Giới thiệu Văn bản CAO BẰNG
THỰC LỤC 高平實錄 A.1129
(Bài gửi Hội nghị Hán Nôm năm 2018)
Nguyễn Đức Toàn
Taucha, CHLB Đức
Tóm tắt:
Cao Bằng thực lục 高平實錄, tác phẩm của Nguyễn Hựu
Cung阮祐恭, soạn
năm Gia Long 9 (1810). Mã ký hiệu thư viện A.1129 tại Viện nghiên cứu
Hán Nôm. Văn bản chỉ có 1 bản chép tay, 122tr, khổ 30x20. Nội dung chính theo Thư mục giới
thiệu, là chép về lịch sử địa lí
tỉnh Cao Bằng, như các phần sau:
1. Chư thần lục: các thần có đền thờ ở Cao Bằng, như Khâu Sầm Bà Hoàng truyện (truyện nhà Nùng Trí Cao); truyện hai vị đại vương họ Trần (Trần Kiên, Trần Quý), v. v...
1. Chư thần lục: các thần có đền thờ ở Cao Bằng, như Khâu Sầm Bà Hoàng truyện (truyện nhà Nùng Trí Cao); truyện hai vị đại vương họ Trần (Trần Kiên, Trần Quý), v. v...
2. Kì sự lục: các
sự việc lạ ở Cao Bằng, như Hiến Giang sự lục, Tiên Giao sự lục, Khắc Thiệu cổ
truyện ...
3. Sơn xuyên lục:
núi, sông trong t. Cao Bằng. Phú cảnh tuần đồn nhật trình, Phú cảnh thành, tự,
Phú cảnh danh lam, quân chính triều Lê, số quân các tổng thuộc 4 châu.
4. Cương giới phong tục, lịch triều nhậm trấn: lịch sử, địa lí Cao Bằng, cương giới, diên cách, thổ sản, phong tục ... Lược sử cai trị, đóng giữ Cao Bằng từ Kinh Dương Vương đến Tây Sơn.
4. Cương giới phong tục, lịch triều nhậm trấn: lịch sử, địa lí Cao Bằng, cương giới, diên cách, thổ sản, phong tục ... Lược sử cai trị, đóng giữ Cao Bằng từ Kinh Dương Vương đến Tây Sơn.
†
Chúng tôi tiến hành
khảo sát văn bản và xin được giới thiệu sơ bộ về tác giả tác phẩm Cao Bằng thực lục A.1129 của Nguyễn Hựu
Cung.
Đôi nét về tác giả Nguyễn Hựu Cung:
Theo Lược truyện các tác gia Việt Nam: Nguyễn Hựu Cung, không rõ năm
sinh-mất. Còn có họ là Bế, người ở Bắc Khê, châu Thạch lâm, Cao Bằng. Năm Chiêu
Thống thứ 3 (1789), làm Đô ngự sử đài, Hữu Thiêm đô ngự sử, lĩnh chức Đốc trấn
Cao Bằng. Khi quân Tây Sơn đến, ông theo Lê Chiêu Thống sang Trung Quốc. Khi Lê
Chiêu Thống bị nhà Thanh lừa gạt ở lại nước Thanh, bề tôi nhà Lê bị an trí đi ở
các nơi. Ông bị đưa đến an trí ở huyện Thượng Nguyên, phủ Giang Ninh, tỉnh
Giang Nam. Con của ông là Hựu Nhân, lớn lên ở Trung Quốc cũng tham gia văn đàn
và có Lạc sơn thi tập lưu hành. Năm
Gia Long thứ 3 (1804), được về nước. được đổi sang “công tính公姓”
là họ Nguyễn Hựu, được cử làm quan ở Cao Bằng, sau thăng Hiệp trấn Hải Dương.[1]
Trong Đại Nam thực lục, bản dịch chỉ ghi là Nguyễn Hữu Cung. Chữ Hựu 祐cũng
có âm đọc là Hữu: “Người tòng vong là Lê
Quýnh, Lê Trị, Trịnh Hiến, Lý Bỉnh Đạo, bốn người, không chịu róc tóc, người
Thanh bắt bỏ tù, còn bọn Nguyễn Hữu Cung hơn trăm người thì chia cho ở các địa
phương Giang Nam, Nhiệt Hà hơn mười năm”.[2]
Đến năm 1804, được về nước. Thì năm
1805 được triệu vào Kinh ban cho chức tước: “Triệu quan nhà Lê cũ là Lê Duy An, Trịnh Hiến, Lý Bỉnh Đạo, Nguyễn Hữu
Cung về Kinh. Bọn An theo vua Lê xuất vong trong 16 năm, đủ mọi gian khổ. Vua
khen là tiết nghĩa, vời vào yết kiến, cho ngồi yên ủi hỏi han giờ lâu, cấp cho
quần áo tiền gạo. Sai dinh thần Quảng Đức hậu đãi. Sau bổ Hiến và Bỉnh Đạo làm Thị trung học sĩ, Cung làm Cai cơ.”[3]
quần áo tiền gạo. Sai dinh thần Quảng Đức hậu đãi. Sau bổ Hiến và Bỉnh Đạo làm Thị trung học sĩ, Cung làm Cai cơ.”[3]
Sử nhà Nguyễn không ghi rõ là Nguyễn
Hữu Cung làm Cai cơ ở đâu, và có công lao gì. Nhưng hậu đãi bề tôi cựu triều
cũng chỉ là chính sách vỗ về. Ngay tháng 4 năm đó, các bề tôi tòng vong nhà Lê
cùng cáo quan xin về nghỉ: Mùa hạ, tháng
4, bọn Lê Duy An, Trịnh Hiến, Lý Bỉnh Đạo, Nguyễn Hữu Cung xin nghỉ về quê. Vua
cho 200 quan tiền, mỗi người một cặp áo, cho thêm An 150 lạng bạc.[4]
Chuyện đổi Công tính cũng không nhắc đến. Công tính là họ hàng xa của vua, thuộc
dòng không trực hệ[5].
Sử chép vua Minh Mạng soạn sách Đế hệ,
Phiên hệ[6],
tự làm bài tựa có đoạn: “Nhà nước ta họ
Nguyễn, khởi tự Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, xứ Thanh
Hoa. Buổi đầu đời trước đã là họ lớn, đời đời làm quan đến hơn vài trăm năm,
tích luỹ nhân đức, nên có ngày nay, thực có thể sánh với nhà Chu được. Do đó
trời cho mệnh tốt, sinh ra Triệu tổ Tĩnh hoàng đế ta[7],
gây dựng cơ đồ lớn, kế sinh Thái tổ Gia dụ hoàng đế ta[8],
dựng nền ở cõi Nam. Bèn lấy chữ Phúc nối theo chữ Nguyễn, gọi quốc tính là
Nguyễn Phúc. Các vua thánh nối nhau, thánh này nối thánh khác, rồi đến Hoàng
khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta[9],
dẹp yên họa loạn mà có cả nước Việt, sắc định Ngọc phả, lấy con cháu Thái tổ
vào Nam và dòng các vua thánh làm Tôn thất họ Nguyễn Phúc, con cháu Thái tổ ở
Bắc và các phái trước làm Công tính họ Nguyễn Hựu.[10]
Những
năm đầu khai quốc, nhà Nguyễn có truy tìm những người họ xa lưu lạc ở Bắc.
Nhưng nhiều người mạo xưng, cũng như nhiều người được lấy họ xa với Hoàng tộc,
nhưng mắc tội phản nghịch[11].
Nên đến năm Minh Mệnh thứ 16 (1835), có lệnh xét lại sổ ngạch họ Công tính. Những người dòng
dõi, thế thứ và sự tích có 105 người là có đủ bằng chứng có thể căn cứ được; … những người đã đổi
làm họ Lê, họ Trần thì xin đều tước đi. Đình
thần xét lại, xin lưu ngạch có 80 người. Vua còn hiềm rằng, còn có kẻ vì ưu may
mà được lạm dự đấy, lại sắc sai các hoàng tử tước công, các thân công xét lại,
[cuối cùng] chỉ để lại có 7 người thôi (Nguyễn Hữu Dựng, Nguyễn Hữu Đán, Nguyễn
Hữu Lịch, Nguyễn Hữu Thị, Nguyễn Hữu Hệ, Nguyễn Hữu Quýnh, Nguyễn Hữu Nhiêu, đều
là dòng dõi Lý Nhân công Nguyễn Hán). [12]
Theo những lời này,
thì Bế Hựu Cung có thể thuộc nhánh Lý
nhân công Nguyễn Hán[13]. Là
dòng thứ, không trực hệ của Thái tổ Gia Dụ hoàng đế Nguyễn Hoàng, ở ngoài Bắc.
Thời gian lưu lạc dâu bể, họ hàng của Thái tổ đã lấy sang các họ khác, như trường
hợp Bế Hựu Cung. Sau khi được nước, nhà Nguyễn truy lại nguồn cội, nên ông được
đổi thành Nguyễn Hựu Cung. Lược truyện
các tác gia Việt Nam chỉ ghi ông là người thế kỷ XIX. Từ những thông tin
ghi lại của sử nhà Nguyễn, có thể giả định Nguyễn Hựu Cung sống trong khoảng từ
đời Lê Chiêu Thống (1765-1793). Đến năm
Kỷ dậu 1789, theo vua Lê sang nước Thanh. Năm 1804 về nước cũ. Năm 1810 soạn
xong sách Cao Bằng thực lục. Và có
thể mất trước năm Minh Mạng 16 (1835). Vì sát nghạch công tính, nếu bị tước nghạch thì năm đó ông cũng đã già, khoảng 70
tuổi. Nhưng chỉ nêu tên 7 người được giữ họ Nguyễn Hựu, không có nhắc đến
Nguyễn Hựu Cung nữa. Vậy khả năng ông mất trước 1835 là nhiều hơn.
Giới
thiệu văn bản:
Sách Cao
Bằng thực lục, 61 tờ (122 trang), giấy dó, mỗi trang 9 dòng, dòng khoảng 19
chữ. Phần đầu có bài tựa gồm 4 trang.
Trang đầu có ký hiệu A.1129, với các dấu kiểm kê qua các năm 1967, 1974, 1988,
1991. Bài tựa đề: 嘉隆九年歲次上章敦桑孟春月穀日寧朔林溪公姓阮祐亻恭書于山苗堂Ngày tốt tháng đầu xuân, năm Canh Ngọ
niên hiệu Gia Long thứ 9(1810). Công tính Nguyễn Hựu Cung, người Ninh Sóc, Lâm
Khê viết ở bên trái Sơn Miêu đường. Điều này cho ta thông tin là,
tác phẩm được biên soạn sau khi Bế Hựu Cung từ Trung Quốc trở về năm 1804 và
hoàn thành năm 1810. Vì ông đã từng làm Đốc trấn Cao Bằng, có sự am hiểu về
tình hình cương vực nơi đây.
Văn bản
không có chữ kiêng húy, chỉ có chỗ đài
húy[14]
nhà Lê, nhà Nguyễn, như khi nhắc đến Lê
Cao hoàng(tờ 26a, dòng 9), Nguyễn
vương (tờ 58b, dòng 3), Ngã triều
(tờ 62b, dòng 8).
Thể chữ
viết chân phương, giản dị. Kiểm điểm lại các chữ, nhiều chỗ chép lỗi, có đính
chính sửa chữa phê bên cạnh. Cho thấy, đây thuộc khuôn sách chép lại của Viễn
Đông bác cổ Pháp. Nhiều lỗi chép: sai, nhầm, thiếu, thừa, để trống, có chỗ bỏ
cách do không nhận ra mặt chữ, để khi duyệt sách chua thêm vào. Cho thấy người
chép không tinh. Lại đánh số trang nhầm(từ trang 38a). Có chỗ sửa còn lộ vết
bút sắt (không rõ là do người sau đánh vào khi soát sách hay có trong nguyên
văn?)[15],
như trang 44, 51. Chúng tôi lập Bảng Chữ
sai- thiếu- nhầm-thừa với ảnh Phụ lục,
để so sánh ở dưới.
Nội dung tác phẩm:
Chia
thành 5 mục lớn: 1. Các thần; 2. Chuyện lạ; 3. Núi sông, địa
danh, lý lộ nhật trình, di tích; 4. Cương
giới phong tục (phần này rất giản lược, chỉ độ 6 trang); 5. Phụ chép về lược sử các đời(giản lược chỉ
độ 4 trang). Dười mỗi mục lớn là các tiểu truyện. Đối chiếu thì các tiểu truyện ở các mục 1, 2, 3(về di
tích) và mục 5 đều có lời Bình. Lời Bình là, ngụ ý khen chê theo quan điểm
trung hiếu, danh giáo, tiết nghĩa của nhà Nho Nguyễn Hựu Cung.
Thứ tự
gồm có các phần trình bày như dưới đây:
1.
Thứ nhất, ghi chép về các thần. 諸神錄第一
1.1.
Truyện
Bà Hoàng ở Khâu Sầm
1.2.
Truyện
hai vị Đại vương họ Trần ở Đống Lân, Cai Cộng
1.3.
Chuyện
về đền Quan Triều
1.5.
Chuyện
đền ở Giang Châu
1.6.
Chuyện đền Kỳ Lạch
1.7.
Chuyện
đền Sóc Hồng
1.8.
Chuyện
đền Lũng Định
2.
Thứ hai, các truyện kỳ lạ奇事錄第二
2.1.
Truyện
về sông Hiến Giang
2.2.
Chuyện
Tiên Giao
2.3.
Chuyện cũ về Khắc Thiệu.
2.4.
Chuyện
chuông thần.
2.5.
Sự
tích Thiên Hoà
2.6.
Sự
tích Bồng sơn
2.7.
Chuyện
Đà Sơn
2.8.
Sự
tích Tung Cao
2.9.
Chép về
giao phối khác loài.
2.10.
Loài
phượng đất
2.11.
Chuyện
cây lúa lạ
3.
Thứ 3, Ghi chép về núi
sông. 山川錄弟三
3.1.
Tứ trụ sơn ở Trấn thành.
3.1.1.
Núi Cao Sầm.
3.1.2.
Núi Bà Hoàng
3.1.3.
Núi Khâu Luân.
3.1.4.
Núi Khẩu Sơn
3.2.
Các núi ở trong địa phận.
3.2.1.
Ngưu sơn (tục gọi là đèo
Trâu)
3.2.2.
Liêu Sơn
3.2.3.
Núi Mô sơn
3.2.4.
Núi Thống Sơn
3.2.5.
Núi đất Khâu Doanh
3.2.6.
Núi Man Đà.
3.2.7.
Núi Điều Thiên, tục gọi là
Đèo Thiên.
3.2.8.
Núi Bế Sơn
3.2.9.
Núi Kê Minh,
3.2.10.
Núi Khâu Uy.
3.2.11.
Núi Hoàng Sơn
3.2.12.
Núi Thiên Mã
3.2.13.
Núi Bình Phong
3.2.14.
Núi Giảng Văn,
3.3.
Các dòng sông trong địa phận Cao Bằng.
3.3.1.
Đại Giang (tục gọi là sông
Cả).
3.3.2.
Sông Hiến.
3.3.3.
Sông Cổn giang.
3.3.4.
Sông Lũng Định.
3.3.5.
Sông Thông Huề.
3.3.6.
Khe Sầu.
3.4.
Nhật trình đến các đồn Tuần trong địa giới.
3.4.1.
Tuần Mục Mã.
3.4.2.
Tuần Lương Mã.
3.4.3.
Tuần Đèo Liêu
3.4.4.
Đèo Trâu
3.4.5.
Xứ Đèo Hiên.
3.4.6.
Đồn Tuần ải Sóc Hồng
3.4.7.
Tuần Phù Tang,.
3.4.8.
Tuần đồn ải Trà Lĩnh.
3.4.9.
Tuần đồn ải Bác Nẫm
3.4.10.
Tuần đồn ải Na Lan
3.4.11.
Tuần Bác Khê.
3.4.12.
Tuần Bắc Cung.
3.4.13.
Tuần Nẫm Nương.
3.4.14.
Tuần Na Cát.
3.4.15.
Tuần đồn ải Quả Thoát
3.4.16.
Tuần đồn Na Thông.
3.4.17.
Tuần đồn ải Cổ Chu.
3.4.18.
Tuần đồn ải Nga ổ.
3.4.19.
Tuần đồn Củng Xương
3.4.20.
Tuần đồn ải Đống Long.
3.4.21.
Tuần đồn aỉ Bí Hà.
3.4.22.
Đồn Đèo Mô.
3.4.23.
Đồn Gia Bình.
3.4.24.
Đồn tuần An Lại.
3.4.25.
Tuần Phiên Dương.
3.4.26.
Đồn tuần ải Thông Nùng.
3.5.
Các thành, chùa trong phủ.
3.5.1.
Thành Mục Mã
3.5.2.
Hai thành Na Lữ, Phúc Hoà.
3.5.3.
Danh Lam trong phủ.
3.5.4.
Chùa Đống Lân
3.5.5.
Chùa Viên Minh.
3.5.6.
Chùa Giang Đống.
3.5.7.
Chùa Thanh Long.
3.5.8.
Miếu Quan Đế.
3.6.
Quân chính dưới triều Lê.
3.7.
Binh số các tổng của bốn châu.
3.7.1.
Châu Thạch Lâm 14 tổng,
quân số 582 suất.
Tổng Kim Pha 12 xã.
Tổng Hà Đàm 9 xã.
Tổng Phúc Hoà 10 xã.
Tổng Triều Vũ 12 xã.
Tổng Hoa Phô 10 xã.
Tổng Phù Gián 11 xã.
Tổng Thương Pha 5 xã.
|
Tổng Tượng An 13 xã.
Tổng Lại Sơn 9 xã.
Tổng Hà Quảng 9 xã.
Tổng Nhượng Bạn 13 xã.
Tổng Tĩnh Oa 10 xã.
Tổng Thông Nùng 9 xã.
Tổng Suất Tính 10 xã.
|
3.7.2. Châu Quảng Uyên 5 tổng, quân số 456 suất.
Tổng Ngưỡng
Đồng 9 xã.
Tổng Vũ
Lăng 10 xã.
Tổng Lực
Nông 6 xã.
Tổng Lạc
Giao 8 xã.
Tổng Cách
Linh 9 xã.
3.7.3. Châu Thượng Lang 4 tổng, quân số 509 suất.
Tổng Kỳ Cống
8 xã.
Tổng Nga ổ
10 xã.
Tổng Đương
Châu 6 xã.
Tổng Lăng
Yên 10 xã.
3.7.4. Châu Hạ Lang 4 tổng quân số 251 suất.
Tổng Vĩnh
Thọ 7 xã.
Tổng Hợp
Khâm 6 xã.
Tổng Điều
Lương 5 xã.
Tổng Kim Đằng
5 xã.
Ở trên tổng cộng
240 xã thôn.
4.
Phần 4, Cương giới phong tục. 疆界風俗第四
5.
Phụ thêm: Nhậm trấn các triều. 歷朝任鎮
(Thực ra là lược ghi
về tình hình lệ thuộc của Cao Bằng qua các đời thôi, chứ không phải chép rõ
ràng về các quan trấn thủ).
-
Thuộc Trung Hoa: Từ Kinh
Dương Vương, qua các đời: Hán, Tam quốc, Tấn, Ngũ đại, Tùy, Đường đều thuộc
Trung Hoa.
-
Độc lập: Từ 12 Sứ quân nổi
dậy, thoát khỏi Trung Quốc. Trải Đinh, Lê, Lý, Trần, Hồ.
-
Minh thuộc.
-
Cao Hoàng đế nhà Lê ta dấy
nghiệp
-
Mạc Đăng Dung chiếm vị
-
Mạc Kính Cung thua chạy chiếm
cứ Cao Bằng 63 năm
-
Đến năm Canh dần niên hiệu
Cảnh Hưng nguyên niên (1740)[17], giặc Cừ nguỵ xưng là Mạc Tam bốn bề nổi dậy như chòm ong, vây bức
trấn thành, quân phiên trấn đánh đuổi, quét sạch.
-
Đến năm Đinh mùi niên hiệu
Chiêu Thống năm đầu (1787), vua Lê lên ngôi, chưa được bao lâu lại phải chịu cảnh
bụi trần nơi Kinh Bắc, Lê hoàng hậu cùng con đầu về được trấn Cao Bằng.
-
Tháng 2 Tây Sơn sai Đô đốc
Uyển Vũ hầu làm Trấn thủ Cao Bằng. (Châu Bảo Lạc vẫn còn Hoàng đệ Lê Duy Chỉ, về
sau bị Tây Sơn bắt giết).
-
Tháng 2 năm Mậu ngọ(1798),
Huân Liệt hầu nhà Tây Sơn làm Hiệp trấn Cao Bằng.
-
Tháng 3 năm Nhâm tuất(1802),
Trấn thủ Tây Sơn là Hội Vũ hầu.
Từ những khảo sát bước đầu. Chúng ta thấy, tác
phẩm Cao Bằng thực lục A.1129, của
tác giả Nguyễn Hựu Cung. Đây là bản chép lại của Viễn Đông Bác Cổ Pháp. Sách
chép nhiều lỗi, nhưng nhìn chung vẫn giữ được những thông tin chính và quan trọng
về lịch sử, văn hóa, địa dư, di tích, phong tục cùng những truyền thuyết dân
gian của vùng đất Cao Bằng. Bên cạnh đó những lời bình tán dưới mỗi tiểu truyện
trong tác phẩm, là nguồn tư liệu văn học quý giá, để nghiên cứu thêm về nhân
sinh quan kẻ sĩ Nho học Nguyễn Hựu Cung, trước các hiện tượng lịch sử, văn hóa
vùng Cao Bằng. Tác phẩm sau khi phiên dịch công bố, sẽ góp phần tài liệu cho
nghiên cứu chung, tổng hợp về vùng đất biên cương quật cường này. Cũng như thêm
nhiều trang nghiên cứu về tác gia Nguyễn Hựu Cung.
Phụ lục Đối chiếu chữ sai-
thiếu- nhầm-thừa
Vị trí trang,
dòng: t3a,d5. Tức là vị trí ở tờ 3a, dòng thứ 5.
thiếu chữ: là
chữ bị chép thiếu, người duyệt sách phải chua thêm bên cạnh
không rõ: là những
chữ tự thể chép không đọc ra, nhưng được chua thêm, hoặc do chúng tôi luận ra.
thừa chữ: là những
chữ người chép thừa, làm 2 chữ
lộn chữ: là 2
chữ có tự dạng giống nhau bị chép nhầm vị trí
trống chữ: là
chỗ đó người chép không nhận ra tự dạng nên bỏ trống, hoặc chấm chấm vào
sai chữ: là
chép chữ khác, hoàn toàn nhầm
Stt
|
Vị trí trang, dòng, chữ
|
Nguyên văn
sai-thiếu
|
Chữ sửa -
thêm
|
Từ đúng
|
1
|
t3a, d5
|
Tây Nguyên西原
|
Quảng廣(bút sắt)
|
Quảng Nguyên廣原
|
2
|
t3a, d9
|
thiếu chữ
|
Thời時
|
Thời Tống đế時宋帝
|
3
|
t3b, d1
|
thiếu chữ
|
Phúc福
|
Nùng Toàn
Phúc農全福
|
4
|
t3b, d7
|
Phù Càn符乾
|
ký hiệu
khuyên đảo
|
Càn Phù乾符
|
5
|
t4a, d3
|
ấu幼
|
đồng童
|
|
6
|
t4a,d5
|
thiếu chữ
|
như long如龍
|
chuyển như
long轉如龍
|
7
|
t4a,d8
|
thiếu chữ
|
cá個
|
tam cá nhật三個日
|
8
|
t5a, d4
|
thiếu chữ
|
Cứ据
|
Cứ Thảng Do据傥猶
|
9
|
t5a, d9
|
Kiến Nông hầu建農侯
|
ký hiệu
khuyên đảo
|
Nông Kiến hầu農建侯
|
10
|
t5a, d9
|
thiếu chữ
|
thống binh統兵
|
thống binh tuần
biên統兵巡邊
|
11
|
t5b, d9
|
Khánh Đức慶德
|
ký hiệu
khuyên đảo
|
Đức Khánh德慶
|
12
|
t8b,d4
|
thiếu chữ
|
Ứng應
|
Cảm Ứng感應
|
13
|
t10b,d4
|
không rõ目兜
|
nghễ睨
|
|
14
|
t13b,d6
|
gia gia家
家
|
Trần陳
|
Trần gia陳家
|
15
|
t17b,d8
|
đầu vẫn 投刎
|
ký hiệu
khuyên đảo
|
vẫn đầu刎頭
|
16
|
t18a,d8
|
thả伹
|
đãn但
|
|
17
|
t18a,d9
|
thiếu chữ
|
ư 於
|
bại ư thương
đầu敗於蒼頭
|
18
|
t19b,d3
|
không rõ
|
đề提
|
|
19
|
t22a,d9
|
thiếu chữ
|
ứng應
|
ứng nặc應諾
|
20
|
t25b,d7
|
thiếu chữ
|
lí理
|
lí tắc nhất理則一
|
21
|
t27a,d2
|
lệ lệ棣棣
|
??(không luận
được tự dạng vì quá mờ)
|
|
22
|
t27a,d7
|
thiếu chữ
|
tựu就
|
tựu tại就在
|
23
|
t27b,d4
|
thiếu chữ
|
dư餘
|
niên dư年餘
|
24
|
t28a,d4
|
thiếu chữ
|
bảo保
|
|
25
|
t28b,d5
|
thiếu chữ
|
toại (nét bút
sắt) 遂
|
|
26
|
t28b,d6
|
thừa chữ: Tượng
象
|
tượng象
|
|
27
|
t32b,d4
|
thốn giác寸角
|
đẩu tiêu斗筲
|
|
28
|
t33b,d5
|
thiếu chữ
|
tương giao相交 (bút sắt)
|
Dị loại tương
giao異類相交
|
29
|
t34a,d2
|
thiếu chữ
|
quai (bút sắt) 乖
|
|
30
|
t35a,d7
|
biệt giá vu
điền別稼于田
|
khuyên đảo
|
giá vu biệt
điền稼于別田
|
31
|
t35b,d3
|
thiếu chữ
|
khí氣
|
|
32
|
t36b,d1
|
lộn chữ:
thành城 -địa地
|
địa 地- thành城
|
địa chi can
thành地之干城
|
33
|
t37b,d8
|
thiếu chữ
|
bích碧
|
|
34
|
t38a,d3
|
lộn chữ: địa地
|
xã社
|
|
35
|
t38a,d5
|
trống chữ
|
khách客
|
khách lộ客路
|
36
|
t39a,d1
|
thiếu chữ(từ
trang này theo thứ tự là tờ 39, nhưng đánh số là 38)
|
tri知
|
nan tri難知
|
37
|
t39a,d8
|
bài thụ排樹
|
khuyên đảo
|
thụ bài樹排
|
38
|
t39b,d1
|
ám暗
|
am諳
|
|
39
|
t40a,d6
|
sai chữ: Vinh榮
|
||
40
|
t40,d7
|
thừa chữ:
Trùng重
|
||
41
|
t45a, số
trang
|
đánh số 44四十四
|
bút sắt
|
|
42
|
t46a,d7
|
thành tức城即
|
khuyên đảo
|
tức thành即城
|
43
|
t46b,d5
|
sai chữ: dao 搖– mộ慕
|
dao 徭– mộ募
|
|
44
|
t47a,d9
|
thừa chữ
:Viên圓
|
||
45
|
t50b,d4
|
tam三
|
nhị二
|
|
46
|
t51a, số
trang
|
đánh số trang
50五十
|
bút sắt
|
|
47
|
t52a,d1
|
tục phong俗風
|
khuyên đảo
|
phong tục風俗
|
48
|
t52a,d5
|
thiếu chữ
|
kỳ Cao Bằng其高平
|
|
49
|
t57b
|
thiếu chữ
|
thành城
|
kinh thành
|
50
|
t58b,d6
|
thiếu chữ
|
nhược若
|
nhược vô若無
|
51
|
t59b,d9
|
thừa chữ:
Thăng昇
|
||
52
|
t60b,d1
|
không rõ chữ
để trống
|
||
53
|
t60b,d7
|
không rõ chữ
để 3 chấm
|
||
54
|
t61b,d5
|
thừa chữ:
Năng能
|
||
55
|
t62b,d1
|
thụ thiên bô受天逋
|
Trụ vi thiên
hạ bô紂為天下逋(nét bút sắt)
|
Thư mục tham khảo
1.
Cao Bằng
tỉnh thủ hiến liệt phương danh (chép tay)
2.
Cao Bằng
thực lục. A.1129 Viện nghiên cứu Hán Nôm
3.
Cao Bằng
ký lược. A.999 Viện nghiên cứu Hán Nôm
4.
Cao Bằng
tạp chí. HN.46-47 Trường ĐHSP Hà Nội (bản chụp)
5.
Phạm Thị Thùy Dương/ Bước đầu tìm hiểu một số vấn đề về Cao Bằng
qua cuốn Cao Bằng thực lục. Khóa luận tốt nghiệp nghành Hán Nôm khóa 1999-
2003. ĐHQG-ĐHKHXH&NV(bản dịch của Khóa luận này chưa đầy đủ, và kỳ lạ khá
tương đồng câu chữ với bản dịch của chúng tôi, nên chúng tôi đưa vào danh mục
tham khảo. Nhưng chúng tôi không kế thừa gì từ khóa luận này)
6.
Quốc Sử Quán Triều Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí - 5 Tập.
Nxb. Thuận Hóa. 2006
7.
Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb
Văn hóa, H., 1993, 1214 tr.
8.
Trần Văn Giáp (chủ biên), Lược truyện các tác gia Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, H., tập 1,
1971, 520 tr; tập 2, 1972, 341 tr.
9. Trần
Trọng Kim. Việt Nam sử lược.
Tân Việt 1919 của
10.
Trần Văn Giáp. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Tập I. 1971, lần 2, 1984; Tập II xuất bản
năm 1990.
11.
Ngô đức Thọ. Các
nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 NXB: Văn Học. 2006
12.
Ngô Đức Thọ. Di
tích lịch sử văn hoá, Nxb. Văn hoá.1986
13.
Đào Duy Anh. Đất
nước Việt Nam qua các đời Nxb: Khoa Học. 1964
14.
Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX thuộc các tỉnh từ Nghệ
Tĩnh: Các
tổng trấn xã danh bị lãm / Dương Thị The, Phạm Thị Thoa dịch và
biên soạn ; Viện nghiên cứu Hán Nôm
15.
Trịnh Khắc Mạnh, Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông
tin, H., 2007, 632 tr.
[1] Trần Văn Giáp. Lược truyện các tác gia Việt Nam.T1. Nxb. KHXH.1972/tr337-338
[2] Đại Nam thực lục. Chính
biên. Đệ nhất kỷ - Quyển XXV - Thực lục về Thế tổ Cao hoàng đế. Giáp tý, Gia Long năm thứ 3
[1804].
[3]
Đại Nam thực lục . Đệ nhất kỷ - Quyển XXVI -
Thực lục về Thế tổ Cao hoàng đế. Ất sửu, Gia Long năm thứ 4 [1805]
[4]
Đại Nam thực lục . Đệ nhất kỷ - Quyển XXVI -
Thực lục về Thế tổ Cao hoàng đế. Ất sửu, Gia Long năm thứ 4 [1805]
[5]
Công tính公姓,
Công tộc公族: là gọi theo cách của
Kinh Thi, ý nói dòng dõi họ hàng của nhà vua tốt lành, làm phiên dậu cho vương
thất. (Kinh Thi/Quốc Phong/Chu Nam/Lân
chi chỉ)
[7]
Tức là Nguyễn Kim, được truy tôn là Triệu tổ Tĩnh hoàng đế
[8]
Tức là Nguyễn Hoàng, được truy tôn là Thái tổ Gia Dụ hoàng đế
[9]
Tức là Nguyễn Ánh, truy tôn Thế tổ Cao hoàng đế
[10]
Đại Nam thực lục. chính biên. Đệ nhị Kỷ - Quyển
XX. Thực lục về Thánh tổ Nhân hoàng đế
[11]
Như trường hợp Lê Văn Khôi, con nuôi Tả quân Lê Văn Duyệt, trước cũng họ Bế, được
truy thuộc dòng Công tính, đổi tên là Nguyễn Hựu Khôi. Sau làm con nuôi Duyệt.
Làm phản bị tước Công tính đổi lại theo họ Lê Văn Duyệt.
[12]
Đại Nam thực lục. Chính biên. đệ nhị kỷ - quyển cxlviii. thực lục về
Thánh tổ Nhân hoàng đế. Ất Mùi, năm Minh Mệnh thứ 16 [1835].
[13]
Nguyễn Hán, là con thứ 3 của Nguyễn Hoàng. Khi phía
Bắc còn nhà Mạc, Nguyễn Hán cũng đi đánh trận ở Sơn Nam, mất, được nhà Lê phong
là Lỵ Quận công (Có thể tam sao thất bản chữ Lý – Lỵ). Con là Nguyễn Hắc được tập
ấm, thăng đến Thái phó. Dòng dõi ở Thanh Hóa rất đông.
[14]
Đài húy: là lối viết tôn xưng, bỏ ngắt chuyển sang dòng kế và viết cao hơn dòng
khác.
[15]
Chúng tôi chỉ khảo được qua Bản chụp, nên bảo lưu ý kiến này.
[16]
Khoa Đinh Mùi 1727 đời Bảo Thái có Nguyễn Quốc Ích (1686-1739)
người xó Vịnh Cầu huyện Đông Ngàn (nay thuộc xó Đồng Nguyên huyện Từ Sơn tỉnh Bắc
Ninh)đỗ Tiến sĩ . Ông là anh của Nguyễn Đức Đôn, Nguyễn Công Viên và
làm quan Đông các Hiệu thư, Đốc trấn Cao Bằng.
[17]
Cảnh Hưng nguyên niên là năm Canh Thân chứ không phải Canh Dần là năm Cảnh Hưng
thứ 31 (1770)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét