Đào Uyên Minh - đệ nhất vãn ca, hay thời gian - thi ca và thân phận con người.
Phỏng lời hát điếu tang
Sao mà cỏ dại mang mang
Bạch dương sao cũng khẽ khàng vi vu
Với sương vương trắng cuối mùa
Cùng đưa ta đến ngoại ô xa vời
Đồng không, bốn phía không người
Lô xô mồ mả ma hời tranh cao
Hí trời tiếng ngựa nghe đau
Không dưng gió cũng xạc xào xót xa
Huyệt sâu lấp kín một ta
Ngàn năm vầng nhật chăng là thấy đâu
Ngàn năm còn thấy chi nào
Ôi thôi hiền sĩ làm sao nữa mà
Có người vừa đến đưa ma
Đưa xong quay bước về nhà rồi thôi
Thân thì khóc nuối mấy người
Còn bao kẻ đã hát cười như không
Tử quy ôi sự lạ lùng
Nói chi, thôi gửi thân cùng gò hoang.
Trần Trọng Dương dịch
Bạch dương sao cũng khẽ khàng vi vu
Với sương vương trắng cuối mùa
Cùng đưa ta đến ngoại ô xa vời
Đồng không, bốn phía không người
Lô xô mồ mả ma hời tranh cao
Hí trời tiếng ngựa nghe đau
Không dưng gió cũng xạc xào xót xa
Huyệt sâu lấp kín một ta
Ngàn năm vầng nhật chăng là thấy đâu
Ngàn năm còn thấy chi nào
Ôi thôi hiền sĩ làm sao nữa mà
Có người vừa đến đưa ma
Đưa xong quay bước về nhà rồi thôi
Thân thì khóc nuối mấy người
Còn bao kẻ đã hát cười như không
Tử quy ôi sự lạ lùng
Nói chi, thôi gửi thân cùng gò hoang.
Trần Trọng Dương dịch
擬挽歌辭其 三
荒草何茫茫,
白楊亦蕭蕭。
嚴霜九月中,
送我出遠郊。
四面無人居,
高墳正嶕嶢。
馬為仰天鳴,
風為自蕭條。
幽室一已閉,
千年不復朝。
千年不復朝,
賢達無奈何。
向來相送人,
各自還其家。
親戚或餘悲,
他人亦已歌。
死去何所道,
託體同山阿。
白楊亦蕭蕭。
嚴霜九月中,
送我出遠郊。
四面無人居,
高墳正嶕嶢。
馬為仰天鳴,
風為自蕭條。
幽室一已閉,
千年不復朝。
千年不復朝,
賢達無奈何。
向來相送人,
各自還其家。
親戚或餘悲,
他人亦已歌。
死去何所道,
託體同山阿。
Hoang thảo hà mang mang,
Bạch dương diệc tiêu tiêu. (1)
Nghiêm sương cửu nguyệt trung, (2)
Tống ngã xuất viễn giao. (3)
Tứ diện vô nhân cư,
Cao phần chính tiêu nghiêu. (4)
Mã vị ngưỡng thiên minh, (5)
Phong vị tự tiêu điều.
U thất nhất dĩ bế, (6)
Thiên niên bất phục triêu. (7)
Thiên niên bất phục triêu,
Hiền đạt vô nại hà?
Hướng lai tương tống nhân, (8)
Các tự hoàn kỳ gia.
Thân thích hoặc dư bi,
Tha nhân diệc dĩ ca. (9)
Tử khứ hà sở đạo,
Thác thể đồng sơn a. (10)
Bạch dương diệc tiêu tiêu. (1)
Nghiêm sương cửu nguyệt trung, (2)
Tống ngã xuất viễn giao. (3)
Tứ diện vô nhân cư,
Cao phần chính tiêu nghiêu. (4)
Mã vị ngưỡng thiên minh, (5)
Phong vị tự tiêu điều.
U thất nhất dĩ bế, (6)
Thiên niên bất phục triêu. (7)
Thiên niên bất phục triêu,
Hiền đạt vô nại hà?
Hướng lai tương tống nhân, (8)
Các tự hoàn kỳ gia.
Thân thích hoặc dư bi,
Tha nhân diệc dĩ ca. (9)
Tử khứ hà sở đạo,
Thác thể đồng sơn a. (10)
Chú thích:
1. Tiêu tiêu 蕭蕭: tiếng gió lạnh xạc xào trên vòm lá.
2. Nghiêm sương 嚴霜: sương hại muôn loài cỏ cây. Lã thị xuân thu thiên Thuận dân viết: “tháng quý thu cỏ cây rụng vàng”. Trong tháng 9, khí trời có sương xuống.
3. Tống ngã xuất viễn giao 送我出遠郊: đây là lời tưởng tượng. Hoài Nam tử thiên Thiên văn viết: “thiên đế giăng ra màn tứ vi, dùng sao đẩu để vận hành nó. Trăng đi ở một triền độ. Đến hè lại quay về đúng chỗ của nó. Tháng 9 là Tuất, Tuất là hỏa. Luật là vô tạ. Vô tạ là vào vô khánh (vào vô khánh, ý nói vào lúc bị rơi rụng không thể tròn đầy được nữa).
4. Tiêu nghiêu 嶕嶢: vẻ đột ngột cao vọt lên.
5. Mã 馬: ngựa kéo linh xa. Lục Cơ trong ba bài Vãn ca thi cũng viết: ngựa trắng khoẻ kéo linh xa, ngựa đen chạy làm bay lọng che. Những tiếng khóc đau buồn cất lên bên linh huyệt, rồi từ ngoài đồng mọi người chầm chậm quay trở về với nỗi buồn đau”.
6. U thất 幽室: huyệt mộ.
7. Triêu 朝: sáng trời.
8. Hướng 向: vừa mới.
9. Ca 歌: tức vãn ca, lời hát đau buồn trong đám ma.
10. A 阿: gò.
2. Nghiêm sương 嚴霜: sương hại muôn loài cỏ cây. Lã thị xuân thu thiên Thuận dân viết: “tháng quý thu cỏ cây rụng vàng”. Trong tháng 9, khí trời có sương xuống.
3. Tống ngã xuất viễn giao 送我出遠郊: đây là lời tưởng tượng. Hoài Nam tử thiên Thiên văn viết: “thiên đế giăng ra màn tứ vi, dùng sao đẩu để vận hành nó. Trăng đi ở một triền độ. Đến hè lại quay về đúng chỗ của nó. Tháng 9 là Tuất, Tuất là hỏa. Luật là vô tạ. Vô tạ là vào vô khánh (vào vô khánh, ý nói vào lúc bị rơi rụng không thể tròn đầy được nữa).
4. Tiêu nghiêu 嶕嶢: vẻ đột ngột cao vọt lên.
5. Mã 馬: ngựa kéo linh xa. Lục Cơ trong ba bài Vãn ca thi cũng viết: ngựa trắng khoẻ kéo linh xa, ngựa đen chạy làm bay lọng che. Những tiếng khóc đau buồn cất lên bên linh huyệt, rồi từ ngoài đồng mọi người chầm chậm quay trở về với nỗi buồn đau”.
6. U thất 幽室: huyệt mộ.
7. Triêu 朝: sáng trời.
8. Hướng 向: vừa mới.
9. Ca 歌: tức vãn ca, lời hát đau buồn trong đám ma.
10. A 阿: gò.
Nguồn ảnh: Quy khứ lai hề từ, tác giả Mạc Thức, đời Minh, Bảo tàng Liêu Ninh.
https://www.facebook.com/chuyetchuyet.tran?__tn__=%2CdC-R-R&eid=ARAk_PCzPCucyrO5gbEhhJOuCithdVxA9HodOLdyDFZNU9OJKTnLYfZErjkiYF0TQvbK6JINmn2AWNnF&hc_ref=ARQ1O271X6bNWprXuex_l712j5aDsmaI9xFPpl41DFjJICPdi0Xqin2hQU-QCrsDKCk&fref=nf
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét