(Bài gửi Thông Báo Hán Nôm học 2014)
ĐÌNH - CHÙA Hương Hải
Lịch sử Văn hóa và
Truyền thống Cách mạng
(THÔN CHI ĐÔNG - Xã Lệ Chi
Huyện Gia Lâm – Hà Nội)
I. GIỚI THIỆU
VỀ DI TÍCH LỊCH SỬ ĐÌNH CHÙA THÔN CHI ĐÔNG
1/
Đình Chùa Chi Đông trong thời kỳ phong kiến
Đình –
Chùa thôn Chi Đông, tức Đình làng Chi Đông và chùa Hương Hải Thiền Tự nằm trên
địa bàn của thôn Chi Đông, xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội. Ở phía
Đông Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 20 km. Từ trung tâm Hà Nội, qua cầu Thanh
Trì ra đường quốc lộ 5 (Hà Nội – Hải Phòng), tới ngã tư Phú Thị rẽ trái theo đường
Thuận Thành, đi khoảng 2km tới chợ Keo rẽ trái. Nằm ngoài khu vực đê sông Đuống,
bên trái cách đường đê sông Đuống khoảng 300m.
Đây
là một cụm di tích lịch sử văn hóa – tôn giáo tín ngưỡng của nhân dân địa
phương, nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần và tâm linh của quần chúng nhân
dân đã có từ lâu đời. Được nhân dân bảo quản tôn tạo trong suốt quá trình lịch
sử cho đến ngày nay. Đình và chùa nằm cạnh nhau trên một diện tích rộng lớn, có
vị trí địa lý khá đẹp, phong cảnh thiên nhiên tươi mát của bờ sông Đuống. Theo Đồng Khánh địa dư chí lược, một bản địa
dư cổ cuối cùng của triều Nguyễn thì đất xã Lệ Chi xưa thuộc tổng Cổ Biện, huyện
Gia Lâm, phủ Thuận Thành, Bắc Ninh. Xã nằm ngay sát một vùng sông Chiêm Đức cũ.
Chùa và Đình làng hình thành từ bao giờ, đến nay không còn chút cứ liệu lịch sử
nào cụ thể. Nhưng căn cứ vào cột hương đá còn lại trước sân chùa, dòng chữ trên
đá đã phai mờ nhưng kiểu dáng và hình thức trụ đá thời Hậu Lê là điều có thể khẳng
định. Có làng ắt phải có đình, có chùa. Lịch sử hình thành của làng Chi Đông có
lẽ phải sớm hơn thời điểm dựng cột hương đá này rất nhiều.
Theo
lịch sử của nhân dân địa phương còn truyền lại, Đình Chi Đông thờ Thành hoàng
là Trâu Đô thống, một vị tướng thời Hùng vương, có công giúp Đổng Thiên vương
đánh giặc Ân. Về sau, nhân dân còn suy tôn danh tướng triều Trần là Hưng Đạo Đại
vương Trần Quốc Tuấn, người chỉ huy tài ba trong 2 lần kháng chiến chống quân
Nguyên Mông, và đưa vào thờ phụng tại Đình của làng. Đình làng xưa có kết cấu
hình chữ Đinh (丁), có Hậu cung,
Trung đường và nhà Tiền tế; Nhà Tiền tế rộng 5 gian, ngăn cách bởi các hàng trụ
lim to, hai bên hai trái cho quan viên hội họp những việc trọng yếu của làng.
Chùa
Hương Hải (gọi tắt của tên Hương Hải Thiền tự) là ngôi chùa cổ lâu đời, nằm
ngay bên trái của Đình Chi Đông. Chùa được đặt tên là Hương Hải, có ý nghĩa là
nước biển thơm bao quanh núi Tu Di được nhắc đến trong Kinh Hoa Nghiêm. Tên
Hương Hải cũng trùng theo tên của vị Thiền Sư nổi tiếng thời Hậu Lê là thiền sư
Hương Hải Minh Châu[1], một tấm gương tu hành thiền
định của Phật giáo nước ta trong giai đoạn lịch sử này. Chùa có kết cấu hình chữ
Đinh (丁), nhưng nhỏ hơn,
không có Trung đường. Nhà trước 3 gian, chính giữa Tam bảo, hai bên hai trái.
Cách bài trí trong chùa tương đối đầy đủ, quy mô nhỏ gọn và giản dị, có hoành
phi, câu đối, chuông đồng. Trước chùa còn có cây đa hơn mấy trăm năm to sừng sững
như một biểu trưng của đình chùa cổ làng Việt, có mái cong của đình chùa với
cây đa bến nước. Chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật có niên đại từ thời Lê, như cột
đá trước sân chùa; những hiện vật có từ đời Minh Mạng, Thiệu Trị thời Nguyễn
như chuông, biển, hoành phi câu đối, thể hiện đạo lý nhiệm mầu của Phật pháp.
2/ Thời kỳ kháng chiến và đổi mới xây dựng
đất nước:
Trong
thời kỳ kháng chiến, trên địa bàn huyện Gia Lâm không ít những di tích lịch sử
đình chùa từng là nơi lưu trú, nuôi dưỡng cán bộ Việt Minh. Đình – Chùa thôn
Chi Đông đã trở thành một địa chỉ đỏ, là nơi liên lạc của cách mạng. Với địa thế
thuận tiện giao thông thủy bộ, gần trung tâm mà lại xa đường xá. Nhiều cán bộ
Việt Minh đã lấy đây làm nơi ẩn mình trước khi vào hoạt động trong Nội thành,
hay là nơi trung chuyển đưa cán bộ ta từ Nội thành ra. Cây đa cổ thụ hiện còn
đã chứng kiến nhiều phen truy càn của Thực Dân Pháp, đã rủ cành rậm rạp che dấu
cho cán bộ của ta thoát khỏi sự săn đuổi của kẻ thù, như các đồng chí Đặng Bá
Quýnh, Vũ Bá Nghi, Nguyễn Văn Cốc, Tạ Văn Khiển[2].
Nhiều cán bộ cách mạnh lão thành hiện vẫn sống[3]. Nhiều
người đã hi sinh anh dũng, nhưng tinh thần cách mạng của các đồng chí, mãi mãi
như cành đa gò Mái Dậm muôn đời tỏa bóng, tô thắm truyền thống cách mạng của
nhân dân Chi Đông. Có những gương anh dũng hi sinh mà lời tiếc thương của các đồng
chí, bè bạn vẫn còn vang mãi đến tận ngày nay:
Đất
tú khí sinh người anh dũng
Đồng chí Bình
hoạt động khu ta
Bao phen sóng gió vượt qua
Bị loài lang sói vây đà bắt anh
Phút cuối cùng miệng còn mắng giặc
Và hô vang Hồ chủ tịch muôn năm[4]
Kháng
chiến thành công, nhân dân thôn Chi Đông kế thừa truyền thống cách mạng của các
thế hệ đi trước, theo đường lối chỉ đạo của Đảng tiến hành vừa xây dựng phát
triển thôn quê Xã hội chủ nghĩa, vừa nêu cao tinh thần chiến đấu, chống chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
Trong
những năm sau nhân dân có kiến thiết thêm 5 gian thờ Mẫu và 5 gian nhà Tổ, cách
khoảng sân rộng giữa chùa và đình, phát huy sự hài hòa đặc sắc trên tổng thể
không gian tín ngưỡng của làng quê Việt Nam. Bao gồm Đình thờ Thành Hoàng, chùa thờ Phật, điện thờ
Thánh mẫu và Tổ đường để phụng thờ các Tổ đã viên tịch. Khu trái bên đình làng
hiện nay, là nơi Chi bộ thôn dùng làm nơi tổ chức các cuộc họp chung, dân làng
còn suy tôn phụng thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, lãnh tụ kính yêu của dân tộc,
với đôi câu đối ca ngợi thể hiện rõ công lao, tài năng và đức độ của Hồ chủ tịch:
氣 節 動 鬼 神 萬 民
霑 德
忠 貞 同 日 月 四 海 知 名
Khí
tiết động quỷ thần vạn dân chiêm đức
Trung
trinh đồng nhật nguyệt tứ hải tri danh
Khí tiết động cả quỷ thần, muôn dân nhờ đức
Lòng
trung cùng nhật nguyệt, bốn biển nêu danh
Và:
精 神 光 明 今 古 英 雄 推 弟 一
志 氣 壯 山 河 亞 歐 豪 傑 是 無 雙
Tinh
thần quang minh kim cổ anh hùng đệ nhất
Chí
khí tráng sơn hà Á Âu hào kiệt thị vô song
Tinh thần sáng suốt, cả xưa nay anh hùng bậc nhất
Khí
mạnh khắp núi sông, khắp Á Âu hào kiệt không hai
Với
phong trào học tập thi đua làm theo lời Bác, nêu cao tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh trong thời đại mới. Hai đôi câu đối này của nhân dân Chi Đông đã nhắc nhở
mọi người về người anh hùng dân tộc đã đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ
lên làm chủ đất nước, làm chủ tương lai của chính mình. Truyền thống ấy, đạo đức
ấy đã được vùng đất cách mạng Chi Đông gây dựng từ lâu trong lịch sử.
Trải
bao nhiêu mưa nắng dãi dầu, chiến tranh binh lửa, dân làng Chi Đông đã bảo quản
tốt được cảnh quan di tích cũng như các hiện vật lịch sử hiện còn. Cụm di tích
Đình Chi Đông đã được nhà nước quan tâm xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa ngày 30/6/1969[5]. Tuy
nhiên, do thời gian kéo dài, sự khắc nghiệt của thiên nhiên khí hậu. Đình chùa
làng đều đã xuống cấp, dễ dẫn đến việc mất mát, hư hại các hiện vật của đình,
chùa. Dưới ánh sáng soi đường của Nghị
quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) về bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa truyền
thống của dân tộc. Việc bảo tồn cụm di tích lịch sử văn hóa – tôn giáo tín ngưỡng
của nhân dân làng Chi Đông là rất cần thiết và cấp bách, trong điều kiện mới để
phục vụ đời sống tinh thần và tâm linh của đông đảo quần chúng nhân dân cũng
như góp phần thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Từ năm 2000, được sự hỗ trợ
của nhân dân trong thôn, của chính quyền xã, huyện và các cấp ban ngành, Đình
đã được nhà nước đầu tư tu sửa, kỷ niệm 990 năm Thăng Long – Hà Nội. Đặc biệt những
năm gần đây, dưới sự giúp đỡ vẫn động của Ni sư Trụ trì Thích Đàm Yên. Sự hỗ trợ
tinh thần của Trưởng lão Thích Thông Lạc – Tu viện Chân Như (Tây Ninh), sự nhiệt
tình của chính quyền, lòng mộ đạo hướng thiện của nhân dân. Cụm di tích Đình -
Chùa Chi Đông được một phen tu sửa khang trang tráng lệ. Sư thầy Thích Đàm Yên
và nhân dân đã cho xây dựng, khánh thành thêm 5 gian Thiền thất chuyên tu để
góp phần hoằng dương đạo pháp, cứu đời, cứu người. Thành quả ấy, công lao ấy không của riêng ai,
trên nhờ Phật lực gia trì, dưới thuận lòng dân chiêm ngưỡng. Kế tiếp gương sáng
đời trước, mở đường lành cho con cháu mai sau. Nhân dân thôn Chi Đông lại chép
ghi vào trang sử truyền thống cách mạng của làng mình, tiếp nối những dòng mạch
văn hóa chảy mãi cùng thời gian.
Hà Nội, ngày 19
tháng 4 năm 2010
II. HIỆN
VẬT HIỆN CÒN
Đình
chùa Chi Đông, theo Lý lịch Di tích của Ban Quản lý Di tích và Danh thắng, Sở
Văn hóa Thông Tin Hà Nội do địa phương cung cấp thì đình chùa hiện còn:
“1. Di vật của đình Chi Đông:
Đồ gỗ:
- 4 đôi
câu đối gỗ sơn son thiếp vàng
- 1 bộ lỗ
gồm: 14 chiếc sơn son thiếp vàng (Thế kỷ 18)
- 1 bộ
gioi gỗ sơn son thiếp vàng (Thế kỷ 19)
- 1 đôi hạc
thờ sơn son thiếp vàng (Thế kỷ 18). Hạc cao 1m90, thân 30cm, chân 70cm, cánh hạc
trang trí rồng chầu, hạc có 7 xoắn tóc hất về phía sau.
- 1 hương
án thờ sơn son thiếp vàng lộng lẫy (thế kỷ 18). Riền trên trang trí lưỡng long
chầu nguyệt, văn cánh sen… Riền thân trang trí hình phượng chầu hổ phù. Yến
hương án chia làm 3 phần với các ô, 5 ô ở phía trên trang trí lưỡng long chầu hổ
phù, hoa cúc, 3 ô ở phía dưới, trang trí ngũ long quần hội, riềm phía dưới
trong các ô trang trí rùa, rồng lá sen quy, hổ phù nghệ thuật (Thế kỷ 18 – 19)
cao 1m90, rộng 0,85m.
- 1 cỗ kiệu
long đình sơn son thiếp vàng (thế kỷ 19)
- 1 đôi
ngựa thờ (Thế kỷ 19)
- 2 bức hoành phi sơn son thiếp
vàng
- 2 bức hoành phi chép thơ
sơn son (mới trùng tu)
- 2 cỗ long ngai bài vị sơn
son thiếp vàng (Thế kỷ 18 – 19)
- 2 hương án gỗ sơn son
- 2 thanh long đao gỗ sơn son
(thế kỷ 19)
- 1 giá văn trang trí hình rồng
chầu mặt trời (Thế kỷ 19)
Đồ
sứ:
- 1 bộ bát 12 chiếc 2 đĩa
- 3 mâm rượu sứ men trắng vẽ
lam
- 4 bát hương sứ men trắng vẽ
lam
- 1 choé bằng sứ men trắng vẽ lam, choé cao 50cm ĐK miệng
35cm
Đồ
đồng:
- 1 bộ tam sự bằng đồng
- 1 lư hương đồng
- 4 cây nến bằng đồng
- 6 đài nước
- 2 tráp đồng
- 1 quả chuông đồng niên hiệu
Thiệu Trị nguyên niên (1841)
Đồ
giấy:
- 2 bản thần phả bằng chữ Hán
- 14 đạo sắc phong thần do
các triều vua ban
- 2 sắc Cảnh Hưng nhị niên
(1741)
- 2 sắc Chiêu Thống nguyên
niên (1787)
- 1 sắc Cảnh Hưng năm thứ 28
(1767)
- 1 sắc Quang Trung thứ 4
(1791)
- 2 sắc Cảnh Thịnh nguyên
niên (1793)
- 1 sắc Tự Đức tam niên
(1850)
- 1 sắc Tự Đức thất niên
(1854)
- 1 sắc Đồng Khánh nhị niên
(1887)
- 1 sắc Duy Tâm tam niên
(1909)
- 1 sắc Khải Định cửu niên
(1924)
2.
Di vật của Chùa Hương Hải:
Đồ
gỗ:
- 8 bức hoành phi sơn son
- 8 đôi câu đối sơn son
- 30 pho tượng tròn các loại.
Đồ
đồng:
- 1 quả chuông đồng: ĐK 60cm, cao cả núm 1m30, chuông có dáng đẹp, quai
chuông hình 2 con rồng đuôi xoắn, thân chuông ghi chữ tên chuông ghi chữ tên
chuông “Hương Hải tự chung” nghĩa là chuông chùa Hưng Hải. Chuông đúc năm Thiệu
Tự nguyên niên (1841).
Đồ đá:
- 1 cây
hương đá cao 1m60, rộng 20cm x 20cm. (Đã mòn hết chữ)
Đồ sứ:
- 8 bát
hương sứ gốm gia lươn
- 5 bát
hương sứ men trắng vẽ lam. Ngoài ra còn nhiều đồ thờ tự khác như cây đèn, cây nến,
ống hương, lập tán, y môn…”
Dưới đây,
chúng tôi căn cứ trên số liệu sưu tầm năm 2005 của Viện nghiên cứu Hán Nôm, xin
lược dịch giới thiệu các tư liệu Hán Nôm trên Hoành phi – Câu đối – Biển gỗ –
Văn chuông hiện còn.
§×nh
th«n Chi §«ng, x· LÖ Chi, huyÖn Gia L©m, thµnh phè Hµ Néi
thêi
®iÓm su tÇm n¨m 2005
Cã l¹c kho¶n
|
Kh«ng l¹c kho¶n
|
|
Hoµnh phi
|
2
|
1
|
C©u ®èi
|
1
|
9
|
Hoµnh
phi
1.
Nguyªn
v¨n: 濯 厥 靈 – 嗣 德 辛 未
Phiªn
©m : Trạc quyết linh – Tự Đức Tân Mùi
DÞch
nghÜa: Linh thanh hiển rõ – Năm Tân Mùi niên hiệu Tự Đức (1871)
2.
Nguyªn
v¨n: 永 錫 純 嘏 – 嗣 德 丙 辰 春
Phiªn ©m: Vĩnh tứ thuần hỗ - Tự Đức Bính
Thìn xuân
DÞch nghÜa: Mãi ban ơn thuần – Xuân năm
Bính Thìn niên hiệu Tự Đức (1856)
3.Nguyªn v¨n: 忠 義 里
Phiªn ©m: Trung nghĩa lí
DÞch nghÜa: Làng trung nghĩa
C©u ®èi
1.Nguyªn v¨n: 朔 嶺 鉞 旄 十 八 將 神 都 讓 手
溥 城 劍 馬 萬 般 草 木 共 知
名
Phiªn
©m: Sóc lĩnh việt huy, thập bát tướng thần đô nhượng thủ
Phổ
thành kiếm mã, vạn ban thảo mộc cộng tri danh
DÞch
nghÜa: Núi Sóc tỏ oai hùng, mười tám tướng thần cùng góp sức
Khắp
thành gươm ngựa, muôn vàn cây cỏ cũng rõ tên
2.Nguyªn v¨n: 朔 嶺 鉞 旄 功 在 前 朝 留 史 筆
溥 城 劍 馬 名
垂 終 古 頌 神 庥
嗣 德 庚 午 年
Phiªn
©m: Sóc lĩnh việt huy, công tại tiền triều lưu sử bút
Phổ
thành kiếm mã, danh thùy chung cổ tụng thần hưu
Tự
Đức Canh Ngọ niên
DÞch
nghÜa: Núi Sóc hiện oai hùng, công ở tiền triều còn ghi chép
Đầy
thành kiếm ngựa, tên còn muôn thủa ngợi ơn thần
Năm
Canh Ngọ niên hiệu Tự Đức (1870)
3.Nguyªn v¨n: 濯 濯 厥 靈 扶 運 神 功 留 史 冊
洋 洋 在 上 橫 空 壯
氣 作 山 河
Phiªn
©m: Trạc trạc quyết linh phù vận thần công lưu sử sách
Dương
dương tại thượng hoành không tráng khí tác sơn hà
DÞch
nghÜa: Linh thanh lừng lẫy phù vận
nước lưu truyền sử sách
Mênh
mông như trời cao khí thế ngang nhiên giữa núi sông
4.Nguyªn v¨n: 黃 鉞 金 戈 拒 殷 賊 除 凶 去 暴
白 滕 木 壘 振
南 邦 保 國 護 民
Phiªn
©m: Hoàng Việt kim qua cự Ân
tặc trừ hung khử bạo
Bạch Đằng mộc lũy trấn Nam
bang bảo quốc hộ dân
DÞch
nghÜa: Giáo vàng nước Việt chống quân Ân trừ gian diệt bạo
Lũy
gỗ sông Bạch Đằng trấn trời Nam
giúp nước giúp dân
5.Nguyªn v¨n: 南 天 顯 聖 萬 古 英 靈 人仰 望
北 地 降 神 千
秋 凛 烈 正 靈 祠
Phiªn
©m: Nam thiên hiển thánh vạn cổ anh linh nhân
ngưỡng vọng
Bắc địa giáng thần thiên thu
lẫm liệt chính linh từ
DÞch
nghÜa: Trời Nam hiển thánh muôn thủa nhân gian
ngưỡng vọng
Đất Bắc giáng thần
nghìn thu lẫm liệt đền thiêng
6.Nguyªn
v¨n: 忠 邪 不 出 通 明 鏡
善 惡 全 由 造 化 權
Phiªn
©m: Trung tà bất xuất thông
minh kính
Thiện ác toàn do tạo hóa quyền
DÞch
nghÜa: Gian ngay chẳng thoát
kính trời
Lành dữ đều dưới
quyền tạo hóa
7.Nguyªn
v¨n: 精 神 光 明 今 古 英 雄 推 弟 一
志 氣 壯 山 河 亞 歐 豪 傑 是 無 雙
Phiªn
©m: Tinh thần quang minh kim
cổ anh hùng đệ nhất
Chí khí tráng sơn hà Á Âu hào
kiệt thị vô song
DÞch
nghÜa: Tinh thần sáng suốt, cả
xưa nay anh hùng bậc nhất
Khí mạnh khắp núi
sông, khắp Á Âu hào kiệt không hai
(Câu đối thờ Bác Hồ, hiện được
treo tại khu nhà bên trái đình)
8. Nguyªn v¨n: 氣 節 動 鬼 神 萬 民 霑 德
忠 貞 同 日 月 四 海 知 名
Phiªn
©m: Khí tiết động quỷ thần vạn
dân chiêm đức
Trung trinh đồng
nhật nguyệt tứ hải tri danh
DÞch
nghÜa: Khí tiết động cả quỷ thần,
muôn dân nhờ đức
Lòng trung cùng
nhật nguyệt, bốn biển nêu danh
9.
Nguyªn
v¨n: 南 天 秀 氣 才 無 比
北 地 威 名 世 莫 當
Phiªn
©m: Nam thiên tú khí tài vô tỷ
Bắc địa uy danh
thế mạc đương
DÞch
nghÜa: Trời Nam khí tú tài khôn địch
Đất Bắc danh uy
thế khó đương
10. Hai bài thơ chữ Nôm mới trùng
tu tại hai bên cửa võng đình:
Bức 1. Ca ngợi sự tích Trâu đô thống, một vị tướng thời Hùng vương
có công giúp Đổng thiên vương phá giặc Ân. Để con cháu Lạc Hồng được vững bền.
Nguyên văn (ảnh chụp bản in
tại Đình năm 2005)
M
(Bức này nhiều khả năng là làm mới gần đây. Nhưng trân trọng di sản chúng tôi không phân biệt cổ kim, miễn là có ý nghĩa)
Dịch:
Tháng
xuân năm Ất Hợi (1995)
Xưa mấy nghìn thu vẫn hiển linh,
Sống làm tướng mạnh thác thần minh.
Gươm vàng nước Việt vừa vâng lệnh,
Ngựa đá nhà Ân đã giật mình.
Sức Đổng thiên vương mau thắng trận,
Tài Trâu đô thống khéo điều binh.
Khí thiêng sáng vặc sông ba ngọn,
Hồng Lạc đua chen bưởi rợp cành.
Đại
trùng tu
Bức 2. Ca ngợi công lao của Trần Hưng Đạo, vị tướng
tài có công trong 2 lần kháng chiến chống Nguyên Mông. Người viết bản Hịch tướng sĩ văn nổi tiếng khích lệ
tinh thần quân sĩ chống giặc. Sau hòa bình lại lui về sơn trang ở Vạn Kiếp, trồng
thuốc cứu đời.
Nguyên văn (ảnh chụp bản in
tại Đình năm 2005)
(Bức này nhiều khả năng là làm mới gần đây. Nhưng trân trọng di sản chúng tôi không phân biệt cổ kim, miễn là có ý nghĩa)
Dịch:
Tháng xuân năm Ất Hợi (1995)
Hai mươi tháng tám hội đền Trần,
Kỷ niệm công lao bậc vĩ nhân.
Một hịch trung hùng truyền các tướng,
Hai lần Mông Cổ bại ba quân.
Xua về đất Bắc không một phách,
Chống vững trời Nam mấy thước thần.
Tuyệt vực công còn lưu Vạn Kiếp,
Hương xông vườn Lệ đượm muôn xuân.
Đại
trùng tu
Chïa th«n
Chi §«ng, x· LÖ Chi, huyÖn Gia L©m, thµnh phè Hµ Néi
thêi
®iÓm su tÇm n¨m 2005
Cã l¹c kho¶n
|
Kh«ng l¹c kho¶n
|
|
Hoµnh phi
|
1
|
8
|
C©u ®èi
|
5
|
Hoµnh
phi
1.
Nguyªn
v¨n: 最
無 上 尊
Phiªn ©m: Tối vô thượng tôn
DÞch nghÜa: Cực tôn vô thượng
2.
Nguyªn v¨n: 依 正 莊 嚴
Phiªn ©m: Y chính trang nghiêm
DÞch nghÜa: Trang nghiêm kính cẩn
3.
Nguyªn v¨n: 應 跡 多 聞
Phiªn ©m: Ứng tích đa văn
DÞch
nghÜa: Theo tích nghe nhiều
4.
Nguyªn
v¨n: 萬 德 圓 彰
Phiªn
©m: Vạn đức viên chương
DÞch
nghÜa: Muôn đức tròn đấy sáng
láng
5.
Nguyªn v¨n: 香 海 禪 寺
明 命 萬 萬 年 之 貳 拾/歲 次 己 亥 五 月 吉 日
Phiªn ©m: Hương Hải thiền tự/
Minh Mệnh vạn vạn niên chi nhị thập/ Tuế thứ Kỷ Hợi ngũ nguyệt
cát nhật
DÞch nghÜa: Chùa thiền Hương Hải – Ngày tốt tháng năm năm Kỷ Hợi Niên
hiệu Minh Mệnh muôn muôn tuổi, năm thứ 20 (1839)
6.
Nguyªn v¨n: 摘 遠 徒 邪
Phiªn ©m: Trích viễn đồ tà
DÞch nghÜa: Đuổi xa tà ác
7.
Nguyªn v¨n: 神 威 莫 測
Phiªn ©m: Thần uy mạc trắc
DÞch nghÜa: Uy thần khó đoán
8.
Nguyªn v¨n: 正 法 默 扶
Phiªn ©m: Chính pháp mặc phù
DÞch nghÜa: Phép chính ngầm phù hộ
9.
Nguyªn v¨n: 聖 德 普 霑
Phiªn ©m: Thánh đức phổ chiêm
DÞch nghÜa: Đức thánh ơn khắp
C©u ®èi
1.
Nguyªn
v¨n: 寶 鼎 熟 名 香 葵 心 仰 達
金 鍾 宣 妙 偈 蓮 座 遙 聞
Phiªn ©m: Bảo đỉnh thục danh hương
quỳ tâm ngưỡng đạt
Kim
chung tuyên diệu kệ liên tòa dao văn
DÞch nghÜa: Đỉnh báu đốt hương
thơm, lòng thành thấu đạt
Chuông
vàng tuyên kệ diệu, tòa sen cùng nghe
2.
Nguyªn
v¨n: 第 一 名 籃 南 天 真 勝 景
三 千 世 界 北
地 正 靈 祠
Phiªn
©m: Đệ nhất danh lam Nam
thiên chân thắng cảnh
Tam thiên thế giới
Bắc địa linh từ
DÞch
nghÜa: Danh lam bậc nhất trời Nam,
đúng cảnh đẹp
Thế giới tam
thiên nơi đất Bắc, rõ đền thiêng
3.
Nguyªn
v¨n: 慧 眼 慈 雲 兜 率 境
和 風 光 雨 壽 光 天
Phiªn ©m: Tuệ nhãn từ vân Đâu Suất cảnh
Hòa phong quang vũ thọ quang thiên
DÞch
nghÜa: Mắt tuệ mây từ trời Đâu
Suất
Gió hòa mưa sáng
thấu trời quang
4.
Nguyªn v¨n: 為 聖 為 神 萬 古 英 靈 人 仰 望
而 仙 而 佛 一 心 濟 渡 德 弘 施
Phiªn ©m: Vi thánh vi thần vạn cổ anh
linh nhân ngưỡng vọng
Nhi
tiên nhi Phật nhất tâm tế độ đức hoằng thi
DÞch nghÜa: Là thánh là thần muôn thửa
nhân gian cùng ngưỡng vọng
Vừa
tiên vừa Phật một lòng cứu vớt đức rộng ban
5.
Nguyªn v¨n: 高 山 流 水 琴 聲 弄
明 月 清 風 駕
影 臨
ịPhiªn ©m: Cao sơn lưu thủy cầm
thanh lộng
Minh nguyệt
thanh phong giá ảnh lâm
DÞch
nghÜa: Non cao nước chảy cầm vang tiếng
Gió mát trăng
trong xa giá về
CHUÔNG CHÙA HƯƠNG HẢI
Thôn Chi Đông
Xã Lệ Chi
Huyện Gia Lâm – Hà Nội
Nguyên văn chữ Hán
香 海 寺 鍾
順 安 府 嘉
林 縣 荔 枝 社 員 職 鄉 老 仝 村 上 下 劦 與 本 寺 貧 僧 等
竊 思 道 藏
於 器 發 於 聲 招 提 在 處 洪 鍾 鏗 然 祈 以 泄 無 象 之 玄 機 而 顯 大 形 之 正 覺 也 我 本 鄉 寺 名 香 海 寶 器
具 焉 豈 期 鯨 杵 妄 投 杜 致 蒲 聲 永 闕 觸 梵 音 之 寮 寂 疇 不 起 天 。 。 。 之 知 能 思 完 一 大 因 緣 共 會 十 方
供 施 以 辛 丑 年 閏 三 月 吉 日 聚 美 銅 鳩 眾 工 再 行 烊 鑄 福 果 圓 成 金 索 聚 以 嚮 鳴 寶 桂 懸 而 交 叩 聞 之 者
煩 惱 釋 去 杳 津 消 融 佛 之 覺 世 如 此 其 妙 非 夫 聲 中 之 三 昧 者 乎 然 則 斯 鍾 也 其 以 解 脫 定 慧 知 見 鳴 歟
佛 曰 善 哉 我 聞 如 是 又 從 而 為 之 銘 曰
至
道 云 何
非
言 非 默
至
教 云 何
是 空 是 色
鍾 胡 為 器
定 解 心 惑
器 胡 為 聲
開 萬 行 識
推 而 廣 之
無 量 功 德
及 於 一 切
天 人 百 億
紹 治 元 年 閏 三 月 吉 日
Phiên âm:
Hương Hải tự chung
Thuận An phủ Gia
Lâm huyện Lệ
Chi xã viên
chức hương lão đồng thôn
thượng hạ hiệp dữ bản tự bần tăng đẳng
thiết tư đạo tàng ư
khí phát ư
thanh chiêu đề tại xử hồng chung
khanh nhiên kì
dĩ tiết vô tượng chi
huyền cơ nhi hiển đại
hình chi chính giác
dã ngã bản
hương tự danh
Hương Hải bảo
khí cụ yên khởi kỳ kình chử vọng đầu đỗ chí bồ thanh
vĩnh khuyết xúc Phạm âm
chi liêu tịch
Trù bất khởi
thiên . .
. chi tri
năng tư hoàn
nhất đại nhân
duyên cộng hội thập phương
cúng thi dĩ
tân sửu niên
nhuận tam nguyệt cát nhật tụ mỹ đồng
cưu chúng công
tái hành dương
chú phúc quả
viên thành kim
tác tụ dĩ hưởng
minh bảo
quế huyền nhi
giao khấu văn
chi giả phiền
não thích khứ yểu tân
tiêu dung phật
chi giác thế như thử kỳ diệu.
Phi phù thanh trung
chi tam muội
giả hồ nhiên
tắc tư chung
dã kỳ dĩ giải thoát
định tuệ tri kiến minh
dư phật viết
thiện tai ngã
văn như thị hựu tùng
nhi vi chi
minh viết :
Chí đạo
vân hà
Phi ngôn
phi mặc
Chí giáo
vân hà
Thị không
thị sắc
Chung hồ
vi khí
Định giải
tâm hoặc
Khí hồ
vi thanh
Khai vạn
hành thức
Suy nhi quảng chi
Vô
lượng công đức
Cập
ư nhất
thiết
Thiên nhân
bách ức
Thiệu Trị
nguyên niên nhuận
tam nguyệt cát nhật.
Dịch nghĩa:
Chuông chùa Hương Hải
Thuận An phủ Gia
Lâm huyện Lệ
Chi xã viên
chức hương lão đồng thôn
thượng hạ hiệp cùng
bản tự bần
tăng
Thiết nghĩ,
đạo tàng ở pháp khí
phát ra ở thanh âm, tỏ sự dẫn dụ ở chỗ có đại hồng chung,
tiếng vang vang, để vọng cơ huyền vô hình vô tướng mà hiển được đạo
chính giác. Chùa bản hương ta tên là Hương Hải, đồ pháp
bảo đã đủ đầy, há đâu để chày
kình buông bỏ nơi đỗ, tiếng bồ lao im mãi, để cho Phạm
âm bị vắng lặng mà không trù liệu
gây dựng lên. Có phải là ý trời thấu được
mà hoàn tất cho được đại nhân
duyên, nên cùng hội thập phương
công đức cúng thí. Ngày tốt tháng
3 nhuận năm Tân sửu (1841), gom được đồng
tốt, tập hợp thợ khéo, luyện đúc thành quả phúc tròn đầy, tiếng vàng hội tụ để
ngân vang, dựng cành báu treo lên. Đánh cho tiếng vang, người nghe được thì giải
hết cả phiền não, tiêu hết nghiệp bến mê. Cái đạo giác thế của đức Phật khì diệu
như thế, không phải là trong thanh âm có tiếng Tam muội nên như thế sao!. Đấy
là tiếng chuông có thể giải thoát cho lòng người, lập định tuệ tri kiến nên
phát thành tiếng đấy ư!. Lời đức Phật nói tốt thay, những điều ta nghe được như
vậy, lại theo lời ấy mà soạn bài minh rằng
:
Chí đạo nói gì đâu,
Không lời mà không lặng.
Chí giáo nói gì đâu,
Là không lại là sắc.
Chuông kia là pháp khí,
Định tuệ giải lòng mê.
Pháp khí là âm thanh,
Mở muôn vạn hành thức.
Suy cho rộng đạo mầu,
Công đức thật vô lượng.
Đến tất cả mọi vật,
Muôn nghìn ức nhân thiên.
Ngày tốt
tháng 3 nhuận năm Thiệu Trị thứ 1 (1841).
Hà
Nội, ngày 12 tháng 12 năm 2007
Người
sưu tầm và dịch: Nguyễn Đức Toàn
|
[1] Hương Hải, cũng có nghĩa là nước biển
thơm bao quanh núi Tu Di trong kinh Phật, mà cũng có thể là chỉ vị Thiền sư nổi
tiếng tinh thông Nho Phật thời Hậu Lê, được chúa Trịnh cho trụ trì chùa Nguyệt
Đường ở Hưng Yên. Hiện nay chúng tôi chưa có kiến giải nào xác đáng, xin nêu cả
hai để mọi người cùng tham khảo.
[2]
Ngày 3 tháng 2 năm 1949, dân quân du kích hoạt động tại Gia Lâm, Bắc Ninh đã chọn
địa chỉ gốc đa Mái Dậm là nơi liên lạc, cất dấu tài liệu (theo lời kể của ông
Nguyễn Đức Tiến, lão thành cách mạng – Biên bản Hội nghị lão thành cách mạng
thôn Chi Đông 17/4/2010).
[3]
Cụ Nguyễn Đức Tiến, cụ Vũ Văn Thịnh.
[4]
Theo lời kể của ông Nguyễn Đức Tiến: ông Bình tức ông ông Đặng Bá Bình, nguyên
Bí thư chi bộ xã khu Cổ Giang, Gia Lâm, Bắc Ninh, bị giặc bắt tháng 2/1948, anh
dũng không tiết lộ bí mật của kháng chiến, bị giặc bắn chết vứt xác xuống sông.
Bạn bè đồng chí vớt xác chôn cất, có làm bài văn điếu có câu như trên.
[5]
Quyết định số 1460 QĐ/BT ngày 30/6/1969, trong danh mục 1969 do Bộ trưởng Trần
Hoàn ký
Rất mong có dịp được chiêm bái đình chùa Hương Hải!
Trả lờiXóa