Thứ Hai, 7 tháng 10, 2013

Sang thu - Cảm mùa thu của nhân thế. Thoáng nghĩ về Võ Đại tướng quân

Trời chuyển thu sang đông. Cái màu trắng của tuyết Châu Âu chưa đến, cái màu vàng của thu còn man mác, xanh xanh vàng vàng lẫn đỏ đỏ, nhưng gió lạnh giao mùa khiến lòng người se sắt. Cứ mỗi độ gió về tôi lại hắt hơi sổ mũi luôn. Cảnh vinh cảnh tạ điêu tàn. Mà nhân sinh không thích chí, cái chí của thánh nhân thật khó theo. Cái cây rụng lá tưởng là nhẹ nhưng lòng cây cũng biết đau, vì cái thời của nó đã đến. Cái mầm đâm ra tưởng là mạnh mẽ tràn nhựa sống mà cũng đau cắt ruột mầm non. Đọc Cảm thu tiễn thu của cụ Nguyễn Khắc Hiếu, nghĩ thương cho nhân sinh mà ngờ ngợ đến Thập loại chúng sinh của Tố Như. Quốc nội đương xôn xao thương cảm tiễn đưa vị Tướng già họ Võ. Cụ Nguyên Giáp, hơn 100 tuổi anh hùng lẫm liệt, nửa phần đời ẩn dật tuổi gìa đeo. Lại càng ngẫm đến cái thu của nhân thế. Quốc tang cho Nguyên lão. Liệu Nguyên thủ quốc gia nào sẽ đến viếng cụ Võ đây. Nguyên thủ chẳng phải, Tổng thống thì không. Chỉ hàm Thượng thư cáo lão, nổi tiếng trận Điện Biên. Các đấng quân chủ trên thế giới đến thăm cụ chắc là muốn thăm kẻ chiến thắng Điện Biên chứ ... không dám nói tiếp. Chắc cụ sẽ gặp Đờ Cát ở bên kia, hai ông sẽ bình luận binh pháp Đông Tây xem Đông giỏi hay Tây hay. Và các chiến thắng của các bậc danh tướng đế vương nơi trần thế chỉ là những tiếng vang vọng của các âm hồn nơi địa phủ. Họ cũng là con người như họ Võ, họ Đờ, ... đều có cuộc sống con người bình dị, khi họ thắng họ uy phong, khi họ thua họ thật thảm hại. Để đạt được mục đích có khi còn hung hăng nữa, ... Trời thu sang như là mùa mà các âm hồn được trỗi dậy để mà than gào nơi nhân thế, vậy mới có câu Tiết tháng 7 mưa dầm sùi sụt, toát hơi may lạnh ngắt sương khô. Não người thay buổi chiều thu, ....
Con người từ muôn thủa vẫn chỉ cái vòng danh lợi mà thôi. Ham tài rõ là lợi, ham sắc rõ cũng là lợi, ham sự nổi danh thì cũng là lợi. Ở trong nước lo kiếm lợi lộc bao biện cho vinh danh, đạt được thì kêu là hay là giỏi. Không được thì kêu là số hên xui. Ra được đến Hải ngoại, vì miếng cơm manh áo cũng bao biện cho sự xuất ngoại là hay là tài, tán tụng ngoại quốc như là Tây phương cực lạc, như Thiên đường vậy. Biết đâu cũng có người khôn ngoan chỉ ra danh lợi là vô nghĩa nhưng nhân sinh bỏ danh lợi thì còn gì là nhân sinh. Người nếu ở chỗ này thì là ông nọ bà kia, ra chỗ khác thì thành thằng này con khác. Người ở trong làng thì chả là cái thớ gì, con trồng rau thằng cấy lúa mà ra gặp gió ngoại trái chiều thì thành đấng hiểu biết, thành bậc đại nhân thành thạo lắm lắm, mà cái Hình nhi Thượng của Thánh nhân bảo là tột cùng thì Trí giả còn khó, bảo là tận nấc thì ngu phu phụ cũng hay. Nghĩ ngược thì chính những trí thức như cụ Tản cụ Tố mới thật đáng thương. ai khiến họ cười thuê khóc mướn đâu, họ tự đau trong mình mà trào ra cái u uất đổ cả cho của thiên hạ. Nhưng khốn nỗi giờ cả thiên hạ lại xướng 2 cụ cái khoản ấy. Mình đọc ít biết nông, quen được mấy đấng văn nhân nhờ họ ngâm ngợi mà qua đó biết điều này điều khác. Lâm Khang chủ nhân cảm thu sang mà nhớ Tản Đà với Quách bà bà làm lòng mình cũng lay lắt theo, lại nhớ đến bài phú Tiếng Thu của họ Âu nước Bắc. Cái se sắt càng se sắt hơn. Mà truy nguyên thì bài Tiếng Thu ấy cũng do cụ Tản dịch ra Quốc văn nước ta, nghe cũng lanh lảnh tiếng kim thu. Theo đường dẫn trình lại cả cho người văn nhân trầm cảm. Ngẫm cái thu đang đến gần ,,,, rất gần rồi
Thơ: Tản Đà

Từ vào thu đến nay:
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh
Giăng thu bạch,
Khói thu xây thành.

Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Nhạn về én lại bay đi,
Đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm.
Lá sen tàn tạ trong đầm,
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa
Sắc đâu nhuộm ố quan hà
Cỏ vàng, cây đỏ, bóng tà tà dương
Nào người cố lý tha hương
Cảm thu, ai có tư lường hỡi ai?

Nào những ai
Bảy thước thân nam tử
Bốn bể chí tang bồng
Đường mây chưa bổng cánh hồng
Tiêu ma tuế nguyệt, ngại ngùng tu my

Nào những ai
Sinh trưởng nơi khuê các
Khuya sớm phận nữ nhi
Song the ngày tháng thoi đi
Vương tơ ngắm nhện nhỡ thì thương hoa

Nào những ai
Tha phương khách thổ
Hải giác thiên nha
Ruột tầm héo, tóc sương pha
Gốc phần chạnh tưởng quê nhà đòi cơn

Nào những ai
Cù lao báo đức
Sinh dưỡng đền ơn
Kinh sương nghĩ nỗi mền đơn
Giầu sang bất nghĩa mà hơn nghèo hèn!

Nào những ai
Tóc xanh mây cuốn
Má đỏ huê ghen
Làng chơi duyên đã hết duyên
Khúc sông giăng rãi con thuyền chơi vơi

Nào những ai
Dọc ngang giời rộng
Vùng vẫy bể khơi
Đội giời đạp đất ở đời
Sa cơ thất thế quê người chiếc thân

Nào những ai
Kê vàng tỉnh mộng
Tóc bạc thương thân
Vèo trông lá rụng đầy sân
Công danh phù thế có ngần ấy thôi

Thôi nghĩ cho
Thu tự giời
Cảm tự người
Người đời ai cảm ta không biết
Ta cảm thay ai, viết mấy lời

Thôi thời
Cùng thu tạm biệt
Thu hãy tạm lui
Chi để khách đa tình đa cảm
Một mình thay cảm những ai ai!

Tháng chín năm Canh Thân 1920
Nguồn: Tản Đà, Khối tình con thứ ba, Tản Đà thư cục tùng thư, 1932
Nguyễn Du
Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não ngườI thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh...
Thương thay thập loại chúng sing
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người
Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa bấy niên...
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói ai hèn ai ngu!
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ độ về tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những lăm cất gámh non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởngn khi thế khuất vận cùng mà đau!
Bỗng phút đâu mưă sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Giàu sang càng nặng oán thù
Máu tươi lai láng xương khô rụng rời
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới dòng nườc chảy
Phận đã đành trâm gãy bìng rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói
Hồn ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càngnăm càng héo một đêm một dài.
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay
Kinh luân găm một túi đầy
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
Ngàn vàn khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn nh9e tìm đường hóa sinh?
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đổi mình vào cướp ấn nguyên nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Phơi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi sa trường thịt nát máu rơi
Mênh mông góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn
Ruột rà khôngkẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dẫu có như không
Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm
Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ qúy
Dẫn mình vào thành thị lân la
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.
Dọc hàng qúan gặp tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân chôn rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước khe cơm vắt gian nan
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời
Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!
Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đạ
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?
Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng có người sẩy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi
Có người hay đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là điếm cỏ bóng cây
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ
Hoặc là nương thần từ Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre
Sống đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình như ảnh
Có chữ rằng:"Vạn cảnh giai không"
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có khi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêụ
Phép thiên biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô chư Phật, Pháp, Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài

Thu thanh phú/ Âu Dương Tu/ Người dịch: Tản Đà

Âu Dương tử đương đêm tựa án 
Nghe tiếng đâu từ mạn tây nam
 
Giật mình lại thử nghe xem
 
Rằng: "Đâu có tiếng ai làm, lạ sao!
 
Thoạt lúc mới lào rào hiu hắt
 
Bỗng nổi to xô xát ầm tai
 
Tối đêm như sóng kêu ngoài
 
Như mưa như gió chuyển trời đến mau
 
Phải tiếng ấy ? đụng đâu vang đấy
 
Sắt vàng đâu, nghe tiếng kêu ran
 
Ngậm tăm quân kéo đi tràn
 
Chẳng nghe hiệu lệnh, nghe toàn tiếng đi"
 
Bảo đồng tử: "Tiếng chi như vậy ?
 
Thử ra sân coi thấy nhường sao"
 
Đồng rằng: "Vằng vặc trăng sao
 
Lại sông Ngân Hán ở cao giữa trời
 
Khắp bốn phía tiếng người chẳng có
 
Nghe tiếng đâu ở chỗ lùm cây"
 

Ta rằng: "Thôi thế, thương thay!
 
Tiếng thu là, đó lại đây làm gì?
 
Này thử ngẫm thu kia ai họa
 
Vẻ nhạt mờ khói toả mây thu
 
Thanh minh là dáng mùa thu
 
Trời cao sáng suốt kim ô một vừng
 
Khí thu lạnh ra chừng nghiêm nhặt
 
Như nhói xương, như cắt vào da
 
Non sông lặng phắc gần xa
 
Cảnh đìu hiu đó, chẳng là ý thu?
 

Bởi thu thế, tiếng thu như thế
 
Đã buồn thôi, lại kế ghê thay!
 
Biết bao xanh tốt cỏ cây
 
Mà pha sắc úa mà bay lá vàng
 
Làm cho đến tồi tàn rơi rụng
 
Khí trời thu quạ đụng mà kinh
 

Ôi thôi! Cây cỏ vô tình
 
Theo cơ tạo hoá, điêu linh có thì
 
Trong vạn vật giống gì thiêng nhất?
 
Người ta là động vật mà hơn
 
Ruột gan trăm mối lo buồn
 
Việc đời chuốc lấy muôn vàn nhọc thân
 
Trong khua đông tinh thần lay lắc
 
Lại đa mang gánh vác cho nhiều
 
Sức thua cũng cố mà theo
 
Trí khôn có một, lo điều gấp hai
 
Đã rằng thế thì thôi cũng phải:
 
Tấm hình hài còn lại thương sao!
 
Cây khô đổi vẻ má đào!
 
Phơ phơ màu trắng thay vào tóc đen!
 
Người đâu phải chất bền vàng đá?
 
Cùng cỏ cây sao khá tranh tươi?
 
Thân kia làm tội cho đời!
 
Vì ai mà giận chi trời, tiếng thu?"
 

Coi đồng tử gục đầu trên gối
 
Bộ ngủ say, ta nói mặc ta
 
Nỉ non giun dế quanh nhà
 
Cùng ta kêu góp một vài giọng than

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét