Trời chuyển thu sang
đông. Cái màu trắng của tuyết Châu Âu chưa đến, cái màu vàng của thu còn man
mác, xanh xanh vàng vàng lẫn đỏ đỏ, nhưng gió lạnh giao mùa khiến lòng người se
sắt. Cứ mỗi độ gió về tôi lại hắt hơi sổ mũi luôn. Cảnh vinh cảnh tạ điêu tàn. Mà
nhân sinh không thích chí, cái chí của thánh nhân thật khó theo. Cái cây rụng
lá tưởng là nhẹ nhưng lòng cây cũng biết đau, vì cái thời của nó đã đến. Cái mầm
đâm ra tưởng là mạnh mẽ tràn nhựa sống mà cũng đau cắt ruột mầm non. Đọc Cảm thu tiễn thu của cụ Nguyễn Khắc Hiếu,
nghĩ thương cho nhân sinh mà ngờ ngợ đến Thập
loại chúng sinh của Tố Như. Quốc nội đương xôn xao thương cảm tiễn đưa vị Tướng già họ Võ. Cụ Nguyên Giáp, hơn 100 tuổi anh hùng lẫm liệt, nửa phần đời ẩn dật tuổi gìa đeo. Lại càng ngẫm đến cái thu của nhân thế. Quốc tang cho Nguyên lão. Liệu Nguyên thủ quốc gia nào sẽ đến viếng cụ Võ đây. Nguyên thủ chẳng phải, Tổng thống thì không. Chỉ hàm Thượng thư cáo lão, nổi tiếng trận Điện Biên. Các đấng quân chủ trên thế giới đến thăm cụ chắc là muốn thăm kẻ chiến thắng Điện Biên chứ ... không dám nói tiếp. Chắc cụ sẽ gặp Đờ Cát ở bên kia, hai ông sẽ bình luận binh pháp Đông Tây xem Đông giỏi hay Tây hay. Và các chiến thắng của các bậc danh tướng đế vương nơi trần thế chỉ là những tiếng vang vọng của các âm hồn nơi địa phủ. Họ cũng là con người như họ Võ, họ Đờ, ... đều có cuộc sống con người bình dị, khi họ thắng họ uy phong, khi họ thua họ thật thảm hại. Để đạt được mục đích có khi còn hung hăng nữa, ... Trời thu sang như là mùa mà các âm hồn được trỗi dậy để mà than gào nơi nhân thế, vậy mới có câu Tiết tháng 7 mưa dầm sùi sụt, toát hơi may lạnh ngắt sương khô. Não người thay buổi chiều thu, ....
Con người từ muôn thủa
vẫn chỉ cái vòng danh lợi mà thôi. Ham tài rõ là lợi, ham sắc rõ cũng là lợi,
ham sự nổi danh thì cũng là lợi. Ở trong nước lo kiếm lợi lộc bao biện cho vinh
danh, đạt được thì kêu là hay là giỏi. Không được thì kêu là số hên xui. Ra được
đến Hải ngoại, vì miếng cơm manh áo cũng bao biện cho sự xuất ngoại là hay là
tài, tán tụng ngoại quốc như là Tây phương cực lạc, như Thiên đường vậy. Biết
đâu cũng có người khôn ngoan chỉ ra danh lợi là vô nghĩa nhưng nhân sinh bỏ
danh lợi thì còn gì là nhân sinh. Người nếu ở chỗ này thì là ông nọ bà kia, ra chỗ
khác thì thành thằng này con khác. Người ở trong làng thì chả là cái thớ gì,
con trồng rau thằng cấy lúa mà ra gặp gió ngoại trái chiều thì thành đấng hiểu
biết, thành bậc đại nhân thành thạo lắm lắm, mà cái Hình nhi Thượng của Thánh
nhân bảo là tột cùng thì Trí giả còn khó, bảo là tận nấc thì ngu phu phụ cũng
hay. Nghĩ ngược thì chính những trí thức như cụ Tản cụ Tố mới thật đáng thương.
ai khiến họ cười thuê khóc mướn đâu, họ tự đau trong mình mà trào ra cái u uất
đổ cả cho của thiên hạ. Nhưng khốn nỗi giờ cả thiên hạ lại xướng 2 cụ cái khoản
ấy. Mình đọc ít biết nông, quen được mấy đấng văn nhân nhờ họ ngâm ngợi mà qua
đó biết điều này điều khác. Lâm Khang chủ nhân cảm thu sang mà nhớ Tản Đà với
Quách bà bà làm lòng mình cũng lay lắt theo, lại nhớ đến bài phú Tiếng Thu của họ Âu nước Bắc. Cái se sắt
càng se sắt hơn. Mà truy nguyên thì bài Tiếng
Thu ấy cũng do cụ Tản dịch ra Quốc văn nước ta, nghe cũng lanh lảnh tiếng
kim thu. Theo đường dẫn trình lại cả cho người văn nhân trầm cảm. Ngẫm cái thu đang
đến gần ,,,, rất gần rồi
Thơ: Tản Đà
Từ vào thu đến nay:
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh
Giăng thu bạch,
Khói thu xây thành.
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Nhạn về én lại bay đi,
Đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm.
Lá sen tàn tạ trong đầm,
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa
Sắc đâu nhuộm ố quan hà
Cỏ vàng, cây đỏ, bóng tà tà dương
Nào người cố lý tha hương
Cảm thu, ai có tư lường hỡi ai?
Nào những ai
Bảy thước thân nam tử
Bốn bể chí tang bồng
Đường mây chưa bổng cánh hồng
Tiêu ma tuế nguyệt, ngại ngùng tu my
Nào những ai
Sinh trưởng nơi khuê các
Khuya sớm phận nữ nhi
Song the ngày tháng thoi đi
Vương tơ ngắm nhện nhỡ thì thương hoa
Nào những ai
Tha phương khách thổ
Hải giác thiên nha
Ruột tầm héo, tóc sương pha
Gốc phần chạnh tưởng quê nhà đòi cơn
Nào những ai
Cù lao báo đức
Sinh dưỡng đền ơn
Kinh sương nghĩ nỗi mền đơn
Giầu sang bất nghĩa mà hơn nghèo hèn!
Nào những ai
Tóc xanh mây cuốn
Má đỏ huê ghen
Làng chơi duyên đã hết duyên
Khúc sông giăng rãi con thuyền chơi vơi
Nào những ai
Dọc ngang giời rộng
Vùng vẫy bể khơi
Đội giời đạp đất ở đời
Sa cơ thất thế quê người chiếc thân
Nào những ai
Kê vàng tỉnh mộng
Tóc bạc thương thân
Vèo trông lá rụng đầy sân
Công danh phù thế có ngần ấy thôi
Thôi nghĩ cho
Thu tự giời
Cảm tự người
Người đời ai cảm ta không biết
Ta cảm thay ai, viết mấy lời
Thôi thời
Cùng thu tạm biệt
Thu hãy tạm lui
Chi để khách đa tình đa cảm
Một mình thay cảm những ai ai!
Tháng chín năm Canh Thân 1920
Nguồn: Tản Đà, Khối tình con thứ ba, Tản Đà
thư cục tùng thư, 1932
Nguyễn Du
Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh
Tiết
tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát
hơi may lạnh buốt xương khô
Não
ngườI thay buổi chiều thu,
Ngàn
lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...
Đường
bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp
đường lê lác đác mưa sa
Lòng
nào lòng chẳng thiết tha
Cõi
dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong
trường dạ tối tăm trời đất,
Có
khôn thiêng phảng phất u minh...
Thương
thay thập loại chúng sing
Hồn
đơn phách chiếc lênh đênh quê người
Hương
lửa đã không nơi nương tựa
Hồn
mồ côi lần lữa bấy niên...
Còn
chi ai khá ai hèn
Còn
chi mà nói ai hèn ai ngu!
Tiết
đầu thu lập đàn giải thoát
Nước
tĩnh đàn sái hạt dương chi
Muôn
nhờ đức Phật từ bi
Giải
oan cứu khổ độ về tây phương.
Cũng
có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí
những lăm cất gámh non sông
Nói
chi những buổi tranh hùng
Tưởngn
khi thế khuất vận cùng mà đau!
Bỗng
phút đâu mưă sa ngói lở
Khôn
đem mình làm đứa thất phu
Giàu
sang càng nặng oán thù
Máu
tươi lai láng xương khô rụng rời
Đoàn
vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ
không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho
hay thành bại là cơ
Mà
cô hồn biết bao giờ cho tan.
Cũng
có kẻ màn lan trướng huệ
Những
cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một
phen thay đổi sơn hà,
Mảnh
thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên
lầu cao dưới dòng nườc chảy
Phận
đã đành trâm gãy bìng rơi
Khi
sao đông đúc vui cười
Mà
khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau
đớn nhẽ không hương không khói
Hồn
ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương
thay chân yếu tay mềm
Càngnăm
càng héo một đêm một dài.
Kìa
những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn
bút son thác sống ở tay
Kinh
luân găm một túi đầy
Đã
đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh
mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm
loài ma mồ nấm chung quanh
Ngàn
vàn khôn đổi được mình
Lầu
ca viện hát tan tành còn đâu?
Kẻ
thân thích vắng sau vắng trước
Biết
lấy ai bát nước nén nhang?
Cô
hồn thất thểu dọc ngang
Nặng
oan khôn nh9e tìm đường hóa sinh?
Kìa
những kẻ bài binh bố trận
Đổi
mình vào cướp ấn nguyên nhung
Gió
mưa sấm sét đùng đùng
Phơi
thây trăm họ nên công một người.
Khi
thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi
sa trường thịt nát máu rơi
Mênh
mông góc bể chân trời
Nắm
xương vô chủ biết rơi chốn nào?
Trời
thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí
âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn
mây nội cỏ rầu rầu,
Nào
đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng
có kẻ tính đường trí phú
Mình
làm mình nhịn ngủ kém ăn
Ruột
rà khôngkẻ chí thân
Dẫu
làm nên để dành phần cho ai?
Khi
nằm xuống không người nhắn nhủ
Của
phù vân dẫu có như không
Sống
thời tiền chảy bạc ròng
Thác
không đem được một đồng nào đi.
Khóc
ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm
gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn
ngơ trong quảng đồng chiêm
Nén
hương giọt nước biết tìm vào đâu?
Cũng
có kẻ rắp cầu chữ qúy
Dẫn
mình vào thành thị lân la
Mấy
thu lìa cửa lìa nhà
Văn
chương đã chắc đâu mà trí thân.
Dọc
hàng qúan gặp tuần mưa nắng
Vợ
con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội
vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh
em thiên hạ láng giềng người dưng
Bóng
phần tử xa chừng hương khúc
Bãi
tha ma kẻ dọc người ngang
Cô
hồn nhờ gửi tha phương
Gió
trăng hiu hắt lửa huơng lạnh lùng.
Cũng
có kẻ vào sông ra bể,
Cánh
buồm mây chạy xế gió đông
Gặp
cơn giông tố giữa dòng
Đem
thân chôn rấp vào lòng kình nghê.
Cũng
có kẻ đi về buôn bán
Đòn
gánh tre chín dạn hai vai
Gặp
cơn mưa nắng giữa trời
Hồn
đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng
có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ
cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước
khe cơm vắt gian nan
Dãi
dầu nghìn dặm lầm than một đời
Buổi
chiến trận mạng người như rác
Phận
đã đành đạn lạc tên rơi
Lập
lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng
oan văng vẳng tối trời càng thương!
Cũng
có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều
tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn
ngơ khi trở về già
Ai
chồng con tá biết là cậy ai?
Sống
đã chịu một đời phiền não
Thác
lại nhờ hớp cháo lá đạ
Đau
đớn thay phận đàn bà,
Kiếp
sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng
có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi
tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương
thay cũng một kiếp người
Sống
nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.
Cũng
có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi
mình vào chiếu rách một manh
Nắm
xương chôn rấp góc thành
Kiếp
nào cỡi được oan tình ấy đi?
Kìa
những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi
giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy
ai bồng bế xót xa
U
ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa
những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng
có người sẩy cối sa cây
Có
người leo giếng đứt dây
Người
trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người
thì mắc sơn tinh thủy quái
Người
thì sa nanh sói ngà voi
Có
người hay đẻ không nuôi
Có
người sa sẩy có người khốn thương.
Gặp
phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu
Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi
người một nghiệp khác nhau
Hồn
xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?
Hoặc
là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc
là nương ngọn suối chân mây
Hoặc
là điếm cỏ bóng cây
Hoặc
là quán nọ cầu này bơ vơ
Hoặc
là nương thần từ Phật tự
Hoặc
là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc
là trong quãng đồng không
Hoặc
nơi gò đống hoặc vùng lau tre
Sống
đã chịu một bề thảm thiết
Ruột
héo khô dạ rét căm căm
Dãi
dầu trong mấy mươi năm
Thở
than dưới đất ăn nằm trên sương
Nghe
gà gáy tìm đường lánh ẩn
Tắt
mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi
thôi bồng trẻ dắt già
Có
khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ
phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng
hào quang cứu khổ độ u
Rắp
hòa tứ hải quần chu
Não
phiền trút sạch oán thù rửa không.
Nhờ
đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển
pháp luân tam giới thập phương
Nhơn
nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh
kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ
phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong
giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười
loài là những loài nào?
Gái
trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp
phù sinh như hình như ảnh
Có
chữ rằng:"Vạn cảnh giai không"
Ai
ơi lấy Phật làm lòng
Tự
nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn
chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của
có khi bát cháo nén nhang
Gọi
là manh áo thoi vàng
Giúp
cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai
đến đây dưới trên ngồi lại
Của
làm duyên chớ ngại bao nhiêụ
Phép
thiên biến ít thành nhiều
Trên
nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.
Phật
hữu tình từ bi phổ độ
Chớ
ngại rằng có có không không.
Độ
cho nhất thiết siêu thăng thượng đài
Thu thanh phú/ Âu Dương Tu/ Người dịch: Tản Đà
Âu Dương tử
đương đêm tựa án
Nghe tiếng đâu từ mạn tây nam
Giật mình lại thử nghe xem
Rằng: "Đâu có tiếng ai làm, lạ sao!
Thoạt lúc mới lào rào hiu hắt
Bỗng nổi to xô xát ầm tai
Tối đêm như sóng kêu ngoài
Như mưa như gió chuyển trời đến mau
Phải tiếng ấy ? đụng đâu vang đấy
Sắt vàng đâu, nghe tiếng kêu ran
Ngậm tăm quân kéo đi tràn
Chẳng nghe hiệu lệnh, nghe toàn tiếng đi"
Bảo đồng tử: "Tiếng chi như vậy ?
Thử ra sân coi thấy nhường sao"
Đồng rằng: "Vằng vặc trăng sao
Lại sông Ngân Hán ở cao giữa trời
Khắp bốn phía tiếng người chẳng có
Nghe tiếng đâu ở chỗ lùm cây"
Ta rằng: "Thôi thế, thương thay!
Tiếng thu là, đó lại đây làm gì?
Này thử ngẫm thu kia ai họa
Vẻ nhạt mờ khói toả mây thu
Thanh minh là dáng mùa thu
Trời cao sáng suốt kim ô một vừng
Khí thu lạnh ra chừng nghiêm nhặt
Như nhói xương, như cắt vào da
Non sông lặng phắc gần xa
Cảnh đìu hiu đó, chẳng là ý thu?
Bởi thu thế, tiếng thu như thế
Đã buồn thôi, lại kế ghê thay!
Biết bao xanh tốt cỏ cây
Mà pha sắc úa mà bay lá vàng
Làm cho đến tồi tàn rơi rụng
Khí trời thu quạ đụng mà kinh
Ôi thôi! Cây cỏ vô tình
Theo cơ tạo hoá, điêu linh có thì
Trong vạn vật giống gì thiêng nhất?
Người ta là động vật mà hơn
Ruột gan trăm mối lo buồn
Việc đời chuốc lấy muôn vàn nhọc thân
Trong khua đông tinh thần lay lắc
Lại đa mang gánh vác cho nhiều
Sức thua cũng cố mà theo
Trí khôn có một, lo điều gấp hai
Đã rằng thế thì thôi cũng phải:
Tấm hình hài còn lại thương sao!
Cây khô đổi vẻ má đào!
Phơ phơ màu trắng thay vào tóc đen!
Người đâu phải chất bền vàng đá?
Cùng cỏ cây sao khá tranh tươi?
Thân kia làm tội cho đời!
Vì ai mà giận chi trời, tiếng thu?"
Coi đồng tử gục đầu trên gối
Bộ ngủ say, ta nói mặc ta
Nỉ non giun dế quanh nhà
Cùng ta kêu góp một vài giọng than
Nghe tiếng đâu từ mạn tây nam
Giật mình lại thử nghe xem
Rằng: "Đâu có tiếng ai làm, lạ sao!
Thoạt lúc mới lào rào hiu hắt
Bỗng nổi to xô xát ầm tai
Tối đêm như sóng kêu ngoài
Như mưa như gió chuyển trời đến mau
Phải tiếng ấy ? đụng đâu vang đấy
Sắt vàng đâu, nghe tiếng kêu ran
Ngậm tăm quân kéo đi tràn
Chẳng nghe hiệu lệnh, nghe toàn tiếng đi"
Bảo đồng tử: "Tiếng chi như vậy ?
Thử ra sân coi thấy nhường sao"
Đồng rằng: "Vằng vặc trăng sao
Lại sông Ngân Hán ở cao giữa trời
Khắp bốn phía tiếng người chẳng có
Nghe tiếng đâu ở chỗ lùm cây"
Ta rằng: "Thôi thế, thương thay!
Tiếng thu là, đó lại đây làm gì?
Này thử ngẫm thu kia ai họa
Vẻ nhạt mờ khói toả mây thu
Thanh minh là dáng mùa thu
Trời cao sáng suốt kim ô một vừng
Khí thu lạnh ra chừng nghiêm nhặt
Như nhói xương, như cắt vào da
Non sông lặng phắc gần xa
Cảnh đìu hiu đó, chẳng là ý thu?
Bởi thu thế, tiếng thu như thế
Đã buồn thôi, lại kế ghê thay!
Biết bao xanh tốt cỏ cây
Mà pha sắc úa mà bay lá vàng
Làm cho đến tồi tàn rơi rụng
Khí trời thu quạ đụng mà kinh
Ôi thôi! Cây cỏ vô tình
Theo cơ tạo hoá, điêu linh có thì
Trong vạn vật giống gì thiêng nhất?
Người ta là động vật mà hơn
Ruột gan trăm mối lo buồn
Việc đời chuốc lấy muôn vàn nhọc thân
Trong khua đông tinh thần lay lắc
Lại đa mang gánh vác cho nhiều
Sức thua cũng cố mà theo
Trí khôn có một, lo điều gấp hai
Đã rằng thế thì thôi cũng phải:
Tấm hình hài còn lại thương sao!
Cây khô đổi vẻ má đào!
Phơ phơ màu trắng thay vào tóc đen!
Người đâu phải chất bền vàng đá?
Cùng cỏ cây sao khá tranh tươi?
Thân kia làm tội cho đời!
Vì ai mà giận chi trời, tiếng thu?"
Coi đồng tử gục đầu trên gối
Bộ ngủ say, ta nói mặc ta
Nỉ non giun dế quanh nhà
Cùng ta kêu góp một vài giọng than
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét