dòng với sông Nhuệ

Hoàng Phúc cầm quân sang đánh nước ta, khi qua đến sông Tô Lịch y cho dừng quân lại và đặt là sông Tô Giang

921 dịch từ 20thượng/a-b

20thượng a

黃福重加浚治因王師吊伐民獲穌息便名曰來穌江

Hoàng Phúc lại cho khai thông sông này, nhân vì có quân sang điếu phạt khiến dân được yên ổn nên đặt tên là sông Tô (Tô tức là được sống yên vui trở lại)

thần Long Vương

922 dịch từ 20thượng/a-b

20thượng

龍肚

Long Đỗ

lại còn nói là chim phượng hoàng từng uống cạn nước hồ, hoặc từng thấy núi phía nam tự nhiên sáng rực lên và trong ánh sáng ấy thấy hình con rồng cuộn

922 dịch từ 20thượng/a-b

20thượng

在此謂鳳凰飲水格列之奏稿嘗對山南爛柯山龍脊有金牛自山谷中逸出隱於湖中

ở đây có cái thế Phượng hoàng ẩm thủy, từng có con Trâu vàng ở lưng sườn núi Lạn Kha trấn Sơn Nam chạy đến ẩn vào trong hồ

Mục Chân

 

20thượng

穆慎

Mục Thận

chẳng bao lâu cây cỏ phong cảnh và linh khí của hồ cũng tàn tạ

922 dịch từ 20thượng/a-b

20thượng

未幾而朝革吁亦山川草木靈氣之先兆云

chẳng bao lâu thì triều đại đổi thay. Than ôi! có phải là điềm báo của linh khí cỏ cây sông núi đấy ư!

922

20b

 

đang từ tờ 20thượng nhảy qua tờ 20b: đang nói về Hồ Tây lại quay về cái đền Bộ Đầu đã dịch nhầm phía bên trên

giữa hồ có đắp ngôi nhà, lấy phương bắc làm bên tả, phương nam làm bên hữu, hướng trông vào giữa thành

923 dịch của tờ 20 nhảy sang 21 thượng

21thượng

湖中斷築為二在北為左望在南為右望其原一也đang từ tờ 20 lại nhảy về  tờ 21 thượng: từ phủ Ứng Hòa mọc ra Hồ Hoàn Kiếm

trong hồ đắp chia làm 2, ở phía bắc là Tả vọng, ở phía nam là Hữu vọng, nguyên chỉ là 1

bốn phía đều có tường đá bao bọc

923

21 thượng

四邊皆砌築磚牆

bốn bên đều có tường xây gạch

Ông Lê Quang Hưng là một vị tướng quê ở Mỹ Lương, Quốc Oai, Sơn Tây khi lên làm quan mới đổi thành Lang Xá

 924 dịch tờ 21 thượng quay về tờ 21 a

21a

黎光興間增建昭事殿

//////

(山西國威美良 ) 將閥世官則稱良舍

đang từ tờ 21 thượng thì lại nhảy đến tờ 21 a: đang từ Đàn Nam Giao thì nhảy về ông Lê Quang Hưng ở Mỹ Lương. Mà cũng không có ông Lê Quang Hưng, chính xác là đời Lê niên hiệu Quang Hưng

925 dịch từ tờ 21

21

đang từ tờ 21 lại nhảy về tờ 22 thượng: đang ở núi Hinh Bồng bay về điện Chiêu Sự

 

Miếu Linh Hương

926 dịch từ tờ 22 thượng

22thượng

霩廟

chữ Langcó bộ Vũ

Miếu Linh Lang

đối diện bên kia bờ có núi Hoài An

926 dịch từ tờ 22 thượng

22

與懷安諸山隔岸相對đang từ tờ 22 thượng nhảy về 22 a: đang ở đền Cao Sơn, huyện Thọ Xương lại bay về núi Tiên Sơn cạnh thắng cảnh  Hinh Bồng

cùng với các núi huyện Hoài An cách bờ đối lập

Hưng Binh đẩu

927 dịch từ 22

22

吳兵斗

Ngô binh đấu (Đấu đong quân Ngô)

Việc này thấy có thật mới chép ra đây

927 dịch từ 22

22

事詳捷記

Việc chép rõ trong sách Tiệp ký

lúc Lê Nhượng đế khởi binh /////

Lê Cảo có soạn bài văn

928 dịch từ tờ 23  thượng

23 thượng

黎襄翼起兵  ////

黎嵩奉撰碑文刻石đang từ tờ 22 lại nhảy về tờ 23 thượng: đang ở huyện Chương Đức đăng khoa bay vèo về Đền Cao Sơn, phường Đông Tác, với ông Lê Tương dực

Lúc Lê Tương dực khởi binh ////

Lê Tung vâng mệnh soạn văn bia khắc vào đá

thờ Khai chúa Linh võ đại vương

928

23 thượng

盟主靈武大王

Minh chu linh vũ đại vương

Hoàng đệ Dự thánh đi đông chinh nhưng Vũ Đức tam vương sẽ có mưu làm phản

 

 

皇第翌聖東征武德三王謀不軌

các vị hoàng đệ là Dực Thánh vương, Đông Chinh vương, Vũ Đức vương mưu làm phản

Thái tông sai tướng cầm binh ra chống cự, sau vua phải đích thân ra cầm quân mới thắng được

 

 

即命約提兵拒戰及內難平帝嘉其有協應 助順 之功 

nguyên văn khắc nhầm chữ Tướng thành chữ Ước

liền sai tướng dẫn quân cự chiến, đến khi nội nạn được bình, vua khen thưởng công hiệp ứng trợ thuận

ông Đặng Công Huấn, tự là Nghĩa

929 dich từ tờ 23a

23a

鄧自義公訓為中興功名Đang từ 23 thượng nhảy về 23 a: từ đền Đồng Cổ vèo về xã Chi Nê, Chương Đức

Họ Đặng từ cụ Nghĩa công tên Huấn là bậc công danh đời Trung hưng

đất Lạc Trường gọi là Ốc, chẳng biết ai gọi là Ốc từ bao giờ, nay chỉ chép lại cho biết vậy thôi

////

Hồng  Thái

929 dịch từ tờ 24 thượng

24 thượng

屋不知祠屋創在何時因併錄之 (đây là đoạn nối vào đền Đồng Cổ)

/////

洪聖

đang từ tờ 23 a lại bay về tờ 24 thượng: nghĩa là từ nhà ông Đặng Huấn ở Chi Nê bay về đền Chiêu Ứng huyện  Vĩnh  Thuận

(chưa có) nhà, không biết đền được dựng từ khi nào, nên cứ chép cả lại////

Hồng Thánh

có viên Đô hộ phủ hay đa nghi sĩ tốt trong ngục, không ai giãi bày được nỗi oan, họ bèn lập đền ngay trong ngục cầu thần linh ứng nghiệm trừng phạt kẻ âm mưu chuyện ác. Sau khi tắm rửa sạch sẽ đốt hương cầu đảo, đêm ấy nhà vua chiêm bao thấy một người mặc nhung y tự xưng là thượng đế bảo ban sắc cho Phạm  Cự Lượng làm An Nam đô hộ phủ chúa ngục. Khi tỉnh dậy, vua hỏi tả hữu thì thấy ai cũng nói đêm qua đều mộng thấy như vậy

930 dịch từ tờ 24 thượng

24 thượng

都護府多疑獄士師不能決擬立祠於獄中要得彰著神靈者以痛懲奸慝乃熏沐焚香請告于帝是夜夢見一朱衣使者稱上帝口敕賜范巨兩為安南都護獄主及覺以問左右所言皆如夢中所見 

phủ đô hộ có nhiều án ngờ. Quan Sĩ sư không thể phán quyết được. Nên đề nghị lập đền trong ngục để dùng uy linh hiển ứng của thần để răn chừng quân gian ác. (Vua) liền tắm gội, đốt hương tấu cáo thượng đế. Đêm mơ thấy 1 vị sứ giả áo đỏ, xưng là Thượng đế có lời truyền cho  Phạm Cự Lượng làm An Nam đô hộ ngục chủ. Đến khi tỉnh lại, hỏi tả hữu, thì đều tâu có người như lời trong mộng.

Vương cùng sáu đệ tử phân ra làm thần ánh sáng của Hồ Tây xứ An Hoa

 

24 thượng b

王與其六弟子分為日昭廣布西湖安花之神

Vương cùng 6 người anh em chia nhau làm thần ở các vùng Nhật Chiêu, Quảng  Bá, Tây Hồ, Yên Hoa

liền đến cầu đảo, thần giúp sức hàn lại được đê

 

24 thượng b

遂禱于神水害得息

liền cầu đảo với thần, thì nạn lụt được ngừng

Chùa Long Khánh

 

24 thượng b

毓慶寺

chùa Dục Khánh

điện Huy Văn dùng thờ Quang Thục hoàng hậu. Dưới triều Lê đây là một trong những thắng cảnh đặc biệt của đất Sơn Nam. Những ngọn núi như Công Sơn, Bát Cảnh sơn, …

930 dịch từ tờ 24 thượng bay vọt về tờ 24 a

24a

 

đang từ tờ 24 thượng bay vèo về tờ 24 a: là từ điện Huy Văn bay về đất Hà Nam, phủ Lý Nhân

Trên núi có chùa Văn Điện

////

 

931

25 thượng a

1 dòng

列置徽文殿寺丞及知事職

Đoạn này là đoạn sau của chùa Huy Văn. Đang từ tờ 25 a lại nhảy về tờ 25 thượng : từ vùng Hà Nam núi non quay về với chùa đền Hà Nội, chùa Long Ân, Báo Thiên, Trấn Quốc

đặt chức Tự thừa và chức Tri sự trông coi điện Huy Văn

Chùa Long Ân tại phường Hoàng  Phố

932 dịch từ tờ 25 thượng

25 thượng a

隆恩寺在永順縣廣布坊

chùa Long Ân ở phường Quảng Bá

giữa một cái hồ nhỏ vuông hình chữ khẩu

933

25 thượng a

此處有湖一口

ở đấy có một cái hồ

Phủ Khoái Châu

934 dịch từ tờ 25 - 26

25a 4 dòng cuối

đúng phải là phủ Thường  Tín

từ tờ 25 thượng lại vọt về tờ 25 a: đang ở chùa đền Hà Nội bay về Hưng Yên

có một cô ả đào lập mưu đánh lừa khiến quân Minh đang đêm phải triệt đồn đi nơi khác

935 dịch từ tờ 26

26 a b

有一婀陶夜賺明人入囊徹投于江明人移屯

có một cô đào, đêm lừa người Minh vào trong bao, ném xuống sông. Quân Minh phải dời đồn đi

Ngày xưa có hai người con gái tên là Lân – Xã đến miếu bái tạ

935 dịch từ tờ 27

27 a chỉ có 8 dòng

昔鄰社貳娘拜謝Từ tờ 25– 26-27 lại quay lại tờ 26 thượng: từ Hưng Yên bay qua Thường Tín

xưa ở xã bên có hai người con gái đến  đền lễ bái tạ

Phủ Thường Tín

935 dịch từ tờ 26

26 thượng b chỉ có 4 dòng cuối

đúng phải Trấn Nam Định

từ 26 thượng nhảy về tờ 36a: phủ Thường Tín cũng chỉ kê được có 3 huyện rồi lại nhảy sang Phủ Bắc Hà

Phủ Bắc Hà

936 dịch từ tờ 36

36a –b chỉ có 12 dòng giữa

 

tờ 36a lại quay về tờ 27 : Cũng chỉ kê được đến người đỗ đạt của Phủ này rồi lại nhảy sang Nam Định

xuất phát từ dinh Bạch  Hiến

937 dịch từ tờ 28 a

28 a

自憲營早發

xuất phát từ Hiến Doanh

núi Ninh Hồ

946

34b

寧朔山

núi Ninh Sóc

từ ông Nguyễn Nhân Thất trở xuống

947

35b

自仁 浹公以下

Từ cụ Nhân Thiếp công trở xuống

 

36b chỉ có 4 dòng cuối. vì các dòng khác về Phủ Bắc Hà đã bị đính nhầm về Hà Nội

 

lại nhầm số trang. Đang từ 35 b nhảy sang 36 b bỏ qua bài thơ của Lê Quý Đôn ở 36a

 

 

Từ đây không nhầm số tờ nữa

 

 

có bọn Trần Tung

947

37b

陳嵩作亂

Trần Cảo làm loạn

núi Đông Cửu

948

38

東究山

núi Đông Cứu

trong xã hội có một người rất hùng dũng

949

39

有伊社人勇力絕倫

có người ở xã ấy có sức khỏe tuyệt luân

Tử Khê

954

42a

禁溪

Cấm Khê

Kiều Thuận  từng xây thành  ở đó

956

44b

喬順潮築城于此

Kiều Thuận Triều đắp thành ở đây

sau phân ra 50 người con trai cai trị đất này trở thành thần núi Tản Viên

958

46b

生百子分治傘圓神乃歸山五十男之一

sinh ra trăm con chia nhau cai trị, thần Tản Viên là 1 trong 50 người con lên núi

Thân Nhân Trung đến đúc vại dựng lầu và soạn văn bia để ghi lại sự tích ấy

961

48b

申仁忠撰鼎建樓為碑文以記之

Thân Nhân Trung soan bài khắc, dựng lầu làm văn bia ghi lại

Lê Đĩnh ở làng Đoan Khách

961

49a

黎公鼎在端慶

ông Lê công Đỉnh ở đời (Mạc) Đoan Khánh

 

 

các bản đều thiếu khuyết tờ số 52

bổ sung từ bản chép tay

Sổ Khê

964

53b

漊溪

Lâu Khê

Hắc Động

 

54a

墨洞

Mặc Động

Núi Cổ Trai

965

55a

為古齋左朝之山thực ra không có núi ở Cổ Trai, mà nói là các núi chầu về đất Cổ Trai

là núi chầu về bên trái của xứ Cổ Trai

hai nhánh này gặp nhau ở phía đông trước khi đổ ra biển

966

55b

東會于南召海門

phía đông chảy về cửa biển Nam Chiếu

Núi Đồ Sơn ở xã Đồ Sơn

968

57b

屯山在屯山社

núi Đồn ở xã Đồn Sơn

đến động  Giang Châu thuộc huyện Chí Linh

969

57b

至靈江朱洞có bút son sổ là danh từ

Chí Linh, Châu Động

còn có tên là Xuyến Châu

 

58a

一名串珠

một tên khác là Quán Châu

xong lại về Vân Đồn phá phỉ Ô Lan

970

58b

又擒雲屯觀瀾烏匪

lại bắt giặc phỉ Tàu Ô ở Quan Lạn, Vân Đồn

38 tuổi ở Thanh Phiên trấn giữ Tương Châu

 

58b

三十八青藩鎮驩州

năm 38 tuổi ra phiên trấn, trấn giữ Hoan Châu

Sau ông được phong Đông Ngàn hầu, con cháu ông nhờ chế độ giám sinh mà cũng được cầm quân trong nhiều trận cho đến hết đời Lê

972

59b

謂公後東岸侯亦以監生典兵累為閫帥至於黎末皆亡Phạm Đình Trọng lúc sống đã là Hải Quận công, truy phong Vước tước rồi, còn phong Hầu làm gì nữa.

Đây nói là hậu duệ của ông, có Đông Ngạn hầu cũng làm Giám sinh mà cầm quân, nhiều phen trong trướng soái, đến cuối đời Lê đều mất cả

người ngựa nghe thấy đều tránh xa, chẳng ai dám đương địch, nếu có ai gan dạ thì cũng bị đại đao chém chết

 

59b

官君人馬易走不及者皆被刀剉死

quan quân người ngựa khèo cả chân, ai chạy không kịp đều bị đao quay chết

giặc này chỉ là sợi lông của nước Nam mà nay lại làm An Ninh thần

972

60a

鯑賊為南國項羽也今為安寧神

giặc He thực là Hạng Vũ của nước Nam, vậy mà nay đã làm thần Yên Ninh rồi

các tỉnh biên giới phải xin gia phong cho ông là Võ Quốc công, mang chỉ xuống tận Nam Quan để nói với triều đình phong cho ông là An Quốc vương, họ lại chặt lấy thủ cấp của giặc bỏ vào cái hòm rồi đặt trên cái bè cho trôi đến sông Vĩnh  Niệm

973

61a

公以兵破北朝外省牒移我國公詣南關請當刑以安國王北人貯尸首函中置江水上插一傘盖自此回至永念江分 

ông đem quân đánh phá các tỉnh ngoài của Bắc triều. Văn thư gửi sang nước ta. Ông lên cửa ải xin chịu tội để giữ yên cho vua ta. Người phương bắc cất thi thể và đầu ông vào hòm để trên sông, trên có cắm lọng che. Từ đấy trôi về địa phận sông Vĩnh Niệm

tục gọi là Cồn  Lang

973

61b

俗曰𡑱柳

tục gọi là Cồn Liễu

Bồ Điếu

 

2bq2

蒲鉤

Bồ Câu

có bọn Cảo Khiêm tung hoành trong vùng 7 châu, mãi cho đến khi chúng chết thì vùng đất ấy mới thuộc vào nội địa

977

3aq2

存嵩謙等七州沒入內地

còn 7 châu Tung, Khiêm nhập vào nội địa

Công Chất đã chết, con của y sợ bỏ chạy

979

5aq2

公質已死子公瓚惶恐既走

Công Chất đã chết, con là Công Toản sợ chạy

đồng thời dân trong 7 châu phải chịu sự cai quản của quan trấn, người nào không nghe theo phép nước quá 3 lần có thể cho phép quan binh tùy nghi xử liệu, dân miền núi phải làm nhà và lập làm xã ấp, không được sống tự tiện nay đây mai đó. Các quan phủ huyện phải thân chinh đi khám xét thường kỳ.

979

5bq2

6aq2 không hiểu nổi dịch giả dịch từ đâu ra?

後公瓚內投七州之民嵩陵醴泉黃岩綏阜合肥萊州謙州凡七州以地勢遼遠略緣內附於是內地縣官概行征繕 

sau Công Toản đem dân 7 châu nhập vào Nội địa, là 7 châu Tung Lăng, Lễ Tuyền, Hoàng Nham, Tuy Phụ,  Hợp Phì, Lai Châu, Khiêm Châu), lấy cớ đường núi xa khó, dần quay về nội địa. Huyện quan trong nội địa làm đại thể cứ nối thu ghi vào.

do đó y về kinh để tự tố tội trạng của mình

981

8aq2

訃京自訴

đến kinh tố cáo

cái biển ở xã Vũ

985

11bq2

左支為海武社二海 

nhánh bên trái là 2 bể của xã Hải Vũ

Thanh vương thân chinh cầm 6000 quân đi đánh dẹp

988

14bq2

清王親率六軍進討

chúa Trịnh Thanh vương thân cầm Lục quân đi đánh

Mạc Kính Vũ đầu hàng nhà Thanh rồi đổi tên hiệu

 

15aq2

敬宇降于清改號敬曜

Mạc Kính Vũ hàng nhà Thanh, rồi đổi hiệu là Kính Diệu

Nguyên Thanh đã cùng quan nhà Thanh là Quang Trạch Vương

989

15bq2

元清與明光澤王

Mạc Nguyên Thanh cùng Quang Trạch Vương nhà Minh

tố cáo ngược đời

 

 

請還誥之

xin về Tấu lại

nhân đó hòn đá này mới có chuyện như vậy

990

17aq2

此石象人形俗失訛傳 

hòn đá đó giống như hình người, nên người ta lưu truyền sai đi như vậy

thần lại báo mộng cho biết ba vị tướng âm mưu làm phản khó mà dẹp yên, nhà vua xuống chiếu phong thần núi làm tước vương để cầu an cho thiên hạ

997

22bq2

復托夢告以三王謀返事至難平詔為天下主盟神封王爵 

thần lại báo mộng sự mưu phản của 3 Vương, đến khi nạn được bình, xuống chiếu phong làm Thiên hạ minh chủ, tước Vương

thiếu mất phần dịch núi An Hoạch sơn

 

 

 

Núi Bàn Diệu

998

23aq2

盤沙

núi Bàn Sa

Lương Đắc Bằng

1000

24bq2

梁安鵬

Lương Yên Bằng

Thái Chữ Lưu Đình Tán

1000

 

葵渚劉廷

ông Lưu Đình ở Quỳ Chử

Núi Vân Nam

1003

26bq2

雲岩山

núi Vân Nham

vương là con thứ hai của vua Lê Thái  Tổ

1016

36aq2

王乃太祖兄仲子

vương là con thứ 2 của anh trai Lê Thái Tổ

vua đem chuyện ấy nói với mọi người rằng phu nhân xin được cùng đi

1023

42aq2

上寤語左右日夫人力請行

vua đem chuyện nói với tả hữu, hôm sau Phu nhân ra sức xin đi

tên gọi của Nam Trưởng

1026

45bq2

蛮長之號

hiệu của người đứng đầu xứ Man

Qua đời người em là Lư Cầm Hương thì không còn thế tập nữa

1026

 

其弟盧琴香繼襲

người em là Lò Cầm Hương nối chức

ủy thác cho cựu xà là Lư Cầm Hương và Lư Cầm Uẩn quản lý việc phủ như cũ

1028

47bq2

委鎮寧舊蛇盧琴香之姪盧琴蘊管理府事

ủy thác cho cháu của người Xà cũ Lò Cầm Hương là Lò Cầm Uẩn quản lý việc trong  phủ

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét