VĂN KHẮC HÁN
NÔM
THĂNG LONG- HÀ
NỘI
Tư liệu văn khắc Hán Nôm hiện còn khá nhiều trên địa
bàn Hà Nội, nó có mặt tại tất cả các quận huyện nội ngoại thành. Đây là nguồn
tư liệu rất quý phản ánh nhiều mặt về đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa, tín
ngưỡng của người dân Thăng Long trong các chặng đường lịch sử khác nhau.
Văn khắc Hán Nôm
là những bài minh văn viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm hoặc xen kẽ cả Hán lẫn Nôm
được khắc trên đá, đồng hoặc gỗ bằng những công cụ thủ công. Phổ biến nhất của
loại hình văn khắc Hán Nôm là các bài minh văn khắc trên bia đá và chuông khánh
đồng. Đây là sản phẩm văn hóa của dân tộc Việt trong suốt hơn nghìn năm lịch sử.
Văn khắc Hán Nôm còn lại đến ngày nay vừa mang ý nghĩa văn bản vừa là hiện vật
khảo cổ vì chúng ta vẫn có thể chạm vào hoặc sờ lên hiện vật như bia đá,chuông
đồng hoặc hoành phi câu đối. Văn khắc Hán Nôm hiện diện ở hầu hết các điểm di
tích như: đình, chùa, đền miếu, từ đường dòng họ,văn miếu, văn chỉ, lăng mộ.Có
thể dễ dàng nhận thấy văn khắc Hán Nôm thường xuất hiện ở những nơi được nhiều
người biết đến nên nội dung thông tin có thể truyền đi được nhiều hơn. Dựng bia
đá khắc minh văn nhằm mục đích vừa công bố văn bản, vừa truyền lại cho hậu thế
những thông tin của quá khứ. Ở cuối mỗi bài minh văn hay có những câu răn dạy hậu
thế, đại để là người ở xứ ấy, đọc tấm bia ấy biết những nội dung cần phải thực
hiện mà lại quay lưng bội phản với những lời cam kết với tiền nhân thì sẽ bị trời
đất chu diệt.
Hà Nội ngày
nay với một diện tích rất rộng bao gồm cả Hà Nội cũ, tỉnh Hà Tây, huyện
Mê Linh và 4 xã của huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình. Với một địa hành chính rộng
như vậy nên tư liệu văn khắc Hán Nôm của Hà Nội thực sự phong phú và đa dạng.
Trước đây khi chưa sát nhập, loại hình văn khắc Hán Nôm của Hà Nội chỉ có tại
những điểm di tích là đình, chùa, đền miếu, từ đường dòng họ, y miếu, văn miếu,
văn chỉ, lăng mộ, cầu, quán chợ. Nay thêm nhiều vùng đất mới như tỉnh Hà Tây với
nhiều khu di tích gắn liền với cảnh thiên nhiên như chùa Hương, chùa Thày, núi
Tản Viên... thì văn khắc Hán Nôm của Hà Nội lại có thêm một loại khác,đó là bia
ma nhai. Bia ma nhai là những bài minh văn được bạt đá núi để khắc vào,chúng ta
có thể bắt gặp nhiều bia ma nhai ở chùa Hương, chùa Thày và nhiều hang động,
núi non thuộc Hà Tây cũ. Hà Tây là một trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long
xưa, nên diện mạo văn hóa nói chung, văn hóa Hán Nôm nói riêng cũng rất đa dạng
giống như trấn Kinh Bắc ở phía bắc, trấn Hải Dương ở phía đông. Tuy nhiên, do
khoảng không gian quá rộng để khảo cứu tư liệu trong một thời gian rất hạn hẹp
nên trong quá trình sưu tập, tuyển chọn văn khắc Hán Nôm của Hà Nội lần này
chúng tôi chưa thể đề cập đến khối tư liệu văn khắc của tỉnh Hà Tây cũ, huyện
Mê Linh và bốn xã thuộc huyện Lương Sơn mới sát nhập vào Hà Nội. Trong tuyển tập
Văn khắc Hán Nôm Hà Nội chúng tôi chỉ
sưu tập, thống kê và tuyển dịch những bài minh văn trên bia đá và chuông đồng của
14 quận huyện của Hà Nội trước ngày sát nhập. Số văn khắc Hán Nôm của các vùng mới nhập về Hà Nội chúng tôi chỉ
tuyển dịch 10 đơn vị văn bản để cung cấp cho độc giả một cảm nhận chung sơ bộ về
văn khắc Hán Nôm Hà Tây cũ, để thấy có những điểm gần gũi giữa các vùng văn hóa
kề cận kinh thành Thăng Long xưa. Toàn bộ số văn khắc của Hà Tây, huyện Mê Linh
và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn Hòa Bình trước đây xin được triển khai vào một dịp
khác để có thể kháo cứu đầy đủ và toàn diện hơn. Sau đây chúng tôi xin điểm qua
một số nét chính về loại hình văn khắc Hán Nôm trên địa bàn Hà Nội.
I. Nguồn tư
liệu văn khắc Hán Nôm trên địa bàn Hà Nội
Tư liệu văn khắc Hán Nôm của Hà Nội mà chúng tôi tiến
hành khảo cứu bao gồm văn khắc trên bia đá và chuông khánh đồng của 9 quận và 5
huyện [1].Chúng
tôi không đề cập đến văn khắc trên gỗ như hoành phi, câu đối, biển gỗ. Nguồn tư
liệu để tiến hành khảo cứu là kho thác bản văn khắc Hán Nôm của Viện Nghiên cứu
Hán Nôm qua các đợt sưu tầm từ đầu thế kỷ XX do viện Viễn Đông bác cổ của Pháp
tại Hà Nội tiến hành và Viện Nghiên cứu Hán Nôm tiếp tục sưu tầm tiếp vào các
năm 2004, 2005, 2006, 2007. Muốn có đầy đủ thông tin về văn khắc Hán Nôm của Hà
Nội bắt buộc chúng tôi phải thu thập tài liệu từ hai nguồn vừa nêu để bổ sung
cho nhau nhằm có được thống kê tổng hợp về toàn bộ số lượng văn khắc Hán Nôm của
Hà Nội.
1. Tư liệu văn khắc Hán Nôm của Hà Nội qua đợt sưu tầm
của viện Viễn Đông bác cổ Pháp đầu thế kỷ XX.
Hiện nay trong kho sách Hán Nôm của Viện Nghiên cứu
Hán Nôm đang bảo quản hơn 50.000 ký hiệu thác bản văn khắc Hán Nôm, trong đó có
22.000 ký hiệu văn bản được viện Viễn Đông bác cổ Pháp tại Hà Nội cho in rập từ
những thập niên đầu của thế kỷ XX; số còn lại do viện Nghiên cứu Hán Nôm bổ
sung trong vài chục năm gần đây. Với 22.000 ký hiệu văn khắc do Viễn Đông bác cổ
in rập tương đương với khoảng 11.000 đơn vị thác bản, đây là toàn bộ số văn khắc
của cả nước từ thời bắc thuộc đến triều Nguyễn [2].
Trong số 11.000 đơn vị văn khắc ấy thì Hà Nội có 1971 đơn vị văn bản, chiếm xấp xỉ 18 %. Chúng tôi đã tiến hành thống kê
toàn bộ số văn khắc Hán Nôm của các quận huyện thuộc Hà Nội trước khi chia tách
thêm những quận mới như quận Cầu Giấy, quận Hoàng Mai, quận Thanh Xuân. Dưới
đây là con số cụ thể của từng quận huyện.
- Quận Ba Đình: 351 đơn vị văn
bản.
- Quận Đống Đa: 207 đơn vị văn
bản.
- Quận Hai Bà
Trưng: 196 đơn vị văn bản.
- Quận Hoàn Kiếm: 207 đơn vị văn
bản.
- Huyện Đông Anh: 146 đơn vị văn bản.
- Huyện Gia Lâm: 189 đơn vị văn
bản.
- Huyện Sóc Sơn (lúc sưu tầm gọi
là huyện Kim Anh): 144 đơn vị văn bản.
- Huyện Thanh Trì: 211 đơn vị văn bản.
- Huyện Từ Liêm: 320 đơn vị văn bản.
Tổng cộng là 1971 đơn vị văn bản.
Như vậy số văn
khắc Hán Nôm của Hà Nội do viện Viễn Đông bác cổ (EFEO) đi in rập từ đầu thế kỷ
XX (từ đây chúng tôi xin gọi là đợt sưu tầm lần thứ nhất) được phân bổ ở tất cả
các quận huyện của Hà Nội, trong đó quận Ba Đình và huyện Từ Liêm chiếm số lượng
nhiều hơn cả.
Về các địa điểm di tích liên quan đến văn khắc Hà Nội
trong đợt sưu tầm lần thứ nhất gồm: chùa, đền, đình, miếu, quán, văn chỉ, từ đường
dòng họ và một số bia liên quan đến cầu và chợ; trong đó số văn khắc được lưu
giữ tại chùa chiếm số lượng nhiều nhất. Ở nội thành Hà Nội cũ, các quận Ba
Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng, chùa là nơi còn lưu giữ được nhiều văn khắc nhất,
tiếp theo là ở đền rồi sau đó mới đến đình. Trường hợp quận Hoàn Kiếm thì lại
khác. Tại đây điểm di tích được nhắc đến nhiều nhât, lưu giữ nhiều văn khắc nhất
là ngôi đền, sau đó mới đến chùa và đình. Điều này phải chăng cho thấy trong
quá trình đô thị hóa ở chốn Kinh kỳ - Kẻ Chợ ngôi đình làng không còn là nơi hội
tụ đông đảo dân chúng như ở các vùng quê, sinh hoạt cộng đồng của dân 36 phố phường
xưa dần dần tập trung về các ngôi đền hoặc chùa. Đặc biệt quận Hoàn Kiếm là
trung tâm buôn bán của Thăng Long với nhiều lớp dân từ các vùng quê đến lập
nghiệp nên họ chú trọng dựng đền miếu, khắc bia để tưởng nhớ các vị tổ nghề cầu
mong được làm ăn phát đạt. Do đó đền miếu được người dân lui tới nhiều hơn,vì
thế họ cũng sẽ đóng góp nhiều hơn để tu bổ qua các thời kỳ. Đó là nguyên nhân dẫn
đến số lượng bia ở đền tăng lên. Cũng cần lưu ý là điểm di tích nào được đông đảo
người dân lui tới thường xuyên thì họ sẽ tham gia đóng góp công đức, tu bổ nhiều
hơn và vì thế mà bia đá được dựng lên để ghi công.
Thống kê về địa điểm di tích còn lưu giữ văn khắc của
bốn quận nội thành cho thấy vào đầu thế kỷ XX (khi Viện Viễn Đông bác cổ Pháp
tiến hành in rập thác bản văn khắc) có ba loại di tích được nhắc đến nhiều nhất:
Đó là: 26 ngôi đình 35 ngôi đền và 59 ngôi chùa. Các
di tích khác như văn chỉ chỉ có 3 và duy nhất có một nhà thờ họ ở quận Hai Bà
Trưng. Ngược lại với chốn đô hội phố phường, tại các huyện ngoại thành Hà Nội
như Gia Lâm, Đông Anh, Từ Liêm, Thanh Trì, Sóc Sơn thì số bia chuông được lưu
giữ tại đình chiếm số lượng thứ hai sau chùa. Điều này cho hay, ở vùng ngoại
thành ngoài sinh hoạt tín ngưỡng tại chùa thì ngôi đình vẫn là trung tâm của cả
làng, tập hợp được nhiều lớp người trong làng. Nhưng Phật giáo vẫn là tôn giáo
thâm nhập vào Việt Nam lâu đời nhất, trở thành một tín ngưỡng gần gũi và quen
thuộc trong mọi tầng lớp nhân dân, vì thế những tư liệu, hiện vật liên quan đến
Phật giáo thường được lưu giữ cẩn thận, chu đáo hơn và xuất hiện nhiều văn bản ở
các ngôi chùa hơn. Một đặc điểm nữa của văn khắc các huyện ngoại thành Hà Nội
là tất cả các huyện đều lưu giữ được những bài minh văn tại một số từ đường
dòng họ. Điều này rất hiếm gặp tại các quận nội thành. Có thể lý giải là nội
thành Hà Nội là nơi mới tụ cư của nhiều thành phần trong xã hội, dù các thế hệ
khác nhau đã ra Thăng Long sinh sống vài ba trăm năm thì từ đường dòng họ ở quê
mới là nơi thờ tự chính. Ngay cả những dòng họ phát đế nghiệp như họ Lê, họ Trịnh
ở Thanh Hóa cũng không là ngoại lệ. Trong bài minh văn trên chuông chùa Hộ Quốc
phường Thanh Lương quận Hai Bà Trưng đã phản ánh rất rõ điều này. Phần ghi tên
những người công đức tiền của để đúc chuông vào năm Cảnh Thịnh 6(1798) người ta
đã ghi hàng loạt tên người kèm theo nơi cư trú hiện tại và nguyên quán như sau:
“Hội chủ thôn Nguyệt Lãng, xã Nhân Lý,
huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên, ở tại xóm Trung Chí thuộc Kinh Đô là Lê Văn
Sách, tự Pháp Cẩn, vợ Lê Thị Cần, hiệu Diệu Nghiêm, cúng 3 quan tiền cổ.
Hội chủ thôn Lý, xã Hoàng Tùng huyện Quỳnh Lưu phủ Diễn Châu,
ở tại xóm Nam Phụ, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên thuộc Kinh Đô là Phan Thị Tầm,
hiệu Diệu Tâm, con gái Trịnh Thị Trường. Tầm quân sứ Vũ Trung Thân; Trương Đình
Khổn, ở tại xóm Nam Phụ, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên thuộc Kinh Đô, cúng 3
quan tiền cổ.
Hội chủ thôn Lục Thuyên, xã Hoằng Phúc, huyện Thượng Phúc, phủ
Thường Tín, ở tại xóm An Thành, huyện Quảng Đức là Tạ Đình Giai, vợ Lê Thị Hai,
cháu con là Nguyễn Thị Nữ, cúng 2 quan tiền cổ.
Hội chủ xã Tam Cách huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, ở tại
xóm An Trung Thượng, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên là Đàm Văn Trữ, vợ Nguyễn
Thị Thục, cúng 2 quan tiền cổ.
Hội chủ thôn Lan Khê, xã Long Phúc, huyện Thạch Hà, phủ Hà
Hoa, ở tại xóm An Trung Thượng, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên là Dương Thị
Sâm, cúng 3 quan tiền cổ”…
Những điều
trên cho thấy dù đã định vị yên ổn tại nơi ở mới chốn kinh kỳ nhưng nguồn gốc
quê hương vẫn là điều họ không quên, họ vẫn giữ nguyên nguồn gốc quê quán khi tên của họ được ghi trên chuông đồng bia
đá. Và từ đây suy ra quê hương mới chính là nơi được xây dựng từ đường dòng họ.
Về niên đại,
số văn khắc Hán Nôm của Hà Nội qua đợt sưu tầm lần thứ nhất chủ yếu có niên đại
từ thế kỷ XVII, XVIII, XIX và những năm đầu thế kỷ XX. Tấm bia cổ nhất của Hà Nội
trong đợt sưu tầm này đặt tại chùa Kim Liên phường Nghi Tàm quận Tây Hồ. Bia có
ba niên đại khác nhau. Đây là tấm bia bốn mặt, chúng ta thường biết đến niên đại
chính là Thái Hòa 3(1445), nhưng kiểm tra trên thác bản thì chúng tôi vẫn còn đọc
được ba niên đại được khắc ở ba mặt khác nhau… Một mặt ghi niên đại là Thái Hòa
1, mặt khác ghi niên đại là Thái Hòa 3, mặt cạnh của bia khắc ghi sắc
thượng với dòng niên đại là ngày 21 tháng 2 năm Mậu Thân, Thuận Thiên 1(1428).
Đây là niên đại tạo dựng văn bản chứ không phải là niên đại ban bố sắc rồi đời
sau cho khắc ghi lại. Chứng cứ là đằng sau dòng ghi ngày tháng là chữ tạo (nguyên văn là Mậu Thân Thuận Thiên nhất niên nhị nguyệt nhị thập nhất nhật tạo).
Như vậy có thể khẳng định niên đại khắc là năm Thuận Thiên 1. Để tránh nhầm lẫn
với các niên hiệu khác, như Thuận Thiên của triều Lý, ở dòng niên đại này còn
ghi thêm là năm Mậu Thân. Đây chính là năm đầu tiên Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế lấy
niên hiệu Thuận Thiên và văn bản này được cho san khắc vào bia đá rất gần thời
gian ngay sau khi Lê Lợi lên ngôi, đóng đô ở Thăng Long. Tuy nội dung của văn bản đã bị mờ hết nhưng chúng tôi cũng đếm được
toàn bộ văn bản gồm 4 dòng với khoảng 30 chữ rất mờ.Chúng tôi có đọc được một số
chữ còn lại trong văn bản này, đó là chức danh Điện thượng khinh xa Đô úy Á hầu nhưng tứ [][][]…,phần tên người bị mờ không đọc được. Nếu tấm
bia này không bị mờ gần hết chữ thì rất có thể chúng ta đã có những thông tin
quý về sự đóng góp tu sửa chùa Kim Liên (lúc đó có tên gọi là chùa Đại Bi) ngay
từ những tháng năm đầu tiên của triều Hậu Lê.Điều này cho thấy ngay sau khi
đánh tan giặc Minh, trở về làm chủ thành Đông Quan, Vua Lê Thái Tổ đã kịp ban bố
những sắc chỉ liên quan đến Phật giáo để an dân sau những năm chiến tranh lọan
lạc. Chùa Kim Liên có vị trí rất đẹp ngay sát Hồ Tây đã may mắn còn lưu giữ được
chút dấu tích văn tự trên bia đá cách chúng ta đến gần 600 năm.
2.Văn khắc Hán Nôm Hà Nội qua đợt sưu tầm lần
thứ hai do Viện Hán Nôm tiến hành vào những
năm đầu thế kỷ XXI.
Trong các năm 2004, 2005, 2006, 2007 Viện Nghiên cứu
Hán Nôm đã đi sưu tầm lại toàn bộ di sản Hán Nôm trên địa bàn Hà Nội. Như vậy
là gần một thế kỷ các tư liệu văn khắc của Hà Nội đã được in rập lại. Thật bất
ngờ là có rất nhiều sự thiếu hụt trong lần sưu tầm đầu thế kỷ XX đã được bổ
sung, số lượng văn khắc đã tăng lên gấp đôi so với lần sưu tầm thứ nhất. Nhưng
cũng đáng tiếc là có một số bia có niên đại sớm lại không còn nữa. Như vậy,sự bổ
sung của hai đợt sưu tầm tư liệu cách nhau một thế kỷ là cực kỳ quan trọng.
Về số lượng: qua đợt sưu tầm trong các năm 2004,
2005, 2006, 2007 toàn bộ số văn khắc của 9 quận 5 huyện Hà Nội đã được in rập với tổng số là 3956 đơn
vị văn bản.
Năm 2004:
Có 5 quận nội thành được sưu tầm, in rập thác bản
văn khắc Hán Nôm, đó là các quận Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Tây
Hồ với 1346 đơn vị văn khắc được in rập.
- Quận Ba Đình có 10 phường được sưu tầm tài liệu với 195 đơn vị văn bản.
- Quận Đống Đa có 16 phường đã sưu tầm tài liệu với 253 văn bản
- Quận Hai Bà Trưng
có 14 phường đã sưu tầm tư liệu Hán Nôm với 302 văn bản văn bản.
- Quận Hoàn Kiếm có 15 phường đã sưu tầm tư liệu
với 243 văn bản.
- Quận Tây Hồ có 9 phường đã
sưu tầm tư liệu với số văn khắc là 353
văn bản.
Năm 2005:
Có 7 quận huyện được sưu tầm tài liệu Hán Nôm, đó là
các quận Cầu Giấy, quận Hoàng Mai, quận Thanh Xuân, huyện Đông Anh, huyện Gia
Lâm, huyện Thanh Trì, huyện Từ Liêm. Tổng số có 1223 đơn vị văn khắc được in rập
trong năm 2005.
Quận Cầu Giấy: có 6 phường được điều tra sưu tầm tài liệu Hán Nôm với
tổng số 173 đơn vị văn bản.
Quận Thanh Xuân: có 3 phường đã
sưu tầm tư liệu với 114 đơn vị văn bản.
Quận Hoàng Mai: có 14 phường đã
sưu tầm tư liệu với 197 đơn vị văn bản.
Huyện Từ Liêm: có 8 xã đã sưu tầm
tư liệu với 149 đơn vị văn bản.
Huyện Đông Anh: có 10 xã được sưu tầm tài
liệu với 185 đơn vị văn bản.
Huyện
Gia Lâm: có 6 xã được sưu tầm tư liệu với 166 đơn vị
văn bản.
Huyện Thanh Trì : có 8 xã sưu tầm tài liệu
với 227 đơn vị văn bản.
Năm 2006:
Có 6 quận huyện với 59 xã phường thuộc quận Long
Biên, huyện Gia Lâm, huyện Đông Anh, huyện Sóc Sơn, huyện Thanh Trì, huyện Từ
Liêm được sưu tầm tư liệu Hán Nôm, có 893 đơn vị văn khắc được in rập.
Quận Long Biên: có 10 phường
được sưu tầm với 160 đơn vị văn bản.
Huyện Đông Anh: có 14 xã được sưu tầm với 151 đơn vị văn bản.
Huyện Gia Lâm: có 10 xã được
sưu tầm tài liệu với 242 đơn vị văn bản
Huyện Sóc Sơn: có 17 xã được sưu tầm tài liệu với 182 đơn vị văn bản
Huyện Thanh Trì: có 7 xã được
sưu tầm tài liệu với 125 đơn vị văn bản.
Huyện Từ Liêm: có một xã là xã Xuân Phương được sưu tầm tư liệu với
33 đơn vị văn bản.
Năm 2007:
Có 20 xã phường thuộc 5 quận huyện được sưu tầm tư
liệu, đó là phường Tân Mai quận Hoàng Mai, phường Cự Khối, phường Phúc Đồng,
phường Thạch Bàn quận Long Biên; xã Đông Dư, xã Kim Lan, xã Văn Đức huyện Gia
Lâm; xã Mai Đình, xã Minh Phú, xã Minh Trí, xã Quang Tiến, xã Tân Dân, xã Thanh
Xuân huyện Sóc Sơn; xã Cổ Nhuế, xã Đại Mỗ, xã Minh Khai, xã Phú Diễn, xã Tây Mỗ,
xã Xuân Đỉnh, xã Xuân Phương huyện Từ Liêm.Tổng số văn bản được in rập trong
năm 2007 là 494 đơn vị.
Phường Tân Mai quận Hoàng Mai
chỉ có 1 bia.
Quận Long Biên: có 3 phường được sưu tầm tư liệu với 47 đơn vị văn bản.
Huyện Sóc Sơn: có 6 xã được sưu tầm tư liệu với 104 đơn vị văn bản.
Huyện Gia Lâm: có 3 xã được sưu tầm tài liệu với 22 đơn vị văn bản
Huyện Từ Liêm: có 7 xã được
sưu tầm tài liệu với 321 đơn vị văn bản.
Như vậy qua đợt sưu tầm lần thứ hai do Viện Nghiên cứu
Hán Nôm tiến hành vào những năm đầu của thế kỷ XXI, tổng số văn khắc của Hà Nội
cũ được in rập về là 3956 đơn vị văn bản. Nếu so sánh với số lượng văn khắc do
Viện Viễn Đông bác cổ Pháp in rập đầu thế kỷ XX thì sau ngót một thế kỷ, số lượng
văn khắc của Hà Nội đã tăng lên gấp đôi. Trong đó, số văn khắc của huyện Từ Liêm
tăng lên đáng kể khi mà diện tích của huyện này đã bị chia tách ra cho các quận
huyện mới thành lập như quận Tây Hồ, quận Cầu Giấy, quân Thanh Xuân. Điều đó
cho thấy có khá nhiều văn khắc Hán Nôm đã bị bỏ sót không in rập trong lần sưu
tầm thứ nhất.
Dưới đây là bảng thống kê số lượng văn khắc hiện còn
của các quận huyện thuộc Hà Nội trước khi được mở rộng diện tích như hiện nay.
STT
|
Quận/huyện
|
2004
|
2005
|
2006
|
2007
|
Tổng cộng
|
1
|
Ba Đình
|
195
|
0
|
0
|
0
|
195
|
2
|
Hoàn Kiếm
|
243
|
0
|
0
|
0
|
243
|
3
|
Đống Đa
|
253
|
0
|
0
|
0
|
253
|
4
|
Hai Bà Trưng
|
302
|
0
|
0
|
0
|
302
|
5
|
Tây Hồ
|
353
|
0
|
0
|
0
|
353
|
6
|
Cầu Giấy
|
0
|
173
|
0
|
0
|
173
|
7
|
Thanh Xuân
|
0
|
114
|
0
|
0
|
114
|
8
|
Hoàng Mai
|
0
|
197
|
0
|
1
|
198
|
9
|
Long Biên
|
0
|
0
|
160
|
47
|
207
|
10
|
Gia Lâm
|
0
|
166
|
242
|
22
|
430
|
11
|
Đông Anh
|
0
|
185
|
151
|
0
|
336
|
12
|
Sóc Sơn
|
0
|
0
|
182
|
104
|
286
|
13
|
Thanh Trì
|
0
|
125
|
227
|
0
|
352
|
14
|
Từ Liêm
|
0
|
149
|
33
|
321
|
503
|
15
|
Tổng cộng
|
1346
|
1223
|
893
|
494
|
3956
|
Theo bảng thống kê trên có 6 quận huyện có số lượng
văn khắc nhiều nhất, trên 300 văn bản. Đó là huyện Từ Liêm: 503 văn bản, huyện
Gia Lâm 430 văn bản, quận Tây Hồ 353 văn bản, huyện Thanh Trì 352 văn bản, huyện
Đông Anh 336 văn bản, quận Hai Bà Trưng 302 văn bản. Số văn bản tăng lên khá
nhiều như vậy đã phản ánh có rất nhiều
văn khắc Hán Nôm đã bị bỏ sót hoặc cố ý không in rập trong đợt sưu tầm lần thứ
nhất. Số văn bản này phần lớn có niên đại nhà Nguyễn và đều tập trung ở các
ngôi chùa. Liên quan đến việc bỏ sót, không in rập những văn bản có niên đại muộn
đầu thế kỷ XX,có hai nguyên nhân chính:
-
Một là do chủ trương lúc bấy giờ nếu in rập văn bản
có niên đại sớm thì sẽ được trả thù lao cao hơn, (ỏ Hà Nội niên đại sớm là niên
đại Hậu Lê, tập trung vào giai đoạn Lê trung hưng thế kỷ XVII, XVIII) nên có
khá nhiều bia Nguyễn được làm giả niên đại Hậu Lê trong quá trình in rập [3].
Vì thế người đi sưu tầm lúc bấy giờ không chú trọng đến những văn bản có niên đại
muộn.
-
Hai là, có nhiều bia xuất hiện trong niên hiệu cuối
cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại, những bia này có mặt sau khi những đợt sưu tầm
đầu thế kỷ XX diễn ra, do vậy đã không thể có trong đợt sưu tầm lần thứ nhất.
Tất nhiên có thể vẫn có những văn bản niên đại sớm
nhưng vẫn bị bỏ sót không in rập trong lần sưu tầm đầu thế kỷ XX. Lại có những
hiện vật chưa được phát lộ, sau này mới xuất hiện như quả chuông đồng tại xã Nhật
Tảo huyện Từ Liêm niên đại Càn Hòa 6( 948)[4]; nhưng
cũng có những bia đá vẫn tồn tại cùng các điểm di tích từ đầu thế kỷ XX đến nay
song vẫn không được in rập. Đó là bia Nga
My tự bi đặt tại chùa Nga My phường Hoàng Văn Thụ quận Hoàng Mai, bia được
tạo dựng vào năm Hồng Đức 28 (1497). Những cứ liệu mới phát hiện như thế cho
phép chúng ta hy vọng tại Hà Nội vẫn còn ẩn tàng đâu đó những bài minh văn quý
hiếm trên bia đá chuông đồng trong dân
gian chưa được phát lộ.
Trong đợt sưu tầm do Viện Nghiên cứu Hán Nôm tiến
hành, văn khắc có niên đại sớm nhất của Hà Nội là minh văn trên chuông Nhật Tảo
niên đại Càn Hòa 6 (948). Tiếp theo vẫn là minh văn trên bia chùa Đại Bi (chùa
Kim Liên quận Tây Hồ) với niên đại Thuận Thiên như chúng tôi đã trình bày ở
trên và tư liệu mới phát hiện là minh văn được tạo dựng năm Hồng Đức 28 tại
chùa Nga My phường Hoàng Văn Thụ quận Hoàng Mai. Tuy nhiên, minh văn trên
chuông Nhật Tảo huyện Từ Liêm được Phạm
Văn Thắm phát hiện và công bố năm 1987 lại không thấy xuất hiện trong đợt sưu tầm
đầu thế kỷ XX. Có lẽ đây là hiện vật quý hiếm nên không dễ tiếp cận. Nhưng minh
văn trên quả chuông này đã được in rập về Viện Nghiên cứu Hán Nôm hơn hai chục
năm trước và đã được công bố trong Văn khắc
Hán Nôm Việt Nam từ Bắc thuộc đến thời Lý [5],
do đó chúng tôi xếp bài minh văn này trong đợt sưu tầm lần thứ hai. Về niên đại
của các văn bản trong đợt sưu tầm lần thứ hai chủ yếu là niên đại triều Nguyễn.
Tiến hành kiểm tra, thống kê niên đại của văn khắc Hán Nôm của 5 quận nội thành
là Ba Đình, Tây Hồ, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng cho thấy hầu hết đều là
văn bản triều Nguyễn. Chúng tôi chưa có điều kiện để thống kê lại toàn bộ niên
đại của tư liệu văn khắc Hán Nôm Hà Nội nhưng với con số của 5 quận nội thành
đã cho chúng ta biết ở trung tâm Hà Nội hiện nay số văn khắc có niên đại trước
thời Nguyễn chỉ chiếm chưa đến 10%. Cụ thể con số này ở 5 quận trên như sau:
- Quận Đống Đa: có 193 đơn vị văn khắc thời Nguyễn,
22 đơn vị văn khắc thuộc triều Lê và Tây Sơn ( ở đây không bao gồm số bia Văn
Miếu vì bia Văn Miếu không được sưu tầm lần hai), 23 đơn vị văn bản không ghi
niên đại, 7 đơn vị văn bản có niên đại Việt Nam dân chủ cộng hòa, tức sau năm
1945 đến trước năm 1975.
- Quận Tây Hồ: có 226 đơn vị văn khắc thời Nguyễn,
44 đơn vị văn khắc niên đại Tây Sơn và triều Lê, 73 đơn vị văn bản không ghi niên
đại, 10 văn bản niên đại từ sau năm 1945 đến năm 2000.
- Quận Hai Bà Trưng: có 241 đơn vị văn khắc triều
Nguyễn, 9 đơn vị văn bản niên đại triều Lê, 45 đơn vị văn bản không ghi niên đại,
7 đơn vị văn khắc có niên đại Việt Nam dân chủ cộng hòa.
- Quận Hoàn Kiếm: có 181 đơn vị văn khắc triều Nguyễn,
14 đơn vị văn bản triều Lê, 31 văn bản không ghi niên đại, 17 văn bản có niên đại
Việt Nam dân chủ cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Quận Ba Đình có 123 đơn vị văn khắc triều Nguyễn,
7 văn bản triều Lê và Tây Sơn, 4 văn bản Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Những cứ liệu trên là minh chứng rõ ràng về tình trạng
của văn khắc Hán Nôm Hà Nội hiện nay. Hà
Nội trung tâm đã thưa vắng khá nhiều những văn bản có niên đại sớm, trong khi
đó lại xuất hiện những văn bản mới không những sau năm 1945, 1975 mà ngay đầu
thế kỷ XXI vẫn có những bài minh văn viết bằng chữ Hán được khắc trên bia và
chuông ở ngay các quận nội thành.
Chúng tôi đưa ra những thông tin khái quát về diện mạo
văn khắc Hán Nôm Hà Nội qua hai đợt sưu tầm cách nhau ngót một thế kỷ, nhằm
cung cấp cho độc giả những thông tin cơ bản về loại hình tư liệu văn khắc Hán
Nôm trên địa bàn Hà Nội cũ và thực trạng hiện nay của loại hình văn bản này
trên các điểm di tích của toàn thành phố.
II. Giá trị của văn khắc Hán Nôm trong việc
nghiên cứu sự phát triển của Thăng Long – Hà Nội
1. Một số yêu
cầu tuyển dịch văn khắc Hán Nôm Hà Nội
Với một số lượng văn khắc rất nhiều qua hai đợt sưu
tầm lớn nên trong một thời gian hạn hẹp, chúng tôi không dễ để có thể giải mã
được nhiều văn bản. Vì thế, trong lần tuyển dịch này chúng tôi đã chọn dịch 117 văn bản mới và có tham khảo kế thừa thêm
18 bản dịch cũ trong Tuyển tập văn bia Hà Nội xuất bản cách đây 30 năm.Trong lần
tham khảo này, hầu hết chúng tôi chỉ kế thừa một phần bản dịch cũ,còn lại đều bổ
sung thêm các phần dịch mới cũng như phần phiên âm. Như vậy trong Tuyển tập Văn khắc Hán Nôm Hà Nội chúng
tôi sẽ giới thiệu 135 bài minh văn trên cả bia đá và chuông đồng. Tuy số
lượng đó so với tổng số văn khắc Hán Nôm hiện còn của Hà Nội là rất khiêm tốn,
nhưng với tập thể nhóm công trình thì đó là một sự cố gắng rất lớn. Chúng tôi
chủ trương dịch các văn bản mới chưa được công bố để có thể đóng góp được nhiều
tư liệu nghiên cứu về Thăng Long. Những văn bia đã được tuyển dịch trong văn
bia Hà Nội trước đây là những bài văn bia tiêu biểu và đặc sắc, có thể tham khảo
được rất nhiều. Do đó chúng tôi chỉ tổ chức dịch lại một số văn bản chưa được dịch
hoàn chỉnh. Bởi trong lần tuyển dịch đầu tiên về văn
bia Hà Nội không có phần phiên âm và các tác giả chỉ tập trung dịch phần bài ký
có ý nghĩa trọng tâm còn phần khắc ghi tên người, chức tước, số tiền bạc, ruộng
đất đóng góp đã bị lược bỏ; thậm chí rất nhiều bia bị lược bỏ phần ghi tên người đã tham gia
định hình văn bản như người giám sát việc tạo dựng bia, người viết chữ, nhóm thợ
khắc. Thực chất, những dòng ghi tên người đóng góp hưng công xây dựng các công
trình như đình,chùa, đền miếu...đã cho chúng ta biết rất rõ các tầng lớp dân Hà
Nội và các vùng phụ cận đã có những quan tâm như thế nào trước những việc công
ích của cả cộng đồng. Những dòng tên người cùng chức tước, giới tính, quê quán
của họ là những tư liệu để điều tra xã hội học rất hữu ích. Chính vì vậy chúng
tôi đã cho dịch bổ sung phần bỏ sót đó. Ngoài ra, chúng tôi cũng tuyển thêm những bài minh văn có trên địa bàn
Hà Nội đã được dịch và công bố như bài minh văn trên chuông Nhật Tảo huyện Từ
Liêm hoặc minh văn trên chuông Thanh Mai Hà Tây cũ. Chúng tôi sẽ có chú thích,
dẫn nguồn tư liệu ở cuối mỗi bài tuyển chọn. Để có được số lượng các bài minh
văn tuyển dịch, chúng tôi đã tiến hành khảo cứu trên toàn bộ gần 6000 đơn vị
văn bản văn khắc của Hà Nội cũ. Sau đó chúng tôi mới chọn lựa được 135 văn bản
để dịch. Những tiêu chí để lựa chọn của chúng tôi dựa trên một số nguyên tắc
sau:
-
Chọn theo địa danh quận huyện, mỗi quận huyện có thể
có từ 5 đến 10 văn bản. Chúng tôi không thể chọn theo cấp xã phường vì có quá
nhiều xã phường. Tất nhiên có thể có những quận hoặc huyện được chọn nhiều hơn
hoặc ít hơn tùy theo nội dung của văn bản. Nếu trong Tuyển tập văn bia Hà Nội đã xuất bản trước đây chỉ công bố phần dịch
nghĩa và một phần chữ Hán của các bài văn bia thuộc bốn quận nội thành cũ, thì
lần này chúng tôi có kế thừa phần nào thành quả của những người đi trước nhưng
đã mở rộng ra rất nhiều lần. Phạm vi không gian đã vươn ra đến tất cả các quận
huyện trước ngày sát nhập, cũng không phải chỉ có văn bia mới được tuyển dịch
mà chúng tôi đã tuyển dịch một số minh văn trên các chuông đồng và những bài
minh văn này thật sự rất hay, cho chúng ta biết những thông tin về Thăng Long
trong sự chuyển giao từ chế độ Lê Trịnh sang Tây Sơn.
-
Chọn theo nội dung phản ánh. Chúng tôi muốn đưa vào Tuyển tập Văn khắc Hán Nôm Hà Nội lần
này những bài minh văn có nội dung hay, đặc sắc, đề cập đến nhiều các hoạt động
kinh tế, văn hóa, xã hội của Thăng Long xưa. Những văn bản đó có thể nói về việc
tạo dựng đình, chùa, đền miếu, hoặc tu sửa
văn chỉ, xây từ đường dòng họ, cũng có thể là văn bản về việc xây cầu, dựng chợ
và những việc liên quan đến đời sống kinh tế của nhân dân Hà Nội trong cả một
chặng đường dài phát triển, từ thời Trung đại, Cận đại đến hiện đại. Mục đích
tuyển chọn của chúng tôi là muốn có đại diện của tất cả các văn bản đặt tại các
điểm di tích vừa nêu.
-
Chọn theo niên đại. Ưu tiên văn bản có niên đại sớm
để dịch trước, như thế không có nghĩa là văn bản niên đại muộn không được quan
tâm. Trong tuyển dịch lần này chúng tôi sẽ chọn phần lớn những văn bản có niên
đại Hậu Lê, nhưng các đại diện văn bản của triều Tây Sơn và triều Nguyễn đều có
trong số tuyển dịch của chúng tôi.
-
Một điều nữa cũng là nguyên tắc tuyển dịch của chúng
tôi, đó là chỉ chọn dịch những văn bản còn thác bản tức những bản in rập qua
các đợt sưu tầm, hoặc những bài minh văn đó vẫn còn hiện diện trên bia chuông.
Những bài minh văn không còn thác bản, chỉ còn trong ghi chép ở các thư tịch chúng
tôi không đưa vào tuyển dịch. Chẳng hạn như bia Nhất Trụ bi ký được Tuyển tập văn bia Hà Nội giới thiệu, nhưng khi
chúng tôi điều tra lại tư liệu thì văn bia này chỉ là một văn bản chép tay trên
giấy thường, không phải là thác bản in rập trên bia đá, do vậy chúng tôi đã loại
trừ không tuyển dịch. Bởi hiện tại số lượng văn khắc Hán Nôm Hà Nội còn rất nhiều,
rất phong phú nên chỉ tập trung giới thiệu những văn bản hiện còn cũng vẫn là
chưa đủ.
-
Bia Văn Miếu là một phần của văn khắc Hán Nôm Hà Nội nhưng chúng tôi cũng không tuyển dịch. Bởi tuy cũng là loại hình văn khắc trên
bia đá của Hà Nội nhưng bia Văn Miếu có đặc thù rất riêng biệt. Đây là loaị bia
đề danh tiến sĩ của cả nước từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII. Do đó 82 bia
Văn Miếu Hà Nội đã được dịch và xuất bản rất nhiều lần, trở thành những chuyên
khảo riêng biệt và trong chương trình sách kỷ niệm nghìn năm Thăng Long Hà Nội,
bia Văn Miếu cũng được tái xuất bản thành bộ sách riêng. Vì thế toàn bộ bia Văn
Miếu Hà Nội cũng không nằm trong sự tuyển chọn của chúng tôi, mặc dù trong Tuyển tập văn bia Hà Nội đã xuất bản năm
1978, các tác giả cũng tuyển dịch tới 9 bia Văn Miếu trong tổng số 63 văn bia
được giới thiệu.
-
Bên cạnh những bài minh văn trên địa bàn Hà Nội cũ,
theo yêu cầu của Nhà xuất bản Hà Nội trong chương trình in sách kỷ niệm nghìn
năm Thăng Long Hà Nội, các tác giả phải cập nhật thêm những thông tin về những
tư liệu ở vùng đất mới sát nhập về Hà Nội. Vì vậy, chúng tôi tuyển thêm vào đây
10 bài minh văn trên đất Hà Tây cũ, trong đó có 4 bài được tuyển lại trong Văn bia Hà Tây nhưng nhóm công trình đã
bổ sung phần chữ Hán và phiên âm, trong Văn
bia Hà Tây trước đó chưa có phần này; đồng thời, chúng tôi cũng tuyển bài
minh văn trên chuông Thanh Mai – Hà Tây cũ đã được Đinh Khắc Thuân phiên âm dịch
nghĩa. Số văn bản còn lại là các bài văn bia có niên đại Lê sơ do Phạm Thị Thùy
Vinh và Trần Thị Kim Anh trong nhóm công trình Văn bia Lê sơ của phòng Nghiên cứu Văn khắc Hán Nôm, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm thực hiện. Mục đích của việc đưa thêm một số văn khắc thuộc Hà Tây cũ để
bạn đọc có cảm nhận thêm về văn khắc Hán Nôm của Hà Nội mở rộng hôm nay.
2.Giá trị nội
dung của văn khắc Hán Nôm Hà Nội
1. Cung cấp
thông tin về địa danh hành chính
Giá trị dễ nhận thấy trong tư liệu văn khắc Hán Nôm
là cung cấp thông tin về những thay đổi địa danh hành chính. Đáng tiếc là văn
khắc Hán Nôm của Hà Nội còn lại nhiều nhất chỉ tập trung trong ba thế kỷ XVII,
XVIII, XIX và nửa đầu thế kỷ XX nên những địa danh hành chính được phản ánh nhiều
nhất cũng chỉ có trong khoảng thời gian đó. Nhưng chỉ chừng ấy thôi cũng thực sự
quý để chúng ta nghiên cứu địa danh và các vấn đề xã hội khác của Hà Nội bởi
các bộ sách địa chí ghi chép về Hà Nội hiện còn chỉ là nguồn tài liệu thời Nguyễn
nhưng cũng là Nguyễn muộn. Chỉ một dòng địa danh được ghi trong minh văn chuông
Nhật Tảo thế kỷ X “ Giao Chỉ huyện Hạ Từ Liêm thôn” đã góp phần xác nhận quả
chuông đó đích thực là của người Việt ở vùng Hà Nội ngày nay. Cũng qua bài minh
văn này lần đầu tiên chúng ta được biết đến địa danh Hạ Từ Liêm thôn, chúng ta mới chỉ biết đến tên huyện Từ Liêm còn địa
danh thôn Hạ Từ Liêm thì chỉ xuất hiện
trong bài minh văn cách chúng ta hơn 10 thế kỷ và ngày nay không còn địa danh
này. Tên huyện Giao Chỉ vốn là vùng đất huyện Long Biên thời Hán [6] được
đặt từ năm 590 (đời Tùy Khai Hoàng năm thứ 10) nhưng đến năm 948 là năm có bài
minh văn trên chuông, tức sau gần 400 năm thì tên huyện Giao Chỉ vẫn giữ
nguyên.
Hoặc trên
minh văn chùa Nga My được khắc năm Hồng Đức 28(1497) đã ghi lại địa danh hành
chính của huyện Thanh Trì ngày nay là huyện Thanh Đàm và xã Hoàng Mai thuộc huyện
ấy “ Thanh Đàm huyện Hoàng Mai xã Nga My tự...” Ngày nay tên xã Hoàng Mai trước
kia đã đổi thành tên quận, chùa Nga My vẫn giữ nguyên tên cũ nhưng đã thuộc phường
Hoàng Văn Thụ quận Hoàng Mai. Đây là tư liệu niên đại Lê sơ duy nhất còn lại của
Hà Nội ghi lại địa danh huyện Thanh Đàm. Cũng như vậy,chúng ta sẽ biết các địa
danh hành chính từ cấp phủ, quận, huyện đến tổng, xã, phường, trại, sở,
giáp...thông qua các bài minh văn. Chẳng hạn, phường Nhật Tân ngày nay xưa kia
được gọi là phường Nhật Chiêu thuộc huyện Quảng Đức phủ Phụng Thiên. Chúng tôi
chưa xác định thời gian chính xác phường Nhật Chiêu có từ bao giờ, nhưng trên
văn bia niên đại Hoằng Định 13(1612), tên địa danh hành chính Nhật
Chiêu phường thuộc địa phận huyện Quảng Đức phủ Phụng Thiên đã được khẳng
định. Địa danh này được giữ nguyên từ phường, huyện, phủ và kéo dài từ năm Hoằng
Định 13(1612) đến năm Quang Trung 4(1871),tức là hơn 250 năm. Đến năm Gia Long
16(1817) tên phường vẫn giữ là Nhật
Chiêu nhưng tên huyện và phủ đã thay đổi. Không còn huyện Quảng Đức phủ Phụng
Thiên nữa mà thay vào đó là huyện Vĩnh Thuận phủ Hoài Đức, địa danh này được phản
ánh trên bia cho tới năm Đồng Khánh 3(1888). Đến năm Thành Thái 3 (1892), thay
vì đơn vị hành chính là phường thì đã đổi thành xã và xã Nhật Tân đã thay thế cho tên gọi phường Nhật Chiêu trước đây, xã Nhật Tân thuộc tổng Thượng huyện
Hoàn Long tỉnh Hà Đông. Lúc này có thêm đơn vị tổng, tên phường, huyện đã thay
đổi.Xã Nhật Tân lại thuộc huyện Hoàn
Long tỉnh Hà Đông.Một năm sau đó, Thành Thái 4(1892) lại có tên là phường Nhật Tân thuộc tổng Thượng huyện Vĩnh Thuận phủ Hoài Đức. Năm Thành Thái 8
(1897) và Thành Thái 13(1902) lại chuyển thành xã Nhật Tân tổng Thượng huyện Hoàn Long thuộc Hà Thành. Năm Duy Tân
Mậu Thân (1908) lại gọi là phường Nhật
Tân tổng Thượng huyện Hoàn Long. Năm Khải Định 3(1918) ngoài tên phường Nhật Tân tổng Thượng huyện Hoàn
Long thì địa danh hành chính cấp tỉnh lại có sự thay đổi, thay vì thuộc Hà
Thành, nó lại thuộc tỉnh Hà Đông. Địa
danh phường Nhật Tân tổng Thượng huyện Hoàn Long tỉnh Hà Đông được ghi lại đến
năm Khải Định 8 (1923). Năm Khải Định 10(1925) vẫn là phường Nhật Tân tổng Thượng huyện Hoàn Long nhưng lại thuộc Hà Thành. Năm Bảo Đại 2(1927) đến năm Bảo
Đại 8 phường Nhật Tân vẫn thuộc tổng Thượng
huyện Hoàn Long nhưng đơn vị cấp tỉnh lại là tỉnh Hà Đông.
Như vậy, tên các đơn vị hành chính từ phường xã đến
huyện tỉnh đã thay đổi khá nhiều, đặc biệt dưới triều Nguyễn . Sự tách ra nhập
vào đó có lẽ chỉ văn bia mới phản ánh kịp thời, bởi lẽ bia đá hoặc chuông đồng
được dựng lên trong các thời điểm khác nhau nên đã phản ánh trung thực những biến
đổi của xã hội đương thời. Đó là những trang sử được viết trên đá ở các thôn,
trại, phường xã... Đây là những cứ liệu xác thực nhất giúp các nhà khoa học có
thể đối chiếu so sánh với các tài liệu viết tay để kiểm chứng. Căn cứ vào tên gọi
các phủ huyện xã phường... chúng ta có thể xác định niên đại tương đối cho văn
bản.
Những tên gọi khác tuy không phải là địa danh hành
chính như đàn Xã Tắc, đàn Nam Giao, chùa Đại Bi, chùa Thanh Nhàn, chùa Càn
An...được ghi lại trong văn bia đã giúp cho chúng ta có thể định vị được vị trí
cũ của những di tích ấy. Cách đây vài năm, Hà Nội từng xôn xao vì phát hiện ra
nền móng của đàn Xã Tắc và người ta cũng bán tín bán nghi không biết di chỉ đó
liệu có đúng là nền móng thật của đàn Xã Tắc hay không? Các nhà chuyên môn đã
tranh luận rất nhiều về vấn đề này nhưng chưa tìm thấy những cứ liệu thuyết phục
vì không có tư liệu nào ghi rõ ràng. Tuy nhiên, trong quá trình khảo cứu tư liệu
văn khắc Hán Nôm của Hà Nội, chúng tôi thấy có hai văn bia nhắc đến địa điểm của đàn Xã Tắc.
Bia Cao Sơn
Tây Hưng miếu tạo năm Chính Hòa triều Lê (1680-1705) đặt tại đình Đông Các
phường Ô Chợ Dừa đã mô tả về vị trí của ngôi đình trong sự tham chiếu với các
điểm di tích xung quanh “Đình này vị trí tại huyện Quảng Đức phủ Phụng Thiên, nền
đắp trên giáp Đông Các phường Thịnh Quang, vừa hưởng được dư khí của kinh đô
Thăng Long vừa trấn giữ trường thành Đại La. Bên tả, về phiá đông dòng nước uốn
quanh, đình này đứng song song với đàn Xã Tắc. Bên hữu, về phiá tây dãy
núi bao bọc, đình này cao xấp xỉ chùa Thanh Nhàn”.
Bia thứ hai cũng đặt tại đình Đông Các có tên là Nghĩa Phê tạo đình bi ký, bia tạo dựng
năm Chính Hòa 13(1692) cũng cho biết “ Nguyên xưa ngôi đình này nền đức rộng
rãi, thềm phúc sang ngời. Bên phải đối diện chùa Thanh Nhàn, bên trái là đàn
Xã Tắc đứng sừng sững...” Như vậy, qua sự mô tả về vị trí của đình Đông
Các với hai điểm di tích gần đó là chùa Thanh Nhàn và đàn Xã Tắc chúng ta có thể
xác định được đàn Xã Tắc nằm ở địa điểm rất gần với đình Đông Các và chùa Thanh
Nhàn. Hiện chùa Thanh Nhàn vẫn còn, đình Đông Các tuy bị phá hủy và thu hẹp lại
trong thời kỳ Pháp thống trị nhưng nay vẫn ở trên nền cũ, do đó để tìm lại vị
trí xác thực của đàn Xã Tắc chúng ta có thể dựa trên sự mách bảo của những
thông tin này. Theo chúng tôi biết, hai văn bia trên là cứ liệu duy nhất của thế
kỷ XVII còn lại đã cho chúng ta biết đến cuối thế kỷ XVII đàn Xã Tắc vẫn còn rất
bề thế và là một trong những điểm nhấn của kinh thành Thăng Long.
2. Phản ánh
tính chân xác của sự kiện,sự việc được nêu trong văn bản.
Văn khắc nói chung, văn khắc Hán Nôm nói riêng có một
giá trị mà không có bất kỳ loại hình tư liệu nào có thể có được. Đó là tính
chân xác của sự kiện, sự việc nêu trong văn bản. Trên chất liệu cứng như đá và
đồng người ta không dễ dàng có thể tẩy xóa, viết thêm thông tin. Khi định hình
văn bản văn khắc phải tuân thủ các bước nghiêm ngặt. Đó là phải có người soạn
văn, chọn người chữ đẹp để viết lấy mẫu
và cuối cùng là mời thợ khắc theo mẫu chữ đã viết để khắc lên đá, lên đồng. Do
có đặc điểm như vậy nên loại hình văn khắc Hán Nôm luôn được coi là những tư liệu
quý, đáng tin cậy và không thể ngụy tạo. Đó là sản phẩm có tính bền vững rất
cao, chịu được sự thử thách của thời gian. Trong khi các loại thư tịch trên giấy
có thể bị cháy hoặc ẩm mục thì minh văn trên đá, trên đồng đã có thể “trơ gan
cùng tuế nguyệt”.
Thăng Long - Hà Nội là vùng địa linh nhân kiệt,
Thăng Long là nơi định đô của quốc gia Đại Việt trong suốt bảy thế kỷ, bắt đầu
khi Lý Công Uẩn dời đô từ Trường Yên, Hoa Lư ra thành Đại La năm 1010 và tên gọi
Thăng Long bắt đầu xuất hiện từ đó. Từ khi nhà Nguyễn nắm quyền điều hành đất
nước, Thăng Long không còn là kinh đô nữa mà đã chuyển sang là một đơn vị tỉnh
thành. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay Hà Nội là thủ đô của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với một vị trí địa lý lịch sử đặc biệt như vậy,
những di sản văn hóa thành văn nói chung, tư liệu văn khắc Hán Nôm nói riêng của
Hà Nội đã phản ánh nhiều mặt về đời sống xã hội, về văn hóa tín ngưỡng, về hoạt
động chung của cộng đồng. Đó là những giá trị đặc sắc của Thăng Long Hà Nội
trong cả thiên niên kỷ.
Thăng Long đã có lịch sử ngàn năm tuổi với những di
tích gợi nhớ về một thời dựng đô kiến quốc như chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột,
tháp Báo Thiên... nhưng Thăng Long cũng từng là chiến địa trong các cuộc chiến
tranh do ngoại xâm hoặc nội chiến trong cả chặng đường phát triển đi lên của
mình. Do đó Thăng Long đã bị tàn phá rất nhiều, những di sản văn hóa của cha
ông để lại đã bị cướp phá, hủy diệt. Một trong những ảnh hưởng nặng nề nhất là
sau 20 năm giặc Minh sang xâm chiếm nước ta tất cả thư tịch cổ, hiện vật quý hiếm
trong đó có bia đá chuông đồng đã bị chúng đập phá, tiêu hủy và cướp mang về nước.
Vì thế những bia, chuông và thư tịch còn lại đến ngày nay của Hà Nội đều chỉ có
niên đại chủ yếu từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX. Quả chuông Nhật Tảo với bài
minh văn niên hiệu Càn Hòa nhà Nam Hán là một sản phẩm văn hóa hiếm hoi của Hà
Nội trước thời kỳ độc lập tự chủ còn sót lại. Ngoại trừ minh văn trên chuông Nhật
Tảo có niên đại hơn 1000 năm, số minh
văn còn lại có niên đại từ thế kỷ XV trở về sau [7].
Trong cả hai đợt sưu tầm cách nhau một thế kỷ, Hà Nội không có văn khắc Hán Nôm
thời Lý – Trần, chỉ có bắt đầu từ thời Lê sơ, Mạc, Lê trung hưng, Tây Sơn đến
triều Nguyễn. Điều này đã chứng minh phần nào sự khốc liệt của chiến tranh ngoại
xâm đầu thế kỷ XV, vì thế những hiện vật thư tịch trước thế kỷ XV của Hà Nội gần
như bị xóa sạch. Nhưng trong đợt sưu tầm lần thứ hai, tại huyện Gia Lâm có một
văn bia ghi niên đại là Trần triều Quý Hợi
lục nguyệt thập nhất nhật song đọc trên văn bản thì chúng tôi có thể khẳng
định đây là văn bản của triều Lê. Bởi lẽ dòng địa danh thôn Kim Âu xã Lê Xá huyện Gia Lâm phủ Thuận An ghi trong văn bia
không phải là địa danh hành chính thời Trần. Thời Trần, huyện Gia Lâm thuộc lộ
Bắc Giang, lúc đó chưa có phủ Thuận An. Phủ Thuận An là một trong 4 phủ thuộc xứ
Kinh Bắc thời Lê. Tên gọi này xuất hiện
sau khi Vua Lê Thánh Tông cho định sửa lại bản đồ, lập ra 12 Thừa tuyên.
Văn bia chúng tôi đang đề cập tuy không phải là minh văn thời Trần, nhưng đã khắc
ghi lại nội dung của văn bia Trần và rất có thể phiến đá khắc bia vẫn là đá cũ
nhưng do chữ bị mờ nên được khắc lại và vẫn giữ nguyên niên đại cũ. Nội dung
văn bia đề cập đến một sự việc xảy ra vào ngày 11 tháng 6 năm Quý Hợi triều Trần
(có đến 3 năm Quý Hợi thuộc triều Trần, đó là năm 1263,1323 và 1383, không rõ sự
việc được nêu trong văn bia xảy ra vào năm Quý Hợi nào?). Đó là trận lụt lớn mà
văn bia miêu tả là “hồng thủy” phá vỡ đê
tràn vào địa phận xứ Cừ Tâm thôn Kim Âu. Cũng thời gian đó trong thôn có có cây
gạo nở rất nhiều hoa, được coi là điềm lành
và trong làng xuất hiện một linh vât giống như hình rồng cuộn được đặt
tên là Linh Lang Vũ nổi lên trên mặt nước để trấn giữ. Dân làng đã lập miếu,
ngày đêm thờ phụng để ghi nhớ công ơn che chở cho dân vượt qua thiên tai. Loại
bỏ những yếu tố dị đoan, qua văn bia này cho chúng ta biết vào năm Quý Hợi triều
Trần đã có một trận lụt rất lớn, tràn vào phá vỡ làng xóm của thôn Kim Âu. Để
chống trả với sự tàn khốc của thiên nhiên lúc bấy giờ, con người cũng chỉ biết
trông chờ vào sự may rủi ngẫu nhiên của tự nhiên. Hình ảnh một linh vật giống
hình rồng nổi lên trên mặt nước để che
chắn cho dân làng trước lũ lụt thật sự rất huyền ảo, nhưng có lẽ cũng phản
ánh phần nào sự thật mà chúng ta chưa có điều kiện để bóc tách hiểu rõ. Đây là
văn bia có nội dung phản ánh sự việc xảy ra vào thời Trần vì thế cũng là văn
bia sớm của Hà Nội.
Chùa Trấn Quốc là ngôi chùa cổ nhất của Hà Nội nhưng
văn bia còn lại sớm nhất là bia Trấn Quốc
tự bi ký soạn năm Dương Hòa 5(1639). Văn bia cho biết “chùa được xếp vào
hàng thứ tư của nước Nam. Chùa xưa lập ở ngoài bãi giáp ven sông, người trong
phường sùng mộ đạo Phật, say mến cảnh thiền. Khoảng năm Hoằng Định 16(1615)
chùa được dời về phía trong đê, chiếm gò đất Kim Ngư nơi có phong cảnh đẹp.
Niên hiệu Vĩnh Tộ 6(1624) quan trên cho phép phía ngoài chân đê được thành lập
xóm làng, làm nhà ở, trồng trọt. Xung quanh làng thì đào hào, bên trong đắp những
con đường nhỏ đi lại. Bản phường noi theo người thiện thưở xưa nên cũng là một
làng có phong tục thuần hậu. Nay đắp cao nền chùa cũ, mở rộng quy mô, trước
tiên xây dựng các tòa thượng điện, thiêu hương, tiền đường và cửa hậu...” Văn
bia này do một vị Trạng nguyên đỗ khoa Đinh Sửu (1637) là Nguyễn Xuân Chính soạn.
Qua văn bia chúng ta biết được ngôi chùa xưa ở gần bãi sông Hồng, đến đầu thế kỷ
XVII mới chuyển về vị trí hiện nay và đã trải qua nhiều lần tu bổ. Chùa Trấn Quốc
tương truyền là được xây dựng từ thế kỷ thứ VI dưới thời Lý Nam Đế nhưng nội
dung văn bia cổ nhất của chùa không nhắc lại sự kiện này, chỉ nói chùa được xếp
vào hàng thứ tư của nước Nam.
Những di tích được tạo dựng từ Vương triều Lý như
chùa Một Cột, chùa Lý Quốc Sư, chùa Chiêu Thiền, đền thờ Hai Bà Trưng tuy hiện
nay vẫn còn nhưng đã trải qua rất nhiều lần trùng tu, xây dựng lại. Những văn bản
còn lưu lại trong các di tích này cũng là những văn bản ra đời muộn nhưng vẫn
còn kịp thời chuyển tải được những thông tin liên quan cho hậu thế.
Văn bia Trùng
tu Tiên Thị từ ký ở chùa Lý Quốc Sư do Tiến sĩ khoa Kỷ Dậu là Nguyễn Cúc
Linh soạn năm Tự Đức 8(1855) đã cho biết “ Đền chợ Tiên ở huyện Thọ Xương là đền
thờ tượng Minh Không Quốc Sư. Đền xây dựng từ thời Lý. Tương truyền Quốc Sư có
công chữa khỏi bệnh cho vua triều Lý nên được lập đền thờ”.
Bia Trưng
Vương sự tích bi ký đặt tại đền Hai Bà Trưng do Tiến sĩ Vũ Tông Phan soạn
năm Minh Mệnh 21(1840) đã ca ngợi Hai Bà như sau:
“ Nước Đại Nam ta, từ đời Hồng Bàng đến đời Lê trong
khoảng trên dưới mấy ngàn năm, lần lượt có những vị anh hùng xuất hiện giành giữ
bờ cõi, còn dựng thành chính thống là bốn họ Đinh, Lý, Trần, Lê. Than ôi, đấng
trượng phu đúng phải như thế. Còn trong nữ giới xứng đáng là trượng phu thì chỉ
có Hai Bà Trưng”. Văn bia cũng cho biết ngôi đền thờ Hai Bà từ xưa đã được dựng
ở gần bờ sông xã Đồng Nhân huyện Thanh
Trì. Do gần đây bãi sông lở nên đã chuyển đến địa điểm mới ở xứ Vũ Miếu cũ thôn
Hương Viên thuộc bản huyện. Sự di chuyển này đã được tâu lên triều đình và được
chấp thuận cấp đất lập đền thờ phụng Hai Bà. Theo sử sách, đền Hai Bà Trưng được
xây dựng dưới thời Lý Anh Tông, còn theo nội dung văn bia cho ta biết thêm ngôi
đền cũ đã không còn, thay vào đó là ngôi đền mới được xây dựng vào đầu triều
Nguyễn trên một vị trí mới sát kinh thành Thăng Long hơn. Như vậy tư liệu văn
bia đã nối dài thêm cho lịch sử ngôi đền và nó thực sự có ý nghĩa khi chúng ta
nghiên cứu những vấn đề cụ thể. Ví như văn bia Yên Thái phường Tây thôn trùng tu đình vũ bi ký do Phạm Quý Thích
soạn năm Minh Mệnh 2(1821) cho biết đình Yên Thái bắt đầu thờ một vị thần từ thời
Lý Nhân Tông. Tác giả không cho biết cụ thể tên vị thần đó là ai, nhưng trong nội
dung văn bia có phản ánh con cháu dòng họ Vũ ở thôn Tây phường Yên Thái huyện
Vĩnh Thuận đều nhận là dòng dõi của Thần, do đó có thể biết đây là một vị nhân
thần. Nếu tiếp cận thêm một số minh văn tại đình Yên Thái, chắc chắn chúng ta sẽ
biết đích xác tên vị Thần này. Hoặc tại đình thôn Trích Sài ven hồ Tây có bia Thần từ phụng sự điền bi được tạo dựng
vào năm VĨnh Tộ 5(1623) đã ghi việc nhân dân phường Trích Sài huyện Quảng Đức lập
bia ghi lại số ruộng thờ vị Thần trong đình là Mục Thận – người đã có công cứu
vua Lý Anh Tông thoát họa Lê Văn Thịnh trên hồ Tây. Số ruộng để thờ cúng Thần gồm
13 mẫu 6 sào bị người ta xâm chiếm canh tác đã được Chúa Trịnh can thiệp trả lại
cho bản phường. Như vậy hai văn bia này đã cung cấp thông tin về ngôi đình, về
người được thờ trong đình, những người này đều có quan hệ đến triều Lý, về số
ruộng đất liên quan và tư liệu này thật quý để làm bằng cứ đối chứng với các
nguồn tư liệu khác.
Một di tích khác liên quan đến Hoàng đế Lê Thánh
Tông, vị vua được xếp vào loại anh minh nhất của quốc gia Đại Việt, đó là chùa
Huy Văn. Tại đây không còn bia cổ nhưng với các bia có niên đại muộn cũng cho
chúng ta biết lịch sử ngôi chùa và những
điều về Lê Thánh Tông. Theo bia Trùng tu
Huy Văn điện bi ký dựng năm Quý Mùi Minh Mệnh 3(1823) thì sở dĩ chùa Huy
Văn lại gọi là điện Huy Văn vì “Khi lên ngôi báu, Ngài đã tôn phong mẹ là Ngô
thị làm Quang Thục Hoàng Thái hậu rồi đổi chùa làm điện.Đó là lý do tại sao người
ta gọi là điện Huy Văn. Trong chùa có chân dung Thái hậu và một quả chuông lớn.
Việc thờ cúng được chăm sóc quanh năm. Về sau bỗng gặp tai ách, chân dung và quả
chuông đều mất cả”. Sau đó nhà sư trụ trì đã hô hào thập phương góp đồng, thuê
thợ đúc một quả chuông mới vào năm Mậu Ngọ (1798), đến năm Kỷ Mùi (1799) lại
đúc tượng Thánh mẫu, phục hồi di tích cũ. Một văn bia khác cũng tại chùa này,
viết năm Tự Đức 17(1864) là Trùng tu Huy
Văn điện Dục Khánh tự bi ký cho biết rõ hơn “Chân dung vua Thuần hoàng trước
kia thờ ở chùa Khán Sơn, được dựng vào niên hiệu Dương Đức (1672-1675) để đánh
dấu chỗ luyện tập xưa ở Ngọc Hà. Đến cuộc đổi thay thời Tây Sơn mới dời về
đây...” Như vậy qua hai văn bia cách nhau 40 năm ở chùa Huy Văn đã cho biết trước
đây chỉ có chân dung Hoàng Thái hậu được thờ ở ngôi chùa này, đến thời Tây Sơn
do những biến cố thời cuộc mới rước chân dung vua Lê Thánh Tông về thờ cùng với
mẹ ở chùa Huy Văn. Những chi tiết như thế chỉ có thể tìm thấy trong văn bia mà
thôi. Do đó khi nghiên cứu về sự nghiệp của Lê Thánh Tông và các vấn đề liên
quan đến triều đình Lê sơ không thể không tiếp cận nguồn tư liệu văn khắc hiện
còn tại chùa Huy Văn cũng như một số ngôi chùa khác của Hà Nội như chùa Ngọc Hồ
được truyền tụng là nơi xảy ra câu chuyện vua Lê Thánh Tông gặp tiên nữ và có
xướng họa thơ cùng nhau…
3. Phản ánh quá
trình xây dựng, trùng tu các di tích, danh thắng.
Những di tích nổi tiếng của Thăng Long xưa như chùa
Trấn Quốc, chùa Một Cột, chùa Thiên Niên, quán Trấn Vũ, điện Nam Giao, chùa điện
Huy Văn, chùa Tiên Thị, chùa Chiêu Thiền, chùa Càn An, chùa Hàm Long, chùa Quán
Sứ, chùa Liên Phái, xa hơn một chút là chùa Thánh Đức (chùa Hà) ở phía tây,chùa
Linh Tiên (chùa Bằng ) ở phía nam hoặc xa hơn nữa là các chùa ở huyện Gia Lâm,
Đông Anh, Sóc Sơn... đều có văn khắc ghi lại quá trình xây dựng, tu sửa do nhân
dân địa phương và thập phương công đức. Ba huyện Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn thuộc
xứ Kinh Bắc trước đây, khi nhập về Hà Nội đã góp cho văn hóa Hà Nội thêm đặc sắc.
Huyện Thanh Trì ở phía nam vốn thuộc Sơn Nam Hạ đã mang đến cho Hà Nội đậm đặc
chất làng xã ven đô thể hiện qua rất nhiều di tích và minh văn còn lại. Những
di tích như Y Miếu, đàn Nam Giao tuy không còn nữa những vẫn còn lại văn bia
cũng cho chúng ta biết được nguyên nhân và khoảng thời gian xây dựng.
Bia Nam Giao
điện bi ký, tạo năm Vĩnh Trị 4 (1679) cho biết điện Nam Giao được tu sửa do
lệnh của chúa Trịnh “ Chọn góc phía nam thành xây điện Chiêu Sự đàn Nam Giao,
chính là nơi muôn loài sinh trưởng... Nhưng xây dựng còn chưa thật hoàn chỉnh,
chưa đủ để báo đáp ơn trời. Muốn có quy mô từ xưa chưa có, muốn làm những việc
từ xưa chưa làm, ắt phải đợi đến thánh vương là bậc đại tài, làm nên những việc
có khí thế hơn người... Bấy giờ, lệnh Chúa ban ra, chọn ngày tốt tập trung các
thợ. Cột xà đều dùng những nguyên liệu rất tốt, mực thước theo kiểu điện Trường
Sinh, dỡ bỏ những cái cũ kỹ, xây dựng công trình mới mẻ. Khởi công cuối mùa thu
năm Quý Mão Cảnh Trị thứ nhất (1664) hoàn thành cuối năm thứ hai là năm Giáp
Thìn (1665)...”
Ghi về việc xây dựng Y Miếu, văn bia tạo năm Cảnh
Hưng 35 (1774) là bia còn lại của ngôi miếu thờ các vị danh y nước Nam đã viết
“Các vua trước quốc triều ta từng sửa sang điển lễ thờ cúng, nghĩ đến những bậc
tiên sư khai sáng và từng ra lệnh cho viện Thái Y chọn đất nhận lĩnh tiền công
xây dựng Y miếu... Nhưng người hiền tài lúc đó đã lần lữa bỏ qua, cho là việc
không gấp, không thừa hành, khiến cho ngoài dân gian không có chỗ nào cho mọi
người chiêm ngưỡng, kính lễ. Những người thấy việc nghĩa dám làm như quý hầu họ
Trịnh thật ít ai bì kịp...” Qua đoạn văn trên cho biết việc xây dựng Y miếu đã
từng được các triều đại trước đó quan tâm, chỉ đạo, thậm chí đã cấp tiền công để
xây dựng nhưng vẫn bất thành. Phải đợi đến năm Cảnh Hưng 35 (1774), toàn thể Viện
Thái Y đã hiệp sức cùng với ngài họ Trịnh là quan Chưởng Viện Thái Y, kiêm
trông coi Tả đội của Viện, chức Hữu Hiệu điểm, tước là Ngoạn Trung hầu đã khởi
công xây dựng đền thờ ba vị tiên thánh trong ngành y. Địa điểm của Y miếu được
miêu tả như sau:
“ Nhận thấy ở phường Bích Câu có một khoảnh đất công
giáp với phía tây Phượng thành, bên trái là Văn Miếu, lại thêm dòng nước bao
quanh ven theo trường Quốc Tử Giám, cách biệt nơi bụi bặm ồn ào, có thể xây dựng
cung điện được. Chỉ ngại việc đó mới là ý riêng mình, bèn mạnh dạn trình bày
lên trên được Chúa khen ngợi vô cùng, chuẩn y lời thỉnh cầu, đặc biệt ban cho
10 mẫu tự điền để dùng vào việc đèn hương”. Như vậy là đến cuối thế kỷ XVIII, Y
Miếu ở Việt Nam mới chính thức được xây dựng gần khu vực Văn Miếu. Công việc
này đã được mẹ Chúa ban cho hai hốt bạc, các vị trong nội cung cũng hưởng ứng
nhiệt tình, cùng tham gia đóng góp.
Những điều ghi lại như thế nói lên vai trò của các
chúa Trịnh và các vị hoàng thân quốc thích trong triều đình Lê Trịnh đã đóng
góp khá nhiều công sức, tiền của để tu bổ hoặc xây mới các di tích có ý nghĩa
quốc gia như đàn Nam Giao, Y Miếu cũng như
đền chùa xung quanh Thăng Long và các vùng lân cận.
*
* *
Trong lịch sử nghìn năm phát triển của Hà Nội có rất
nhiều di tích cổ bị mất đi, những tư liệu văn khắc còn lại tuy có niên đại muộn
song cũng bổ khuyết được rất nhiều điều. Nếu không có những bài văn trên đá
trên đồng vẫn được bảo tồn thì thật khó mà biết được chính xác lịch sử của các
điểm di tích ấy. Chùa Kim Liên ven hồ Tây là nơi còn lưu giữ được tấm bia đá có
niên đại sớm nhất của Hà Nội như chúng tôi đã trình bày ở trên cũng đã qua bao
phen biến cải. Văn bia viết năm Tự Đức 21(1868) đặt tại chùa Kim Liên đã ghi lại
khá tường tận những lần di chuyển, tu sửa chùa:
“Chùa Kim Liên phường Nghi Tàm tổng
Thượng huyện Vĩnh Thuận xưa kia là chốn danh lam. Trải qua thời gian lâu ngày bị
đổ nát, các bậc tín vãi kỳ lão trong làng khởi xướng việc tu sửa, muốn làm bài
ký ghi lại. Bèn tra cứu dấu vết cổ xưa thì thấy rằng trước kia chùa đã có bia
đá, nhưng vì trải qua biến cố mà bị mòn mờ đi, vết chữ đa phần không thể đọc được.
Tìm trong những ghi chép còn lại thì biết rằng chùa xưa kia có tên là Đại Bi,
được tu tạo vào năm Dương Hòa thứ 5 (1639) triều Lê. Đến năm Cảnh Hưng thứ 32
(1771), triều đình sai công thần Thiều Quận công Phạm Huy Đĩnh, quan Thái giám
Tuân Sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân dời ra phía tây thành, thu lượm vật liệu gỗ ở
chùa Bảo Lâm, theo nền cũ cho tu tạo thêm, đặt tên là chùa Kim Liên. Từ đó về
sau tu sửa rồi hỏng, hỏng rồi lại tu sửa, không biết bao nhiêu phen nữa. Năm Đinh Tị niên hiệu Tự Đức thứ 10
(1861), do nước lớn vỡ đê nên phải trùng tu. Tháng 3 năm trước (1867), các bậc
kỳ mục và quan viên chức sắc trong làng cùng các thiện tín đã quyên góp tiền của,
đóng góp sức lực, nhưng do công trình rất lớn, mà kinh phí lại thiếu nhiều.
Nhân đó mới tính toán bán một số ruộng để xây dựng mở rộng chùa. Đến tháng 9
năm đó thì khánh thành, chùa chiền tráng lệ, tượng Phật trang nghiêm, nhìn lại
dấu vết xưa thì quang cảnh chùa đã đổi mới thực sự. Chùa hình rùa vàng, mắt rồng
xanh. Trước mặt nhìn ra Tây Hồ, sau là dải sông Nhĩ Hà bao bọc, thành Thăng
Long ở phía nam, dân cư sống phía bắc, thật là thắng cảnh đệ nhất của Tây Hồ vậy”. Như thế qua văn bia này chúng ta biết rằng
chùa Đại Bi đã được đổi tên là chùa Kim Liên từ năm Cảnh Hưng 32(1771) và đến
thời điểm viết văn bia là năm Tự Đức 21(1868) thì bia có niên đại sớm như Thuận
Thiên, Thái Hòa (chúng tôi đã giới thiệu ở phần trên) đều đã bị mòn, chữ mờ gần
hết. Cũng tại ngôi chùa này có một văn bia
ghi lại quá trình tu luyện của một nhà sư trụ trì bản chùa. Đây là một nhà sư
khá nổi tiếng lúc bấy giờ, điều đặc biệt là nhà sư này vốn xuất thân trong một
gia đình khoa bảng, có cha là Mai Lâm bá Trương tướng công, đỗ Tiến sĩ xuất
thân khoa Canh Thìn, Đặc tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại phu, giữ chức Đông Các Hiệu
thư, nhưng ông vẫn xuất gia đầu Phật từ rất nhỏ. Ông nổi tiếng là thông minh
dĩnh ngộ, khi đi tu rồi vẫn phụng mệnh đi thi “Đến năm ngài 23 tuổi, vâng mệnh
chiếu chỉ của quốc vương vào ứng thi. Vì các phép Phật pháp, kinh sách nhà Phật
đều tinh thông nên được ban cho Điệp”, và “Khi ngài 62 tuổi, chống tích trượng
đến kinh thành, tòan thể dân trên dưới và quan viên phường Nghi Tàm đến rước
ngài, mời Tôn sư về trụ trì tại bản chùa (chùa Đại Bi thuộc phường Nghi Tàm).
Thế là ngài lại có cơ hội hoằng truyền đạo Phật, phúc quả viên thành. Đến năm Mậu
Thìn (1748), ngài vâng mệnh Chúa lập trai đàn. Được Chúa mến phục nên ban sắc
chỉ phong là Quảng Giác Hòa thượng”.
Chùa Quang Hoa bên cạnh hồ Thiền Quang có vị trí khá
đẹp, nhưng chùa được xây dựng từ bao giờ không khảo cứu được. Văn bia Quang Hoa thiền tự sự tích bi ký tạo năm
Tự Đức 19(1860) dựng tại chùa đã ghi “ Quang Hoa thiền tự từ xưa đến nay không
rõ được xây dựng từ thời nào. Từ cổ đã sẵn có nhà tranh am lá. Trải qua tháng
năm lâu dài bị gió mưa đến nỗi điêu tàn. Nhân năm Quý Mão(1843) sư thầy Phổ Điều
xin về trụ trì, đốt hương chúc tụng. Đến năm Bính Ngọ(1846) sư thầy Phổ Điều
cùng với Lý trưởng Phạm Phú Hữu đã cùng cả giáp Quang Hoa thôn Liên Đường tổng
Vĩnh Xương huyện Thọ Xương phổ khuyến thập phương hạ bỏ am nhỏ, dựng mới ba
gian thượng điện, ba gian nhà trước, đều dùng ngói lợp...” Như thế văn bia đã
cho biết chùa Quang Hoa hiện nay chính thức được xây dựng từ giữa thế kỷ XIX,
còn trước đó chỉ là một am nhỏ bằng tranh tre. Văn bia cũng cho biết từng chi
tiết cụ thể khi tiến hành xây dựng lại qua từng thời gian và tác giả bài văn
bia cũng cảm thán trước sự biến cải của thế sự: “một ngôi chùa cổ nguy nga bỗng
chốc trở thành hoang rậm, một ngôi am nhỏ đến nay lại ra kèo cột như thế thì
các bậc cao nhân đạt thức có thể tự ngộ ra được ”.
Cũng ghi lại quá trình tu sửa lại chùa, nhưng chùa
Tào Sách ven Hồ Tây được xây dựng lại muộn hơn rất nhiều, mãi đến năm 1930 mới
được tiến hành thay đổi lai quang cảnh chùa. Văn bia chùa Linh Sơn tức chùa Tào
Sách phường Nhật Tân soạn năm Bảo Đại Tân Tỵ (1941) đã ghi lại thời điểm chuyển
hướng chùa và đổi tên mới cho chùa “Chùa Tào Sách xã Nhật Tân tổng Thượng huyện
Hoàn Long tỉnh Hà Đông được dựng từ đời Lê, chùa tọa Cấn hướng Khôn. Chùa ấy cảnh
trí u tịch, sắc màu cổ kính, bên trái tiếp Nhị Giang, bên phải liền Long Đỗ.
Non xanh nước biếc, một trời cảnh sắc tươi mới... Trải thời gian lâu dài, cảnh
sắc cũng đổi thay... Năm Canh Ngọ (1930) chùa được hướng cúng cho tổ tràng chùa
Quảng Bá, tổ sư chứng kiến cảnh biến cải nên đã đổi tên chùa thành chùa Linh
Sơn, chuyển hướng chùa thành hướng toạ Tân hướng Ất”.
*
* *
Thăng Long vốn nổi tiếng về những ngôi chùa như chùa
Trấn Quốc, chùa Một Cột, chùa Hòe Nhai, chùa Hàm Long, chùa Càn An... nhưng
không có nhiều những ngôi đình trong trung tâm Thăng Long - Hà Nội. Ngày nay những
ngôi đình cổ của Thăng Long gần như không còn nữa nhưng chỉ qua một vài tấm bia
còn lại cũng cho hậu thế biết tại nội đô Thăng Long cuối thế kỷ`XVII có một
ngôi đình thật hoành tráng, là niềm tự hào của người dân trong 36 phố phường cổ.
Văn bia Cao Sơn Tây Hưng miếu ở đình
Đông Các phường Ô Chợ Dừa cho hay đình
này được xây dựng lại từ một ngôi đền thờ
thần có từ rất lâu tại xứ Cầu Dừa. Đình do hai giáp Mỹ Phê và Nghĩa Phê
phường Thịnh Quang hưng công xây dựng nhưng nền đình lại được đắp trên nền đất
giáp Đông Các phường Thịnh Quang huyện Quảng Đức phủ Phụng Thiên, vì thế đình
được đặt tên là đình Đông Các. Về vị trí chọn đất dựng đình, văn bia cho biết:
“ Đình này vì sao gọi là đình Đông Các? Có lẽ vì phủ Phụng Thiên có Phượng
thành là chốn đế đô tôn nghiêm, là nơi ở của vua đứng đầu 12 Thừa tuyên. Còn
giáp Đông Các trong phường Thịnh Quang là nơi ứng vào các vì sao khoa giáp nơi
phượng các, sản sinh ra nhiều bậc hiền tài, từng được Tể tướng vời qua cửa nhỏ
hướng đông và làm vẻ vang cho đất nước. Đây là nơi bậc nhất trong 36 phường. Nay
giáp Mỹ Phê dựng đình ở đây, dựa vào những điều đó mà đặt tên như vậy chăng ?”.
Qua văn bia, chúng ta biết Phúc thần nước nam được thờ tại đây đã từng hiển
linh ban phúc khắp chốn, nhưng “ nền đắp từ xưa, mái chỉ lợp gianh. Nay muốn lễ
thờ thần được đầy đủ, nơi cầu phúc được trang nghiêm, để tỏ rõ chế độ tốt đẹp
cho đương thời, lập thành nền nếp rộng lớn
cho mai sau, cần phải đổi cũ thành mới, lợp ngói thay cỏ gianh. Nhân đó
bàn bạc với giáp Nghĩa Phê trên dưới một lòng, lớn bé nhất trí... Năm Kỷ Tỵ (1689)
vào ngày tốt đắp thêm ba bậc thềm đất, xây dựng năm gian đình mới. Lựa gỗ tốt,
cây to làm cột, cây nhỏ làm rui. Chỉ huy nhóm thợ, tay khéo nẩy mực, tay giỏi cầm
dây. Đại thế nghiêm chỉnh như cánh vươn lên, cạnh góc ngay ngắn như mũi tên thẳng.
Cột rường cao vút như chim xòe cánh, mái đao rực rỡ như trĩ tung bay”. Thế là
giữa chốn đế đô, một ngôi đình với mái đao cong vút như chim trĩ xòe cánh tung bay đã hiện diện trên
nền đất của nơi đứng đầu trong 36 phố phường Thăng Long thưở ấy.
Bia Nghĩa Phê tạo đình bi ký soạn năm Chính
Hòa 13(1692) cũng nhắc lại sự kiện xây đình Đông Các: “Nguyên xưa ngôi đình này
trên nền phúc phường Thịnh Quang, địa bàn rộng huyện Quảng Đức. Bên phải đối diện
chùa Thanh Nhàn, bên trái là đàn Xã Tắc đứng sừng sững một mình. Mặt trước phía
nam có núi đứng che, mặt sau phía bắc có sông bao bọc.Thật là nơi cảnh đẹp vào
bậc nhất đế đô. Ngôi đình ấy xây dựng đã lâu năm, nhưng kiểu cách sơ sài, còn
theo lối cổ. Muốn có quy mô chỉnh đốn phải đợi người sau. Nay toàn thể quan
viên hương lão trên dưới giáp Nghĩa Phê hiệp đồng với toàn thể mọi người trong
giáp Mỹ Phê bàn tính việc xây dựng lại, ai cũng đồng lòng. Bèn ứng xuất tiền của,
tìm mua các loại gỗ tốt dựng lên năm gian đình ngói ngay trên nền cũ. Hoàn
thành vào ngày tốt năm Kỷ Tỵ (1689)”. Từ
nội dung văn bia, chúng ta lại vỡ lẽ trong khi ở các vùng xa xôi hơn như
Kinh Bắc, Sơn Nam đã có những ngôi đình làng bề thế xây dựng từ cuối thế kỷ
XVI, đầu thế kỷ XVII, thì ỏ Thăng Long mãi đến cuối thế kỷ XVII mới có những
ngôi đình như đình Đông Các được xây dựng mới, thoát khỏi quy mô nhỏ bé với mái
lợp là cỏ gianh.
Cũng vào cuối thế kỷ XVII, các vùng ven kinh thành
Thăng Long là xã Mai Động, xã Quỳnh Lôi huyện Thanh Trì cũng khởi công xây đình
mới. Đình Mai Động hay còn gọi là đình Mơ Táo được xây dựng năm Chính Hòa 20
(1699), đình Quỳnh Lôi (nay thuộc phường Minh Khai, quận Hai Bà Trưng) xây dựng
năm Chính Hòa 13 (1692), hoặc xã Kính Chủ huyện Từ Liêm (nay là phường Trung
Kính quận Cầu Giấy) xây đình năm Vĩnh Trị 1(1675), xã Thượng Cát huyện Gia Lâm
(nay là phường Thượng Thanh quận Long Biên) xây đình làng vào năm Vĩnh Trị
3(1677). Bia Tạo xuân đình hậu thần bi ký
soạn năm Chính Hòa 20, cho biết đình Mơ Táo do Quận Chúa Trịnh Thị Ngọc Thánh
hiệu Diệu Kính đã bỏ tiền nhà, phát tâm giúp làng xây một ngôi đình để thờ Thần,
cầu phúc, ca múa, cầu mong thái bình cho đất nước.
Năm Cảnh Trị thứ nhất (1663), nhân dân phường Nhật
Chiêu huyện Quảng Đức phủ Phụng Thiên đã xây dựng đền thờ Thần (ngày nay được gọi
là đình Nhật Tân, phường Nhật Tân quận Tây Hồ) với sự trợ giúp về tiền của của
Chúa Tây Vương Trịnh Tạc. Vị trí của phường Nhật Chiêu được văn bia mô tả rất đẹp “Phường Nhật Chiêu
huyện Quảng Đức phủ Phụng Thiên là nơi hình thế đẹp, gần với hoàng đô,Chu Tước
phía trước ngoảnh trông phía đông Hồ Tây thủy triều nhấp nhô, Huyền Vũ phía sau
dựa thành Đại La, soi bóng núi Tản Viên, bên trái là dòng Đại Hà chảy dài cuồn
cuộn, bên phải là đỉnh núi xa xa...”
Sang đến giữa thế kỷ XIX, tại nội thành Hà Nội vẫn
có một vài ngôi đình được xây dựng lại như đình Cổ Lương (nay là phố Nguyễn
Siêu). Bia Cổ Lương hương đình bi ký
dựng năm Tự Đức 32 cho biết “Thôn Cổ Lương tiếp giáp mé sông Nhị Hà, dân cư là
người làng Khúc Thủy, đền thờ hai vị chính thần là Phổ Tế và Nam Hải. Công lao
sự nghiệp của Thần trong tự điển có ghi chép rõ ràng. Nhưng ngôi đền lúc mới
xây dựng thì lợp cỏ gianh đơn sơ. Hơn trăm năm dân cư ca mừng tụ họp ở đây mà đền
thần vẫn còn như cũ...” Đến lúc đó vị lý
trưởng họ Đào tên là Đằng mới tiếp nối ý cha để đứng ra hưng công xây lại đình
mới, lợp ngói. Và như thế, đình làng Cổ Lương trước đây là một ngôi đền, từ
ngôi đền thờ Thần đã bị cũ nát xây dựng cách đó hơn trăm năm, người ta đã xây mới
một ngôi đình để thờ Thần với quy mô gồm một gian làm đền thờ chính, một tòa
khám thờ và ba gian bái đường. Nếu so sánh với đình Đông Các xây dựng cuối thế
kỷ XVII, thì mới thấy tiềm lực vật chất, công sức của người dân đóng góp để xây
đình khi đó có quy mô hoành tráng hơn rất nhiều. Đó cũng là đặc điểm chung của
thế kỷ XVII, các công trình về văn hóa, tín ngưỡng được khởi xướng xây dựng ở rất
nhiều nơi trên quốc gia Đại Việt, điều này được phản ánh rất rõ nét trong các
bài minh văn trên bia, chuông.
*
* *
Thăng Long – Hà Nội là mảnh đất ngàn năm văn hiến,
nơi đây đã hội tụ nhiều tinh hoa của cả dân tộc và có rất nhiều di tích văn hóa
tiêu biểu. Văn Miếu Quốc Tử Giám là niềm tự hào của Hà Nội, của Việt Nam về sự
hiếu học thành tài và sự vinh danh của cả xã hội đối với những người thực học.
Khi đến thăm Văn Miếu chúa Trịnh Căn đã có một bài thơ chữ Nôm khắc trên bia
nói lên sự ngưỡng mộ của ông đối với khu di tích này.
“Thánh nhân đạo cao đức trọng, khắc ở bia đá lớn để
lại muôn đời. Ngày khánh thành, ta đến thăm lại, xem xét khắp xung quanh; thấy
thể chế ngay ngắn nghiêm chỉnh, hình thức và nội dung đều tốt đẹp. Thật đáng
trân trọng, bèn làm ra bài thơ quốc âm.
Đạo thống tường xem nhật nhật minh,
Vậy nên biểu lập trước trung đình.
Tôn nghiêm vốn có bề phương chính,
Trân trọng nào sai mực đất bằng.
Rộng chứa văn chương hằng rỡ rỡ,
Tỏ ghi đức giáo hăy rành rành.
Vừng bền sóc sóc đồng thiên địa,
Thấy đấy ai là chẳng ngưỡng thành.”
Đề cuối Mùa Đông năm Ất Hợi (1695).
Ngoài Văn Miếu mang tính chất quốc gia đó, ở nội
thành và ngoại thành của Hà Nội vẫn còn lưu giữ được những khu văn chỉ ở cấp
huyện hoặc xã phường để thể hiện sự kính trọng những người có học và đỗ đạt qua
các kỳ thi cử. Khu vực nội thành có văn chỉ phường Hà Khẩu, văn chỉ huyện Thọ
Xương, văn chỉ thôn Thanh Hà, đặc biệt có văn chỉ của trại Vạn Bảo là một trong
thập tam trại của thành Thăng Long. Bia văn chỉ do hội Tư văn trại Vạn Bảo, tổng
Vạn Bảo huyện Vĩnh Thuận phủ Hoài Đức tỉnh Hà Nội dựng năm Tự Đức 29 (1876) cho
biết nhân dân trong trại Vạn Bảo đã xây dựng từ chỉ ở núi Trúc để có nơi thờ
cúng hàng năm.
Khu vực ngoại thành có văn chỉ thôn Trung xã Cổ Điển
huyện Thanh Trì, văn chỉ xã Nguyệt Áng nay là thôn Nguyệt Áng xã Vĩnh Ninh huyện
Thanh Trì, văn chỉ huyện Thanh Trì; văn chỉ giáp Bản Hội xã Trung Mầu huyện Gia
Lâm... Sở dĩ Thanh Trì còn giữ được một số văn chỉ ở các làng xã và của huyện
có lẽ bởi đây là vùng đất có nhiều nhà trí thức tiêu biểu cho học khí của Hà Nội.Đó
là Chu Văn An thời Trần, là Bùi Huy Bích triều Lê, là Nguyễn Siêu triều Nguyễn
và rất nhiều các bậc danh sĩ khác. Bia Thanh
Trì tiên hiền miếu trùng tu bi ký do Nguyễn Văn Siêu soạn vào mùa đông năm Ất
Sửu cho biết “ Văn Trinh công Chu tiên sinh là vị nho gia đầu tiên của nước Việt
ta, được trăm đời ngưỡng mộ, nên làng xóm nào cũng đều thờ tự. Từ thời Trần ông
đã được thờ ở văn miếu Thăng Long, riêng miếu thờ ông ở Huỳnh Cung huyện Thanh
Trì ta thì không biết hương thôn thờ ông như một vị phúc thần từ bao giờ. Nhân
khảo gia phả họ Nguyễn ở Linh Đường thấy ghi ông Triệu Khánh Công Nguyễn Tử Tư
từng dựng từ chỉ trong bản huyện, đặt ruộng tế điền mới biết ngôi miếu này có từ
thời Lê Cảnh Hưng nhưng do lâu ngày, quy mô miếu còn sơ sài,cột kèo cũ nát,
trâu bò chăn thả khắp nơi. Vì thế đến năm Canh Thân các ông Trịnh Lý Đình, Hà Học
ở Định Công, Định Cao, ông Hoàng Đình Chuyên ở Linh Đường khởi xướng việc quyên
tiền tu sửa, ông Nguyễn Văn Siêu thân chinh trông coi việc sửa chữa ba gian miếu
đường, cửa Nghi môn, khám thờ thần, chữa
lại 5 gian bái đường cũ bên ngoài, ba gian giải vũ hai bên đều được dựng
lại bằng gỗ tốt, tường rào bên ngoài bao quanh, đắp lũy đất”...
Trong
bia văn chỉ thôn Trung xã Cổ Điển huyện Thanh Trì cho biết làng Thanh Liệt cũng
xây dựng văn chỉ để thờ bốn vị Tiên hiền là: Chu Văn An, Tư nghiệp Quốc tử
giám; Chu Tam Tỉnh, Ngự thí trúng tuyển khoa Tân Hợi, giữ chức Hàn Lâm viện Trực
học sĩ, Tả Hình viện đại phu, là con trai Chu Văn An; Chu Đình Bảo, cháu bốn đời
của Chu văn An, đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn, giữ chức Trung thư giám Điển thư; Lý
Trần Thản, Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu, giữ chức Hữu Tư giảng, được phong tặng Binh bộ
Thượng thư, tước Tuy Quận công. Bia được lập năm Cảnh Hưng 18(1757).
Cũng tương tự như vậy, trong bia văn chỉ xã Phú Thị
huyện Gia Lâm đã ghi lại việc xây dựng từ vũ để thờ các bậc tiên hiền như sau
“Vào năm Hoàng triều Cảnh Hưng thứ 24 (1763), làng Trung Nghĩa ta mới bắt đầu dựng
đền thờ. Khách Nho học tạo nên cung sở, xem ra dựng được 2 dãy 6 gian nhà thờ.
Trụ cột làm bằng gỗ quí, đục khắc để cất nóc thượng lương; mái lợp ngói vẩy cá,
hành lang xây bằng gạch; xung quanh bốn phía quây tường, tường phía nam che tòa
Nghi môn. Mọi người cùng đồng thanh nói: Ôi ! Cái gì mà tôn nghiêm vậy? Đó là sự
đồng tâm của các vị quan lại triều đình, sửa sang chính đạo vậy”.Việc xây dựng
từ vũ của xã Phú Thị được những người trong hội Tư văn và đặc biệt là có rất
nhiều vị Tiến sĩ của xã sau khi đăng khoa đã từng giữ nhiều chức vụ quan trong
trong triều đình hưởng ứng. Đó là Tiến sĩ khoa Quí Mùi, chức Tham tụng Thượng
thư bộ Hộ, Nhập thị Kinh diên Tri Quốc Tử Giám về hưu Triệu Quận công Nguyễn Huy
Nhuận cùng con trai là Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, chức Giám sát Ngự sử Thự Tham
chính Nguyễn Huy Dận và cháu nội là Tiến sĩ khoa Canh Thìn Nguyễn Huy Cận đã
cùng 26 vị quan khác đứng ra khởi xướng. Dưới triều Lê trung hưng xã Phú Thị có
nhiều người đỗ đạt và có đến 4 quan Thượng thư cùng là người trong xã. Điều này
thật hiếm gặp trong các làng xã Việt Nam và đó thực sự là niềm tự hào của người
dân Phú Thị. Văn bia ở đây đã kịp thời ghi lại những thế hệ đỗ đạt và làm quan
của cả xã.
Hà Nội còn
có một loại di tích khá đặc sắc, đó là Thọ
chỉ là nơi thờ những vị cao niên, thượng thọ trong làng xã. Bia Bùi Đông thôn Thọ Ông từ do Tiến sĩ khoa
Kỷ Sửu, Chính nghị đại phu, Binh bộ Tả Thị lang, Quốc sử Tổng tài, Liệt hầu Tồn
Am Bùi Huy Bích soạn năm Chiêu Thống Đinh Mùi (1787). Văn bia cho biết “ Đền Thọ
Ông là nơi tế lễ các bậc tiên lão. Phong tục thôn ta xưa nay rất thuần hậu,
siêng năng việc trồng cấy, coi trọng văn học. Nếp ăn ở thường ngày thì quý người
có tuổi, trọng người có tước, chất phác thích làm điều thiện, có lẽ là được ở gần
kinh sư. Vả lại đời trước có nhiều bậc hiền khanh đại phu cho nên tập tục mới
được chuộng như vậy chăng?... Sở dĩ đền Ông Thọ được dựng lên là để tôn kính bậc
già cả đức cao lễ trọng, là xuất phát từ hiếu đễ, mà đề cao sự kính nhường. Tỏ
rõ ý coi trọng tập tục tốt đẹp, coi trọng người hiền đức có lẽ chẳng phải ở chỗ
này chăng? Còn như việc được ban cho tuổi thọ sống lâu trăm vạn năm thì có quỷ
thần soi xét, người có đức thì phúc sẽ hội tụ. Vì thế viết tên những người già
cả và phụ khắc bên dưới, ngõ hầu người đời sau còn được thấy mà chung niềm vui
vậy”. Lời văn thật nhẹ nhàng mà ý tứ sâu
sắc khiến cho ai đọc lên cũng phải suy ngẫm. Thọ chỉ còn xuất hiện ở thôn Đại Từ xã
Linh Đường tổng Thanh Liệt
huyện Thanh Trì. Năm Tự Đức 21(1868) dân làng đã lập bia
ghi việc trùng tu Thọ Chỉ.
Cũng với mục đích tôn trọng người có tuổi, trong bia
Từ chỉ yến lão bi ký được khắc năm
Minh Mệnh 21(1840) đặt tại đền Bạch Mã đã ghi những quan niệm về kính trọng người
cao tuổi của ba giáp Mật Thái, Bắc Thượng và Bắc Hạ phường Hà Khẩu tổng Đông Thọ
huyện Thọ Xương như sau: “ Ba điều mà thiên hạ thường suy tôn, tuổi là thứ nhất.
Năm điều hoàng trù ban phúc, thọ đứng hàng đầu. Tuổi tác được tôn quý đã từ
lâu. Kính trọng người lớn tuổi ai ai cũng đồng lòng. Lấy tuổi tác định dưới
trên, nghi lễ từ xưa sẵn có. Lễ vốn xuất phát từ lẽ phải, xưa đã đúng nay há lại
sai?”
Tinh thần tôn trọng người cao tuổi của Hà Nội xưa vẫn
còn nguyên giá trị đối với các thế hệ tiếp nối hôm nay. Truyền thống đó, cùng với
sự trọng thị các bậc hiền tài của đất nước quê hương, đã cho chúng ta thấy một
Thăng Long - Hà Nội rất nhân văn, rất chuộng lễ nghĩa, biết tôn sư trọng đạo.
Điều này được thể hiện rất rõ trong bài văn bia ở đền thờ Chu Văn An do nguyên
Án sát Hưng Yên Nguyễn Văn Siêu soạn “ Phàm đức độ của người hiền sẽ trường tồn
mãi mãi, sự nghiệp của người hiền là vĩ đại nhất nên việc tiến đức tu nghiệp của
sĩ nhân chỉ mong theo kịp được bậc hiền tài, bậc thánh nhân. Nước Việt ta và
Trung Châu cùng đồng văn giao tế, từ đời Trần đến nay đã gần ngàn năm mà chưa
có ai theo kịp gót Chu Văn Trinh để xếp vào hàng học trò môn đệ của Khổng Thánh
Phu Tử”. Đọc lại những lời ngợi ca về tài năng và đức độ của Chu Văn An dưới
bút lực của “Thần Siêu” mới thấy Hà Nội thật đáng tự hào vì đã sản sinh ra một
trí thức đầy bản lĩnh như Chu Văn An.
*
* *
Văn khắc Hán Nôm của Hà Nội như những mạch nước ngầm
cho chúng ta cảm nhận về Thăng Long xưa trong nhiều chiều khác nhau của lịch sử.
Đó không chỉ là những ngôi đình, mái chùa rêu phong cổ kính, là Văn Miếu ghi
danh những vị đỗ Tiến sĩ của toàn quốc hay văn chỉ thờ những người hiền tài của
từng địa phương... Qua văn khắc Hán Nôm còn lại đến ngày nay chúng ta còn biết
đến Hà Nội từng có một nghĩa địa ngay trong địa bàn phường Kim
Mã hiện nay. Bia Kim Sơn tự đàn bi ký
viết năm Thành Thái 14(1902), đặt tại chùa Kim Sơn phường Kim Mã quận Ba Đình
đã ghi như sau: “ Kim Mã ở phía tây ngoài thành Thăng Long, nguyên là nơi an
táng những người đã mất từ xưa.Trước đây có bà Trần Thị Uổng và ông Lê Văn Định
chọn dựng một am nhỏ để thờ cúng các vong linh không nơi nương tựa. Đến năm Tân
Tỵ niên hiệu Tự Đức (1881) vì gió bão nên am bị đổ nát, người trong thôn tu tạo
lại. Nhân đó đắp tượng thờ Phật, đặt các linh vị bên cạnh tượng Phật, lấy tên
là chùa Tào Mã. Mùa đông năm Đinh Dậu niên hiệu Thành Thái (1897) người trong
thôn là cựu Hương trưởng Nguyễn Xuân Trinh và Hương lão Trần Văn Liễu đã bàn với
nhau mở rộng chùa. Nhưng khi đào đất đắp nền thì thấy rất nhiều hài cốt xếp lẫn
vào hũ sành thật đáng thương xót, muốn thu gom nhặt lại nhưng tài lực không đủ...”.
Sau đó vị hương trưởng đã kể chuyện lại với những người có lòng hảo tâm muốn
làm việc thiện để xin trợ giúp. Sau một thời gian quyên góp tiền của, vật lực,
các vị trong thôn đã xây nghĩa lăng và tu tạo lại chùa, đổi tên chùa Kim Sơn
thành chùa Kim Mã khiến cho Kim Mã trước đây hoang vu, uế tạp đã được dọn bỏ,
trước kia là nhà cỏ, nền nát thì nay trở nên huy hoàng đẹp đẽ. Người ta lại mời
đạo sĩ dựng đàn cầu siêu ở bãi cát sông Nhị Hà để cho các vong linh u tịch dưới
sông được siêu thoát.
Như vậy, dù
văn bia có niên đại rất muộn nhưng đã kịp ghi lại những sự việc liên quan đến
chùa Kim Sơn hiện nay, kể lại quá trình biến chuyển của vùng ven đô đầu thế kỷ
XX nay đã trở thành khu trung tâm sầm uất của Hà Nội.
Sau khi trở thành tỉnh thành đầu thời
Nguyễn, Hà Nội đã có nhiều sự đổi thay. Những cuộc hỏa hoạn thường xuyên xảy ra
khiến người dân lo sợ. Để cầu mong thần lửa không giáng tai họa và trấn an dân
chúng, các vị quan sở tại đã cho xây dựng miếu thờ thần lửa. Đây có lẽ cũng là
một trong những nét đặc sắc của văn hóa Hà Nội. Bài văn bia Hỏa thần miếu bi viết năm Thiệu Trị
1(1841) đặt tại đền Hỏa Thần phường Cửa Đông quận Hoàn Kiếm đã cho biết ở huyện
Thọ Xương có miếu thờ thần lửa. Miếu gồm 3 gian, quay mặt hướng Bính (hướng
nam), xây tường gạch, lợp mái ngói, có chuông treo, xuân thu nhị kì cúng tế.
Vào năm Mậu Tuất (1828) niên hiệu Minh Mệnh thứ 19 xảy ra hoả hoạn rất nặng,
sau đó miếu cũng bị thiêu trụi. Sau đó vào năm Kỷ Hợi (1839), có bậc đại nhân họ
Nguyễn đã trích sáu mẫu ruộng ở cạnh miếu để dùng vào việc tu sửa miếu. Thời
gian trôi qua, ngôi miếu dần dần bị hư hỏng nặng, các bậc kì mục trong huyện
nhiều lần báo lên, quan huyện nhiều lần đến xem xét, rồi bẩm báo lên quan tỉnh.
Các hộ dân lại cung cấp thêm vật liệu, nhờ người đứng ra xây dựng nhà trong nhà
ngoài, mỗi dãy ba gian. Tháng 5 năm Tân Sửu (1841) khởi công, qua hai tháng thì
hoàn thành ngôi miếu. Vì Thọ Xương là huyện ở sát thành, sau khi cắt đặt (địa
giới) đã chiêu tập dân lưu tán, khai khẩn đất hoang, làm lại đường sá, tích chứa
nước nôi để phòng hỏa hoạn. Văn bia Hỏa
thần miếu bi được viết ra bởi một vị Tiến sĩ từng giữ chức quan Học chính tỉnh
Bắc Ninh, do đó nó không phải là sự mê tín, nhận thức thiếu căn cứ mà thể hiện
sự quan sát chiêm nghiệm thực tế.
4. Ghi lại việc xây dựng cầu chợ và sinh
hoạt cộng đồng
Trên các bài minh văn của Hà Nội chúng ta còn có thể
kể ra rất nhiều hoạt động liên quan đến kinh tế, văn hóa - xã hội của Thăng
Long. Ngày nay khi đi qua khu vực Cầu Giấy không ai nghĩ đến nơi đây từng có một
cây cầu rất đẹp bắc qua dòng sông Tô Lịch. Bài văn bia Trùng tu Tô giang kiều bi ký
được soạn năm Vĩnh Trị 4(1679) đã ghi lại quá trình xây dựng cầu sông Tô
như sau: “Ngày 16 tháng 10 năm Đinh Tỵ (1677) thì dựng cột. Đến ngày 22 tháng 7 năm Kỷ Mùi
(1679) thì hoàn thành. Một cây cầu gồm 15 gian liền mạch. Tầng tầng lớp lớp đối
nhau nhô lên trời cao xanh; Nhịp cầu uốn lượn vòng quanh dọi sắc đỏ rực trên
lâu đài điện gác. Sâm sâm sảng sảng, lung lung linh linh. Cột đá dựng đứng giữa
dòng, vút lên cao như dựng trên đất bằng. Thao lược huyền bí, mặc tình tiên ông
thư bút; Xe cao ngựa tốt, đắc ý kẻ sĩ đề thơ. Kẻ sĩ trong triều; nhà nông thôn
dã đều được thoả lòng; Kẻ buôn ở chợ, lữ khách trên đường đều có chỗ cho mình.”
Cầu này do các sãi vãi, đạo tràng ở các xã Dịch Vọng, Thượng Yên Quyết, Hạ Yên
Quyết, Mai Dịch, Cổ Nhuế thuộc tổng Dịch Vọng huyện Từ Liêm cùng các hội chủ
sinh sống trong nội thành và các vùng lân cận hưng công xây dựng. Có một số các
vị Quận Chúa trong phủ chúa Trịnh cũng tham gia đóng góp tiền trong việc xây cầu.
Như thế, vào giữa thế kỷ XVII, tại cửa ngõ phía Tây của kinh thành Thăng Long
có một cây cầu gỗ 15 gian có mái lợp bắc qua sông Tô Lịch, đây là cầu theo kiểu
“thượng gia hạ kiều” rất phổ biến trong thế kỷ XVII và XVIII, cầu được hoàn
thành sau hơn một năm khởi công. Cũng trong thời gian này có một số cây cầu
khác cũng được xây dựng như cầu Quang Bình bắc qua sông Tô Lịch thuộc địa phận
xã Thanh Liệt huyện Thanh Trì, cầu được xây dựng năm Long Đức 3(1734) hoặc cầu
Nghĩa Trụ thôn Thạch Cầu xã Cự Linh huyện Gia Lâm được xây dựng năm Vĩnh Hựu
4(1738). Riêng cầu Quang Bình sau nhiều lần tu sửa, vào năm Bảo Đại 16(1941)
văn bia đã ghi lại thực trạng của cầu như sau: “ Cầu Quang Bình trên sông Tô Lịch
do lâu đời đã bị hư hỏng. Năm Long Đức thứ 3 (1734) bà Ý Đức nhà Lê khuyến giáo
thập phương và xuất của nhà làm lại,trên là cột lim dưới là gạch đá, cuốn thành
cầu cống, dựng bia ghi lại. Năm 1940, nhà nước khơi sông dẫn thủy, bỏ cầu cống,
bắc cầu gỗ, chân xi măng cốt sắt, mặt cầu gõ lim, gạch đá giao giả sở tại Thanh
Liệt”. Rõ ràng chỉ qua văn bia chúng ta mới biết được lai lịch của cây cầu này
đã trải qua nhiều lần trùng tu sửa chữa.
Một điều không thể không nhắc đến trong
nội dung văn khắc Hán Nôm Hà Nội, đó là những bài văn bia ghi về sinh hoạt hát
cửa đình cũng như xung quanh lệ thu tiền hát cửa đình ở một số vùng ven đô, tập
trung nhiều ở huyện Từ Liêm. Bia Đình môn
sự lệ bi ký, dựng năm Cảnh Hưng 29 (1768) tại xã Phú Mỹ huyện Từ Liêm (nay
thuộc xã Mỹ Đình, Từ Liêm) đã ghi lại những
hủ tục phiền phức do Giáo phường gây ra “ hàng năm bản ấp vẫn duy trì việc thờ
phụng, mọi việc làm đều bị Giáo phường tìm cách ngăn trở, nhiễu sách đủ điều
khiến người đương sự khốn khổ tuân theo, học đi tập lại, tệ nạn chồng chất, vì
thế rất muốn sửa đổi lại luật lệ nhưng chưa có cơ hội làm lại. Năm nay, vừa
đúng dịp cũ đã quá kỳ, Giáo phường không có tiền đóng quan dịch nên đã trao đổi
với bản ấp xin tỉnh giảm các lệ đồng thời cùng với các sắc mục hương lão trong ấp
bàn bạc các chi phí”. Hoặc bia Đình môn
bi, tạo năm Cảnh Hưng 22(1761) đặt tại đình Dịch Vọng Sở huyện Từ Liêm đã
ghi rất cụ thể cho lệ hát cửa đình như sau: “ Ngày 20 tháng 2 hàng năm bản giáp
có lệ rước Thánh giá vào hội, ca hát, trong giáp cắt cử hai đào nương, cô đào
phù giá, khi trải chiếu hát không được vắng mặt. Theo chiếu đặt lệ 3 mạch tiền
văn, một mâm xôi, một con gà. Nếu ai phế bỏ điều này thì người khác được trải
chiếu, còn bản giáp thì mất tiền mâm cỗ đó. Đến ngày đặt chiếu vào hội, bản
giáp cắt cử hai ca nương, hai người này cũng không được vắng mặt, nay đặt lệ.Khi
có lễ vào hội ca hát thì bản giáp và bản huyện hoặc nơi có lễ đó có lệ tiền trù
để phát cho các hạng, bản giáp và nơi đó tham gia thi đạt hạng ưu, hạng thứ thì
phát cho mỗi người ba mạch tiền văn, nay đặt lệ.” Những đoạn văn bia như thế đã
gợi nhớ về một Thăng Long hào hoa, về những làng quê ven đô với góc chiếu sân
đình trong những ngày lễ hội, và chúng ta có thể cảm nhận được phần nào không
khí vui vẻ, tưng bừng, có cả đào nương và ca nương về hát ca trù mừng lễ. Cũng
qua đây chúng ta biết được các Giáo phường chuyên đi hát phục vụ ở các cửa đình
bấy giờ thường ỷ vào thế mạnh chuyên môn để gây khó dễ cho các địa phương, tạo
ra những hủ tục nặng nề. Nhưng Giáo phường cũng phải chịu các khoản tạp dịch,
quan dịch từ trên bổ xuống mà nhiều khi họ không đủ kinh phí trang trải, nên đã
phải bán cho nơi đến ca hát những quyền lợi thu được để có tiền nộp quan. Những
vấn đề như vậy khá phổ biến trong văn bia nói chung, và ở Hà Nội còn lại không
ít những bài minh văn nói về quan hệ của Giáo phường với địa phương đến trình
diễn, những dẫn chứng trên chỉ là một phần rất nhỏ trong đó.
Hà Nội còn có khá nhiều bài minh văn đề cập đến tình hình
ruộng đất và sự tranh giành, kiện tụng để được sở hữu những khu đất đang tranh
chấp. Tiêu biểu cho vấn đề này là những văn bản kiện tụng của xã Bát Tràng huyện
Gia Lâm đã được nha môn phủ Thuận An phán xét. Văn bản có niên đại Thịnh Đức
4(1654) đã ghi lại những vấn đề tố tụng về ruộng đất bãi bồi ven sông Hồng của
hai xã Bát Tràng và Đông Cao. Tình hình đó cũng gặp ở văn bia của xã Cổ Loa, xã
Lương Quy huyện Đông Anh. Trong bài văn bia Xã
nội bằng tích viết năm Vĩnh Thịnh 5(1709), đặt tại đền thờ An Dương Vương
xã Cổ Loa cũng ghi lại những vấn đề tranh chấp đất chợ Cầu Sa giữa xã Dục Tú và
xã Cổ Loa. Văn bản này cho biết “ trước điện thờ An Dương Vương có giếng Rửa Ngọc,
từ thượng cổ đến thời điểm đó giếng luôn đầy nước sâu để thả cá phụng sự. Nhưng
trước đó một năm đã bị quan Nội giám đánh bắt cá, lại tát cạn nước nên giếng biến
thành ruộng để con cháu tự động mua bán, cày cấy, phân rác ô uế, gây bất hòa
trong xã. Vì thế bản xã căn cứ vào giao ước, đắp đất xung quanh giếng, chứa đầy
nước, thả cá phụng sự như cũ để dân được an cư, để bền quốc mạch. Nếu ai tự tiện
tát nước, bản xã bắt nộp phạt trâu để lễ tạ Tiên Đế rồi trình lên Thượng quan,
không tha!”
Văn bia khắc năm Cảnh Trị 1(1663) cũng tại
đền Cổ Loa đã ghi các tường trình của quan viên xã thôn trưởng xã Cổ Loa tố cáo
xã Dục Tú cậy đông người, cậy quyền thế đã đem gậy gộc đánh người gần chết, lại
còn đi tố cáo xã Cổ Loa gian lận. Tuy sự việc như vậy nhưng sai nha lại bắt xã
Cổ Loa lên xét hỏi, còn xã Dục Tú lại càng trở nên ngang ngược. Quan viên thôn
trưởng xã ấy nói rằng bản xã có nhiều người giàu có, số hộ đông nên không sợ
pháp luật. Trong một ngày nọ, xã đó đã tổ chức dân binh, lập ra tuần đội chừng
hơn 100 người, đem chiêng trống gậy gộc, mang vũ khí sắc bén, mai phục các nơi
với ý tranh chấp mốc giới, chém cây đa, dựng rào gai chắn, lấp lối đường đi, chửi
bới đánh đuổi người nhưng vẫn đến tố cáo tại nha môn. Do đó xã Cổ Loa tâu xin
lên bản huyện xem xét sự việc sai trái, hoàn trả lại mốc giới, bồi thường cây
đa mà xã bên đã tố cáo sai. Nhưng đã qua hai tháng mà vẫn chưa thấy nha môn
truy gọi xét xử, căn cứ vào các chứng lý để kiểm nghiệm... Câu chuyện này còn
kéo dài cùng với những sự việc cụ thể của cả bên tố cáo và bên bị tố cáo, cuối
cùng là phán quyết của nha môn về từng điều một. Rất thấm thía sự cực nhọc, cay
đắng của việc theo kiện nên năm Vĩnh Thịnh 2(1706) xã Cổ Loa đã làm giao ước để
khắc vào bia đá như sau:
“...Một lần kiện nếu lạm tiền bao nhiêu,
thiếu lương ăn bao nhiêu, bản xã cùng chịu. Nếu có người bị đánh gậy, bản xã chịu
bồi thường mỗi gậy 3 mạch cổ tiền. Người bị búa đánh, bản xã chịu bồi thường mỗi
búa 3 mạch 30 văn cổ tiền. Nếu có người bị giết chết, bản xã chịu bồi thường y
như luật định, mỗi ngày giỗ thịt trâu bò, tế ba năm theo nghi thức, có bao
nhiêu con trai đều được tha cho phu dịch ba đời. Nếu có người tự nguyện chịu phạt,
bản xã chịu bồi thường 100 quan sử tiền, được mua nhiêu cho con trai một đời.
Người đi hầu kiện thắng cho làng, hàng năm bản xã biếu thưởng ba đời, cũng được
tế lễ như vậy. Nay giao ước. Chọn các vị xã trưởng Lại Công Bỉnh, Đề lại Lê
Đăng Thư, cựu xã Lại Công Lập ngày ngày theo kiện. Nếu thắng kiện được thưởng
như đã giao ước.” Từ những nội dung trên văn bia dựng ngay tại chính điện đền Cổ
Loa cho chúng ta thấy sự đấu tranh để tranh giành ruộng đất ở các vùng quê hết sức
phức tạp, nan giải. Công lý nhiều khi không phụ thuộc vào sự đúng sai mà tùy
thuộc vào đồng tiền.
Những văn bia liên quan đến ruộng đất hoặc
lập chợ có ở hầu hết các huyện ngoại thành như Đông Anh, Sóc Sơn, Gia Lâm,
Thanh Trì, Từ Liêm. Bia Nhị xã cộng luận
hội thị bi ký, được soạn năm Vĩnh Thịnh 14(1718) đặt tại chợ Kim xã Lương
Quy huyện Đông Ngàn(nay thuộc xã Cổ Loa) ghi việc hai xã Lương Quy huyện Đông
Ngàn phủ Từ Sơn và xã Xuân Nộn huyện Kim Hoa phủ Bắc Hà cùng mở chợ. Nguyên hai
xã có một phần đất ao và hai thửa ruộng giáp ranh nên đã cùng nhau sửa sang lập
chợ, dựng lều quán để buôn bán cùng hưởng lộc. Vì thế hai xã đặt ra các quy định
lệ chợ “ để từ nay về sau, nếu xã nào nuốt lời có điều ra tiếng vào cũng không
thể sửa đổi lệ chợ được. Người nào tranh chấp địa phận, chiếm đoạt chợ, không
tuân theo cam kết, hai xã cùng suy xét luận tội: bắt nộp một con trâu, một hũ
rượu đặt tại đầu chợ”.
Còn có thể đề cập rất nhiều đến các giá
trị khác của văn khắc Hán Nôm Hà Nội cả khu vực nội thành và ngoại thành. Văn
bia tại từ đường dòng họ Nguyễn ở ở thôn Xa Long xã Đặng Xá huyện Gia Lâm viết
năm Cảnh Hưng 26 (1767) lại cho biết một khía cạnh khác. Đó là ông Nguyễn Sĩ
Trung đã “trải 50 năm phụng sự triều đình, lập công danh ghi vào sử sách; trong
thì kính cẩn phò tá, ngoài thì hành sự rõ ràng. Khi chinh chiến do thám tình
hình địch, đốc thúc quân binh tiến đánh có nhiều công lao; mẫn cán quản lý Thủy
binh, được ban quan tước hiển vinh, thỏa chí bình sinh. Lúc đêm khuya đưa quân
vào đồn Thúy Ái gặp thuyền giặc, dùng pháo tấn công; khiến giặc tơi bời. Như cụ
Tổ khi xưa, từng đi thảo phạt 24 trận ở Hải Dương; đem sức kình nghê mà được
khen thưởng công lao. Rồi lại đi dẹp giặc ở Lạng Sơn, vượt qua 96 ghềnh thác,
cưỡi sóng lớn thừa cơ diệt địch. Khi chinh phạt ở Nghệ An, Thanh Hóa qua vùng
núi hoang vu ở Nam Đàn, Hưng Nguyên; mỗi đồn trú là một lá cờ chỉ huy, mọi công
việc đều hoàn thành chu tất. Do sự cống hiến với nước nhà, có công lao phò trợ
thánh giá, nên ngài được thăng phẩm trật cao sang. Tuy vậy, ngài vẫn không chịu
nhận đó là công lao của mình; chẳng có văn chương nào ghi chép hết, há người
bình thường làm được như vậy sao ? Ngoài việc dụng thủy binh, ngài còn phụ trách việc đóng thuyền;
nửa năm đóng được 10 chiếc, 5 tháng đóng trụ nhuệ 50 cái, hiệp nhuệ 200 cái.
Khi ở Hoan Châu 20 năm, chọn gỗ đóng thuyền binh; mọi việc đều hoàn thành cẩn
thận, không phiền hà đến dân chúng. Ngài lại không tiếc tiền, ruộng ban thưởng,
thu xếp công việc ổn thỏa.” Đoạn văn bia đó cho thấy ông là một người có tài cả
trong chinh chiến và trong việc xây dựng củng cố quốc phòng, cụ thể là việc
đóng thuyền chiến. Công lao của ông to lớn như vậy nên khi ông về nghỉ hưu ở tuổi
67, Vua Lê Cảnh Hưng đã ban cho ông một bài thơ khen và các bạn bè đã làm thơ
ca ngợi tặng ông nhân ngày ông về nghỉ hưu. Tất cả những điều này hiện vẫn còn
được lưu lại trên bia đá của từ đường dòng họ.Đây là bài thơ vua Lê Hiển Tông
ban cho ông.
“ Phụng ban thi,
Phục lao vu ngoại hứa đa
niên,
Hoàn cục như kim lạc cẩm
triền.
Sĩ hải ba đào khinh nhất
trạo,
Thánh ân vũ lộ đính trùng
thiên.
Nam châu thảo mộc lưu dư
khánh,
Bắc dã y quan xỉ thắng
diên.
Cự tiếp trường xuyên do hệ
vọng,
Vị ưng quắc thước lão lâm
tuyền.
Cảnh Hưng nhị thập lục niên,
quí Thu tam cửu đề.
Nghĩa là:
Vất vả gian lao, nhiều
năm phục vụ nơi biên ải,
Xong việc trở về, nay thật
yên vui.
Vượt biển sóng to bằng
mái chèo nhẹ,
Ơn huệ mưa móc cao ngất tầng
trời.
Đến cây cỏ phương Nam còn
ghi công tích,
Áo mũ của phương Bắc, làm
phí cả tiệc vui.
Mái chèo lớn vượt sông
xa, bằng niềm tin tưởng,
Chưa làm ông già quắc thước
nơi suối rừng.
Thơ đề ngày 3 tháng 9 cuối mùa Thu, niên hiệu Cảnh
Hưng thứ 26 (1765)”[8].
Không đâu trên đất nước này có nhiều loại di tích lịch sử,
văn hóa có ý nghĩa như ở Hà Nội. Đền Cổ Loa là một di tích lâu đời nhất, có ý
nghĩa quốc gia, ngôi đền này gắn với nhà nước Âu Lạc, với An Dương Vương, chuyện
nỏ thần và câu chuyện tình bi thảm của Mỵ Châu – Trọng Thủy. Những tư liệu còn
lại đã phần nào cho chúng ta thấy công
tích của tiền nhân. Văn bia viết năm Vĩnh Thịnh 6(1710) tại đền Cổ Loa đã ghi về
vị trí của ngôi đền này như sau: “ Trong loại đền thờ Tứ Tiên ở nước Đại Việt
ta thì đền Cổ Loa là thứ nhất...” Bên cạnh đền Cổ Loa thờ An Dương Vương, Hà Nội
còn có đền Sóc thờ Thánh Gióng, đền Tản Viên thờ đức Thánh Tản Viên... những
ngôi đền đó đều có lịch sử rất lâu đời. Những di tích như thế là nơi văn khắc
Hán Nôm được tạo dựng và lưu giữ. Hy vọng trong một điều kiện khác chúng ta sẽ
có thể giải mã được nhiều hơn nữa các bài văn khắc Hán Nôm của Hà Nội để các
nhà nghiên cứu và những ai yêu quý Thăng Long có thêm nhiều tư liệu hay và quý
về mảnh đất Thăng Long nghìn năm văn hiến.
5. Về các tác giả biên soạn văn bản
Một
trong những nhân tố quan trọng góp phần tạo nên giá trị cho các bài minh văn khắc
trên bia đá, chuông đồng của Hà Nội là các tác giả soạn văn bia. Có thể kể đến
rất nhiều người nổi tiếng, văn chương và sự nghiệp lừng lẫy một thời như: nhà sử
học Lê Tung, Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan, Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính, Trạng
nguyên Nguyễn Đăng Đạo, Thám hoa Vũ Thạnh, Thám hoa Bùi Huy Bích, Tiến sĩ Hồ Sĩ
Dương... hay những bậc danh sĩ nổi tiếng ở
Bắc Hà như Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Phạm Quý Thích, Nguyễn Văn
Lý.v.v... Có nhiều vị Tiến sĩ có lẽ ta chỉ gặp tên họ trên bia đá nhưng nhiều
khi họ lại cũng không ghi tên thật, chỉ ghi họ, khoa thi đỗ, chức tước, quê
quán nhưng phần quê quán cũng bị tỉnh lược rất khó đoán. Chẳng hạn phần tác giả
soạn văn bia Cao Sơn Tây Hưng miếu được
ghi như sau: Tứ Ất Sửu khoa đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất than, Cẩn sự lang,
Thanh Hoa đạo Giám sát Ngự sử, Kinh Từ Đông Hoa Đỗ Phủ soạn. Nghĩa là: Ông họ Đỗ, đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất
thân, chức Cẩn sự lang, Giám sát Ngự sử đạo Thanh Hoa, quê xã Hoa Lâm huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn xứ(
đạo) Kinh Bắc soạn văn bia. Hay tác giả soạn văn bia Nghĩa Phê tạo đình bi ký đặt tại đình Đông Các cũng ghi khá tỉnh lược
như sau: Tứ Canh Tuất khoa đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất than, Đặc tiến kim Tử
Vinh Lộc đại phu, Bồi tụng Binh bộ Tả Thị lang, Thọ Giang tử, Cẩm Giang Nghĩa
Phú Nguyễn độn soạn. Nghĩa là: Ông họ Nguyễn dốt nát, người xã Nghĩa Phú
huyện Cẩm Giang, tước là Thọ Giang tử, giữ chức Bồi tụng Binh bộ Tả Thị lang, Đặc
tiến Kim Tử Vinh Lộc đại phu, đỗ đệ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh
Tuất soạn. Những nhà khoa bảng mà chúng ta không rõ sự nghiệp của họ nhưng
do họ là tác giả soạn văn bia mà chúng ta may mắn biết đến họ. Có thể kể rất
nhiều, như Tiến sĩ
Nguyễn Giản giữ chức Cẩn sự lang,
Quốc Tử Giám Lễ
ký, kiêm chức Tự Thừa ở Thái
Thường tự đã soạn văn bia chùa
Nga My năm Hồng Đức 28(1497). Nguyên văn: Tứ Tiến
sĩ Cẩn sự
lang Quốc Tử Giám
Lễ ký kiêm
Thái Thường tự Tự Thừa
Nguyễn Giản soạn
Ở dòng ghi chức vụ của vị Tiến sĩ này chúng ta biết
thêm một chức danh mới là Quốc Tử Giám Lễ
ký và chức Tự Thừa, trên các bia niên đại Lê trung hưng ta thường bắt gặp chức
Thái Thường tự khanh mà ít gặp chức Tự
Thừa. Có nhiều chức danh chỉ xuất hiện trên văn bia, đó là những tư liệu thật
quý để nghiên cứu về quan chức, chức danh, nhân danh.
Như vậy, với tư liệu văn khắc Hán Nôm của
Hà Nội, chúng ta có thể tìm thấy trong đó rất nhiều giá trị về nội dung . Chúng
ta có thể tìm hiểu về địa danh, nhân danh, chức danh, có thể tìm hiểu về tôn
giáo, tín ngưỡng, về các danh thắng, về tình hình ruộng đất và việc giao thương
buôn bán, về sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt cộng đồng của người dân Thăng Long
trong 10 thế kỷ xây dựng và phát triển. Đó là nguồn tư liệu tổng hợp của Hà Nội
từ nhiều thời kỳ khác nhau cùng viết về Thăng Long – Hà Nội. Đó còn là nguồn tư
liệu có giá trị về nghệ thật với hình thức biểu hiện rất phong phú và đa dạng.
Những cảnh trí thiên nhiên cùng cỏ cây, hoa lá, chim thú đều được các nghệ sĩ
dân gian đưa lên trang trí trên văn bia khá sinh động. Hoa văn trang trí trên
văn bia Hà Nội nói riêng, văn bia Việt Nam nói chung có sức biểu cảm cao, đặc sắc,
khác hẳn với trang trí hoa văn trên văn bia của Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản
là những nước đồng văn với chúng ta trong quá khứ.
Thật khó để giới thiệu hết những giá trị
mà văn khắc Hán Nôm Hà Nội chuyển tải, vì thế chúng tôi mới đưa ra một số phác
họa ban đầu. Hy vọng quý vị độc giả có thể tìm thấy rất nhiều những khía cạnh
có giá trị khác trong từng bài minh văn mà chúng tôi sẽ giới thiệu sau đây. Mặc
dù nhóm công trình đã cố gắng hết sức để có thể đảm bảo chất lượng bản dịch
nhưng với loại hình tư liệu văn bia và minh văn trên chuông là một thử thách rất
lớn. Khôn văn tế,dại văn bia đó là
câu mà các nhà nho học đã truyền lại, bởi lẽ văn bia rất khó, nó có nhiều điển
tích, điển cố mà không phải lúc nào chúng ta cũng có thể giải mã chính xác được.
Do đó chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ giáo của các bậc thức giả xa gần để tập
sách được hoàn chỉnh hơn.
Cuối cùng thay mặt nhóm tác giả cùng
công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, chúng tôi
xin gửi lời cảm ơn tới Viện Việt Nam học và khoa học phát triển thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội và Nhà xuất bản Hà Nội đã tạo điều kiện để bản thảo Tuyển
tập văn khắc Hán Nôm Hà Nội có thể ra mắt bạn đọc trong dịp kỷ niệm
chào mừng Thăng Long – Hà Nội ngàn năm tuổi.
Hà Nội , Xuân Canh Dần
Chủ nhiệm đề tài
TS. Phạm Thị Thùy
Vinh
[1] Gồm các quận: Ba Đình,Hoàn Kiếm,Đống Đa, Hai Bà Trưng,Thanh Xuân,
Hoàng Mai,Cầu Giấy,Long Biên,Tây Hồ và các huyện: Từ Liêm,Thanh Trì, Gia Lâm,
Đông Anh,Sóc Sơn.
[2] Sở dĩ có sự chênh lệch như vậy vì một đơn vị văn khắc có thể có từ
một đến bốn hoặc sáu ký hiệu,mỗi một ký hiệu tương ứng với một mặt của thác bản
văn khắc.
[4] Chuông do Phạm Văn Thắm phát hiện năm 1987.
[5] Xem Văn khắc Hán Nôm Việt Nam
từ Bắc thuộc đến thời Lý, Viện Viễn Đông bác cổ Pháp và Viện Nghiên cứu Hán
Nôm xuất bản năm 1998
[6] Xem Nhật Tảo cổ chung minh
trong Văn khắc Hán Nôm Việt Nam từ bắc thuộc đến thời Lý, trang 47
[7] Ở đây chúng tôi chưa đề cập đến các minh văn trên đất Hà Tây cũ và
huyện Mê Linh. Trong phần tuyển dịch chúng tôi có chọn 10 bài minh văn của Hà
Tây cũ nhưng chưa đủ khái quát để giới thiệu.
[8]. Về nhân vật Nguyễn Sĩ Trung có thể có nhiều cách nhìn nhận đánh
giá khác nhau. Nếu xét dưới góc độ một quan chức của triều đình thì ông đã hoàn
thành xuất sắc công việc được giao. Nhưng nếu xét theo khía cạnh khác thì đây lại
là nhân vật đã tham gia đàn áp khởi
nghĩa nông dân trong thế kỷ 18. Tuy nhiên, chúng tôi muốn căn cứ theo nội dung
văn bản còn lại trong từ đường để công bố những thông tin liên quan đến ông,
còn việc đánh giá về nhân vật Nguyễn Sĩ Trung xin nhường lại cho các nhà nghiên
cứu lịch sử.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét