Trường Phong tiên sinh trước tôi đã giới thiệu bài Sử liệu về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Biết Tiên sinh có cái thú đọc sử Tàu, xem sử mà tìm được cái hay của Văn chương đời Trần, đúc kết thành bài này. Tôi biết lâu rồi, xin Tiên sinh đem về trình bày ở "hàng" ở "quán" cho nó "xôm" mà cũng là để "ta biết sử ta" hào hùng lắm, mà yêu quý cái Quốc học mà phấn trấn lên ... cho nó vui.
VĂN THƯ NGOẠI GIAO THỜI TRẦN:
NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT
Phạm Văn Ánh[*]
Nối tiếp triều đại
nhà Lý, triều đại nhà Trần là bước tiến mới trong lịch sử dân tộc: giữ vững chủ
quyền, đưa đất nước phát triển phồn thịnh. Nổi bật lên ở thời kỳ này là kỳ tích
của ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông xâm lược. Song song với cuộc đối đầu về
quân sự, cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao cũng diễn ra không kém phần
quyết liệt, có đóng góp quan trọng cho thắng lợi sau cùng.
Các văn thư ngoại giao1 của một thời oai hùng
ấy bao gồm các bức thư, tấu, biểu, tiên, trạng... của các vua Trần gửi nhà Tống
và nhà Nguyên (chủ yếu là nhà Nguyên, chỉ có 1 văn thư gửi nhà Tống), hiện chép
rải rác trong 4 nguồn tài liệu, bao gồm: 1. An Nam chí lược (ANCL)2,
2. Nguyên sử (NS)3, 3. Thiên Nam hành ký (TNHK)4,
4. Trần Cương Trung thi tập. (TCTTT)5. Trong ANCL,
tính cả các văn thư ở phần Biểu chương và Tiền đại thư biểu (Thư,
biểu của các đời trước), có 7 văn thư. Trong NS, ngoài 5 đoạn trích quá
ngắn cùng 1 đoạn trích thuộc văn thư năm Chí Nguyên thứ 15 đã có trong ANCL,
tất cả có 8 văn thư (đoạn trích). TNHK có 6 văn thư. TCTTT có 5
văn thư (3 văn thư gửi Hốt Tất Liệt được gộp chung thành An Nam tiến
Vạn thọ tụng tịnh biểu tấu). Qua 4 nguồn tư liệu trên ta có 26 văn thư ngoại giao (trong đó có văn thư hiện chỉ còn là những đoạn
trích)6. Về các nguồn tư liệu, số lượng, niên đại, danh
nghĩa tác giả, có thể mường tượng thông qua bảng tổng hợp sau:
Stt
|
Nguồn
sách
|
Thể
loại
|
Gửi đến
|
Danh
nghĩa tác giả
|
Niên
đại
|
1
|
ANCL
|
Biểu
|
Vua Tống
|
Trần Thái Tông
|
1258
|
2
|
NS
|
Thư
|
Hốt Lung Hải Nha
|
nt
|
1269
|
3
|
NS
|
Thư
|
Trung Thư Sảnh nhà Nguyên
|
nt
|
1271
|
4
|
NS
|
Biểu
|
Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt)
|
nt
|
1275
|
5
|
NS
|
Thư
|
Sứ Nguyên Sài Thung
|
Trần Thánh Tông
|
1278
|
6
|
ANCL
|
Biểu
|
Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt)
|
nt
|
1278
|
7
|
NS
|
Thư
|
A Lý Hải Nha
|
nt
|
1283
|
8
|
NS
|
Thư
|
A Lý Hải Nha
|
nt
|
1284
|
9
|
NS
|
Thư
|
Thoát Hoan
|
nt
|
1284
|
10
|
NS
|
Thư
|
Thoát Hoan
|
nt
|
1284
|
11
|
TNHK
|
Trạng
|
Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt)
|
nt
|
1286
|
12
|
TNHK
|
Biểu
|
Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt)
|
nt
|
1288
|
13
|
TNHK
|
Trạng
|
Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt)
|
nt
|
1289
|
14
|
TNHK
|
Trạng
|
Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt)
|
nt
|
1289
|
15
|
TNHK
|
Tiên
|
Hoàng hậu nhà Nguyên
|
nt
|
1289
|
16
|
TNHK
|
Tấu
|
Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt)
|
nt
|
1289
|
17
|
ANCL
|
Biểu
|
Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt)
|
Trần Nhân Tông
|
1292
|
18
|
TCTTT
|
Thư
|
Lương Tăng
|
nt
|
1293
|
19
|
TCTTT
|
Thư
|
Lương Tăng
|
nt
|
1293
|
20
|
TCTTT
|
Thư
|
Lương Tăng
|
nt
|
1293
|
21
|
TCTTT
|
Thư
|
Lương Tăng
|
nt
|
1293
|
22
|
TCTTT
|
Tụng-Tấu-Biểu
|
Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt)
|
nt
|
1293
|
23
|
ANCL
|
Biểu
|
Thành Tông
|
nt
|
1295
|
24
|
ANCL
|
Biểu
|
Thành Tông
|
nt
|
1295
|
25
|
ANCL
|
Biểu
|
Vũ Tông
|
Trần Anh Tông
|
1309
|
26
|
ANCL
|
Biểu
|
Văn Tông
|
Trần Minh Tông
|
1330
|
1. Văn thư ngoại giao thời Trần - Sản phẩm của một
giai đoạn đấu tranh ngoại giao lâu dài và cam go
Dưới thời quân chủ, quan hệ ngoại giao giữa nước ta với các triều đại
phong kiến Trung Quốc thực chất là quan hệ bất bình đẳng. Phương Nam tuy xa xôi
song bằng tiềm lực vốn có của mình, các triều đại phong kiến Trung Quốc luôn tiềm
ẩn ý đồ xâm lấn, chỉ chờ có cơ hội liền đem quân đánh chiếm. Sang thế kỷ XIII,
nhà Trần lên thay nhà Lý, cũng là lúc “thảo nguyên Mông Cổ đang cuốn bụi và
thấm máu vì những cuộc chiến tranh bộ lạc tàn khốc”7. Sau khi
nhà nước phong kiến quân sự độc tài tập quyền Mông Cổ ra đời (1206), vó ngựa của
các đoàn kỵ binh của họ tung hoành sang phương Đông và phương Tây, gieo rắc nỗi
kinh hoàng trên nhiều quốc gia Âu Á; mở đường tấn công phương Nam, tiêu diệt Đại
Lý, nhân thế thắng, xua quân xuống phía Nam nhằm tiêu diệt Đại Việt và hình
thành thế bao vây nhà Tống.
Tháng Năm năm 1257, Ngột Lương Hợp Thai cho quân áp sát biên giới nước
ta. Đến tháng Tám, chủ trại Quy Hóa
là Hà Khất sai ngựa trạm báo tin sứ Nguyên sang. Cuộc đối đầu
quân sự và đấu trang ngoại giao giữa nhà Trần với nhà Nguyên bắt đầu.
Tuy lần đầu ra quân thất bại
nhưng ý đồ xâm lược của nhà Nguyên không hề thay đổi. Nhận thấy chưa thể thôn
tính ngay được Đại Việt, vả lại cần dốc sức tiêu diệt nhà Tống nên nhà Nguyên tạm
gác việt dụng binh, chuyển sang từng bước khống chế bằng ngoại giao. Do vậy, từ
năm 1258 đến 1284 là giai đoạn tạm thời hòa bình song cũng là giai đoạn đấu
tranh ngoại giao gay go, phức tạp nhất trong lịch sử quan hệ ngoại giao giữa
nhà Trần với nhà Nguyên. Hơn 20 năm, mặc dù nhà Nguyên dùng mọi thủ đoạn, vừa hạch
sách, lừa bịp, đe dọa... song không làm cho vua tôi nhà Trần vì thế phải khiếp
nhược. Nhà Trần vẫn kiên trì đấu tranh, một mặt luôn sẵn sàng chuẩn bị lực lượng,
mặt khác tìm đủ mọi lý do để chối bỏ các yêu sách của nhà Nguyên, đề cao cảnh
giác trước những thủ đoạn lừa bịp của chúng. Cuộc đấu tranh ngoại giao dai dẳng,
cam go... rốt cục cũng kết thúc. Một cuộc đối đầu quân sự lại nổ ra.
Lần này nhà Nguyên rút kinh nghiệm từ thất bại lần trước, huy động một
lực lượng hùng hậu hơn đặt dưới sự chỉ huy của những tướng tá sừng sỏ, chuẩn bị
hết sức chu đáo. Cuộc chiến lần 2 diễn ra hết sức ác liệt song cuối cùng vua tôi
nhà Trần đã giành chiến thắng oanh liệt, khiến công phu chuẩn bị nhiều năm của
nhà Nguyên tan thành mây khói; những viên đại tướng như Lý Hằng, Toa Đô... bỏ mạng.
Đấy là những gì nhà Nguyên thu được sau hơn 20 năm chuẩn bị để dốc vào cuộc chiến
lần thứ hai ở Đại Việt. Bất chấp tất cả, nhà Nguyên vẫn xúc tiến cuộc tấn công
Đại Việt lần 3. Nhưng cuộc tấn công lần 3 cũng thất bại thảm hại. Dẫu vậy, ý đồ
xâm lược của Hốt tất Liệt chưa bị triệt tiêu hoàn toàn. Nhưng việc chuẩn bị một
cuộc chiến mới không dễ dàng, nhà Nguyên tạm thời vẫn phải dùng chiêu bài đã
quá cũ - đe dọa bằng ngoại giao. Cho đến tận tháng Giêng năm Bính ngọ (18/2/1294),
Hốt Tất Liệt chết, Thành Tông lên ngôi, bãi bỏ kế hoạch tấn công, tham vọng xâm
lược Đại Việt của nhà Nguyên đến đây hoàn toàn tan rã. Về sau quan hệ bang giao
giữa triều Trần với nhà Nguyên vẫn tiếp tục được duy trì song nó diễn ra trong
một không khí khác, không căng thẳng và phức tạp như giai đoạn trước.
Có thể thấy, quan hệ ngoại
giao giữa nhà Trần với nhà Nguyên là một giai đoạn đấu tranh ngoại giao rất phức
tạp, dai dẳng và văn thư ngoại giao thời nhà Trần chính là sản phẩm của cuộc đấu
tranh ngoại giao đầy cam go đó.
2. Văn thư ngoại giao thời Trần - Nội dung và nghệ thuật
Trước khi tấn công Đại Việt
lần thứ nhất, nhà Nguyên cho quân áp sát biên giới, muốn dùng áp lực quân sự để
thị uy, sai 2 sứ giả đến, có lẽ là để bắt nhà Trần phải thần phục. Lập tức nhà
Trần tống sứ Nguyên vào ngục và chuẩn bị tác chiến. Mặc dù, trận đánh đầu tiên
diễn ra khá cam go, thiếu chút nữa thành ra một trận “dốc túi”, thất bại nặng nề,
song do kịp thời điều chỉnh bằng việc thi hành chiến tranh du kích và sách lược
vườn không nhà trống; đến ngày 24 tháng Chạp năm Nguyên Phong thứ 7 (29/1/1258),
nhà Trần tấn công phản kích, đánh bật quân Nguyên khỏi Thăng Long, khiến chúng
chạy tháo thân về Vân Nam. Trên đường rút chạy lại không ngừng bị quân tập kích
đánh cho tan tác.
Dùng sức mạnh quân sự để
đe dọa bằng ngoại giao (theo kiểu “phạt giao” - tấn công trên phương diện ngoại
giao, như đã ghi trong Tôn Tử binh pháp), nhà Nguyên hy vọng có thể khiến
nhà Trần phải khuất phục, nhưng không ngờ nhà Trần chẳng những không khiếp sợ
mà còn “trả lời” bằng biện pháp cứng rắn. Chuyển sang dùng sức mạnh quân sự lập
tức bị trả lời bằng vũ khí, cuối cùng được tiếng là “giặc Phật” (*). Đó là những gì mà nhà Nguyên
thu được trong lần đầu tiên xâm lược Đại Việt. Ngay sau khi thua trận, bị truy
kích phải chạy về Vân Nam ,
quân Nguyên lập tức sai 2 sứ giả sang Đại Việt để “chiêu an”. Căm phẫn vì kinh
đô Thăng Long bị tàn phá, nhà Trần liền trói sứ giả, đuổi về. Có thể thấy ở
giai đoạn đầu, chính sách ngoại giao của nhà Trần là hết sức cứng rắn.
Lúc này nhà Trần vẫn có quan hệ với nhà Tống,
song tình hình thực tế cho thấy nhà Tống đang bị Mông Cổ uy hiếp, từng bước đi
vào thế diệt vong, họ không đủ khả năng tự cứu mình thì cũng không đủ khả năng
gây khó khăn hay hỗ trợ cho ta, trong khi đó nguy cơ duy nhất chính là nhà
Nguyên. Điều này buộc nhà Trần phải cân nhắc và đi đến quyết định điều chỉnh
chính sách ngoại giao. Sau cuộc chiến lần thứ nhất, nhà Trần lập tức cử viên
dũng tướng Lê Phụ Trần cầm đầu sứ đoàn, mang theo sản vật địa phương (phương
vật) sang Vân Nam gặp Ngột
Lương Hợp Thai.
Mục đích của chuyến đi này có thể là để dò xét thực lực quân địch, xem xét địa
hình và thám thính các động tĩnh của nhà Nguyên. Liền sau đó nhà Nguyên sai Nột
Lạt Đinh (có bản ghi là Nột Thích Đinh) mang thư sang dụ, đồng thời cuối
thư không quên buông lời hăm dọa:
“Trước
đây ta sai sứ sang thông hiếu, các ngươi bắt giữ không cho về, vì thế ta mới có
cuộc xuất quân năm trước, khiến quốc chủ ngươi phải chạy ra nơi thảo dã. Lại lệnh
hai sứ đến chiêu an, trả nước, ngươi lại bắt trói sứ ta rồi đuổi về. Nay đặc
sai sứ đến dụ, nếu bọn ngươi có lòng thề nội phụ thì quốc chủ phải đích thân đến,
nhược bằng không sửa lỗi, hãy báo cho ta rõ” (NS).
Nhắc chuyện đã qua, quy lỗi,
đòi Trần Thái Tông sang chầu, tỏ ý đe dọa song vua Trần chỉ đáp một câu ỡm ờ: “Tiểu
quốc thành tâm thờ bề trên, vậy đại quốc đối đãi thế nào?” (NS).
Chuyến đi không mang lại kết
quả, Nột Lạt Đinh đành quay về hồi báo. Nhà Nguyên tiếp tục sai y đi sứ lần thứ
hai. Trần Thái Tông không chịu sang chầu, chỉ trả lời rằng: “Đợi đức âm ban
xuống sẽ lập tức sai con em sang làm con tin”. Nói rồi để đấy, cũng không
xúc tiến gì thêm nữa. Hai lần đi sứ của Nột Lạt Đinh không đem lại kết quả. Qua
cách trả lời của Trần Thái Tông, có thể thấy đây là giai đoạn nhà Trần đang
thăm dò các động thái của nhà Nguyên.
Tiếp đến tháng Chạp năm
Trung Thống nguyên niên (5/1/1261), nhà Nguyên sai Lễ Bộ Lang trung Mạnh Giáp
làm Nam dụ sứ, Lễ Bộ Viên ngoại lang Lý Văn Tuấn làm Phó sứ mang chiếu dụ An
Nam, trong đó có nói:
“...
Phàm y quan điển lễ phong tục nhất nhất đều theo thể chế cũ của nước mình.
Ta đã răn các tướng ở biên cương không được tự ý dấy binh, xâm phạm biên cảnh của
ngươi, làm rối loạn cho nhân dân ngươi. Các quan liêu sĩ dân nước ngươi ai nấy
yên ổn như trước” (NS).
Đây chỉ là giọng phỉnh gạt
của nhà Nguyên. Sở dĩ nhà Nguyên nới lỏng như vậy là do có khó khăn riêng của
mình8. Tờ chiếu trên về sau được nhà Trần nhắc lại nhiều lần trong
các văn thư khác như là một chỗ dựa pháp lý trong đấu tranh ngoại giao, nhằm bảo
về chủ quyền, quốc thể và vạch trần âm mưu đen tối cùng sự lật lọng của nhà
Nguyên.
Nhận thấy không thể đánh
chiếm được Đại Việt một cách dễ dàng, vả lại còn tập trung sức lực để tiêu diệt
nhà Tống nên nhà Nguyên tạm thời dùng ngoại giao để tăng cường khống chế, từng
bước biến nước ta thành thuộc quốc. Vì vậy nhà Nguyên ngày một đưa yêu sách, bắt
nhà Trần phải tuân thủ. Năm 1262, nhà Nguyên lại xuống chiếu yêu cầu nhà Trần cứ
ba năm cống một lần, chọn Nho sĩ, thầy thuốc, người giỏi âm dương bói toán, các
loại thợ mỗi hạng ba người, cùng các sản vật như dầu tô hợp, quang hương, vàng
bạc, chu sa, trầm hương, đàn hương, tê giác, đồi mồi, trân châu, ngà voi, gấm,
chén sứ… đem nộp. Lại cho Nột Lạt Đinh làm chức Đạt Lỗ Hoa Xích(*), đeo hổ phù sang nước An Nam (theo NS).
Như vậy có thể thấy lúc này nhà Nguyên không còn “thoáng” như trong lời chiếu
năm 1261 nữa, chưa đánh chiếm được thì tìm cách ra tay vơ vét của cải, đòi cống
người và cho quan sang giám sát, khống chế Đại Việt. Trước tình hình đó nhà Trần
tuy vẫn cống nhưng xin miễn cống người, mặt khác tìm cách vô hiệu hóa Đạt Lỗ Hoa
Xích. Dường như Đạt Lỗ Hoa Xích Nột Lạt Đinh không làm được gì nên tháng 4 năm
sau đã quay về. Năm 1265, nhà Trần lại sai Dương An Dưỡng sang dâng biểu, có nạp
cống nhưng xin miễn cống người và xin Nột Lạt Đinh được làm Đạt Lỗ Hoa Xích lâu
dài ở nước ta (có lẽ do nhân vật này đã bị nhà Trần vô hiệu hóa). Trước đó nhà
Trần đã cấm không cho dân chúng nói chuyện với bọn thương nhân Hồi Hột vì bọn
này là tai mắt của Mông Cổ, giả danh buôn bán để do thám tình hình; tai mắt đã
bị ngăn trở thì Nột Lạt Đinh cũng chẳng thể dò la được gì.
Trong tờ chiếu năm Chí
Nguyên thứ 4 (1267) của nhà Nguyên có viết:
“... Nay nghe Nột Lạt Đinh ở bên ấy, có nhiều
sự thường bị chống báng cấm đoán, không cho được hội đàm, quả như thế có phải lễ
nghĩa thân mật trong một nhà đâu!... khanh nên nghĩ lại cho chín chắn để tròn sự
giao hảo trước sau như một”(ANCL)9.
Năm 1267, nhà Nguyên viện
vào “Thánh chế” của tổ tiên đòi nhà Trần phải thực hiện sáu việc là: 1. Quân
trưởng phải đích thân sang chầu, 2. Cho con em sang làm con tin, 3. Kê biên số
dân, 4. Chịu quân dịch, 5. Thu nộp phú thuế, 6. Vẫn đặt chức Đạt Lỗ Hoa Xích để
thống trị.
Đó là đòi hỏi mới sau thất
bại lần trước. Nếu nhà Trần thực hiện theo những yêu cần này thì Đại Việt đã thực
sự trở thành thuộc quốc của nhà Nguyên rồi. Thêm nữa, để nắm rõ tình hình và xiết
chặt hơn nữa sự giám sát của mình ở Đại Việt, nhà Nguyên lại chiếu dụ vua Trần
giao nộp bọn thương nhân Hồi Hột (bọn này là gián điệp của nhà Nguyên rải đi khắp
nơi để thu thập tin tức tình báo). Năm sau xuống chiếu thúc giục và cử Hốt Lung
Hải Nha sang thay Nột Lạt Đinh. Nhưng nhà Trần làm sao có thể chấp nhận những
đòi hỏi ấy; không những nhà Trần viện cớ thoái thác việc giao nộp bọn thương
nhân Hồi Hột mà ngay lễ cống cũng cố trì hoãn. Trong thư trần tình năm Chí
Nguyên thứ 6 (1269), vua Trần trả lời:
- Về việc giao nộp bọn
thương nhân Hồi Hột:
“Nhà
buôn Hồi Hột tên là Y Ôn đã chết từ lâu; một người khác là Bà Bà, khi tìm
cũng đã ốm chết” (NS).
- Về việc cống voi:
“Lại
theo lời của Hốt Lung Hải Nha bảo rằng bệ hạ muốn tìm mấy con voi lớn, loại thú
này thân mình rất lớn, đi lại chậm chạp, không như ngựa của thượng quốc. Xin
đợi sắc chỉ, đến lần cống sau sẽ tiến dâng”(NS).
Đến khi bị thúc ép mạnh
hơn, tháng Chạp năm Chí Nguyên 8 (1271) vua Trần gửi thư sang Trung Thư Sảnh
nhà Nguyên để giải thích việc không mang voi sang cống:
“...
Về lời dụ mới rồi nói việc tìm voi, do sợ trái chiếu chỉ trước, nên loanh
quanh chưa dám nói thẳng. Thực ra, duyên do là vì quản tượng không nỡ xa nhà,
nên khó sai họ khởi hành”(NS).
Quân lệnh như sơn, một khi
lệnh vua đã ban xuống, quản tượng sao dám kháng lệnh? Không chịu cống voi mà viện
lý do “vì quản tượng không nỡ xa nhà, nên khó sai họ khởi hành” thì rõ
ràng không có ý đem cống chứ chẳng vì lý do nào khác nữa. Nhà Nguyên ví phỏng
có phê thì cũng chỉ có thể phê rằng nước ngươi quân lệnh không nghiêm mà thôi!
Thái độ của nhà Trần ở điểm này có vẻ mềm mỏng mà thực ra hết sức cứng rắn lại
nhất quán, và hẳn nhà Nguyên không thể không hiểu ý ấy.
- Nhà Trần giải thích việc
không cống người:
Còn
lời dụ đòi tìm Nho sĩ, thầy thuốc và thợ thủ công thì lúc bọn bồi thần là Lê Trọng
Đà vào bệ kiến, gần oai trời trong gang tấc, lại không nghe thấy chiếu dụ [về
việc ấy]. Huống hồ từ năm Trung Thống thứ tư (1263) đã đội ơn tha cho, nay lại
nhắc đến, thật khôn xiết kinh ngạc. Dám xin các hạ niệm tình cho”(NS).
Trong các chiếu dụ năm
1267, 1275, 1291 sau này, nhà Nguyên đều vin vào chế độ tổ tông mình, đòi nhà
Trần phải thực hiện các yêu sách. Rốt cục vua Trần chỉ chấp nhận nộp cống theo
định kỳ ba năm một lần, nhưng không rõ vua Trần cống cho nhà Nguyên những gì,
có thể chỉ cống lấy lệ, cho có hình thức thôi chứ không cống thứ gì đáng giá,
không làm thỏa mãn được “lòng tham không cùng” của chúng, nên trong chiếu thư
năm 1275, vua Nguyên rất phàn nàn, cho rằng: “Tuy rằng ba năm cống một lần,
nhưng các đồ cống đều không dùng được” (ANCL). Nhưng dù sao về hình
thức, qua các văn thư, đối với tất cả các đòi hỏi của nhà Nguyên, nhà Trần đều
tỏ ra mình rất chú tâm, không hề lơ là, có vẻ như đều cố sức thực hiện, cái
không thực hiện được ấy là do “khách quan đưa đẩy” chứ không phải cố ý. Và vì vậy,
nhà Nguyên không dễ dàng viện được lý do để cất quân, nhất là khi họ đang sa lầy
trong cuộc chiến với nhà Tống.
Trong quan hệ ngoại giao với
nhà Nguyên, để bảo toàn quốc thể, vua Trần không chịu lạy chiếu của vua Nguyên.
Năm 1271, nhà Nguyên quay sang trách vua Trần về nghi thức tiếp sứ, “mỗi khi
nhận chiếu lệnh của thiên tử chỉ chắp tay mà không lạy, khi gặp mặt hay đãi yến
sứ giả thì đứng cao hơn sứ giả”, rồi viện nghĩa sách Xuân thu để
trách lỗi (NS). Vua Trần trả lời:
“Bản
quốc vâng mệnh thiên triều đã phong cho tước vương, lẽ nào không phải là người
mang vương tước? Vậy mà sứ giả phụng mệnh thiên triều [đến đây] cũng xưng là
người mang tước vương, cùng ngang lễ với bản quốc, e rằng như thế là nhục đến
triều đình. Huống hồ nước tôi vâng theo chiếu chỉ trước đây, cho được giữ
nguyên tục cũ, nên hễ nhận chiếu lệnh thì phụng mệnh đặt yên tại chính điện rồi
lui về nhà riêng. Đó vốn là điển lễ cũ của bản quốc”(NS).
Mọi sự hạch sách, bắt bẻ của
nhà Nguyên đều được giải thích rõ ràng, cách nói thật khéo léo, giọng điệu nhún
nhường, mềm dẻo mà kín kẽ. Nhà Trần giải thích: sở dĩ thực hiện nghi thức tiếp
sứ như vậy là vì đã được thiên triều phong vương rồi, không làm cho chính danh
thì tổn hại đến danh dự thiên triều. Thêm nữa nếu có gì khác là do noi theo điển
lễ cũ của bản quốc, mà những điều này cũng được nhà Nguyên thông qua bằng văn bản
hẳn hoi. Đó là các “Chiếu chỉ trước đây” tức lời chiếu dụ vua Trần Thái Tông
vào năm Trung Thống nguyên niên (1261), cho phép nhà Trần giữ nguyên điển lễ nước
mình và tờ chiếu phong vương cho vua Trần năm Chí Nguyên thứ 4 (1267), đến lúc
này vua Trần khôn khéo cố ý nhắc lại để làm chỗ dựa cho mình, nhằm đấu lý, bác
bỏ mọi sự bắt bẻ của nhà Nguyên. Về phía nhà Nguyên, đã trót nói ra, nếu làm
căng chẳng phải sẽ rơi vào bẫy kiểu “gậy ông lại đập lưng ông” hay sao? Cũng bởi
thế, sau đó, Trung thư sảnh nhà Nguyên có gửi thư trách móc, nhưng rốt cục cũng
không làm gì được. Trong khi đó Trần Thái Tông lại tăng cường đấu tranh chống lại
các yêu sách của nhà Nguyên, do nhũng lạm của Đạt Lỗ Hoa Xích và sự vô lý khi đặt
chức này nên đòi đổi là “Dẫn tiến sứ”; yêu cầu nộp cống một lần ở Trung Nguyên
và một lần ở Thiện Xiển (Côn Minh). Nhà Nguyên tất nhiên không chấp nhận yêu cầu
của nhà Trần.
Năm 1275, thêm một lần nữa
nhà Nguyên lại gửi chiếu thư đòi vua Trần sang chầu. Vua Trần lại vẫn từ chối.
Bên cạnh việc gây sức ép về ngoại giao nhà Nguyên luôn có ý đồ dụng binh với Đại
Việt, chỉ chờ có cơ hội mà thôi. Do vậy ngay cả khi đang tung quân đánh Tống,
nhà Nguyên không từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta, vẫn cho người dò xét địa thế
vùng biên giới. Trước tình hình ấy, nhà Trần luôn cảnh giác, một mặt sai Lê Khắc
Phục đi sứ để nghe ngóng động tĩnh, một mặt sai Đào Thế Long sang Long Châu giả
đò mua thuốc để điều tra hình hình Mông Cổ. Sau khi Thái thượng hoàng Trần Thái
Tông mất (1277), vua Trần Thánh Tông liền sai Chu Trọng Ngạn, Ngô Đức Thiệu
sang nhà Nguyên. Ngay sau đó, phía nhà Nguyên cử phái đoàn do Sài Thung (có
sách ghi là Xuân) cầm đầu, không theo đường cũ Thiện Xiển mà tiến từ Giang
Lăng, qua Ung Châu để vào nước ta. Vua Trần Thánh Tông gửi thư cho Sài Thung,
yêu cầu “hồi quân tiến theo đường cũ”(NS). Sài Thung không chịu,
lại đòi phải cho người đi đón. Nhà Trần đành nhân nhượng chút ít, sai Đỗ Quốc Kế
lên đón, lại sai Trần Quang Khải ra bờ sông Phú Lương đón sứ vào Thăng Long. Lần
này Sài Thung mang chiếu chỉ của vua Nguyên sang trách tội vua Trần “không
xin mệnh mà tự lập”(NS), lại không chịu sang chầu. Trong đó còn
buông lời hăm dọa:
“Nước
ngươi nội phụ hơn hai chục năm, đến “sáu việc” vẫn chưa làm theo.
Ngươi nếu không vào chầu, thì hãy sửa sang thành quách của ngươi, chỉnh đốn
quân đội của ngươi, để chờ quân của ta”(NS).
Giọng điệu nạt nộ kẻ cả kiểu
này cũng giống hệt giọng điệu trong bức thư của vua Tống gửi Lê Hoàn vào năm
980. Nó cho thấy các yêu cầu của nhà Nguyên đã bị phía nhà Trần khất lần mãi,
trải hơn 20 năm vẫn chưa thực hiện; mặt khác cũng cho thấy cuộc đấu tranh ngoại
giao có dấu hiệu bước vào giai đoạn mới cam go, phức tạp hơn.
Đáp lại thái độ hống hách
của nhà Nguyên, vua Trần Thánh Tông vẫn ôn tồn phân giải, viện cớ thoái thác lý
do không sang chầu, chẳng qua là sợ: “... luống những dãi phơi sương trắng,
khiến bệ hạ thương đau mà không ích chi cho thiên triều trong muôn một” (NS
và ANCL). Lúc này nhà Nguyên nhân vì đã thôn tính được nhà Tống nên có
thể chú tâm hơn đến kế hoạch tấn công nước ta. Tháng 4 năm 1279, Xu Mật Viện
nhà Nguyên tâu lên xin kéo quân đến biên giới Đại Việt, sai quan đến hỏi tội (NS).
Vua Nguyên không nghe theo, tiếp tục đe dọa bằng ngoại giao, hy vọng có thể
thông qua đó khống chế Đại Việt. Bèn lưu sứ đoàn của Trịnh Quốc Toản lại rồi
sai Sài Thung đưa Đỗ Quốc Kế về và mang theo chiếu dụ vua Trần Thánh Tông sang
chầu. Lần này giọng đe dọa vẫn không khác lần trước:
“...
Nếu quả không thể vào chầu thì dùng vàng thay người, lấy hai hạt châu thay mắt;
lấy hiền sĩ, phương kỹ, trai gái, thợ thuyền mỗi đằng hai người để thay cho sĩ
dân. Nếu không làm theo hãy tu sửa thành trì của ngươi, để đợi xét xử”(NS).
Vua Trần không đáp ứng yêu
sách, chỉ cử chú họ là Trần Di Ái cùng Lê Tuân, Lê Mục đi sứ. Nắm lấy cơ hội
này, nhà Nguyên liền phong cho Trần Di Ái làm An Nam quốc vương; thiết lập một
triều đình bù nhìn cùng một bộ máy cai thị kèm theo, ráo riết đẩy mạnh tiến
trình thôn tính Đại Việt. Triều đình bù nhìn được một nghìn quân hộ tống đưa về
nước, đến biên giới, bị nhà Trần cho quân đánh chạy tan tác. Vua Trần sai người
đón Sài Thung về Thăng Long. Lần này Sài Thung càng hống hách hơn lần trước. Thung
cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh, quân Thiên Trường ngăn lại bị Thung dùng
roi ngựa đánh bị thương ở đầu, rồi phóng ngựa đến điện Tập Hiền mới chịu xuống.
Vua sai Trần Quang Khải đến, Thung không chịu tiếp. Trần Quốc Tuấn đến, Thung
tưởng là nhà sư người trung Quốc nên tiếp chuyện. Trong khi nói chuyện, Thung
nhận ra là người do nhà Trần phái đến nên sai lính dùng mũi tên đâm vào đầu Quốc
Tuấn khiến máu chảy đầm đìa, nhưng Quốc Tuấn phớt lờ như không có chuyện gì xảy
ra, vẫn ung dung ngồi nói chuyện. Phong độ ấy khiến Thung có phần nể sợ.
Chuyến đi của Sài Thung chủ
yếu là mang chiếu chỉ của vua Nguyên sang, ra mắt triều đình bù nhìn, ý nếu nhà
Trần xử lý không khéo sẽ lấy đó làm lý do để đưa quân sang. Nhưng vua tôi nhà
Trần sớm nhận rõ âm mưu nên triều đình bù nhìn ấy đã bị đánh tan ở biên giới rồi,
Thung bèn thất bại ra về, nhận lấy mấy vần thơ đưa tiễn rất ân cần của Trần
Quang Khải, sau chép trong ANCL:
“... Vị thẩm hà
thì trùng đổ diện,
Ân cần ác thủ tự
thê lương”
(... Chưa biết khi
nao cùng gặp lại, Nắm tay thân mật để hàn huyên)
Vừa đánh tan quân nhà Nguyên ở biên giới, lại
làm thơ thù tạc cùng sứ giả, lời lẽ rất nhã nhặn, đó cũng là nét thú vị trong
thuật ngoại giao của nhà Trần. Thời Trần, khi tiếp sứ, các vua quan nhà Trần
cũng thường làm thơ trao tặng cho các sứ giả. Như Trần Thái Tông làm thơ tiễn
Trương Lập Đạo, Nhân Tông làm thơ nhân việc tặng bánh xuân cho Trương Lập Đạo,
thơ tặng các sứ giả Trung Quốc là Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai, Ma Hợp Kiều
Nguyên Lãng, Lý Tư Diễn; Anh Tông, Minh Tông sau này cũng đều có thơ tặng sứ giả...
Khiến sứ Nguyên sang ta trở về có phần nể vì, Trương Lập Đạo sau khi về nước phải
thốt lên rằng:
“An Nam tuy tiểu văn chương tại,
Vị khả khinh đàm
tỉnh để oa”
(An Nam
tuy là nước nhỏ nhưng có văn chương, chưa thể khinh suất mà nói là con ếch ở
đáy giếng được).
Truyền thống ấy còn được
duy trì lâu dài về sau.
Cuối năm 1283, Triệu Chử sang
mang theo yêu cầu mới của nhà Nguyên, đòi vua Trần giúp quân lương để tấn công
Chiêm Thành. Vua Trần đưa thư sang từ chối liền ba việc: Giúp lương, giúp quân
và sang chầu:
“Về việc giúp quân... Từ khi cha tôi quy thuận
thiên triều đến nay đã 30 năm, vũ khí không dùng nữa, quân lính được về làm dân.
Như thế là một phần để giúp vào việc dâng cống thiên triều, một phần để tỏ ra
không có ý gì khác....
Về việc giúp lương thì nước mọn chúng tôi địa
thế giáp biển, ngũ cốc không nhiều. Từ sau khi đại quân đi rồi trăm họ xiêu dạt.
Thêm vào đó lại bị hạn hán, lụt lội, sáng no chiều đói, ăn uống không đủ...
Còn
về lời truyền bảo kẻ côi cút này tự mình đến nơi cửa khuyết để vâng lời giáo huấn,
như lúc cha già còn sống thiên triều đã xót thương mà cho được ngoài quy định.
Nay cha già đã mất, kẻ côi cút này đang chịu tang, nhiễm bệnh đến nay còn chưa
hồi phục. Huống hồ kẻ côi cút này sinh trưởng ở nơi hẻo lánh, chẳng chịu được
nóng lạnh, không quen thủy thổ, đường sá gian lao, e phơi xương trắng. Đến bọn
bồi thần của nước mọn chúng tôi qua lại còn bị khí độc xâm hại, hoặc chỉ sống
được năm sáu phần, hoặc chết đến quá nửa, các hạ cũng đã biết rõ điều đó; chỉ
mong thương giúp mà tâu bày với thiên triều, ngõ hầu thiên triều hiểu cái ý
tham sống sợ chết của kẻ côi cút này cùng hết thảy tông tộc quan lại” (NS).
Không chấp nhận các yêu cầu
của nhà Nguyên nhưng nhà Trần vẫn trình bày rõ các lý do của mình, giọng ôn tồn
kể lể, lại có chỗ ngầm tố cáo tội ác của giặc đã khiến dân chúng phải chịu cảnh
đói khát, lam lũ... Không những nhà Trần không giúp nhà Nguyên trong việc tấn
công Chiêm Thành mà trái lại, hình như còn giúp sức cho Chiêm Thành chống quân
Nguyên, bị nhà Nguyên kết tội là “thông mưu với Chiêm Thành, sai 2 vạn quân
và 50 chiến thuyền tiếp viện”(NS). Nhưng trong thư gửi nhà Nguyên,
vua Trần chối bỏ tất cả.
Thoát Hoan tiến quân đánh
phía nam, dùng kế “mượn đường diệt Quắc”, vờ là đánh Chiêm Thành, đòi nhà Trần
giúp lương và cho mượn đường tiến quân. Biết rõ ý đồ của giặt, vua Trần sai Trần
Quốc Tuấn phòng bị cẩn mật, gửi thư từ chối các yêu cầu của nhà Nguyên với lý
do từ nước ta sang Chiêm Thành cả thủy bộ đều không tiện. Khi quân Nguyên nhận
ra sự bố phòng của ta thì được vua Trần giải thích là do kỳ cống sắp đến nên phải
chuẩn bị đinh lực chứ không phải để chống lại chúng. Giọng điệu của nhà Trần vừa
cứng cỏi lại kín kẽ khiến cho nhà Nguyên không thể bắt bẻ được. Khi nhà Nguyên
xuất quân, nhà Trần một mặt sai quân bố phòng cẩn mật, một mặt sai Nguyễn Đức
Dư, Nguyễn Văn Hàn đi sứ, mang thư sang, vạch rõ sự tráo trở của nhà Nguyên:
“... Ngày
trước, vâng mệnh thánh chiếu ban rằng: “Riêng lệnh cho quân ta không vào
nước ngươi”. Nay thấy các doanh trại, cầu đường ở Ung Châu nối liền dằng
dặc, thực xiết bao kinh sợ. Những mong soi xét tấc lòng thành mà thêm phần
thương xót”(NS).
Thêm một lần nữa, vua Trần
nhắc lại lời chiếu năm Trung Thống nguyên niên (1261), dùng chính những gì nhà
Nguyên đã nói để đấu lý, lột trần bộ mặt thật của chúng, khiến chúng lâm vào thế
bí, phải cố thanh minh là sở dĩ tiến quân là vì Chiêm Thành chứ không phải nhắm
vào Đại Việt, nhưng vua tôi nhà Trần sao có thể ngây thơ tin vào những lời lừa
bịp ấy. Những lời trên là nỗ lực cuối cùng của vua Trần trước một cuộc chiến
tranh đã ở ngay trước mắt. Sau đó không lâu, trong cuộc chạm trán với quân ta ở
Vạn Kiếp, bọn Ô Mã Nhi nhặt được hai tờ giấy do nhà Trần vứt lại; đó chính là
thư vua Trần gửi nhà Nguyên. Thư có đoạn:
“Chiếu trước có viết: “Riêng lệnh
cho quân ta không vào nước ngươi”. Nay vì việc Chiêm Thành đã thần phục
nhưng lại làm phản mà dấy đại quân, kéo qua nước tôi, tàn hại trăm họ. Đó là việc
làm sai lầm của Thái tử chứ không phải lỗi của nước tôi. Kính mong không nên
trái lời chiếu trước mà rút đại quân về. Nước tôi đang sắm cống vật đến dâng, lại
có những thứ khác với trước đây”(NS).
Có thể đây chỉ là bản thảo
của bức thư cũ mà vua Trần định gửi đi song nhận thấy những văn thư bang giao
lúc này đã trở thành vô nghĩa nên vứt bỏ để trả lời bằng vũ khí; cũng giống như
các chiếu sắc, công văn trước đây nhà Nguyên gửi sang đều bị xé bỏ vứt lại ở
Thăng Long cho quân Nguyên nhặt lại.
Có thể nói thời phong kiến
chưa bao giờ dân tộc ta phải đối đầu với một kẻ địch mạnh, hung hãn và hiếu chiến
như Mông Cổ. Tuy hai lần thất bại cay đắng song Hốt Tất Liệt vẫn không từ bỏ ý
đồ xâm lược, bất chấp mọi lời can ngăn của các quan trong triều10, một
mặt vẫn sai sứ sang nước ta để dò xét tình hình, một mặt vẫn ráo riết chuẩn bị
cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ 3. Nhân vì trong cuộc chiến lần thứ 2, bọn Trần
Ích Tắc hèn nhát hàng giặc, lúc này chúng được nhà Nguyên phong vương tước, thiết
lập triều đình bù nhìn rồi đưa về nước. Nhưng cuộc chiến lần thứ 3 cũng thất bại,
các tướng tá là Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp... bị bắt, bọn Trần Ích Tắc và nhất là
Thoát Hoan thêm một lần nữa chạy thoát về về nước. Nhà Nguyên hai lần dựng
chính quyền bù nhìn đưa về nước nhưng cả hai lần đều không thành.
Phía nhà Trần tuy ba lần
chiến thắng song luôn tỏ ra mềm mỏng, khéo léo, ngõ hầu để tránh những cuộc chiến
tranh không cần thiết. Vấn đề nổi bật trong các văn thư bang giao giai đoạn này
là giải quyết vấn đề tù binh. Ngay khi vừa chiến thắng, vua Trần chủ động sai
Trần Khắc Dụng đi sứ sang nhà Nguyên. Trong tờ biểu năm 1288 chép trong TNHK,
vua Trần khôn khéo chỉ trích, vạch rõ tội ác của giặc:
“Đến
năm Chí Nguyên thứ 23 (1286) Bình chương A Lý Hải Nha ham lập công nơi biên viễn,
làm trái thánh chiếu. Vì vậy làm cho sinh linh nước mọn một phương phải chịu cảnh
lầm than....
Mùa
đông năm Chí Nguyên thứ 24 (1287) lại thấy đại quân theo hai đường thủy bộ tiến
sang, thiêu hủy chùa chiền trong nước, khai quật phần mộ tổ tiên của chúng thần,
sát hại già trẻ chúng dân, đập phá sản nghiệp của trăm họ, không việc tàn hại
nào là không làm.
Tham chính Ô Mã Nhi thống lĩnh binh thuyền
đã lâu, nay lại riêng ở nơi biển cả, bắt hết dân ven biển, kẻ lớn thì bị giết
chết, kẻ nhỏ thì bị bắt đi, thậm chí treo ngược róc thịt, thân một nơi đầu một
nẻo; trăm họ bị bức đến chỗ chết, bèn dấy lên cái họa của con thú cùng đường.
Vi thần sợ lụy đến mình nên đích thân đến ngăn lại, ngặt nỗi đường xa nên
không kịp”.
Vua Trần khéo léo phê phán
sự hiếu chiến của Hốt Tất Liệt thông qua sự hiếu chiến của bọn tướng tá và vạch
rõ tội ác của chúng. Một cuộc chiến rất đáng tiếc đã xảy ra, đó là do quan quân
nhà Nguyên tàn bạo sát hại dân chúng khiến dân chúng căm hờn vùng lên chống trả;
Trần Thánh Tông tự nhận mình vô can, thậm chí đã “sợ lụy đến mình nên đích
thân đến ngăn lại, ngặt nỗi đường xa nên không kịp”. Giải thích việc cả gan
đánh diệt quân thiên triều như vậy thật là kín kẽ mà không kém phần “xảo ngôn”.
Trong bọn tướng tá nhà Nguyên, Ô Mã Nhi là tên đầu sỏ, hung hãn và có nhiều nợ
máu với nhân dân Đại Việt, bị nhà Trần lên án gay gắt, những tội lỗi ấy không
thể dung thứ, ngầm ý thông báo cho nhà Nguyên biết rằng mình sẽ thẳng tay trừng
trị tên tướng ác ôn này. Cho hay, ẩn sau lời lẽ có phần nhún nhường của nhà Trần
là một thái độ rành mạch và cương cường. Dù vậy, để làm dịu bớt tình hình, vua
Trần có gợi ý về việc trao trả tù binh và hứa hẹn một dịp cống vào mùa đông
cùng năm.
Năm Chí Nguyên 26 (1289),
nhà Nguyên sai sứ sang nước ta. Đồng thời sứ bộ của nhà Trần đã bị bắt giữ trước
đây là nhóm Nguyễn Nghĩa Toàn gồm 24 người cũng được cho về nước để tạo không
khí bớt căng thẳng nhằm đưa yêu sách mới. Trong tờ chiếu sứ Nguyên mang sang lần
này nhà Nguyên lại đòi Trần Thánh Tông phải sang chầu, trao trả bọn Ô Mã Nhi,
và không quên lời hăm dọa sẽ dùng đến sức mạnh quân sự. Có thể trong tờ biểu
trước đó của Trần Thánh Tông, nhà Nguyên đã nhận thấy phía Đại Việt sẽ không
nương tay với bọn tướng lĩnh đầu sỏ đã bị bắt nên mới gài thêm mấy lời đe dọa
cho có sức nặng, ngõ hầu vua Trần phải nể sợ và mở sinh lộ cho chúng. Nhưng nhà
Trần đã nhiều phen thắng giặc, có bao giờ lại tỏ ra run sợ trước những lời đe dọa
ấy. Trần Thánh Tông không sang chầu, lý do vẫn là “ốm đau lâu ngày, đường xá
xa xôi...” và “sợ chết”. Với bọn tù binh nhà Trần từng bước trao trả,
nhưng những tên đầu sỏ, có nhiều nợ máu với nhân dân Đại Việt thì bị thẳng tay
trừng trị. Tướng Ô Mã Nhi, kẻ mà nhà Nguyên đưa lên đầu danh sách đòi nhà Trần
trao trả bị giết chết. Tên thứ hai là Phàn Tiếp cũng ốm chết, được nhà Trần cho
đốt xác mang về. Việc trừng trị các tên giặc đầu sỏ đủ cho thấy thái độ cương
cường và nhất quán của nhà Trần, không hề run sợ trước sự đe dọa của nhà
Nguyên. Dẫu vậy, về danh nghĩa, trong bản tấu năm 1289, Trần Thánh Tông trình
bày khá đầy đủ về việc trao trả người, giải thích đàng hoàng về cái chết của
Phàn Tiếp và Ô Mã Nhi, có nói đến cả nhân chứng:
“...
Phàn Tham chính bỗng lên cơn sốt. Kẻ thần tử nhỏ mọn này đã mang hết thuốc
thang đem cho bọn thầy thuốc thuộc hạ của Tham chính chữa trị nhưng không được,
dần dần đến nỗi phải thiệt thân. Thần đã hỏa táng, xong phần công đức, nhân đấy
cấp ngựa và lụa giao cho thê thiếp của Tham chính đưa hương cốt trở về... Phàm
việc khoản đãi hàng ngày có được kính trọng hay không cứ hỏi thê thiếp của Tham
chính là có thể biết rõ.
Tham
chính Ô Mã Nhi đúng kỳ hạn tiếp tục về sau. Ông ta đòi đi theo đường từ Vạn Kiếp
nên trước hết đã xin Hưng Đạo Vương cấp cho phương tiện đi về. Trong cuộc hành
trình, ban đêm gặp phải hỏa hoạn, nước rò vào thuyền. Tham chính thân hình to lớn
không thể vớt kịp, đến nỗi chết chìm. Các phu thuyền của nước mọn chúng tôi lặn
tìm cũng đều chết cả. Thê thiếp và tiểu đồng của Tham chính suýt nữa cũng chết
chìm, may nhờ thân hình nhỏ nhẹ nên được cứu thoát.
Kẻ thần tử nhỏ mọn đã cho hỏa táng, xong phần công đức, Thiên sứ Lang trung
tận mắt chứng kiến. Hoặc giả điều gì bất kính có thê thiếp của Tham chính ở đấy
khó có thể che giấu được. Kẻ thần tử nhỏ mọn kính cẩn chuẩn bị đủ lễ giao cho
thê thiếp Tham chính cùng xá nhân Lang trung tiếp tục trở về nước sau”.
Cách giải thích thật tỉ mỉ,
ôn tồn, có vẻ chân thật nhưng cũng đủ hé lộ cho địch biết thái độ đích thực của
mình khiến nhà Nguyên dẫu cay cú cũng đành chịu bỏ qua cái chết của Ô Mã Nhi,
Phàn Tiếp...
Năm 1290, Thái thượng
hoàng Trần Thánh Tông mất, vua Trần Nhân Tông cử Ngô Đình Giới sang nhà Nguyên
báo tang. Hốt Tất Liệt nhân Thánh Tông mới mất, muốn mang quân xâm lược song
các quan trong triều can ngăn; vả lại tình hình Trung Quốc cũng có nhiều diễn
biến phức tạp nên tạm sai một đoàn gồm những người đã có kinh nghiệm trong việc
giao thiệp với nhà Trần như Trương Lập Đạo đi sứ Đại Việt, mang theo chiếu của
vua Nguyên và đưa nhóm Nghiêm Trọng Duy về nước. Trong chiếu thư lần này nhà
Nguyên dọa nạt “nước nào kháng cự không phục tùng thì bị tiêu diệt”, và
dụ vua Trần Nhân Tông sang chầu: “Khanh như biết thân hành sang chầu triều,
thì những phù ấn về tước vua, ta sẽ cho cả không tiếc gì, đất đai và nhân dân
ngõ hầu được bảo tồn vĩnh viễn” (ANCL). Cũng trong cuộc đi sứ này,
Trương Lập Đạo cực lực khoa trương sức mạnh của nhà Nguyên và kết luận rằng các
nước đã thuần phục, “duy có Nhật Nam là nước nhỏ bé, bề ngoài tuy làm chư hầu,
chịu lễ cống tiến, không hề thiếu, mà chưa hết lòng thành”(ANCL).
Trong khi Trương Lập Đạo đang cao hứng, hết lời ca ngợi lòng nhân của thiên tử
nhà Nguyên thì bị Đinh Củng Viên phản ứng thẳng thừng: “Thiên tử đã có ý tốt
như thế thì trước kia không đụng đến đồ binh khí chẳng là càng tốt hơn ư?”(ANCL).
Trong bài biểu năm 1292,
vua Trần Nhân Tông tán dương niền hân hạnh nếu được giáp mặt thiên tử:
“Phàm
người ta ở đời nếu may mắn được giáp mặt thánh nhân thì kinh Phật nói “đó
là phúc lớn” sách Nho nói đó là “nghìn năm mới có một lần”.
Thần há chẳng muốn tận mắt được xem thượng quốc, đích thân tắm gội thánh ân mà
vội trái mệnh để chuốc tai vạ hay sao!”(ANCL).
Nhưng tán dương cho có lệ,
rốt cục không sang chầu, có trình bày lý do, thậm chí lên giọng thề thốt rất
khôi hài: “Có trời trên cao, thần quả thực chỉ như thói thường tham sống sợ
chết...”( ANCL).
Sau khi Trương Lập Đạo trở
về, vua Trần Nhân Tông sai Nguyễn Đại Phạp đi sứ. Lúc này vị thế của Đại Việt
cơ hồ đã khác trước rất nhiều. Đại Phạp sang Nguyên, được nhà Nguyên tôn trọng,
gọi ông là “Lão lệnh công”. Cũng nhân dịp này, Đại Phạp gặp Trần Ích Tắc ở Ngạc
Châu; Đại Phạp chào khắp mọi người nhưng không thèm chào Ích Tắc khiến “ả Trần”(*) tức giận, hỏi xỏ, bị Đại Phạp cho một
bài học đích đáng11.
Không bao lâu sau khi nhóm
Trương Lập Đạo đi sứ thất bại trở về, nhà Nguyên lại sai bọn Lương Tăng (cũng
phiên âm là Lương Tằng), Trần Phu đi sứ Đại Việt. Lần này nhà Nguyên trách vua
Trần đã không sang chầu và tỏ ý đe dọa: “Nếu nói con côi đang để tang và sợ
chết dọc đường mà không dám vào chầu thì trong loài hữu sinh có loài nào an
toàn trường cửu được chăng? Trong thiên hạ có chốn nào bất tử chăng?” (NS).
Vua Trần Nhân Tông viện cớ có tang không ra ngoài thành đón chiếu thư, những việc
chủ yếu cũng chỉ trao đổi qua thư từ, lại viện lý do để thoái thác các yêu sách
của nhà Nguyên với những lời đặc biệt sáo rỗng:
“...
Điều đắc tội chỉ là không thể vào chầu được mà thôi. Kẻ côi cút há không biết
lễ là có lệnh vua đòi thì không được lần lữa. Nhưng như thói thường tham sống,
sợ chết; vì sao chim bay lên cao, cá lặn xuống sâu? Đó là bởi ôm lòng ham sống.
Chim, cá còn vậy, huống chi con người!... Từ tệ ấp đến thiên triều núi sông
muôn dặm, tướng công hẳn đã tỏ tường. Giả như kẻ côi cút đem thân yếu đuối, gắng
gượng ra đi chuyến này thì việc không tử vong trên đường thực là khó vậy. Việc
kẻ côi cút chết đi cố nhiên không đáng thương xót, song chẳng phải là làm tổn hại
đến lòng nhân yêu người, yêu vật của thánh hiền ru? Kinh thư ghi, vua tức là
trời vậy. Việc thờ vua của kẻ côi cút còn hơn cả thờ trời. Trời không bậc để
lên nhưng có thể sớm tối so đo. Vua không có bậc để gần song có thể sớm tối dốc
lòng ngưỡng mộ. Kẻ côi cút nếu không tự lượng sức mà cứ ra đi, như thế còn muốn so đo, ngưỡng mộ được chăng?”
Lại đòi nếu vua Trần Nhân
Tông không sang chầu thì phải cho con đi thay. Vua Trần cũng viện lý do thoái
thác:
“...
Được vào chầu ấy là vinh hạnh của kẻ bề tôi vậy, côi cút đây lẽ nào không muốn?
Nếu cho con đi e miệng còn hôi sữa, gân cốt chưa mạnh, không quen cưỡi ngựa,
chẳng dạn gió sương, trên đường rồi sẽ ra sao? Kẻ côi cút đây tuổi quá 30 còn lo chẳng giữ được thân
này, huống chi đứa con mọn ấy”.
Từ đầu chí cuối, nhà
Nguyên nhiều lần đòi các vua Trần sang chầu, còn các vua Trần luôn luôn từ chối,
với các lý do: sức yếu, đường xa, chưa từng học cưỡi ngựa, không quen thủy thổ,
sợ chết... và những điều đại loại như vậy. Đọc những bức thư kiểu ấy, vua tôi
nhà Nguyên không thể không thấy tẻ nhạt, chán ngắt... mặc dù nó đi kèm với những
lời ca ngợi, nhưng hẳn cũng thấy rõ thái độ nhất quán của các vua Trần là:
Không bao giờ sang chầu!
Giọng điệu nhún nhường có
khi hơi thái quá, cơ hồ như sợ sệt, ai hay ấy lại là những lời thốt ra từ cửa
miệng của những vị vua kiêu hùng của một thời, từng thanh gươm yên ngựa cùng ba
quân tung hoành trên các chiến trường, đánh cho những đội quân xâm lược nổi tiếng
hung hãn nhất đời phải thất điên bát đảo, nhiều phen tan tác. Nhà Nguyên cũng
không hẳn không biết điều đó nên nhiều lần trách các vua Trần không thực tâm
quy phục, là “dối trá”, “nói suông” (xảo sức kiến khi)...
Trong 4 bức thư do vua Trần
gửi Lương Tăng chép trong TCTTT, Trần Nhân Tông nhân cha mới mất nên mở
đầu các bức thư đều xưng là “cô tử” (con côi), nhưng sau đó có đến 38 lần cố ý
tự xưng là “cô”12, mặc nhiên xem mình là vua một nước, lấy danh
nghĩa ấy để tiếp sứ. Điều đó làm bọn Trần Phu rất bất mãn mà không làm gì được.
Cũng vì thế trong An Nam
tức sự Trần Phu có ghi là: “Thác chế tiếm xưng cô” (Lấy lý do đang
có tang [cha] nên tiếm xưng là “cô”)13.
Các sứ Nguyên bề ngoài tỏ
ra hống hách nhưng thực chất trong lòng rất khiếp sợ uy lực của Đại Việt, đến
khi đi sứ về đến nhà mà còn tim đập chân run. Lời thơ của Trần Phu nói lên điều
ấy:
“... Kim qua ảnh
lý đan tâm khổ,
Đồng cổ thanh
trung bạch phát sinh.
Dĩ hạnh quy lai
thân kiện tại,
Mộng hồi do giác
chướng hồn kinh”14.
Dịch thơ:
Sáng lòa gươm
giáo lòng đau khổ,
Vang vọng trống
đồng tóc bạc phơ.
May trở về nhà
thân mạnh khỏe,
Mà hồn kinh sợ
những khi mơ.
Trường Phong dịch
Còn nhớ trước đây, Trương
Đình Trân mang chiếu thư của Hốt Tất Liệt sang đòi vua Trần giao nộp bọn thương
nhân Hồi Hột, y thấy vua Trần tiếp chiếu mà không lạy nên rất bực tức, liền buông
lời đe dọa, lại đòi phải tiếp y theo lễ như với tước vương. Nhưng mọi luận điệu
của y đều bị nhà Trần bác bỏ bằng thái độ hết sức cứng rắn, thậm chí còn giam lỏng
để cảnh cáo, không cho uống nước, y cố van vỉ mới được lính canh múc nước giếng
cho uống15.
Bọn sứ Nguyên sang ta “nhiều
người vô lễ”. Nhưng Sài Thung hống hách là vậy đến khi gặp Quốc Tuấn, chứng kiến
khí độ của ông thì sự hống hách ấy phải giảm hẳn. Nói về cách tiếp sứ của nhà
Trần, Phan Huy Chú từng nhận xét rất xác đáng rằng:
“Nước
ta thời nhà Trần ứng tiếp với sứ nhà Nguyên, khi cương khi nhu, đều là đắc thế
cả, cho nên từ năm Trung Hưng về sau mới có thể hết việc binh đao, mà Bắc sứ
thường thường phải khuất phục. Trong khoảng hơn trăm năm, ngăn được sự dòm ngó
của Trung Quốc mà tăng thêm thanh danh cho văn hiến nước nhà, đó là nhờ có sự
giao tiếp đắc nghi vậy”16.
Còn sứ nhà Trần, như Đỗ Khắc
Chung, một mình một ngựa sang doanh trại của Ô Mã Nhi, giả danh cầu hòa để tìm
hiểu tình hình quân giặc, giữa rừng gươm biển giáo của quân thù mà nói năng lưu
loát, khí độ hiên ngang khiến sau đấy Ô Mã Nhi là phía địch mà còn phải khen ngợi,
hối hận vì đã thả cho về, sai quân đuổi bắt lại thì không còn kịp nữa. Lại như
Nguyễn Đại Phạp đi sứ Nguyên, không thèm chào Trần Ích Tắc, thậm chí còn ngang
nhiên dạy cho tên phản quốc một bài học đích đáng mà người Nguyên cũng không
dám phản ứng.
Tháng 3 năm 1293, bọn
Lương Tăng, Trần Phu trở về, Nhân Tông sai bồi thần là Đào Tử Kỳ đi sứ. Bấy giờ
nhà Nguyên đã sai Lưu Quốc Kiệt tổ chức quân đội sẵn sàng, do vậy nhà Nguyên
lưu Tử Kỳ lại Giang Lăng, chuẩn bị tiến quân tiến đánh Đại Việt, nhưng do Hốt Tất
Liệt chết nên kế hoạch bãi bỏ. Từ đấy về sau, quan hệ ngoại giao giữa hai nước
không căng thẳng như các giai đoạn trước. Tuy vậy, nhiều tên sứ Nguyên vẫn cậy
thế nước lớn nên tỏ ra rất ngang ngược, nhà Trần có khi phải đấu lý mới khiến
chúng nhượng bộ17. Các sứ thần của nhà Trần được cử đi sau này như Mạc
Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn... đều được chọn lựa kỹ càng, nổi tiếng là những
người sắc sảo, ứng biến lanh lẹ, đĩnh đạc và can trường.
Từ khi tên sứ Nguyên đầu
tiên đặt chân đến Đại Việt (1257) đến khi nhà Nguyên sụp đổ (1368), quan hệ ngoại
giao Trần - Nguyên trải dài hơn trăm năm, nhưng gay go, phức tạp nhất là giai
đoạn 40 năm đầu - giai đoạn gắn liền với ba cuộc chiến tranh. Không hoàn toàn
giống nhà Tống, nhà Nguyên có tiềm lực quân sự mạnh hơn, đồng thời tham vọng
bành trướng cũng lớn hơn rất nhiều. Vì vậy, trong giai đoạn đầu quan hệ với nhà
Nguyên, nhà Trần một mặt tiếp thu những bài học ngoại giao của các triều đại
trước, song nhất thời không thể thi hành đường lối ngoại giao cứng rắn như các
nhà Tiền Lê và Lý, mà uyển chuyển và linh hoạt hơn. Qua các văn thư ngoại giao
có thể thấy sự nhất quán trong đường lối ngoại giao của nhà Trần là thái độ
kiên quyết giữ vững thể diện quốc gia, độc lập chủ quyền của dân tộc; mặc dù có
lúc cương lúc nhu song không bao giờ khuất phục, luôn bình tĩnh và tỉnh táo trước
âm mưu của kẻ thù, khéo léo kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh trên các
mặt trận chính trị và quân sự làm tiêu tan tham vọng xâm lược của nhà Nguyên,
khiến việc sắc phong, phiên thần chỉ còn là hình thức. Thái độ ấy quán xuyến
toàn bộ các văn thư, xác lập phần cốt lõi cơ bản của chúng. Song do phải đối đầu
với kẻ địch mạnh, hung bạo và hiếu chiến nên trong quan hệ ngoại giao, nhà Trần
một mặt đấu tranh bảo vệ nền độc lập tự chủ của quốc gia, bác bỏ các yêu sách của
giặc, một mặt sáng suốt nhận rõ âm mưu, khai thác, tận dụng các sơ hở của địch,
đưa ra các lý lẽ thuyết phục khiến kẻ thù không dễ viện cớ để gây việc binh
đao. Qua các văn thơ ngoại giao có thể thấy đường lối ngoại giao của nhà Trần hết
sức uyển chuyển và linh hoạt, thâm trầm mà kín kẽ, lời văn sáng gọn, sắc bén,
giọng điệu nhún nhường, mềm dẻo mà lý lẽ vững vàng, đáng làm khuôn mẫu cho các
đời sau noi theo, xứng đáng gọi là “từ hàn khôn khéo”18.
.................................................
Chú thích
1. Thời xưa, quan hệ
ngoại giao giữa các nước gọi là “bang giao”, ít khi dùng từ ngoại giao như ngày
nay. Sách Lễ ký-Thu quan viết: “Phàm việc bang giao giữa các nước chư hầu chỉ là việc hàng năm
thăm hỏi lẫn nhau vậy” (Phàm chư hầu chi bang giao, tuế tương vấn dã). Các sách
ghi chép về quan hệ ngoại giao giữa nước ta với trung Quốc thời xưa thường dùng
từ này. Kho sách Hán Nôm hiện còn các tác phẩm như: Bang giao lục (Ghi
chép về việc bang giao, A. 614), Bang giao văn tập (Tập văn bang giao,
A. 407), Bang giao đối liên (Câu đối bang giao, A. 2261)... Ở đây chúng
tôi dùng từ “ngoại giao”, nhưng cũng có chỗ vẫn dùng từ “bang giao”.
2.
Sách do Lê Trắc viết tại Trung Quốc, gồm 20 quyển, hiện chỉ còn 19 quyển (Văn bản
do nhà sách Lạc Thiện Đường in tại Thượng Hải năm 1884, ký hiệu A.16 - Viện
Nghiên cứu Hán Nôm. Bản này được Trung Hoa thư cục gộp cùng Hải ngoại kỷ sự in thành sách: An Nam
chí lược, Hải ngoại kỷ sự, in lần đầu năm 2000, phần An Nam
chí lược do Vũ Thượng Thanh hiệu điểm). Bài tựa sớm nhất trong ANCL ghi
năm Đại Đức thứ 11 (1307).
3.
Sách gồm 210 quyển, do nhóm Tống Liêm, Vương Vĩ biên soạn đầu đời Minh, hoàn tất
vào năm Hồng Vũ thứ 3 (1370). Các đoạn dịch trong bài chúng tôi dịch theo
bản do Trung Hoa thư cục xuất bản trên cơ sở bản ảnh ấn của Thương vụ
ấn thư quán năm 1935.
4.
Sách do Từ Minh Thiện (sứ Nguyên từng đến Đại Việt năm 1289) viết. Các đoạn
dịch trong bài chúng tôi dịch theo văn bản trong bộ Thuyết phu của Đào Tông Nghi cuối thời Nguyên biên soạn, Hàm
Phần lâu khắc in (trong bản này khắc là An Nam
hành ký).
5.
Sách do Trần Cương Trung (sứ Nguyên từng đến Đại Việt năm 1292) viết, cuối tập
có phần Phụ lục mang tên Nguyên phụng sứ dữ An Nam quốc vãng phục thư
(Văn thư qua lại giữa sứ giả nhà Nguyên với nước An Nam). Các đoạn
dịch trong bài chúng tôi dịch theo văn bản chép tay của Tứ khố toàn thư, bản Văn Uyên các.
6. Tham khảo: Phạm Văn Ánh, “Khảo biện văn thơ ngoại giao Trần Nhân Tông”, tạp
chí Văn học, số 12, năm 2008, tr.39-48.
7.
Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm, Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông thế kỷ
XIII, Nxb Quân đội nhân dân, 2003, tr.44.
8.
Xem Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm, Sđd, tr.102-102.
9.
Phần dịch An Nam chí lược trích dẫn trong bài viết này theo bản dịch An Nam chí lược do Nxb Thuận Hóa - Trung
tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2002, và bản dịch của Thơ văn Lý Trần, tập II, quyển Hạ (bản thảo
của Viện Văn học).
10. Hà Văn Tấn, Phạm
Thị Tâm, Sđd, tr. 272-274.
11. Ngô Sĩ Liên, Đại
Việt sử ký toàn thư, bản dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, T. II,
tr. 68:
“Nguyễn Đại Phạp đi sứ nước
Nguyên, người Nguyên gọi là Lão lệnh công. Đại Phạp tới Ngạc Châu, vào yết kiến
các quan bình chương hàng tỉnh. Lúc ấy Chiêu Quốc Vương Ích Tắc cũng ngồi ở đó.
Đại Phạp chỉ không chào một mình hắn. Ích Tắc hỏi:
“Ngươi có phải là tên biên chép ở
nhà Chiêu Đạo Vương đó ư?” (Chiêu Đạo Vương trước tên là Quang Xưởng, là
con thứ của Thái Tông, anh cùng mẹ của Ích Tắc).
Đại Phạp trả lời:
“Việc đời thay đổi, Đại Phạp trước
vốn là tên biên chép cho Chiêu Đạo Vương mà nay là sứ giả, cũng như Bình chương
xưa kia là con vua, nay là người đầu hàng giặc”.
Ích Tắc có vẻ hổ thẹn. Từ đấy về
sau, sứ ta đến, hắn không còn ngồi ở tỉnh đường nữa”.
12. Xưa, cha chết
con xưng mình là “cô tử”. Sau các đế vương cũng thường khiêm xưng là “cô”.
13. Xem Trần Nghĩa, Trần
Phu và bài thơ “An Nam
tức sự” (sưu tầm, dịch và giới thiệu), tài liệu Thư viện Viện Văn học, ký
hiệu D. 218, tr.10.
14. Trần Cương
Trung, Giao Châu sứ cảm sự. Bài này được Lê Quý Đôn chép lại trong Kiến
văn tiểu lục (Xem Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, Nxb Sử học, 1963,
tr. 203-204).
15. Hà Văn Tấn, Phạm
Thị Tâm, Sđd, tr. 109.
16. Xem Phan Huy
Chú, Lịch triều hiến chương loại chí,
tập III: “Bang giao chí”, Nxb. Khoa học xã hội, H.1992, tr. 255.
17. Như năm Khai
Thái nguyên niên (1324), sứ Nguyên là nhóm Mã Hợp Mưu sang, tỏ ra rất hống
hách, không khác Sài Thung năm nào; vua Trần phải sai Thị ngự sử Nguyễn Trung
Ngạn đến “lấy lẽ mà bẻ”, bọn chúng bớt hách dịch, chịu xuống ngựa, đi bộ mang
chiếu vào triều.
18. Phần “Thiên
chương” (Quyển VI) sách Kiến văn tiểu lục khi nói về văn thư bang giao
thời Trần chép trong tập Thiên Nam hành ký (cũng gọi là An Nam hành
ký) của Từ Minh Thiện thời Minh, Lê Quý Đôn viết: “Xem tập Tục Thuyết
phu Thiên Nam hành ký có thể biết được thời đại nhà Trần từ hàn khôn khéo
và số lễ vật nạp cống hàng năm (Xem Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, Nxb Sử
học, 1-1963, tr. 199-200).
TÓM TẮT
Quan hệ ngoại giao giữa
nhà Trần và nhà Nguyên trải dài hơn trăm năm, nhưng gay go, phức tạp nhất là
giai đoạn 40 năm đầu - giai đoạn gắn liền với ba cuộc kháng chiến chống quân
xâm lược Nguyên Mông. Không hoàn toàn giống nhà Tống, nhà Nguyên có tiềm lực
quân sự mạnh hơn, đồng thời tham vọng bành trướng cũng lớn hơn rất nhiều. Vì vậy,
trong giai đoạn đầu quan hệ với nhà Nguyên, nhà Trần một mặt tiếp thu những bài
học ngoại giao của các triều đại trước, song nhất thời không thể thi hành đường
lối ngoại giao cứng rắn như các nhà Tiền Lê và Lý, mà uyển chuyển và linh hoạt
hơn. Qua các văn thư ngoại giao có thể thấy sự nhất quán trong đường lối ngoại
giao của nhà Trần là thái độ kiên quyết giữ vững thể diện quốc gia, độc lập chủ
quyền của dân tộc; mặc dù có lúc cương lúc nhu song không bao giờ khuất phục,
luôn bình tĩnh và tỉnh táo trước âm mưu của kẻ thù, khéo léo kết hợp đấu tranh
ngoại giao với đấu tranh trên các mặt trận chính trị và quân sự làm tiêu tan
tham vọng xâm lược của nhà Nguyên, khiến việc sắc phong, phiên thần chỉ còn là
hình thức. Thái độ ấy quán xuyến toàn bộ các văn thư, xác lập phần cốt lõi cơ bản
của chúng. Song do phải đối đầu với kẻ địch mạnh, hung bạo và hiếu chiến nên
trong quan hệ ngoại giao, nhà Trần một mặt đấu tranh bảo vệ nền độc lập tự chủ
của quốc gia, bác bỏ các yêu sách của giặc, một mặt sáng suốt nhận rõ âm mưu,
khai thác, tận dụng các sơ hở của địch, đưa ra các lý lẽ thuyết phục khiến kẻ
thù không dễ viện cớ để gây việc binh đao.
Qua các văn thơ ngoại giao
có thể thấy đường lối ngoại giao của nhà Trần hết sức uyển chuyển và linh hoạt,
thâm trầm mà kín kẽ, lời văn sáng gọn, sắc bén, giọng điệu nhún nhường, mềm dẻo
mà lý lẽ vững vàng, đáng làm khuôn mẫu cho các đời sau noi theo.
Phụ lục 1 trang của An Nam chí lược
[*] Viện Vă n học.
* Bị đánh bại nhanh chóng và bất ngờ, quân Mông Cổ hốt hoảng chạy về
Vân Nam ,
trên đường đi không dám cướp bóc và đốt phá, cho nên người ta mỉa mai gọi chúng
là “giặc Phật”. BBT.
(*) Phiên âm tiếng Mông Cổ, Trần Trọng Kim trong Việt Nam
sử lược gọi là quan Chưởng ấn, làm nhiệm vụ giám trị các châu quận ở nước
ta. BBT.
(*) Tuy Trần Ích Tắc đã hàng giặc,
nhưng vua Trần Nh ân Tông nghĩ tình thân không nỡ tước bỏ họ,
chỉ cho gọi là “ả Trần”. BBT.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét