Nhân vì cuốn Hoa trình thi tập bản dịch của dịch giả Nguyễn Quang Hà được ấn hành! Chúng tôi xin góp ý cho dịch giả “đã không tham khảo bài viết quan trọng này của nhà nghiên cứu Trung Quốc: Chu Lợi Lệ!” Dù dịch giả có đề danh mục sách Tham khảo trang thứ 28: Việt Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành nhưng không nêu rõ được vấn đề trong khảo luận của mình. Là một thiếu sót quan trọng trong thao tác Giới thiệu lịch sử nghiên cứu vấn đề. Cũng như thao tác Văn bản học trước khi giới thiệu một tác phẩm mới. Chưa từng được công bố.
Chúng tôi xin chuyển ngữ giới thiệu đôi lời đến độc giả. Để hiểu thêm về đánh giá, góc nhìn của 1 học giả Trung Quốc với Hoa Trình Thi Tập.
Bài giới thiệu của Chu Lợi Lệ trong Việt Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành quyển 9,tr.149-150
*Cổ hoan Nam đường Phụ nguyên Trực tâm Nhân vương dịch*
Toàn bộ
nội dung văn bản thu chép 58 bài thơ thể thất ngôn(thực tế là có 3 bài thể Ngũ ngôn-người dịch chú) trong đó có thể loại tả
cảnh cũng có loại ký sự và mượn cảnh bày tỏ nỗi lòng là nhiều.
Tập thơ
miêu tả từ trọng trách nặng nề của tác giả, từ các bài thơ tâm trạng xa tổ quốc
như bài: Nhị Hà hiểu phát珥河曉發, Lạng Sơn đạo trung諒山道中, cho đến 3 bài đối đáp
văn nhân Trung Quốc là tiến sĩ Hứa Thế Phong ở Hứa Châu (nhân vật này theo tác
phẩm Hoa Nguyên Thi Thảo 華原詩草của Lê Quang Định[5] 黎光定chép là Tôn Thế Phong[6]孫世封). Nhưng những bài thơ
chép đó không đề cập đến quá trình về nước về sau, nên có thể coi tập thơ này
chưa phải là bản hoàn chỉnh Hoa Trình Thi
Tập 華程詩集của
Nguyễn Gia Cát阮嘉吉. Còn chưa xác định được. Nhưng khảo sát từ nội dung của nó thì
thấy các vần thơ đề cập đến những vấn đề như:
1. Miêu
tả tâm trạng tác giả trong quá trình đi sứ. Như các bài mở đầu Nhị Hà hiểu phát珥河曉發, Lạng Sơn đạo trung諒山道中, Quá quan kỷ thực過關紀實 . Vừa là thể loại ký sự
nhưng cũng biểu đạt trọng trách nặng nề của tác giả khi đi sứ với tấm lòng báo
quốc. Các bài như Ngẫu chiếm偶占
, Khách để chữ hoài 客邸抒懷 thì phản ánh tình cảnh của tác giả trên con đường đi sứ nhớ về
quê hương và những người thân. Bài thơ Vĩnh
Thuần ký kiến 永淳記見 thì lại miêu tả tâm trạng vui vẻ trên đường lữ khách. Bài Hồi Trình Hỷ Phú 回程喜賦
bày tỏ niềm vui của tác
giả khi hoàn thành sứ mệnh, cuối cùng cũng được hồi hương với một tâm trạng
hoan hỷ.
2. Còn
những bài tả cảnh ký sự trong Hoa trình
thi tập華程詩集. Thì
lại 10 phần rõ ràng là chép việc nhưng cũng là vịnh cảnh. Vừa tả cảnh mà lại
vừa kể chuyện. Với các bài như Nam Ninh
kỷ thắng南寧紀勝 , Quá Ngũ Hiểm than過五險灘
, Tầm Châu dạ bạc潯洲夜泊 , Tương Giang vãn phiếm湘江晚泛
. Vừa
miêu tả cảnh sắc trên con đường sứ đoàn đi đến Bắc Kinh triều cống đi qua các
địa phương. Vừa là tình hình của sứ đoàn nơi các vùng đã đi qua. Riêng bài Thượng Thủy Than Ngẫu Đắc 上水灘偶得
trong thi tập là một bài
phản ánh quá trình gian khổ của sứ đoàn trên đường đi. Còn các bài Tương Sơn Tự湘山寺 , Thạch Cổ Sơn thư viện石鼓山書院 , Nhạc Dương lâu岳陽樓 , Hoàng Hạc lâu 黃鶴樓 thì lại ngâm vịnh về
những danh thắng cổ tích của Trung Quốc, thể hiện rằng tác giả rất ngưỡng mộ
những cảnh sắc và thơ văn của người Trung Quốc. Các bài Tương Phi Trúc Thứ Vận湘妃竹次韻 , Quá Văn Vương diễn Dịch
xứ 過文王演易處 thì lại bày tỏ niềm u tư của tác giả hoài niệm với cổ nhân. Các
bài Du Thê Hà Tự Thứ Vận遊栖霞寺次韻
, Túc Long Hưng Tự 宿隆 興寺 thì ngoài vịnh cảnh ký sự ra lại phản ánh thái độ của tác giả
đối với Phật giáo.
3. Đặc điểm thứ ba là những bài tặng đáp với văn nhân Trung Quốc. Trong đó có hai bài là Túc Khai Phong tỉnh thành Hà Nam Đốc học sứ Ngô Vân Tiều[7] huệ thi tiên nhị sách nhân thư dĩ tạ 宿開封省城河南督學使吳雲樵惠詩箋二冊因書以謝 và bài Túc Hứa Châu Tiến sĩ Hứa Thế Phong huệ tống Sâm Phố Tồn cảo nhị sách tịnh thi nhị tuyệt cầu họa nhân thư dĩ đáp宿許州進士許世封惠送森圃存稿二冊並詩二絕求和因書以答 . Thể hiện sinh động việc giao lưu văn hóa nghệ thuật giữa các bậc trí thức sĩ đại phu giữa hai nước Trung-Việt. Nó ghi chép lại được sự kiện tặng nhận các sách Vân Tiều thi tiên 雲樵詩箋 và Sâm Phố tồn cảo森圃存稿 , góp phần cho người ngày nay nghiên cứu thêm những trước thuật được truyền bá dưới thời kỳ Gia Khánh, cung cấp những tài liệu hữu ích. (Chu Lợi Lệ朱莉麗 . Việt Nam Hán Văn Yên hành văn hiến tập thành quyển thứ 9越南漢文燕行文献集成第九冊.一四九 . 一五○ . tr.149-150)
[1] Nguyễn Gia Cát 阮嘉吉
(1760-?) hiệu Địch Hiên 迪軒
người xã Hoa Cầu huyện Văn Giang (nay thuộc xã Nghĩa Trụ huyện Văn Giang tỉnh
Hưng Yên). Ông xuất thân Nho sinh trúng thức, đỗ đồng Chế khoa xuất thân với Trần
bá Lãm, khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống thứ 1 (1787) đời Lê Mẫn Đế. Ông làm
quan với triều Tây Sơn đến Đốc học Bắc Thành. Sau lại làm quan với nhà Nguyễn đến
chức Tả Tham tri Bộ Lễ, tước Quỳ Giang hầu và được cử đi sứ sang nhà Thanh
(Trung Quốc). Về trước tác, Nguyễn Gia Cát còn để lại bộ Hoa trình thi tập 華程詩集.
[2] Lý Trần Lại : Chưa rõ lai lịch. Nhưng tên hiệu có 2 chữ Liêm Tuyền. Tỉnh Hà Nam có một địa danh tên là huyện Liêm Tuyền, có khả năng liên quan đến quê quán của ông.
[3] Lê Lương Thận 黎梁慎 làm Hàn lâm viện
đãi chế dưới thời vua Quang Trung, năm 1790 từng được cử làm phó sứ sang nhà
Thanh tạ ơn Thanh Cao Tông (Càn Long) phong vương và chúc thọ 80 tuổi (chánh sứ
là Nguyễn Hoằng Khuông 阮宏匡).
[4] Nguyễn Du 阮攸 (13/1/1766 -
16/9/1820) tự Tố Như 素如, hiệu Thanh Hiên 清軒, quê gốc làng
Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời niên thiếu
ở Thăng Long. Cha là Nguyễn Nghiễm đã làm tới chức tể tướng triều Lê. Mẹ là bà
Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, người xứ Kinh Bắc (Nguyễn Nghiễm có
tám vợ, hai mươi mốt người con). Mười tuổi, Nguyễn Du mồ côi cha, mười ba tuổi
mồ côi mẹ. Vì thế tiếng là con quan đại thần nhưng ngay từ thời thơ ấu Nguyễn
Du đã phải sống vất vả thiếu thốn. Truyện Kiều và Văn chiêu hồn,
hai kiệt tác chữ Nôm của Nguyễn Du.
[5] Lê Quang Định 黎光定 (1759-1813) tự
Tri Chỉ 知止, hiệu Tấn Trai 晉齋, là nhà thơ
triều Nguyễn. Ông sinh ở huyện Phú Vang, phủ Thừa Thiên (nay thuộc Thừa Thiên,
tỉnh Thuận Hoá).Tác phẩm:- Đại Việt nhất thống dư điạ chí 大越一統輿地志 (Phụng mệnh
vua Gia Long biên soạn), - Hoa Nguyên thi thảo 華原詩草
[6] Tôn Thế Phong 孙世封,tự là Tập Công 袭公,người Hứa Châu 许州 đậu Tiến sĩ
khoa mậu Tuất đời Gia Khánh, có thi tập Sâm Phố tồn cảo森圃存稿
[7] Ngô Vân Tiều tức
Ngô Phương Bồi 吴芳培(1752-1822),tự là Tễ Phi 霁霏,hiệu là Vân Tiều,
người quê Mậu Lâm huyện Kinh, đậu Tiến sĩ năm Càn Long thứ 9 (1784), lấy đỗ Cát
sĩ, trải các chức Biên tu, Thiêm sự phủ thiêm sự, Hàn lâm viện thị độc, Hương thí
chánh khảo quan, Thị giảng học sĩ, Thị độc học sĩ, Lễ Bộ - Lại Bộ Thị lang, Đô
sát viện Tả đô ngự sử thự Lại bộ thượng thư. Có làm Vân Tiều tiên sinh thi tập吴云樵先生诗集4 quyển.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét