NGÔ PHÚC LÂM: Chùm thơ Tổ xem sóng núi Bàn A
NGÔ ĐỨC THỌ dịch chú giới thiệu 7-2014
Nguồn: http://ngoducthohn.blogspot.de/2014/07/ngo-phuc-lam-chum-tho-to-xem-song-nui.html
Lời Tựa Bàn A sơn Quan lan sào thi
Những nơi cảnh đẹp ở chốn núi
non sông biển tức là một bầu trời ở ngoài đảo thiêng đất Nam Nhạc. Giữa
vùng sông Mã và sông Lương là một kỳ quan của đất Việt điện. Trên bờ sông có ngọn
núi tên là núi Bàn A vách đá cao ngất không trung, là ngọn trấn sơn của
vùng đất Lam Biện, vua Hiến Tông bản triều có thơ ngự đề đến nay hơn ba trăm
năm, lèn đá lạnh lẽo âm u như vang theo dư vận của bài thơ. Khoảng năm Đinh Hợi
niên hiệu Cảnh Hưng (1767) Ngô Ngọ Phong người Tả Thanh Oai làm quan đất này,
thường đến đảo Quan Lan ở phía nam núi, gọi lèn đá này là “sào” (cái tổ), hàng
ngày cùng các khách bạn ngâm vịnh thơ ca cạn chén gảy đàn đắm mình trong
những ký ức năm tháng, vin đá nhìn xa, phong cảnh như cung cấp đề tài cho các bạn
thơ phẩm đề thi hoạ, thành 10 cảnh khắc lên vách đá, lại làm bài
minh nói về việc ấy. Gần đây tôi từng thấy tập sách do chính Ngọ Phong
công tập hợp, mỗi khi mở sách ra đọc thường thốt lên lời tấm tắc khen ngợi. Danh
thắng ở nơi quê hương của nhà vua rất nhiều, sao lại cuồn cuộn ở nơi này nhiều
như vây? Há phải núi này gần lị sở xứ Thanh, quan Hiến sát qua lại nhiều nên
cái khéo cái đẹp của hang động lèn đá đều tự hiện lên như vậy với quan Hiến
sát? Há phải vì quan Hiến sát yêu núi, mà núi cũng may được quan Hiến sát chia
sẻ nỗi lòng? Những người cùng đi tán thưởng cái ý ấy của quan Hiến sát mà coi
đó như một cuộc ngoạn chơi thư nhàn. Mùa đông năm Canh Dần (1770) xa giá nhà
vua tuần hạnh miền Tây, tôi được dự theo hỗ tùng. Khi mới đến bến đò Đại Khánh
thấy vách đá sừng sững như dựng, tôi nói; “Đây chẳng phải là cái
“sào” (tổ) mà Ngọ Phong công đã vẽ đấy ư?”. Theo bậc thang đi lên,
nhìn ra xa, bãi cát vạn dặm, mênh mông trời nước một màu, xóm núi, thuyền buồm,
bến đò lặng lẽ hiện lên trong màn khói nhạt. Tôi tựa lưng vào vách đá nói với
những người cùng đi: “ Cảnh này ở trong tâm trí tôi đã lâu, nhưng nay mới lần đầu
được đến! Cảnh này không bám bụi trần, nương vào chỗ trống mà rỗng không. Giữa
các vách đá là trăng mờ, gió mát, đám mây lơ lửng, chiếc hạc ngang trời, không
một vật nào không thân thiết với tôi. Tức như từ ngày Ngọ Phong công vâng mệnh
đến xứ Thanh làm Hiến sứ đặt chân lên hang đá, có lẽ nơi đây đã có Tiên rồi
chăng? Tiên ư ? Cốt cách phong lưu, say lầu Nhạc Dương, chơi bến Thái Thạch,
đúng là bậc ông Quỳ ông Long nơi hang gò mà mặc áo đội mũ như Hứa
Do. Tháng sau, xa giá trở về, chúa thượng ngự giá lên “sào” ngắm cảnh. Suốt một
ngày, đàn sáo vang lừng, cờ lọng rợp núi. Các quan hầu giá ai nấy đều hân hoan
tán thưởng. Thế mới hay con người có tấm lòng rộng lớn tất có cung cách cuộc sống
nổi bật hơn người đời. Nếu không có ngày nay làm sao tôi có thể biết được bậc
huynh trưởng thân thiết của tôi có linh khiếu tưởng tượng lạ kỳ như thế? Hay là
do ngọn núi này từ khi khai thiên lập địa đến nay không biết bao nhiêu niên đại
mà vẫn còn không biết bao nhiêu cảnh đẹp con người chưa biết, đến Ngọ Phong
công phát hiện và phát biểu ra, khiến cho các vận sĩ (thi nhân) trong thiên hạ
cùng treo cờ lên mà đề vịnh. Thế tức là núi đợi có Ngọ Phong công mà được thêm
sắc, có sẵn cho những ai sớm chiều đến ngoạn du giám thưởng. Thực muốn thưởng
thức như vậy thì trước hết phải dung nạp cho được cái vũ trụ trong tâm hồn của
Ngọ Phong công vốn là bậc ẩn dật nơi sông nước vẫn ưa thích sự kỳ lạ danh bất
hư truyền. Nếu chỉ khư khư ôm lấy những tre và đá thì sao đủ nói đến! Nay ông
nhậm chức ở Thừa tuyên Nhật Nam, nổi nhạc đi tuần sát cõi xa, đến miền sông nước
là đi vãn cảnh, bờ cây mây nước bên lòng.
Phụ lục:
Bài ký Bàn A sơn Quan Lan sào của Ngọ Phong NGÔ THÌ SĨ
Mùa
hè năm Đinh Hợi (1767) tôi từ Thái Nguyên về triều, tiếp sắc chỉ với
hàm Đông các được bổ đi làm Hiệp Trấn xứ Thanh Hoa. Tháng 7 tôi đến quận.
Khi đã đến nơi, công việc đơn từ kiện tụng cũng tương đối thưa giản, nhờ thế
tôi được đi du thưởng nhiều nơi danh thắng như núi Dục Thuý ở huyện Yên
Khang, động Hồ Công ở huyện Vĩnh Phúc, ở những nơi ấy tôi đều có đề
thơ khắc vào đá. Lại về phía đông lỵ sở có một ngọn núi tên là núi Bàn A ở xã Đại
Khánh huyện Đông Sơn. Núi này không cao lắm, nhưng quanh co uốn khúc
rất đáng yêu. Núi nhìn xuống sông Lương Giang, mộtchi từ bên hữu đội lên thành
núi Da Sơn; một mạch từ bên tả ngạn giáp Lương Giang chạy về núi Bằng Trình làm
thành núi Thái Bình. Sông Mã tù trên thượng nguồn chảy đến đó thì hợp với nhánh
bên phải làm thành Ngã ba. Hai dòng nước chầu phía trước, hai ngọn núi vòng ôm
hai bên tả hữu. Phía trước là sông lớn, cả hai bên đều có doi cát nổi lên. Doi
bên trái là Ngân đái ( Đai bạc), doi bên phải là Ngọc ấn (Ấn ngọc),
bày bố tự nhiên theo thế ôm vòng. Trên lưng núi, đối diện với dòng sông là một
vách đá. Giữa thân vách đá có một chỗ lõm sâu vào, bên trong có thể ngồi lọt một
người ngồi xếp chân, dựa lưng vào vách. Bên trên đầu có một lỗ thủng như
hình chiếc mũ, bên trái bên phải có thể để được những đồ dùng. Lại có chỗ có những
thanh đá như song cửa sổ, bên trong ngồi được hai người ngồi đối diện với
nhau dựa lưng vào song cửa sổ. Hai bên tả hữu có hai hòn đá như hai đứa
tiểu đồng. Từ phiến đá dựng ở chỗ song đồng ấy có thể nhìn xuống dòng sông, người
bên dưới theo lối bên trái có thể đi lên trên chòi. Những khi việc quan rảnh rỗi
tôi thường đền đến ngồi chơi trong cái hang nhỏ mà tôi gọi là cái
“sào” (tổ) ấy. Từ trên cao nhìn xa, thấy làn nước mênh mông bao quanh xóm núi,
suối hạc, bãi le, mà tự mình được ứng tiếp muôn vạn cảnh, không thể hình dung hết
được. Vì chỗ này có thể xem sông nước, nhưng nhỏ không đủ gọi
là hang động, cho nên tôi đặt tên là Quan lan sào (Cái tổ xem sóng),
viết 5 chữ lớn phía ngoài bên trên khuôn viên của “tổ” nhưng là bên trong lan
can đá, và làm bài minh về nó. Phía trên và là bên tả của “tổ”, nhân theo tên
núi khắc bia ba chữ “Bàn A sơn” để thể hiện tên núi, ở dưới khắc họ tên và năm
tháng khắc bia để biết.
Thác bản dập bia núi Bàn A
Lại ở chỗ vách đá bên phải giáp với “tổ” có chỗ lõm hình tròn mà dài
có thể khắc bài minh, hai bên có mấy chõ to bằng bàn tay lõm vào thể thế rất tự
nhiên, bèn sai thợ khắc chữ 10 chữ của bài minh làm đầu bên tả của bài minh,
còn 92 chữ ở sau bài minh phía bên phải thì khắc vào chỗ đá lõm mà tròn như
hình cái giếng, phía trước có hình cỗ xe nên gọi là Giếng Tiên (Tiên tỉnh), ở
hòn đá trên chỗ cái hốc ấy tôi cho khắc 2 chữ “Tiên tỉnh” để ghi nhớ sự kỳ lạ của
cái hốc đá. Lại gần bên phải “Giếng tiên” bên cạnh tảng đá lớn có một chỗ hơi bằng
phẳng, ngồi được, mà chỗ ấy giáp núi cát mịn có thể bắc một cái đầu rau làm bếp
được. Bọn tiểu đồng theo lối bên phải đến, mỗi khi nghỉ ngơi tôi thường bảo
bọn trẻ nhóm lửa đun nước pha trà uống, nhân đó gọi là “Chử minh oa”( hố nấu nước
pha chè). Từ bên trái chỗ đun nước pha chè ấy, vin cây mà trèo lên,
lại thấy 1 chỗ dài ước vài chiếc chiếu. Giữa chỗ vách núi cao ấy nổi lên một tảng
đá nhỏ có thể dựa lưng ngồi mà nhìn xuống phía trước “tổ”. Tôi mỗi khi đến nghỉ
ở Quan lan sào thường trèo lên chơi chỗ này. Nhìn ra xa có nhiều cảm hứng muốn
ngâm vịnh, nhưng chỗ cao cheo leo rất đáng sợ nên klhông tiện ngồi lâu, không bằng
ngồi dưới “Tổ” bằng phửng chắc chắn, có thể ung dung nghĩ ngợi, lại vừa được ngắm
cảnh trí xung quanh. Bởi vì nơi này hơi cao mà có gió, lại có hòn đá như cái ghế,
đặt tên là “Nghênh lãm toạ” (Mời ngồi ngắm), sai khắc ba chữ ấy để ghi chỗ ngồi
hóng mát.
Lại
bên trái “tổ” có tảng đá chìm dưới nước, nhô lên như một hòn đảo nhỏ, cách bờ
khoảng vài thước, bên trên hình nhọn. Tôi thường chèo thuyền đến gần tảng đá ấy,
nói đùa rằng lên chỗ này thì không được say rượu, nhân đó gọi chỗ ấy là “Đình
bôi” (dừng chén). Các bức hoạ đồ hình thế núi sông, chiều cao chiều s
sâu, dài rộng bao trượng bao thước cùng là những điều ước hội dung xem kỹ ở
sau. Mùa đông năm Mậu Tí, tháng 12 (1-1769) hòan công. Nhân có
công vụ, cho mời các quan lại trong ba ti đến chơi xem nơi này, coi như lễ
khánh thành. Rượu đã ngà say, có người đùa tôi nói rằng: “ Ngài đối
với núi khai thác như thế này., vị trí quy mô đều rất rõ rệt, đẹp
như nơi ngài ở, có thể gọi ngài là người “Sơn tích” (Mê núi) vậy. Tôi đáp:
"Vẫn có thế!”. Tôi đi xem nhiều núi, yêu thích núi đã lâu, ngay chỗ không
có ngọn khói dấu chân con người mà có ngọn núi con sông cảnh đẹp cả đến cảnh vật
khiến người quê mùa có khi quên khuấy, còn như ngọn núi đẹp như thế này tôi làm
sao mà vô cảm được! Lại có những người chưa ra làm quan để có dịp
thăm thú núi non hang hốc, đẩy cửa ra là thấy núi, trèo lên non mà ngắm nước
thì hứng thú sơn thuỷ không ngày nào không có. Như niềm lạc thú mà tôi có đây
thì là núi may mà gặp tôi, tôi đối đãi với núi chu đáo đã lâu, tưởng cũng như
người mê núi vậy, chứ đâu phải chỉ một mình tôi. Đại phàm lấy đá làm
tổ thì yên, lấy tổ làm chỗ ngồi thì trong. Ơn nước gót đầu chưa mảy may báo
đáp. Bậc trí giả lao tâm việc miếu đường, bậc dũng giả lao lực việc
biên cương, mà một mình ta hàng ngày được du chơi với cái tổ của ta để trộm
chút phúc, đã an lại thanh. Ấy là do tôi may gặp được người thời
Nghiêu Thuấn, may được đứng trong triều đình “ đô du” mà lại có thể
kiêm được cái đẹp của Cơ tần. Thế là tạo vật ưu hậu cho ta, không phải là do ta
trí xảo mà có thể có được cái niềm si mê ấy! Các ông khách đều cho lời
ta là phải. Khách về hết rồi, ta lấy bút ghi lại sự việc.
Hoàng
triều Cảnh Hưng năm thứ 29 ( 1776 ), năm Mậu Tý, tiết Gia Bình.
Chính
Tiến sĩ khoa Bính Tuất, Đông các Hiệu thư Thanh Hoa Hiến sát sứ Ngọ Phong cư sĩ
Ngô Thế Lộc phủ viết ở Quan Lan Sào.
1. Núi Bàn A
Bàn A sơn là một ngọn núi đá (lèn đá) ở thôn Đại Khánh phủ
Thiệu Yên –Nay là thôn Đại Khánh xã Thiệu KhánhTP Thanh Hoá.
Chùm thơ Bàn A Sơn Quan lan sào thi của NGÔ PHÚC LÂM
1. KHÁNH BẰNG LIỆT CHƯỚNG
1. KHÁNH BẰNG LIỆT CHƯỚNG
(慶鵬列障 )
欲 飛 拳 石 桌 遙 空 Dục
phi quyền thạch trác dao không,
勢 自 連 雲 色 自 蔥 Thế
tự liên vân sắc tự thông.
捶 翠 平 分 江 口 樹 Thuỳ
thuý bình phân giang khẩu thụ,
攢 青 交 匝 渡 頭 風 Tán
thanh giao táp độ đầu phong.
速 流 擢 響 鯨 聲 外 Tốc
lưu trạc hưởng kình thanh ngoại,
遠 炤 屏 翻 鷺 渚 中 Viễn
chiếu bình phiên lộ chử trung.
憑 眺 莫 疑 樽 問 夕 Bằng diểu
mạc nghi tôn vấn tịch,
天 將 勝 槩 助 詩 雄 Thiên
tương thắng khái trợ thi hùng.
Dịch nghĩa:
Núi
Bằng Trình xã Đại Khánh dăng hàng
Hòn núi tròn nhọn như muốn bay lên giữa không trung,
Thế núi tự nó đã kề mây, sắc núi tự nó đã xanh rồi.
Màu xanh đã chia đều cho cả rặng cây nơi cửa sông,
Gió thổi từ bến đò như hoà trộn các khối màu xanh vào nhau.
Phía ngoài lớp sóng kình dường như nổi lên âm thanh của dòng
nước xiết,
Bãi cò như tấm bình phong hiện lên phía xa.
Dõi trông xa, chớ hoài nghi chiếc chén có hỏi chuyện chiều
tà,
Trời ban cho cảnh đẹp giúp cho thi hứng thêm nồng.
Dịch thơ:
Núi tròn như vọt muốn
bay lên,
Cùng với mây xanh sắc
tiếp liền.
Xanh toả buông đều cây
đầu bến,
Gió hoà sóng biếc núi
lam nền.
Ngoài lớp sóng kình
dòng xiết cuộn,
Bãi cò như chắn chếch
cao trên.
Xa trông chớ hỏi chén
chiều muộn,
Thắng cảnh trời ban
thi hứng thêm!
NGẠN
XUYÊN
2. LƯƠNG MÃ SONG PHÀM
右梁馬雙帆)
晴 江 遠 眺 碧 煙 徽 Tình giang
viễn diểu bích yên huy,
帆 影 迢 迢 對 岸 依 Phàm
ảnh điều điều đối ngạn y.
雙 派 逼 秋 轟 欲 響 Song
phái bức thu oanh dục hưởng,
一 風 歧 浪 迅 如 飛 Nhất phong
chi lãng tấn như phi.
利 名 客 逐 長 流 轉 Lợi
danh khách trục trường lưu chuyển,
煙 雪 誰 催 短 笛 歸 Yên
tuyết thuỳ thôi đoản địch quy.
聨 轡 宦 逰 如 得 會 Liên
bí hoạn du như đắc hội,
扁 舟 杯 酒 看 漁 磯 Biển chu
bôi tửu khán ngư ky.
Dịch nghĩa:
Hai cánh buồm trên hợp lưu sông Lương - sông
Mã
Tạnh sáng sông xa, hừng sáng một làn khói biếc,
Đôi thuyền nhấp nhô cùng dong buồm vào bờ.
Hai tiếng sấm sắp nổ vang trên sông như thúc mùa thu mau đến,
Một cơn gió nổi, con sóng nhanh như bay trào lên.
Lợi danh khách đã phó cả cho dòng nước,
Khói tuyết, ai thôi thúc tiếng sáo bay về?
Nếu được cầm cương dong ngựa cùng làm quan một thời,
Với chiếc thuyền con và chén rượu cùng ngồi trên tảng đá
câu.
Dịch thơ:
Bừng xa khói biếc, rạng
sông xanh,
Buồm chuyển lô nhô,
sóng rập rình.
Như giục thu sang,
vang sấm nổ,
Gió lên, con sóng vọt
bay tranh.
Lợi danh phó cả cho
dòng nước,
Khói tuyết ai thúc sáo
về nhanh?
Ví được cầm cương cùng
dong ngựa,
Thuyền con chén rượu
được nhàn thanh.
NGẠN
XUYÊN
3. THẠCH TƯỢNG DỤC HÀ
(石象浴河)
盤 屹 中 流 皆 似 山 Bàn ngật
trung lưu giai tự sơn,
屹 然 雄 鎮 海 門 関 Ngật nhiên hùng
trấn hải môn quan.
橫 沖 震 薄 風 濤 際 Hoành
xung chấn bạc phong đào tế,
突 起 軒 昂 宇 宙 閒 Đột khởi hiên
ngang vũ trụ gian.
俯 壓 蜃 樓 驚 怪 水 Phủ
áp thẩn lâu kinh quái thuỷ,
立 撑 鰲 柱 障 狂 瀾 Lập
xanh ngao trụ chướng cuồng lan.
盤 阿 景 界 知 誰 管 Bàn
A cảnh giới tri thuỳ quản,
有 玉 堂 仙 鬂 未 班 Hữu
Ngọc Đường tiên mấn vị ban.
Dịch nghĩa:
Voi
đá tắm sông
Ngất ngưỡng ngồi giữa dòng sông như hòn núi,
Nhô cao như trấn giữ cửa biển.
Vọt thẳng xông ngang giữa bốn bề sóng gió,
Giữa vũ trụ, đột nhiên dứng dậy hiên ngang.
Cúi xuống đè ép “Thẩn lâu” của thuỷ quai,
Đứng chân vững chắc như cột ngao ngăn chặn những đợt sóng cuồng.
Cảnh sắc Bàn A không biết ai quản đây?
Chỉ có Ngọc Đường thành tiên[1] khi mái
tóc còn chưa bạc.
Ngọc Đường tiên:chỉ Hoàng Hiền
Dịch thơ:
Lừng lững trên sông
như ngọn non,
Nhấp nhô trấn giữ hải
môn quan.
Vọt thẳng xông
ngang ngăn sóng gió,
Thênh thang vũ trụ, đứng
hiên ngang.
Cúi xuống ép tan loài
thuỷ quái,
Đạp chân chống trụ chặn
sóng cuồng.
Bàn A cảnh đẹp ai quản
nhỉ?
Trần giới thành tiên một
Ngọc Đường.
NGẠN
XUYÊN
4. LĨNH QUY XUẤT THUỶ
(嶺 龜 出 水)
乍 報 黃 仙 畫 幛 開 Sạ
báo Hoàng tiên hoạ chướng khai,
翻 猶 飽 浪 作 轟 雷 Phiên
do bão lãng tác oanh lôi.
背 撐 岸 觜 當 空 立 Bối
xanh ngạn chuỷ đương không lập,
腳 峙 江 心 障 水 廻 Cước
trĩ giang tâm chướng thuỷ hồi.
遠 覽 魚 龍 驚 避 影 Viễn
lãm ngư long kinh tị ảnh,
近 疑 犀 象 醉 啣 盃 Cận nghi
tê tượng tuý hàm bôi.
逢 人 傳 語 能 言 者 Phùng
nhân truyền ngữ năng ngôn giả,
會 向 巢 遊 待 客 來 Hội
hướng sào du đãi khách lai.
Dịch
nghĩa:
Rùa núi rẽ nước
Người
ta bảo có vị đạo sĩ vẽ bức tranh trên trời.
Dòng sông tựa lật nghiêng, sóng dữ như phát ra tiếng
sét.
Lưng đội bờ đá cheo leo giữa không trung,
Chân đặt ngang lòng sông, chắn dòng nước xoáy.
Chốn xa trông cá rồng vờn nhau, giật mình thấy nó lượn tránh
rất mạo hiểm.
Nơi gần, ngờ rằng voi và tê giác còn đang cơn rượu say.
Hỏi người chỉ trỏ, thấy bảo:
Chủ nhân đợi khách lên chơi trên chòi.
Dịch
thơ:
Đồn rằng đạo sĩ vẽ
trên trời,
Sóng xô sông lật, sét
vang tai.
Tầng không lưng đội
lèn cao vút,
Chân xoà sát nước, chặn
dòng xoay.
Nơi xa rồng cá vờn
nhau hiểm,
Chốn gần tê tượng rượu
còn say.
Hỏi người chỉ lối, làm
dấu bảo:
“Chủ nhân đợi khách ở
trên chòi”
NGẠN
XUYÊN
5. CỔ ĐỘ KỲ ĐÌNH
(古 渡 旗 亭 )
渡 頭 山 半 入 雲 青 Độ đầu
sơn bán nhập vân thanh,
西 向 平 沙 又 淺 汀 Tây
hướng bình sa hựu thiển đinh.
煙 棹 汎 秋 橫 野 店 Yên
trạo phiếm thu hoành dã điếm,
竹 旗 迎 曙 拂 江 亭 Trúc
kỳ nghênh thự phất giang đình.
世 逢 津 外 帆 如 織 Thế
phùng tân ngoại phàm như chức,
客 思 灘 頭 鬢 欲 星 Khách
tứ than đầu mấn dục tinh.
憑 眺 幾 催 吟 興 逸 Bằng
diểu kỷ thôi ngâm hứng dật,
絃 歌 辰 況 坐 邊 聽 Huyền ca
thì huống toạ biên thinh.
Dịch nghĩa:
Đình cờ trên bến đò cổ
Chỗ bến đò, phân nửa ngọn núi lọt vào giữa mây xanh,
Phía tây bãi cát phẳng, có dòng nước cạn.
Khua mái chèo vương khói thu ngang dọc nơi điếm cỏ
Cờ tre nghênh đón nắng nóng, phất phơ trước giang đình.
Ngoài bến sông, gặp nhau trên đời, buồm chen như mắc cửi.
Trên đầu bãi, suy tư đất khách, mái tóc hầu bạc sương.
Vin tay nhìn xa, hứng thơ mấy bận dạt dào.
[Nếu] có ai đàn ca, hoặc mình được làm khách ngồi nghe thì
hay lắm.
Dịch thơ:
Đầu sông núi vút tận
mây xanh,
Cát phẳng doi tây nước
cạn duyềnh.
Chèo khói sông thu vờn
điếm cỏ,
Cờ tre đón nắng phất
giang đình.
Ngoài bến gặp nhau, buồm
mắc cửi,
Suy tư đất khách, bạc
đầu sương.
Xa ngắm mấy phen tràn
thi hứng,
Đàn ca nhớ lúc được
vui chung.
NGẠN
XUYÊN
6. VIỄN SẦM YÊN THỤ
(遠 岑 煙 樹 )
石 坐 西 臨 隔 岸 阡 Thạch toạ tây
lâm cách ngạn thiên,
隴 頭 遙 望 更 蒼 猶 Lũng đầu dao
vọng cánh thương do.
誰 將 翠 黛 痕 重 障 Thuỳ
tương thuý đại ngân trùng chướng,
辰 似 寒 藍 襯 遠 天 Thì
tự hàn lam sấn viễn thiên.
特 地 忽 疑 橫 架 海 Đặc địa
hốt nghi hoành giá hải,
欲 圖 先 自 卓 凌 煙 Dục đồ tiên
tự trác lăng yên.
適 人 總 在 登 高 處 Thích
nhân tổng tại đăng cao xứ,
惟 有 巢 翁 得 意 專 Duy
hữu sào ông đắc ý chuyên
Dịch
nghĩa:
Cây khói gò xa
Lèn đá nằm bên bờ tây, cách bên kia sông là ruộng đồng,
Từ chỗ đồi gò nhìn xa là cả một màn xanh rộng lớn.
Ai đem màu xanh đen vẽ vào các ngọn núi trùng điệp kia,
Khi ấy tựa như dòng sông Lam lạnh lẽo sát bên trời xa.
Cả vùng đất bỗng như gác ngang trên biển.
Muốn vẽ nó tất trước phải tự vượt lên trên cả khói mây.
Lên cao bao giờ cũng khiến người ta vui thích.
Nhưng chỉ có Sào Ông chuyên được đắc ý điều
này.
Dịch thơ:
Đá dựng bờ tây
cách ruộng đồng,
Non xanh xa ngắm thấy
mênh mông!
Pha màu đen xám tô núi
biếc.
Trời xa lạnh lẽo sát
Lam Giang.
Mặt đất tựa chừng treo
gác biển,
Vẽ vầy trưóc phải vượt
cao không.
Lên cao thoả chí ai
cũng muốn,
Thường xuyên đắc ý, chỉ
Sào Ông
7. CÔ THÔN MAO XÁ
(孤村茅舍)
路 頭 西 望 水 潺 湲 Lộ đầu tây
vọng thuỷ sằn viên (vôn)
何 處 人 家 著 石 根 Hà
xứ nhân gia trước thạch căn (côn)
寒 樹 匝 煙 深 竹 往 Hàn
thụ táp yên thâm trúc vãng,
疏 叢 依 岸 迥 蓬 門 Sơ
tùng y ngạn quýnh bồng môn.
桑 痲 影 自 垂 連 渚 Tang
ma ảnh tự thuỳ liên chử,
雞 大 聲 相 徹 隔 藩 Kê
đại thanh tương triệt cách phiên (phôn)
不 問 與 鄰 誰 茅 宅 Bất
vấn dư lân thuỳ mao xá
醇 庵 原 是 古 鄉 村 Thuần
am nguyên thị cổ hương thôn.
Dịch nghĩa:
Lều tranh thôn vắng
Đầu con đường nhìn về phìa tây có dòng nước chảy chầm chậm,
Nhà ai đó đắp một bờ kè đá ở nơi ấy.
Trong màn sương khói rặng cây lạnh lẽo vượt lên trên lối đi
giữa hàng tre.
Lùm cây thưa men theo bờ sông, xa xa là những căn nhà lá,
Những mảnh vườn dâu gai rủ bóng trên đầm nước liên tiếp
nhau.
Giậu thưa không ngăn đựoc, tiếng gà gáy nghe thông làng.
Không cần hỏi hàng xóm là nhà ai,
Nơi ấy có rượu thuần, chính là chốn hương thôn thời xưa đó.
Dịch thơ:
Phía tây dòng nước chảy
lâm râm,
Kè đá nhà ai đắp nẻo gần.
Cây lạnh màn sương,
sâu lối rậm,
Bờ đê lều văng, chụm
vài căn.
Dâu gai rủ bóng trên đầm
nước,
Gà gáy thông làng, giậu
chẳng ngăn.
Chẳng hỏi láng giếng
nhà ai đó,
Ấy chốn hương thôn có
rượu thuần.
NGẠN
XUYÊN
8. CÁCH NGẠN THIỀN LÂM
( 隔 岸 禪 林)
俯 轍 江 流 綠 繞 襟 Phủ triệt
giang lưu lục nhiễu khâm,
峭 猶 隔 岸 有 叢 林 Tiêu
do cách ngạn hữu tùng lâm.
白 蘋 雪 外 寒 鐘 遠 Bạch
tần tuyết ngoại hàn chung viễn
翠 竹 煙 中 道 院 深 Thuý
trúc yên trung đạo viện thâm.
世 路 舟 車 人 是 客 Thế
lộ chu xa nhân thị khách
壺 天 雲 水 昔 如 今 Hồ
thiên vân thuỷ tích như kim.
大 都 閑 樂 皆 真 景 Đại
đô nhàn lạc giai chân cảnh,
誰 與 巢 翁 會 此 心 Thuỳ Sào
Ông hội thử tâm.
Dịch nghĩa:
Chùa
bên kia sông
Nhìn
xuống dòng sông như tấm khăn xanh quấn quanh,
Lèn
đá là do bên hữu ngạn có dãy núi.
Phía
ngoài bãi rau tần trắng, tiếng chuông chùa xa nghe lạnh lẽo
Thiền
viện chìm sâu trong rặng tre mờ sương khói.
Trên
đường đời người đi ngựa đi xe là khách,
Trong
trời đất mây nước xưa như nay.
Chốn
phồn hoa đô hội lạc thú đều là “chân cảnh” cả,
Ai
cùng tâm ý này với Sào Ông ?
Dịch
thơ:
Tấm lụa xanh quàng một
giải sông,
Lèn do đá chạy vượt
qua dòng.
Bãi ngoài cần trắng,
chuông chùa lạnh,
Đạo viện mờ sương trúc
đẫm cành
Xe ngựa đường đời người
là khách
Nước mây sau trước giữa
trời xanh
Phồn hoa vui thú đều
chân cảnh
Hâm mộ Sào Ông được mấy
anh?
NGẠN
XUYÊN
9. SƠN HẠ NGƯ KY
( 山 下 漁 磯 )
蒼 浪 泊 處 是 村 居 Thương lang bạc xứ thị thôn
cư,
廬 外 帆 歸 片 片 漁 Lư ngoại phàm quy
phiến phiến ngư.
岩 廓 枕 灘 停 棹 穩 Nham quách chẩm than
đình trạo ổn,
江 湖 響 岸 入 窗 虛 Giang hồ hưởng ngạn nhập
song hư.
數 行 破 瞑 相 炊 際 Sổ hàng phá miến
tương xuy tế,
一 笛 驚 秋 未 曉 初 Nhất địch kinh
thu vị hiểu sơ.
醉 起 渡 頭 相 訪 話 Tuý khởi độ đầu tương
phỏng ngữ,
桑 田 猶 幾 百 年 餘 Tang
ma do kỷ bách niên dư.
Dịch
nghĩa:
Tảng đá ngồi câu dưới núi
Bến đỗ của các thuyền chài là một khu thôn cư,
Bên ngoài nhà, thuyền cá trở về tới tấp, buồm bay phấp phới.
Gác chèo gối đầu thuyền lên bãi cát trước lèn đá dựng,
Dân giang hồ lên bờ, bước vào căn lều trống hoác của mình.
Giữa mấy hàng chiếu rách (che gió), dân chài ngồi nấu ăn.
Một tiéng sáo khiến mùa thu phải giật mình vang lên khi trời
chưa sáng
Say dậy, đến đầu bến thăm hỏi mấy người dân,
Cảnh vật đổi thay cũng đã hơn mấy trăm năm rồi.
Dịch
thơ:
Thuyền về bến đỗ mỗi
tà chiều,.
Ngòai lộng buồm
tung, gió thổi vèo.
Gác mái gối thuyền
lên lều lá,
Giang hồ trống
hoác gió tư bề.
Vài hàng chiếu
rách ngồi đun nấu,
Một sớm thu vang
tiếng sáo về.
Say dậy thăm
dân, cùng hỏi chuyện,
Nương dâu thay đổi
biết bao nhiêu!.
NGẠN
XUYÊN
10. GIANG TRUNG MỤC PHỐ
( 江 中 牧 浦 )
一 空 雲 著 地 根 浮 Nhất
không vân trứ địa căn phù,
翠 浸 長 流 半 自 鈞 Thuý
tẩm trường lưu bán tự quân.
寒 渚 漲 餘 惟 宿 草 Hàn
chử trướng dư duy túc thảo,
瞹 沙 晴 處 有 眠 牛 Ái
sa tình xứ hữu miên ngưu.
野 煙 不 斷 春 風 笛 Dã
yên bất đoạn xuân phong địch,
江 影 辰 邀 晚 月 舟 Giang
ảnh thời yêu vãn nguyệt chu
巢 上 停 欄 辰 遠 眺 Sào
thượng đình lan thì viễn diểu,
嘯 吟 何 日 不 歡 遊 Khiếu
ngâm hà nhật bất hoan du.
Dịch nghĩa:
Bãi
tắm trâu trên sông
Bầu trời u ám,mặt đất như nổi lên tận chân mây,
Dòng nước xanh biếc dài trôi, như có lực tự cân bằng.
Bến lạnh sau trận lũ hầu như chỉ còn loài cỏ năn.
Chỗ bãi cát sáng lấp loáng có con trâu đang nằm ngủ,
Làn khói hoang sơ bay trong gió xuân đưa theo tiếng sáo ngân
dài.
Cảnh sông lúc nào cũng có ý mời chào những chiếc thuyền con
dạo chơi đêm trăng.
Vịn lan can trên Chòi xem sóng nhìn ra xa,
Ngâm vịnh thơ ca lúc nào cũng khiến những chuyến du chơi của
ta thêm vui thú.
Dịch thơ:
Đất bằng như nổi sát
chân mây,
Dòng biếc dài trôi nửa
nặng đầy.
Tan tác lũ về, năn ngập
bãi,
Lấp loang cát sáng,
vũng trâu vầy.
Sáo xuân vẳng tiếng
trong sương khói,
Trăng sáng thuyền con
khoát mái bơi.
Vin đá kề chòi trông
hút mắt,
Ca ngâm hứng thú
cuộc vui chơi.
NGẠN
XUYÊN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét