Giá trị nội dung
Hoàng triều sử ký 皇朝史記 R.2253
Nguyễn Đức Toàn
Taucha, CHLB Đức
(Hội thảo thường niên “Nghiên cứu Hán Nôm năm 2017”)
Bản tóm tắt: http://yeuhannom.blogspot.de/2017/09/hoang-trieu-su-ky-hoi-thao-thuong-nien.html
Bài Giới thiệu bản:http://yeuhannom.blogspot.de/2017/01/gioi-thieu-van-ban-hoang-trieu-su-ky.html
Bản tóm tắt: http://yeuhannom.blogspot.de/2017/09/hoang-trieu-su-ky-hoi-thao-thuong-nien.html
Bài Giới thiệu bản:http://yeuhannom.blogspot.de/2017/01/gioi-thieu-van-ban-hoang-trieu-su-ky.html
Hoàng triều sử ký皇朝史記, do Mộng Thạch Dương Lâm dịch ra chữ Nôm và viết lời bình, bản sao do Trần Văn
Giáp chép, tuy chỉ là một bộ sử ngắn giản lược về triều Nguyễn. Nhưng nó đã thâu tóm
trong nó nội dung của gần 400 năm lịch sử dòng họ Nguyễn kể từ đời Nguyễn Kim dựng
cờ “Phù Lê diệt Mạc” trên đất Thanh Hóa (1533 - 1907) và 100 năm lịch sử vương
triều Nguyễn. Có quan điểm đánh giá đúng đắn về công lao của dòng họ này trong
công cuộc khai thác mở mang bờ cõi đất nước về phía cực Nam của tổ quốc. Nếu
như dưới thời thịnh trị của phong kiến Việt Nam là thời Lê Thánh Tông, biên giới
nước ta mới chỉ đến được Quảng Nam thì vào thời các chúa Nguyễn, ta đã đưa dân
xuống khai thác tận Hà Tiên, mở mang khu vực đồng bằng sông Cửu Long, vượt đường
ngăn cách đến tận Cao Miên, gây sự ảnh hưởng to lớn ở đây với cả nước Xiêm La.
Cho đến công cuộc Bảo hộ của Pháp trên đất nước ta. Nội dung tác phẩm khá ngắn
gọn, nhưng đem đến cho người đọc cái nhìn tổng quan rõ ràng về chiến lược của
quân Pháp và sự lúng túng dè dặt không quyết đoán của triều đình Huế. Ngoài thì
cường địch, trong thì giặc cướp, đã không lo được mình lại đi ghánh thêm con bệnh
quân Cờ Đen, rồi trông cậy hổ già Đại Thanh. Không có sự thấu đạt tình hình quốc
tế để tạo nên sự thay đổi cơ bản. Từ quan điểm chủ chiến quyết liệt, đến mức
căm ghét quân Pháp rồi sợ uy lực quân Pháp, chuyển sang chủ hòa. Sau cái chết của
Nguyễn Tri Phương, trụ cột của phái chủ chiến, triều đình Huế từng bước hoàn
toàn thỏa hiệp. Hành vi lộng quyền, quyết định nóng nảy vội vàng không tính
toán của Tôn Thất Thuyết, càng đẩy nhanh sự chấp nhận bảo hộ của Pháp, đưa phe
chủ hòa lên nắm quyền lực.
Dịch giả phân tích rõ cái sai căn bản của ta. Sự thực về nước Tàu mà ta vẫn
thần phục từ xưa, và cái thế không thể mất được của nước Tàu. Nhưng bên cạnh những
trang u ám chua xót, dòng văn của Hoàng
triều sử ký 皇朝史記 vẫn bừng sáng hào khí lịch
sử, truyền thống dựng nước giữ nước với lời bình lời tán của dịch giả. Gợi cho
người đọc lòng yêu nước thương nòi vô hạn, tinh thần dân tộc bền bỉ, ý thức được
người nước ta không phải là người kém cỏi. Tất cả do vận trời xoay chuyển, trời
giúp Cao Miên thoát sự ta bảo hộ, trời đặt ách cho ta bị sự bảo hộ. Năm trăm
năm lại đến một vận bĩ. Qua đó cũng thấy tinh thần mong chờ sự vững mạnh của nước
nhà mau tiến.
Tác phẩm ngắn gọn, cô đọng, từ những thông tin sử liệu được tác giả trình
bày diễn dịch với tinh thần dân tộc yêu nước, thấm đậm tư tưởng trung quân ái
quốc của Nho gia, niềm tự hào lớn lao về lịch sử tiền nhân để lại. Lời thơ giản
dị mà xót xa tiếc nuối, nhưng cũng thấp thoáng hi vọng, mong cầu cho đất nước
bước lên con đường phú cường tự chủ.
Qua những dòng của Hoàng triều sử ký皇朝史記tác giả thể hiện được những
tinh thần chủ đạo đan xen xuyên suốt tác phẩm.
1. Đó là tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, từ những vị vua anh hùng
đến những tôi trung tướng giỏi.
Ngay ở phần đầu, từ đời đức Triệu Tổ Nguyễn Kim. Hoàng triều sử ký 皇朝史記đã vang lên lời thơ tha thiết với đất nước:
Nhìn xem phong cảnh sơn hà
Nước non vẫn
nước non nhà từ xưa
Tổ tông gây
dựng cơ đồ
Nặng lòng
ái quốc mới là thần dân[1b]
Về võ công oanh liệt của các chúa Nguyễn, thì từ đời chúa Hiếu Chiêu, đem
quân chống Trịnh, mà trận thắng vang dội chiếm được châu Bố Chính, bắt tù binh
3 vạn người:
Xem trong các nước hoàn cầu
Dẫu mà sông cạn đá mòn
Nước non ghi tạc vẫn còn tiếng
xưa
“Trận ấy là võ công đệ nhất. Nghiệp
chúa ba đời, võ công một trận”.
Đến thời vua Gia Long thống nhất được đất nước, niềm tự hào dân tộc lại được
nhắc lại:
Nào là đất
cũ Nam bang
Nào là mở rộng
Cao Miên, Chiêm Thành
Nào là trời
giữ nước mình
Nào là tổ
trước để dành vua sau
Hơn hai
mươi chữ cũng đâu thế này
Bình phẩm công lao và tài năng của vua Gia Long vất vả hơn hai mươi sáu năm
trời, bôn ba sóng gió lênh đênh, cầu viện khắp trong ngoài để khôi phục cơ nghiệp.
Kể cũng là một đấng vua anh hùng ở nước Nam:
Trong hai mươi sáu năm trời
Biết bao hiểm trở gian nan
Giang sơn mấy có giang sơn đến giờ
Tinh thần dân tộc không chỉ ở vua sáng tôi hiền, mà cả đường văn hiến học
thuật, dịch giả Hoàng triều sử ký皇朝史記 cũng giữ nguyên tinh thần vô tốn Trung Hoa 無遜中華của kẻ
sĩ nước Nam. Như khi so sánh thời Thịnh Lê của Lê Thánh Tông với thời Thịnh
Nguyễn của Nguyễn Dực Tông:
Nói về luật lệ thời sánh mấy nhà
Đại Thanh cũng không thua.
Nói về văn chương thì nước ta
không có khi nào mà thịnh được như hai đời ấy vậy [37a]
Tôi hiền nhà Nguyễn thì phải kể đến ông Đào Duy Từ, là
hàng khai quốc nguyên huân:
Phi long gặp hội Ngọa Long tài
Nhớ đến vua hiền phải nhớ tôi
Sơn thủy mới hay đàn có bạn
Phong trần dám rẻ hát không loài
Lũy Thầy ngăn chống chia hai đất
Ngôi chúa nghênh ngang đứng cõi trời
Cuộc thế hơn thua người nặng nhẹ
Khen ai mà lại tiếc cho ai.
Rồi đến hai ông Vũ Tính, Ngô Tòng Chu, rồi đến hai ông
Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt.
2. Hai là tư tưởng hoài cựu, khêu gợi truyền thống vẻ
vang của ông cha trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Như nhắc đến câu Sấm của
Trạng Trình, với điềm được “nước” khi chúa Nguyễn Hoàng mới vào Thuận Hóa:
Mới hay thanh thủy thất đàm.
Xem ra dâng nước là điềm hưng
bang
Dẫu rằng một
giải [2a] Đèo Ngang.
Mà xưa khai
đó nan gian đã nhiều
Truyền thống dựng nước giữ nước ấy được còn được dịch giả ghi nhớ qua lời
than vãn trong tình cảnh Thực dân Pháp hoàn toàn đặt ách Bảo hộ trên nước Đại
Nam. Vần thơ như khiến người đọc xót xa:
Ở đất ta
thuộc nước ta
Chép đến
câu ấy muốn sa giọt dài
Hỏi ta có ở
đất ta
Hỏi ta lại
hóa ra ngoài bạ ta
Nhớ xưa
khai thác sơn hà
Những công
liệt tổ thực là gian nan
Hay như câu ở trước, khi chúa Hiếu Vũ khai thác mở rộng các vùng của Chân Lạp
như Sa Đéc, Định Tường, Kiên Giang, Cà Mau, cho thuộc về Hà Tiên:
Xem trong các tỉnh thủa xưa
Trăm năm
cõi đất một nhà mở mang
Bút hoa
chép đã tỏ tường
Mà lòng
càng tiếc càng thương càng dầu [7a]
Lời thơ của Mộng Thạch còn tiếc nuối cho công nghiệp khai thác của các vua
đầu triều, và những cơ hội phú cường của nước nhà:
Tiếc thay vận hội thế này
Văn minh nỡ
để bước trầy vì đâu
Hay còn hoài vọng quá khứ chiến đấu kỳ lạ của quân nhà
Nguyễn qua bài Vịnh quân Đồng Nai:
Lòng trời cơ hội cũng hay
Đời xưa tiếng
hạc đời này tiếng nai
Nghe nai đã
đủ sợ người
Tiếng nai
còn đó tiếng ai bây giờ [13a]
Những lúc vận nước gian nguy, lòng dân lại còn mong người hiền ra giúp nước.
Lời thơ lúc nào cũng bám vào hoàn cảnh đất nước bị đô hộ mà trình bày cảm xúc.
Khi bình về đời chúa Hiếu Chiêu với sự giúp đỡ của Đào Duy Từ hoạch định kế
sách chống Trịnh:
Có vua thì
phải có tôi
Ngọa long
phi hổ thực tài ưng dương
Than ôi nhớ
đức tiền vương
Xem trong
lúc thịnh mà thương lúc hèn
Đề cao hình tượng trung quân qua lời bình về Võ Tính và Ngô Tòng Chu. “Muốn cho dân khỏi sự lầm than, thì dầu lửa
cháy nung kia cũng là mát; muốn cho dân khỏi điều cay đắng, thì dẫu uống thuốc
độc nọ cũng là ngon. Trước là vì vua mà dựng cơ đồ, sau là cũng vì nước mà trừ
tàn bạo, chết là chết cùng loài giống, chết là chết mấy giang sơn; Nghìn năm
danh tiết rõ ràng, Sử xanh còn đó thiên vàng còn đây”.
Ngay cả những bài học lịch sử gần kề là chuyện nước Chiêm Thành cũng là những
lời nhắn nhủ sâu sắc:
Mấy câu chép việc Chiêm Thành
Thương ai
mà lại giật mình cho ta
Hồng Bàng
còn lại giống nhà
Lo gần cũng
phải lo xa thế nào
3. Tác phẩm có tinh thần phê phán những vấn đề tệ hại trong nhận thức và
truyền thống của người nước ta.
Phê phán sự lạc hậu của dân ta mà cứ bo bo thủ cựu. “Lại nói về việc khí giới, thì nào là tàu cột buồm, nào là súng cò máy
đá, là những đồ dùng những bao giờ. Nói về việc học hành, nào là Kinh Nghĩa,
nào là Thi Phú, là những đồ hủ đã lâu nay, đến nỗi trong một nước không được một
người nào ra ngoại quốc đi học. Hễ có thông dịch việc chi chăng nữa, thì phải
mượn người Linh mục. Cư trong một nước không được một người nào ra ngoại quốc
thông thương. Hễ có mua bán cái chi, thời phải nhờ người Nguyễn Đức Hậu.”
Đặc biệt, là Hoàng triều sử ký皇朝史記 còn có những nhận xét phê phán thói hư tật xấu của người
nước ta, chỉ trọng làm quan, trọng cái học bề thi cử. Thói hủ bại ấy, mà có lẽ
đến nay vẫn chưa sửa được: “Nói về việc học
trò, thì ai cũng lo chi đi học, ai nấy cũng muốn làm quan [49a]. Nghĩa là làm quan để nuôi vợ nuôi con, không phải đi học để
thương loài thương nước.”
Phê phán thói tự ti mà ích kỷ, ra ngoài chẳng dám tranh ai, mà với người đồng
hương đồng chủng thì tranh cạnh hơn thiệt để so để bì: “Nói về việc canh nông thì chen chúc nhau trong một làng một xóm, tranh
cạnh nhau trong một tấc một sào. Nói về việc xuống bể thì chê rằng nước mặn đồng
chua. Nói về lên rừng thì chê ma thiêng nước độc.”
Xấu xa từ trong tư duy chụp giật, lừa dối, làm ăn xảo trá của người dân: “Nói về việc thuyền thợ thì vốn một muốn bán
ra mười, chưa khéo thì đã làm giả dối. Đồ sơn thì mới mua về đã lở gióc, đồ khảm
thì mới dùng đã long. Nói về buôn bán thì chạy quanh trong tỉnh này hoặc tỉnh
khác. Đồ thì mua của chú Khách không thì ông Tây. Cao su thì đem lộn mấy đá,
lúa ngô thì đem tẩm nước. Việc học hành như thế, việc làm ăn như thế, muốn cho
nước mạnh mạnh được làm sao, muốn cho dân giàu giàu làm sao được.”
Kê hết thói hư tật xấu, mong dân ta sửa chữa mau, với niềm hy vọng dặn dò
vào lớp sau. Tỏ rõ tâm trạng thực sự của một nhà Nho yêu nước. Đây mới thực là
tấm lòng của Dương Lâm, chứ không phải như một số nhận xét về tư tưởng “thoát
ly, hưởng lạc”[4] trong thơ cụ:
Nay ta kể hết bệnh ta
Mượn thầy mượn thợ thuốc tra ma cầu
Vì là nguyên khí hồi mau
Hồng Bàng
giống trước sinh sau muôn đời
Bằng ta
cũng phải lo người
Tính đường
vận khí liệu bài liệu phương
Khí hư thuốc
mấy lưu hoàng
Lấy bệnh trợ
bệnh bệnh càng thêm lên
Cổ phương
thập bổ đại toàn
Những
phương bất dị xin chàng nhớ cho
Mây câu tâm
huyết dặn dò
Nào ai có
thấy ta lo cuộc đời
Bên cạnh những dòng thơ phê phán “quốc bệnh” của ta, Dương Lâm vẫn dành những
dòng khách quan khi đánh giá những ưu điểm của ta qua những gương trí thức canh
tân. Như ông Phạm Phú Thứ, ông Nguyễn Trường Tộ, ông Nguyễn Đức Hậu:
Thế thì ta
chẳng dại đâu
Có người biết
trước lo sau đó rồi
Chẳng qua
còn mặc vận trời
Một người
tuấn kiệt mười người hèn ngu
4. Rồi đến những nhận định đánh giá khách quan những sai lầm trong lịch sử
với sự trông mong thay đổi của tương lai. Đầu tiên là không chịu kết giao với
nước ngoài. Nhớ lúc vua Gia Long còn cảnh gian nan, được một số người Tây giúp
đỡ, giá nước ta có tinh thần hòa hợp để tiếp thu văn minh người ta từ bấy giờ
thì nước ta đã nên bậc phú cường rồi:
Lại vì Nam
hợp Tây hòa. Không giúp lính cũng giúp tàu giúp súng.
Việc khôn
khéo mở đầu từ đó. Nước Nam ta đã gần bậc phú cường.
Cách văn
minh kém bước do đâu. Gió Tây nọ trách vì ai ngăn đón.
Lời thơ tự trách, trước thì cũng gần gũi với phương Tây,
mong cầu giúp đỡ mà sau lại đóng cửa cấm đoán, khiến đất nước phải cảnh đói
nghèo:
Xưa kia một dạ tương thân
Giao lân
nào phải cừu lân mà nghờ
Sự nhầm
cũng bởi tại ta
Để cho thảo
mộc sơn hà xác sơ
Nhất là sau khi những cựu thần người phương Tây từng giúp đỡ vua Gia Long,
đến đời Minh Mệnh không được trọng dụng nữa thì văn minh phương Tây bị đứt đoạn
không được tiếp xúc nữa:
Nước Việt
Nam tưởng phú cường bởi đó. Nào ai nghĩ vận đỏ hóa ra đen
Gió Thái
Tây mà ngăn đón từ đây. Cũng là sợ loài vàng chung mấy trắng.
Sự giao thiệp với phương Tây là “đem
sự tiền bạc đến cho mình, đem sự khôn ngoan đến cho mình, thực là những việc
ích lợi. Tiếc là thửa trước các quan đều là những người thủ cựu, ai ai cũng đều
xin đừng.”
Tình trạng ngoài thì địch mạnh, trong thì trộm cướp mà còn dung dưỡng quân
Cờ Đen. Các dịch giả phê phán rất rõ ràng để ta không nhầm về bản chất quân đó
vẫn là một đảng làm vạ ăn cướp, qua lời nhận xét: “Nhưng mà tiếng rằng nó hàng phục mấy mình, mà mình có sai nó việc chi
nó không muốn làm thì thôi. Nghĩa là [31b] mình không kiềm chế được nó vậy.”
Còn vấn đề cơ bản thì lại không được nhìn nhận. Học tập văn minh Trung Quốc
hơn nghìn năm, nhưng so với cái văn minh tân thời này thì lại là tụt lùi, vẫn bảo
thủ cố chấp: “Học vấn đã ít tinh thông,
công việc lại nhiều sai ngộ; Tin lấy chữ Thành誠 chữ Tín 信mà bảo rằng Thành khả dĩ
hóa hùm beo; Tin lấy chữ Nghĩa 義chữ Nhân 仁 mà bảo rằng khả dĩ thay tàu súng. Cho nên một lần
đánh nhau thì thêm một lần hòa ước, ký một lần thì thêm mấy mươi điều. Lúc
đương đánh thì duy tân chắc ở phen này, khi đã hòa thì thủ cựu lại hơn lúc trước.”
Trông cậy vào sự giúp đỡ của Đại Thanh. Nhưng hóa ra Đại Thanh cũng chẳng
có ý tốt mà chỉ nhân cơ hội trục lợi, đem quyền lợi của ta để thỏa hiệp với nước
Pháp “Nước Tàu không dám ra mặt chống mấy
Đại Pháp, nhưng mà sai ông Đường Cảnh Tùng sang tỉnh Sơn Tây, ông Từ Diên Húc[5] sang tỉnh Bắc Ninh, là có ý đợi khi nào nước Đại Pháp có
lấy nước ta rồi thì chiếm các phần đất ấy cho nước Tàu.”
Những vần thơ vịnh sự gian xảo của Đại thần nhà Thanh là Lý Hồng Chương
càng làm người đọc thấu hiểu dã tâm Trung Quốc, dã tâm của các nước lớn, sẵn
sàng đánh đổi quyền lợi nước nhỏ để bảo đảm lợi ích cho mình:
Hồng Chương
là chú phú thương
Cũng tay
buôn bán cũng phường sỏ xiên
Đã toan sâu
xé láng giềng
Của người
thì vét cho yên của mình
Cái nỗi thần phục Trung Quốc đã ăn sâu vào tâm tưởng người ta từ xưa. Cái lỗi
lầm của nước ta cũng chính là cái lỗi có từ của Trung Quốc. Đoạn văn nhận xét rất
thấm thía: “Vì chưng ta thần phục nước
Tàu từ đời nhà Đinh cho đến nay đã gần tám trăm năm. Vì sợ nước Tàu người nhiều
đất rộng, nên phải giữ chữ nội thần ngoại đế. Dẫu mà có phen đánh nhau mà quân
Tàu mới chạy về đất ải quan[6], thời
đã dâng biểu tạ tội, sứ ta theo rõi cửa Nam Quan. Đời trước đã bày ra đời sau
cũng theo thế. Cho nên dẫu có giao hảo mấy Đại Pháp mà vốn còn giữ câu thần phục
nước [43a] Tàu vậy, mà không nghĩ rằng nước Ta,
nước Tàu cùng cách học hành hủ hoại như nhau, thời cũng một cách suy đồi vậy. Từ
năm Tự Đức thứ mười (1857) về trước, nước Tàu đã mất Hương Cảng mà vua Hàm
Phong[7] phải
chạy. Cũng là nước ta lúc đã mất ba tỉnh Gia Định rồi. Có đi học sao không học
thầy hay mà cứ học thầy giở, có đi vay sao không vay nhà giàu mà cứ vay nhà
nghèo.
Mượn anh yếu
dắt anh gầy
Hai anh
không gậy có ngày lăn pheo
Trông theo
dở thẹn dở chào
Chú trê đổ
dại cho nheo mấy lần”
Triều đình Huế “vẫn
chắc rằng có Tàu để [43b]chống lại mấy
Tây, cho nên cuộc hòa mấy trở ra cuộc chiến. Ông Ngạc Nhi chơi Cầu Giấy có một
mình, vậy mà khi quân Lưu Vĩnh Phúc đã bắt được thời kể như là một tướng Liễu
Thăng[8]. Ông
quan năm[9] cũng
lên phủ Hoài chỉ có bốn trăm quân, mà khi quân Lưu Vĩnh Phúc đã đánh thua thì kể
như là trận Yên Ngựa (Chi Lăng)[10].
Còn như nước Tàu sai ông Đường Cảnh Tùng, ông Từ Diên Húc sang nước ta, là có ý
chia đất mấy nước Đại Pháp, mà ta cứ nói rằng cứu viện cho mình. Ông Lý Hồng
Chương ký hòa ước ở Thiên Tân, thực là lấy đất ta mà bán cho nước Đại Pháp. Thế
mà vẫn giữ câu thần phục. Công việc sai nhầm như thế, cũng bởi vì nhầm việc thời
thế mà ra.”
Lời nhận định chỉ rõ ra sự nguy hiểm cho ta sau trận thắng ở Cầu Giấy. “Ai nấy cũng đều lấy làm trận này là sự vinh
hiển cho nước ta mà không biết sự nguy hiểm cho nước ta vậy”.
Dương Lâm còn chỉ ra được cái thế lớn không thể mất của Trung Quốc, họ khác
với cái thế của nước ta. “Nói rằng nước
Tàu không mất vì có hai cớ. Một là đất nước Tàu rất rộng, dẫu mà các nước có
chia nhau, thì cũng không thể nào cai trị cho khắp được. Hai là vì nước Tàu
giao thông mấy nhiều nước. Dẫu nước này có muốn lấy, nhưng nước khác cũng không
ưng. Xem như các nước đã lấy được Bắc Kinh rồi về sau cũng phải giả lại. Mới biết
nước Tàu là một nước người nhiều đất rộng. Nếu mà biết lo đường tự chủ, thời
hai mươi năm nữa không nước nào địch được. Mà không biết lo đường tự chủ, thời
trong năm mươi năm nữa cũng chẳng khác chi Ấn Độ, Triều Tiên mấy ta vậy”.
Trong nội bộ thì lủng củng, quanh co không lối thoát. Chỉ biết đấu tranh giữa
“chiến” với “hòa” mà không chịu thay đổi cái căn bản. Hành động nóng nảy của
phe chủ chiến, chuyên quyền của nhóm phụ chính mà Tôn Thất Thuyết cầm đầu bị
Dương Lâm phê phán trái đạo của Nho gia:
“Vua bốn tháng làm chi ra lỗi lớn, chiến vì đâu mà hòa
cũng vì đâu.
Bút nghìn thu trách những kẻ lộng quyền, thí phải chép mà
phản đành phải chép.”
“Vua dẫu đức hiền, tôi còn thế lớn. Mấy lần thay thay đổi
đổi, đau lòng vì năm tháng đặt ba vua.”
Và sự mất quyền tự chủ của ta cũng không thể tránh khỏi.“Ta không biết cách học cách buôn, cho nên sự khôn ngoan ta một ngày một
kém, sự tiền của ta một ngày một nghèo. Như thế thì nước Đại Pháp không lấy, nước
khác cũng lấy mà thôi.”
5. Cuối cùng là tác giả vẫn còn bảo lưu tư tưởng Thiên mệnh, trung quân ái
quốc của Nho giáo. Tư tưởng Thiên mệnh của Nho giáo cũng là một hướng tích cực
đối với những kẻ sĩ như Dương Lâm hi vọng, trông đợi vào một vận hội mới cho đất
nước: “Xem đạo trời trong mười năm thì có
một lần một tiểu biến, trăm năm thì có một lần trung biến, năm trăm năm thì có
một lần đại biến, nên cái thịnh suy trị loạn từ đó mà ra”. “... Xem thế thì biết
vận thịnh suy là vận chung của trời đất, thuận nghịch là cảnh riêng trong một đời [38b] Cảnh nghịch thì là gặp vận suy,
cảnh thuận thì là gặp vận thịnh. Đọc sách phải lấy thịnh suy mà xem việc vận hội,
không nên lấy hơn thua mà bàn đấng anh hùng.
Năm trăm
năm một vận trời
Năm trăm
năm cũng một đời thánh sinh
Tính ra đến
vận hà thanh
Hay là số ấy
ông xanh quên rồi
Nhưng những hạn chế về mặt tư tưởng và điều kiện xã hội đương thời cũng là
một nhân tố tác động trong cách tiếp cận thỏa hiệp của Dương Lâm khi cụ nhận
xét về các ưu điểm của nhà nước Bảo hộ: “May
có ông A La Nát San (De Lanessan )
lại làm Toàn quyền, dùng nhiều sự khôn ngoan, giao quyền phép cai trị lại cho
quan ta. Được phép mà đặt lính cơ, được phép dùng súng đạn. Vả lại phát súng
cho dân Thượng du để cho nó chống lại mấy những quân ăn cướp bên Tàu. Từ đó, việc
giặc cướp một ngày một yên. Nước Đại Pháp trông thấy như vậy, mới chịu cho nước
ta vay tiền để làm đường xe hỏa là những việc có ích lợi. Theo như khi ông ấy
làm Toàn quyền, thì quan dân ta ai cũng bằng lòng cả.”
Nhưng trên tầm đánh giá, một tập
Hoàng triều sử ký皇朝史記 102 trang, do Mộng Thạch Dương
Lâm dịch ra chữ Nôm, có kèm lời bình tán của ông và của Nguyễn Thượng Hiền là
những vần thơ yêu nước của nhà Nho Việt Nam trước cảnh đất nước nghèo đói bị
xâm lăng. Kẻ sĩ Nho học cho dù có tìm đường cứu nước, nhưng vẫn không rời ngòi
bút, dùng phương pháp chép sử, bình sử mà khơi dòng nguồn yêu nước cho nhân
dân, tô điểm các hình tượng vua hiền tôi giỏi trong lịch sử để khích lệ niềm tự
hào về lịch sử đấu tranh dựng nước của dân tộc. Hơn nữa, Hoàng triều sử ký皇朝史記 còn là tiếng lòng của Dương Lâm với
đất nước.
Đọc lên đã khá lòng rồi
Biết người
làm sách là người khổ tâm [39a]
Nó chứng minh cho tâm sự ưu tư của cụ với đất nước, như lời GS. Dương Thiệu
Tống, cháu nội cụ đã viết trong cuốn Tâm
trạng Dương Khuê Dương Lâm[11]. Những
vần thơ tổng bình cuối văn bản Hoàng triều
sử ký皇朝史記 cũng là những cảm xúc của cụ Nghè Dương gây dựng cho
chúng ta khi đọc tác phẩm này:
Suốt một
cây gốc nguồn dòng
Hồi long cố tổ nghĩa trong sách này
Từ Hồng Bàng đến thủa nay
Có thay
thời thế chẳng [49b] thay giống
loài
Có ta cùng lẫn có người
Có thời có vận có trời chủ trương
Thịnh suy bĩ thái là thường
Sau đây ta biết tang thương thế nào
Kìa kìa sơn thủy thanh cao
Xin ai nhớ lấy Nam Giao cõi
này
Tôi nay đã trải đắng cay
Phong trần chẳng kẻo chống tay vào giàm
Giám đâu khoát luận cao đàm
Lạc Long còn giống nước Nam là mừng
Rút giây vẫn biết động dừng
Bút nghiên nhờ nghiệp cao tằng thửa xưa
Cho nên kẻ chép người phê
Ái ưu một bụng chê khen mặc người
Kẻ trước khóc kẻ sau cười
Một câu thời thế nghìn đời như nhau
Chúng tôi hy vọng tác phẩm sẽ sớm được phiên âm, chú thích và
giới thiệu toàn văn đến với độc giả trong thời gian sắp tới. Để hiểu
hơn về lịch sử nước nhà giai đoạn này mà cũng là để hiểu hơn về
con người và tâm sự của Dương Lâm.
Ảnh minh họa 1 trang sách Hoàng triều sử ký với số Thư viện
R.2258 (Chụp tại TVQG 2006)
Thư mục sách đã dẫn:
- Hoàng
triều sử ký皇朝史記. Mộng Thạch dịch quốc âm.
R.2253 Thư viện Quốc Gia Hà Nội
- Dương
Lâm. Bắc Kỳ châu quận canh hoán phân hợp phú北 圻州 郡 更 換 分 合 賦. VHb.283
- Dương Thiệu Tống. Tâm trạng Dương Khuê–Dương Lâm, Nxb.KHXH.H,.2005
- Dương Quảng Hàm. Việt Nam văn học sử yếu. Nxb.
Hội nhà văn.H,.2002
- Di
sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu. Nxb.KHXH.H,.1993
- Trịnh Khắc Mạnh. Tên
tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam. Nxb Văn hóa Thông tin – H,. 2007
- Trần
Văn Giáp. Tìm hiểu kho sách Hán
Nôm. Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1990.
- Trần
Văn Giáp. Lược truyện các tác
gia Việt Nam. Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1972.
[1] Hiến phù: Là lễ dâng nộp tù binh ở nhà
Thái miếu để báo công lao.
[3] Cao Quang高光: tức Hán Cao tổ và
Hán Quang Vũ là hai vua đời Tây Hán và Đông Hán có tài dẹp loạn yên đời, thống
nhất đất nước.
[4] Dương Thiệu Tống.Tâm trạng Dương Khuê-Dương Lâm. Nxb.KHXH.H,.2005, Lời giới thiệu có
nhắc đến ý, một số sách Văn học sử đương thời đã nhận xét sai lầm về thơ văn
hai cụ Dương là có tư tưởng “thoát li, hưởng lạc” hay xu hướng “trào phúng”.
[5] Đường Cảnh Tùng, Từ Diên Húc: Hai quan lại
cao cấp của nhà Thanh đem quân sang nước ta chiếm đóng các tỉnh trung du miền Bắc
để giữ lợi thế với quân Pháp.
[6] Nguyên văn chép chữ Hán là Dật quan溢關. Dật quan là một phép nghiệm trong xem mạch của
Đông y, chắc không có liên quan gì mà do chắc là chép nhầm của Ải quan 隘關.
[8] Liễu Thăng (柳昇, ?-1427) là một danh tướng nhà Minh, tử trận tại Việt Nam trong trận Chi Lăng năm 1427.
[9] Tức chỉ Rivière,
chỉ huy quân Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ 2 (1882)
[11] Dương Thiệu Tống. Tâm trạng Dương Khuê- Dương Lâm. Sđd
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét