Bài giới thiệu trong Thông báo Hán Nôm học
2013
TƯ
LIỆU HÁN NÔM ĐỀN KÍNH THIÊN XÃ LẠI YÊN, HOÀI ĐỨC, HÀ NỘI.
Nguyễn Đức Toàn[1]
Thích Minh Tín[2].
Xã
Lại Yên huyện Hoài Đức thành phố Hà Nội xưa là xã Lại Yên huyện Đan Phượng có
ngôi đền cổ từ rất lâu đời. Theo truyền thuyết, đền có từ thời Hùng Vương, do lạc
tướng bộ Chu Diên cho tạo dựng. Nó phản ánh phong tục,
tín ngưỡng thờ Trời của cư dân Việt cổ. Ngôi đền có tên chữ Hán là 敬天臺 (Kính thiên đài). Đền còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị, trong
đó chúng tôi quan tâm đến tư liệu văn khắc trên hoành phi câu đối, bia đá tại
đây. Đến khảo sát tại di tích chúng tôi có nhận xét thấy đền hiện còn 21 đôi
câu đối cổ khắc trên các chất liệu gỗ và tường vôi, 2 văn bia có giá trị. Trong
đó có 1 văn bia ghi niên đại đời Trần năm Hưng Long thứ 20 (1312) do Trương Hán
Siêu soạn; 1 văn bia đề 2 niên đại Gia Long 15 (1816) và Thành Thái 13 (1901).
Sau khi khảo cứu niên đại văn bản, chúng tôi cho rằng văn bia đời Trần là văn
bia được khắc lại vào đợt trùng tu sau này năm Gia Long 15 (1816). Dựng thành 2
bia, 1 bia khắc lại nguyên văn văn bia đời Trần, phụ thêm các đạo sắc phong từ
năm Thuận Thiên thứ 7 (1016), đến năm Thành Thái 13 (1901), nhân dân xã Lại Yên
lại cho khắc tiếp những đạo sắc phong của đền từ năm Quang Trung thứ 5 (1792) đến
năm Đồng Khánh 2 (1887). Chúng tôi xin giới thiệu nguyên văn và dịch nghĩa nguồn
tư liệu Hán Nôm của đền Lại Yên qua văn bia câu đối, cung cấp thêm tư liệu dịch
văn khắc về một di tích cổ có giá trị cho Thông báo Hán Nôm học năm 2013.
Chúng tôi không chụp được đủ toàn ảnh những cũng xin đăng lên cho có "vật chứng"
CÂU
ĐỐI QUÁN KÍNH THIÊN
I.
TRONG ĐỀN
ĐẠI TỰ(bên trong):
聖 躬 萬 歲
Thánh
cung vạn tuế
Thánh
cung muôn tuổi
左班Tả ban 右班Hữu ban
Ban trái
Ban phải
CÂU ĐỐI:
Đền Thượng
1. 欽 造 敬 天 臺 鴻 氏 千 秋 留 勝 跡 ;
魏 然 顯 聖 廟 鳳 城 終 古 濯 靈 聲 。
Khâm tạo
Kính Thiên đài Hồng
thị thiên thu
lưu thắng tích ;
Nguỵ nhiên
hiển Thánh miếu
Phượng thành chung
cổ trạc linh
thanh .
Kính tạo đài Kính Thiên, họ Hồng Bàng nghìn thu còn dấu cũ;
Đền Trung:
2.勝 地 猶 傳 遊 覽 昔 曾 邀 帝 輦 ;
純 禧 疊 沛 平 安 今 共 荷 神 庥 。
Thắng địa
do truyền du lãm
tích tằng yêu đế liễn ;
Thuần hy điệp bái
bình an kim cộng hà thần hưu .
Thắng địa còn truyền chốn lãm du đã từng nơi vua đến;
3.丹 鳳 煥 靈 祠 陳 氏 重 修 伊 始 ;
朱 鳶 傳 將 烈 雄 王 六 世 以 來 。
Đan Phượng
hoán linh từ Trần thị
trùng tu y thuỷ ;
Chu Diên
truyền tướng liệt Hùng
vương lục thế
dĩ lai .
Đền thiêng đất Đan Phượng, họ Trần trùng tu như cũ;
Dòng tướng cõi Chu Diên, thời Hùng vương thứ 6 đến nay.
Hoặc
có thể dịch là:
Đan Phượng sáng ngời, đền thiêng nhà Trần
trùng tu từ đấy ,
Đền Hạ:
4.最 秀 最 靈 李 氏 褒 封 存 故 典;
是 尋 是 尺 陳 朝 修 造 煥 新 祠。
Tối tú tối linh
Lý thị bao
phong tồn cố điển
;
Thị tầm thị xích
Trần triều tu tạo hoán
tân từ .
Rất đẹp rất thiêng, triều Lý bao phong còn rõ điể;
5.雄 貉 肇 禋 初 四 位 三 星 臨 勝 地 ;
李 陳 封 表 后 千 秋 萬 古 顯 靈 祠 。
Hùng Lạc
triệu nhân sơ tứ vị tam
tinh lâm thắng
địa;
Lý Trần
phong biểu hậu
thiên thu vạn cổ hiển
linh từ.
Thời Hùng Lạc mới gây nền, bốn vị ba sao chầu đất thánh;
6.赤 氣 橫 空 鴻 貉 臺 日 星 千 古 ;
玄 功 報 捷 陳 國 朝 風 雨 一 碑 。
Xích khí
hoành không Hồng Lạc
đài nhật tinh
thiên cổ ;
Huyền công
báo tiệp Trần
quốc triều phong
vũ nhất bi .
Vầng khí đỏ ngang trời cao, đài Hồng Lạc như nhật tinh soi muôn thửa;
敬 天 傳 勝 跡 賴 安 今 古 屹 高 臺 。
Hộ quốc
trứ linh thanh
đắc sở giang
sơn ba trật tự ;
Kính Thiên
truyền thắng tích Lại Yên
kim cổ ngật
cao đài .
Giúp nước hiển danh một thửa, núi sông còn ghi thờ tự;
8.萬 古 此 江 山 鼓 旗 森 立 劍 印 埃 排 幾 度 巡 遊 留 勝 跡 ;
一 方 是 主 宰 民 國 護 安 陰 陽 默 祐 歷 朝 致 祭 列 方 碑 。
Vạn cổ thử giang
sơn cổ kỳ
sâm lập kiếm ấn ai
bài kỷ độ tuần du
lưu thắng tích ;
Muôn thửa ấy giang sơn, trống cờ lẫm liệt, kiếm ấn an bài, mấy độ tuần du nơi thắng địa;
9.民 賴 安 居 其 必 公 侯 復 始 ;
神 得 所 止 到 處 江 山 護 持 。
Dân Lại
Yên cư kỳ tất công hầu phục thuỷ ;
Thần đắc sở chỉ
đáo xứ giang
sơn hộ trì .
Dân cũng nhờ yên ấm, ắt được công hầu như cũ;
10.貉 國 舊 山 河 英 靈 儼 在 ;
南 天 懸 日 月 影 象 如 新 。
Lạc quốc tịch sơn
hà anh linh nghiễm
tại ;
Nam thiên
huyền nhật nguyệt
ảnh tượng như
tân .
Nước Hồng Lạc nhờ núi sông, anh linh như còn đấy;
II. KHU TƯỜNG
NGOÀI:
Tường Ngoài Đền
Hạ
11.向巽坐乾依舊址;
前台後岳屹靈祠。
Hướng tốn toạ kiền y cựu chỉ;
Tiền đài hậu nhạc ngật linh từ.
Mặt hướng Tốn, ngồi dựa Kiền, nguyên dấu cũ;
12.靈應猶傳千古在;
恩光普照萬家春。
Linh miếu do truyền thiên cổ tại;
Ân quang phổ chiếu vạn gia xuân.
Linh miếu còn truyền nghìn năm đấy;
Ân quang khắp chiếu vạn nhà vui.
13. 特地起樓臺古雄將一初奉造;
擎天標棟柱皇啟定五歲重修。
Kình thiên tiêu đống trụ hoàng Khải Định ngũ tuế trùng tu;
Đặc địa khởi lâu đài cổ Hùng tướng nhất sắc phụng tạo.
Trụ cột chống lưng trời, trùng tu từ năm hoàng
Khải Định thứ 5[3];
Lâu đài vươn đất cổ, vâng sắc dựng tự thời
Hùng tướng đến nay.
Hai đôi này chúng tôi không chụp được nguyên trạng. Nhưng tư liệu chép tay tại di tích còn ghi lại đủ
Hai đôi này chúng tôi không chụp được nguyên trạng. Nhưng tư liệu chép tay tại di tích còn ghi lại đủ
ĐẠI TỰ:
敬 天 臺
KÍNH THIÊN ĐÀI
Đài Kính Trời
14.古 是 敬 天 台 矗 矗 巍 巍 四 位 星 排 標 勝 地 ;
今 為 顯 聖 廟 赫 赫 濯 濯 千 秋 祀 享 儼 靈 祠 。
Cổ thị
Kính Thiên đài súc
súc nguy nguy tứ vị
tinh bài tiêu thắng
địa ;
Kim vi hiển thánh
miếu hách hách
trạc trạc thiên
thu tự hanh
nghiễm linh từ .
Xưa đài Kính Thiên, đột ngột nguy nga bốn vị sao chầu nêu đất thánh;
15.擎 天 柱 一 新 聖 德 巍 峨 並 峙 ;
振 古 靈 如 在 神 功 彪 炳 長 留 。
Kình thiên
trụ nhất tân
thánh đức nguy
nga tịnh trĩ ;
Chấn cổ
linh như tại thần công
bưu bính trường lưu
.
Trụ Kình thiên đổi mới, đức thánh cao vời cùng sừng sững;
16. 樹立箇開一級又一層八廟趍蹌顒聖德;
依然漂闥至尊而至敬登臺仰望凜神威。
Y nhiên phiêu thát chí tôn nhi chí kính đăng đài ngưỡng vọng lẫm thần
uy;
Thụ lập cá khai nhất cấp hựu nhất tằng bát miếu xu thương ngung thánh đức.
Sừng sững vút trời, rất tôn mà rất kính, lên
đài xa ngắm ngưỡng vọng uy thần;
17.立高門寔寔枚枚溯崇臺雄貉造前至今為烈;
肇厥祀濟濟蹌蹌歷顯廟李陳修後從古以來。
Lập cao môn thực thực mai mai tố sùng đài Hùng Lạc tạo tiền chí kim vi
liệt;
Triệu quyết tự tế tế thương thương lịch hiển miếu Lý Trần tu hậu tùng cổ
dĩ lai.
Dựng cửa cao, vững vững bền bền, vút đài lớn từ đời Hùng Lạc tạo trước, đến nay vẫn tráng
liệt;
18.脈從傘嶺而來群山繞後眾水朝前殿外迴環隆氣勢;
門自保大創造四面玲瓏八牕洞達廟堂屹立壯觀瞻。
Mạch tùng Tản lĩnh nhi lai quần sơn nhiễu hậu chúng thuỷ triều tiền điện
ngoại hồi hoàn long khí thế ;
Môn tự Bảo Đại sáng tạo tứ diện linh lung bát song đỗng đạt miếu đường
ngật lập tráng quan chiêm .
Mạch từ non Tản kéo về, muôn non bọc hậu, muôn
nước trầu trên, ngoài điện quanh co tăng khí thế ;
Cửa từ năm Bảo Đại sửa sang, bốn phía lung
linh, tám bề thông đạt, miếu đường sừng sững ngắm coi xem.
19.廟宇巍峨瞻者敬;
靈祠赫濯仰彌高 .
Miếu vũ nguy nga
chiêm giả kính;
Linh từ hách trạc
ngưỡng di cao.
Miếu mạo nguy nga xem mà lòng kính trọng;
20.辛 戌 龍 行 四 顧 丘 山 形 鎖 鑰 ;
旺 生 水 聚千 秋 廟 宇 顯 威 靈 。
Tân Tuất long
hành tứ cố
khâu sơn hình
toả thược ;
Vượng sinh
thuỷ tụ thiên
thu miếu vũ hiển uy
linh
Hướng Tân Tuất rồng đi, bốn phía núi non hình khóa sắt;
21.革 故 鼎 新 一 境 人 皆 得 所 ;
乾 開 坤 闔 億 年 民 共 賴 安 。
Cách cố đỉnh tân nhất cảnh
nhân giai đắc sở ;
Càn khai khôn hạp ức
niên dân cộng lại an .
Sửa sang đổi mới, một cảnh người người đều thỏa;
Nguyên văn chữ
Hán bia 1:
Mặt 1 . bia 1
古 跡 神 祠 碑 記
石 碑 之 立 , 以 錄 事 跡 , 以 徵 功 德 云 耳 。 想 初
天 神 王 祠 下, 粵 自 雄 王 六 世 , 朱 鳶 部 雒 將 奉 造 乾 巽 向
敬 天 臺 , 每 歲 初 春 , 恭 行 奉
天 大 禮 。 如 有 水 旱 災 變 , 民 間 祈 禱 , 輒 靈 應 焉 。 逮 夫 先 朝
順 天 七 年 春 , 帝 省 覽 山 川 , 拜 封
當 境 城 隍 至 明 大 王 。 厥 後 , 歷 代 諸 帝 有 修 造 ○ 神 祠 , 有 封 贈
神 敕 。 蕩 蕩 乎 , 巍 巍 乎 , 一 等 威 靈 矣 仰 今
聖 帝 陛 下 , 位 儼 九 重 , 躬 端 萬 化 。 為 子 孫 長 久 之 計 , 追 思 夙 願 , 以 顯 神 功 ○ 詔 攽 錢 參 百 緡 , 特 差 修 理 。 仰 見 工 完 , 鳩 集 式 示 規 程 。 此 億 萬 年 之 功 德 也 , 有 若 是 夫 。 且 修 文 德 以 恢 平 治 之 功 ; 以 造 神 祠 , 以 展 敬 誠 之 意 。 于 以 衍 宗 社 無 疆 之 福 , 乃 編 錄 古 今 事 跡 詳 勒 于 珉, 以 垂 萬 世 。
謹 拜 手 稽 首 而 銘 曰 ﹕
凜 然 靈 廟
赫 赫 天 顏
今 來 古 往
虎 踞 龍 蟠
精 英 萬 紀
輝 妙 兩 間
廟 利 假 萃
盥 有 孚 觀
積 之 歲 久
幾 致 苔 蔓
欽 哉 ○ 時 命
理 作 初 完
規 模 輪 奐
錦 繡 青 丹
維 茲 功 德
巋 彼 高 山
神 之 靈 應
國 以 尊 安
綿 洪 寶 祚
永 奠 石 磐
天 地 長 久
銘 錄 不 刊
時 興 隆 二 十 年 壬 子 冬 十 一 月 二 十 日
Mặt 2 . bia 1
歷 代 加 攽 附 記
順 天 七 年 春 二 月 十 五 日 ○ 敕 封 當 境 城 隍 至 明 大 王
大 定 六 年 秋 七 月 二 十 日 ○ 詔 攽 錢 一 百 十 五 緡 修 造 神 祠
天 資 嘉 瑞 四 年 三 月 十 一 日 ○ 敕 封 大 王 ○ 與 列 ○ 武 廟 國 祭
元 豊 二 年 十 二 月 初 八 日 ○ 詔 發 錢 五 十 緡 , 裝 飭 神 祠
興 隆 七 年 二 月 初 六 日 ○ 奉 攽 令 例 春 祭 錢 , 遞 年 參 十 貫 , 以 申 敬 意
敕 當 境 城 隍 至 明 大 王 ﹕
精 儲 太 一 , 德 備 陰 陽 。 捍 宦 禦 災 , 納 民 生 於 春 壽 ; 顯 休 錫 福 , 奠 國 祚 於 泰 磐 。 既 多 相 佑 之 功 , 蓋 舉 褒 揚 之 典 。 為 功 扶 皇 家 長 久 , 福 護 帝 業 綏 休 。 陰 助 國 王 平 定 南 陲 , 勦 除 逆 命 ; 擒 獲 逆 俘 名 制 至 , 收 獲 象 馬 器 械 銃 磾。 取 勝 萬 全 , 奠 安 天 下 。 收 復 山 川 一 統 , 稔 有 靈 應 。 可 加 封 當 境 城 隍 至 明 大 王 , 上 列 國 祭 及 押 衙 公 主 陸 妃 娘 同 配 祀 。 故 敕
興 隆 二 十 年 六 月 十 七 日
特 差 惠 武 王 陳 國 瑱 詔 旨
翰 林 學 士 張 漢 超 奉 編 錄
Dịch nghĩa:
Mặt 1 . bia 1
BIA CỔ
TÍCH ĐỀN THẦN[4]
BIA GHI CỔ TÍCH ĐỀN
THẦN
Bia đá được lập nên, là để ghi chép lại sự tích cũ,
là để nêu gương công đức
lên vậy.
Trộm nghĩ xưa, đền thờ Thiên Thần
vương, từ đời Hùng Vương thứ sáu, do Lạc tướng[5]
ở bộ Chu Diên phụng mệnh xây dựng đài
Kính Thiên theo hướng Tây Bắc – Đông Nam[6].
Hàng năm đầu xuân, kính cẩn tiến hành đại
lễ tế trời. Nếu như có thiên tai biến họa lũ lụt hạn hán,
dân gian
cầu đảo, thì rất là linh ứng. Đến
đời triều (Lý) trước, năm Thuận
Thiên thứ 7 (1016)[7],
nhà vua đến thăm viếng cảnh núi sông, phong thần là Đương
cảnh thành hoàng Chí
Minh đại vương.
Về sau, các vua đều cho tu tạo đền, có sắc phong
thần. Lớn lao thay, lồng lộng
thay ngôi cao uy linh đệ nhất!
Cúi nay, thánh
đế bệ hạ, ngồi
ngôi cao nơi chín bệ[8],
thân hành đoan chính giáo hóa vạn dân[9]. Cầu mưu kế lâu dài cho con cháu muôn đời,
truy ân đời trước, để làm rạng rỡ công lớn, ra chiếu ban tiền 300 sâu[10],
đặc mệnh sai tu sửa (đền). Nghiêng mình kính cẩn thấy công việc được hoàn
thành, quy trình gồm đủ. Được như vậy thì công đức lớn của muôn vạn năm, có thể được như thế chăng!. Lại thêm (đời chúa thánh) dùng văn đức để
dựng công trị bình thịnh vượng; đã tạo đền thần để tỏ lòng thành kính, và lại để
nối dài phúc lớn vô cùng cho xã tắc trăm họ, cho tổ tông muôn đời. Vậy biên
chép lại việc tích cũ xưa nay, khắc tỏ vào đá để lưu truyền muôn vạn đời.
Kính cẩn chắp
tay cúi đầu ghi lời minh rằng:
Lẫm liệt miếu
thiêng,
Lẫy lừng nhan thánh.
Nay đến xưa qua,
Hổ ngồi rồng
cuộn.
Tinh
anh muôn thửa,
Rực sáng hai bên.
Vua khai đức hiếu,[11]
Lễ Quán đáng xem.[12]
Năm tháng lâu dài,
Rêu phong mấy độ.
Kính thay thời
mệnh,
Lẽ dựng vừa
tròn.
Qui mô đổi mới,
Vóc gấm huy hoàng.
Duy công đức
ấy,
Sánh tày núi non.
Thần có linh ứng,
Thế nước vững yên.
Mệnh mạch nối liền,
Chắc như bàn đá.
Cùng mãi đất trời,
Lời Minh
không mòn.
Ngày 20 tháng 11 mùa đông năm Nhâm Tý niên hiệu
Hưng Long thứ 20 (1312)[13].
Mặt 2 . bia 1
PHỤ GHI GIA BAN SẮC TẶNG CỦA CÁC ĐỜI
Ngày 15 tháng 2, xuân năm Thuận Thiên
thứ 7 (1016)[14] sắc
phong Đương cảnh
thành hoàng Chí Minh đại vương.
Ngày 20 tháng 7, thu năm Đại Định
thứ 6 (1145)[15] chiếu
ban tiền 115 sâu để tu
tạo đền thần.
Ngày 11 tháng 3 năm Thiên Tư
Gia Thuỵ thứ 4 (1189)[16]
sắc phong Đại
vương và cho lệ quốc tế với
Vũ miếu[17]
Ngày mùng 8 tháng 12 năm Nguyên Phong
thứ 2 (1252)[18]
chiếu phát tiền
50 sâu để sửa chữa đền thần.
Ngày mùng 6 tháng 2 năm Hưng Long thứ 7 (1299)[19] phụng
ban lệnh cho lệ tiền tế xuân
hàng năm 30 quan để tỏ ý kính.
Sắc làm
Đương cảnh thành
hoàng Chí Minh đại
vương rằng:
Tinh anh
thái nhất[20], đức đủ âm
dương[21]. Trừ tai trục họa, đưa chúng dân lên đài xuân
cõi thọ, tỏ rõ phúc đức đặt mệnh nước vững yên như bàn đá. Đã nhiều lần có công
giúp đỡ, đáng đưa vào điển báo đáp nêu dương. Có công giúp cho hoàng gia được lâu dài, phúc bảo hộ nghiệp vua thịnh trị. Ngầm giúp Quốc vương
ta bình định phương nam,
tiễu trừ quân trái mệnh; bắt được kẻ nghịch là Chế Chí[22], thu hoạch được voi ngựa khí giới
súng đạn. Thủ thắng vẹn tuyền,
vững yên thiên hạ. Thu phục cho non sông
nhất thống, rất là
linh ứng. Đáng gia
phong là Đương cảnh
thành hoàng Chí Minh đại vương,
trên bàn cho được dự lệ quốc tế cùng Áp Nha
công chúa Lục Phi nương
cùng được phối thờ.
Vậy sắc
Ngày 17 tháng 6 năm Hưng Long thứ 20 (1312).
Đặc sai
Huệ Vũ
vương Trần Quốc
Trẩn[23] ban chiếu
chỉ
Hàn Lâm học
sĩ Trương Hán
Siêu[24] phụng
biên chép sự tích.
Phụ lục ảnh
BIA 2
Nguyên văn
bia 2:
Mặt 1. bia 2
嘉 隆 十 五 年 二 月 日 賴 安 社
述 古 跡 前 碑 記
丹 鳳 之 賴 安 自 古 崇 奉 天 神 當 境 城 隍 至 明 大 王 , 中 間 有 ○押 衙 公 主 陸 妃 娘 配 祀 焉 考 之 事 跡 乃 ○ 陳 朝 興 隆 二 年 特 差 惠 武 王 奉 旨 脩 造 其 編 錄 蓋 翰 林 學 士 張 漢 超 詳 考 之 文 也 碑 後 附 記 歷 朝 祀 典 敕 命 以 垂 不 朽 第 褒 贈 之 多 尒 能 備 悉 。
皇 朝 嘉 隆 年 間 仝 社 重 脩 廟 宇 事 訖 正 豎 石 碑 續 刻 累 朝 加 封 美 字 請 余 弁 數 仍 考 之 舊 錄 遂 □ □ □ 凡 自 陳 朝 功 德 以 上 則 見 于 左 石 碑 存 ○ 黎 朝 景 統 三 年 以 來 詔 敕 美 字 附 刻 于 有 石 碑 以 垂 來 世 。
詔 曰 ﹕ 古 之 有 功 於 民 者 祀 之 , 能 捍 菑 禦 患 者 則 祀 之 , 古 今 同 此 理 也 。 近 者 , 經 旬 不 雨 恐 有 放 農 。 念 茲 賴 安 社 神 祠 □ 者 靈 應 。 特 命 致 禱 , 顯 有 效 靈 可 加 攽 公 本 錢 壹 百 五 拾 緡 脩 造 功 德 爾 禮 部 守 令 等 其 審 思 之 伸 飭 宣 行 務 □ □ 俗 好 以 慰 朕 心 。 欽 哉 特 ○ 詔
景 統 三 年 六 月 初 六 日
敕 當 境 城 隍 至 明 大 王 及 押 衙 公 主 陸 妃 娘 乾 健 体 行 坤 貞 恪 迪 。 鍾 陰 陽 之 二 氣 顯 有 靈 威 。 扶 社 稷 之 億 年 衍 無 疆 之 慶 。 功 宜 多 相 佑 , 禮 宜 舉 褒 封 。 為 力 扶 ○ 皇 家 長 久 , 默 相 ○ 王 業 □ 傳 。 陰 助 ○ 世 子 晉 持 封 節 制 國 公 奉 差 乂 安 處 統 領 官 威 武 奮 揚 兵 甲 精 銳 擒 得 賊 俘 名 顯 斬 得 賊 馘 收 得 賊 象 馬 器 械 銃 磾 取 勝 萬 全 收 復 江 山 一 統 稔 有 靈 應 可 加 封 當 境 城 隍 至 明 護 國 安 民 大 王 及 押 衙 柔 嘉 懿 行 公 主 陸 妃 娘 。 故 敕
永 壽 三 年 十 一 月 十 九 日
景 統 二 年 正 月 二 十 日 奉 攽 令 諭 春 祭 禮 每 年 准 錢 三 十 貫 以 壽 國 脈
永 慶 三 年 三 月 二 十 日 奉 加 封 ○ 駿 功 隆 澤 大 王 及 ○ 助 順 宣 靈 公 主 陸 妃 娘
景 興 元 年 七 月 二 十 四 日 奉 加 封 ○ 宣 哲 神 武 大 王 及 ○ 端 一 莊 慈 公 主 陸 妃 娘
景 興 二 十 八 年 八 月 初 八 日 奉 加 封 ○ 獲 慶 蒙 休 大 王 及 ○ 孚 感 妙 應 公 主 陸 妃 娘
景 興 四 十 四 年 五 月 十 六 日 奉 加 封 ○ 綏 祿 □ 胤 大 王 及 ○ 莊 行 敘 儀 公 主 陸 妃 娘
景 興 四 十 四 年 □ □ □ 二 十 六 日 奉 加 封 ○ 垂 禧 濟 世 崇 康 大 王 及 ○ 聯 芳 貞 正 徽 柔 公 主 陸 妃 娘 大 王
昭 統 元 年 三 月 □ □ □ 日 奉 加 封 ○ 英 敏 果 斷 剛 明 大 王 及 ○ 端 莊 徽 聲 妙 貺 公 主 陸 妃 娘 大 王
Mặt 2 bia 2
成 泰 拾 參 年 辛 丑 陸 月 拾 陸 日 恭 錄 歷 大 加 封 奉 銘 于 碑
光 中 五 年 潤 四 月 初 七 日 奉 加 封 盛 烈 洪 謨 偉 略 盛 烈 及 恭 懿 貞 靜 淑 慎 公 主 陸 妃 娘
景 盛 元 年 拾 貳 月 初 一 日 加 封 盛 烈 正 直 宏 裕 淵 粹 及 淑 慎 溫 柔 閒 雅 婉 艷 押 衙 公 主 陸 妃 娘
明 命 五 年 貳 月 拾 陸 日 加 贈 保 佑
紹 治 四 年 七 月 拾 陸 日 加 贈 保 佑 正 直
紹 治 四 年 八 月 拾 貳 日 加 贈 保 佑 正 直 佑 善
嗣 德 參 年 拾 一 月 貳 拾 日 加 贈 佑 正 直 佑 善 敦 凝
嗣 德 參 拾 參 年 拾 一 月 貳 拾 肆 日 敕 封 準 其 奉 事 ﹕嗣 德 參 拾 壹 年 正 值 朕 五 旬 大 慶 節 經 頒 寶 詔 覃 恩 禮 隆 登 秩 準 許 依 舊 奉 事
同 慶 貳 年 七 月 初 一 日 加 贈 翊 保 中 興
Dịch nghĩa
bia 2:
Mặt 1 bia 2
Bia ghi thuật
lại tích xưa của xã Lại An.
Ngày tháng
2 năm Gia Long thứ 15 (1816)
Xã Lại An, huyện Đan Phượng
xưa sùng phụng vị thiên thần
là Đương Cảnh Thành
Hoàng Chí Minh đại
vương, ở giữa có phối
thờ Áp nha công
chúa Lục Phi
nương. Khảo xét sự tích cũ thì từ đời Trần triều
năm Hưng Long thứ 2 (1294) đặc sai Huệ
Vũ vương[25] phụng
chỉ đến tu tạo, có các ghi chép của Hàn
Lâm học sĩ
Trương Hán Siêu[26], văn từ rất tường tận.
Sau bia có phụ ghi các sắc mệnh điển thờ trải các đời để lưu truyền bất hủ, như thế thì sắc phong tặng nhiều mới có
thể đầy đủ được.
Khoảng những năm đời Hoàng triều Gia
Long (1802-1818), bản xã
trùng tu miếu
vũ. Công việc đã xong, mới dựng bia đá khắc tiếp các mỹ tự gia phong của
các đời nối tiếp. Nhưng khảo các ghi chép cũ thì □ □ □ [27]phàm những công đức tự đời Trần
triều trở lên thì thấy còn ở bia
bên trái. Từ đời Lê triều Cảnh
Thống năm thứ 3 (1500) trở lại,
các chiếu sắc mỹ tự[28] cho phụ
khắc vào bia bên phải để truyền
cho đời sau.
Chiếu rằng:
Xưa có công với dân thì được dân phụng thờ, có thể trừ tai trục họa giúp dân thì cũng được
dân phụng thờ, từ cổ đến nay vẫn cùng một lẽ như thế. Gần đây, trải mấy tuần
không có mưa, e nhiều sự tổn hại đến việc nông tang. Niệm thấy đền thần xã Lại An là
nơi □
linh ứng. Đặc
mệnh sai đến cầu đảo, hiển
rõ hiệu nghiệm. Khả gia ban công bản tiền[29] 150 sâu để làm công đức tu sửa. Các chức
trách ở bộ Lễ xem xét cho chu đáo, để ra sức thi hành □ □ cho phong tục tốt đẹp, vừa lòng của trẫm. Kính thay, đặc ban chiếu này.
Ngày mùng 6 tháng 6 năm Cảnh Thống
thứ 3 (1500)
Sắc Đương Cảnh
Thành Hoàng Chí Minh đại vương
và Áp nha công
chúa Lục phi
nương. Thể hành Càn mạnh, khắc
cát Khôn trinh[30]. Chung
đúc âm dương hai khí,
hiển rõ linh uy.
Phù giúp xã tắc
phú lành vô tận đến muôn ức vạn
năm. Công lao giúp đỡ nhiều, lễ
nghi đương khen tặng. Sức giúp hoàng gia được dài lâu, ngầm phù vương nghiệp
□ mãi truyền. Ngầm trợ giúp Thế
tử được tấn phong
Tiết chế quốc
công[31] phụng
sai Thống lĩnh Nghệ An xứ
quan, uy vũ phấn dương
binh giáp tinh
nhuệ. Bắt được giặc tên Hiển[32], chém được đầu giặc, thu được voi
ngựa khí giới
súng đạn của giặc, thủ thắng
vẹn tuyền, thu phục giang
sơn nhất thống,
rất là linh ứng. Đáng gia
phong Đương Cảnh
Thành Hoàng Chí Minh Hộ Quốc
An Dân đại
vương và Áp
Nha Nhu Gia
Ý Hạnh công
chúa Lục Phi
nương. Vậy sắc.
Ngày 19 tháng 11 năm Vĩnh Thọ thứ
3 (1660).
Ngày 20 tháng 1 năm Cảnh Thống thứ 2 (1499) phụng
ban lệnh dụ xuân tế mỗi
năm chuẩn cấp tiền
30 quan để cầu cho thọ quốc mạch.
Ngày 20 tháng 3 năm Vĩnh Khánh thứ
3 (1731) phụng gia phong
Tuấn công Long
trạch đại vương
và Trợ thuận
Tuyên linh công
chúa Lục phi
nương.
Ngày 24 tháng 7 năm Cảnh Hưng thứ 1 (1740) phụng gia
phong Tuyên triết
Thần vũ đại
vương và Đoan
nhất Trang từ công chúa Lục phi
nương.
Ngày mùng 8 tháng 8 năm Cảnh Hưng thứ 28 (1767) phụng gia
phong Hoạch khánh
Mông hưu đại
vương và Phu cảm Diệu ứng công
chúa Lục phi
nương.
Ngày 16 tháng 5 năm Cảnh Hưng thứ 44 (1783) phụng
gia phong Tuy
lộc □ dận đại
vương và Trang hạnh Tự nghi
công chúa Lục
phi nương.
Ngày 26 tháng □ □ □
năm Cảnh Hưng thứ 44 (1783) phụng
gia phong Thuỳ
hi Tế thế Sùng
khang đại vương
và Liên phương
Trinh chính Huy
nhu công chúa Lục phi
nương đại vương.
Ngày □ □ □ tháng 3 năm Chiêu Thống 1 (1787) phụng gia
phong Anh mẫn Quả đoán
Cương minh đại
vương và Đoan
trang Huy thanh
Diệu huống công
chúa Lục phi
nương đại vương.
Mặt 2 bia 2
Ngày 16
tháng 6 năm Tân Sửu niên hiệu Thành Thái
thứ 13 (1901) Cung chép các đời
phong tặng phụng khắc vào bia
Ngày 7 tháng 4 nhuận năm Quang Trung thứ 5 (1792) phụng gia
phong Thịnh liệt Hồng mô
Vĩ lược Thịnh
liệt và Cung
ý Trinh tĩnh
Thục thận công chúa Lục
phi nương.
Ngày mùng 1 tháng 12 năm Cảnh Thịnh 1 (1793) phong Thịnh
liệt Chính trực
Hoành dụ Uyên
tuý và Thục
thận Ôn nhu
Nhàn nhã Uyển
diễm Áp nha
công chúa Lục
phi nương.
Ngày 16 tháng 2 năm Minh Mệnh
thứ 5 (1824) gia tặng Bảo Hựu.
Ngày 16 tháng 7 năm Thiệu Trị thứ
4 (1844) gia tặng Bảo Hựu Chính
trực.
Ngày 12 tháng 8 năm Thiệu Trị thứ
4 (1844) gia tặng Bảo hựu Chính
trực Hựu thiện.
Ngày 20 tháng 11 năm Tự Đức
thứ 3 (1850) gia tặng (Bảo) Hựu
chính Trực Hựu
thiện Đôn ngưng.
Ngày 24 tháng 11 năm Tự Đức
thứ 33 (1880) sắc phong chuẩn
cho phụng sự﹕Năm Tự Đức thứ 31 (1878) chính dịp ngũ
tuần đại khánh
tiết của trẫm, từng ban chiếu báu để tỏ ân sâu, lễ đương thăng trật chuẩn
cho được phụng sự như
cũ.
Ngày mùng 1 tháng 7 năm Đồng Khánh thứ 2 (1887), gia tặng Dực bảo
trung hưng.
[1] NCS. Học viện Khoa học Xã
hội.
[2] NCS. Học viện Khoa học Xã
hội.
[3] Khải Định 5 (1920)
[4] Thác
bản đã được Nguyễn Kim Oanh giới thiệu trong Thông báo Hán Nôm 1998. Chúng tôi
được biết thông tin sau khi đã gửi bài. Độc giả có thể tham khảo theo http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=737&Catid=541
[5] Chu
Diên: là đơn vị hành chính, một bộ trong số 15 bộ dưới thời Hùng Vương
[6] Nguyên văn: Càn Tốn hướng:
là hướng Tây Bắc – Đông Nam .
Theo Sơn Hải kinh đồ tán: Địa khuy Tốn duy, thiên khuyết Càn giác/ Đất khuyết
đường Tốn, trời khuyết góc Càn.
[7] Đời Lý Thái tổ.
[8] Chín bệ: Nguyên văn là “Cửu
trùng”, nơi vua ngự gọi là Cửu trùng, chỉ sự tôn nghiêm, có thể dịch là “chín bậc”,
“chín bệ”
[9] Ý cả câu: Vua là bậc chí
tôn thiên tử, thi hành đức nhân ra khắp nơi cho muôn dân được thấm nhuần theo đức
tốt.
[10] Nguyên văn là chữ “Mân 緡” là quan
tiền, có thể dịch là sâu tiền hay chuỗi tiền
[11] Nguyên văn “Miếu lợi dã tụy”:
lấy ý quẻ Tụy trong Kinh Dịch, nói vua thánh đến, gây dựng tỏ đức hiếu, dân
chúng tụ về, thế mới gọi là có miếu – hữu miếu
[12] Nguyên văn “Quán hữu phu
quan”: lấy ý quẻ Quán trong Kinh Dịch, nói vương đạo thi hành được không gì bằng
việc tế tự ở Tông miếu, việc ở Tông miếu không gì đáng xem bằng lễ Quán Tẩy, ý
chỉ sự nghiêm trang kính cẩn trong tế lễ.
[13] Đời vua Trần Anh tông
[14] Đời Lý Thái tổ
[15] Đời Lý Anh tông
[16] Đời Lý Cao tông
[17] Vũ miếu: Tức miếu thờ về
việc Võ, việc quân đối lập với Văn miếu
[18] Đời Trần Thái tông
[19] Đời Trần Anh tông
[20] Thái nhất: Theo Triết học
Đạo gia, cái Thái nhất là cái đầu tiên sơ khởi của tất cả vạn vật trong vũ trụ
[21] Đức đủ âm dương: Nói là
chung đúc tinh anh đầy đủ của cả hai khí âm dương
[22] Tức năm 1328 đời Trần
Minh tông, quân nhà Trần đánh thắng Chiêm Thành bắt được vua Chiêm là Chế Chí,
thu được rất nhiều súng đạn, voi ngựa.
[23] Trần Quốc Chẩn là con của
Trần Nhân tông, là em của Trần Anh tông, là bố của Huy Thánh công chúa (sau là
Lệ Thánh hoàng hậu, vợ của Trần Minh tông), ông ngoại của Trần Dụ tông. Đảm
đương chức lớn trong triều, nhiều lần cầm quân đi đánh Chiêm Thành đại thắng,
công lao rất lớn. Năm 1328 bị Trần Khắc Chung vu cáo tội mưu phản, bị giết.
[24] Trương Hán Siêu (? -
1354), danh nho đời Trần, là môn khách của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, có
tài lại cương trực, được Hưng Đạo vương tiến cử. Sau khi mất được phong Thái
Phó, phối thờ ở Văn Miếu. Có nhiều tác phẩm còn lưu truyền.
[25] Tức Trần Quốc Chẩn là con
của Trần Nhân tông, là em của Trần Anh tông, là bố của Huy Thánh công chúa (sau
là Lệ Thánh hoàng hậu, vợ của Trần Minh tông), ông ngoại của Trần Dụ tông. Đảm
đương chức lớn trong triều, nhiều lần cầm quân đi đánh Chiêm Thành đại thắng,
công lao rất lớn. Năm 1328 bị Trần Khắc Chung vu cáo tội mưu phản, bị giết.
[26] Trương Hán Siêu (? -
1354), danh nho đời Trần, là môn khách của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, có
tài lại cương trực, được Hưng Đạo vương tiến cử. Sau khi mất được phong Thái
Phó, phối thờ ở Văn Miếu. Có nhiều tác phẩm còn lưu truyền.
[27] Chữ bị mờ.
[28] Mỹ tự: Tên đẹp để tặng
cho thần.
[29] Tiền công bản: Chưa rõ?
[30] Thể hành Kiền mạnh, khắc
cát Khôn trinh: ý nói khí tốt hợp đức của âm dương trời đất.
[31] Thế tử: Con của nhà chúa,
đây nói con chúa Trịnh
[32] Tên Hiển: chưa rõ, nguyên
văn ghi là Hiển 灦, không phải Hiển 顯. Chúng tôi luận rằng đây là danh từ riêng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét