1.5.2023/ Người đọc Ấn phẩm Hoa Trình thi tập Nxb Nghệ An / của dịch giả Nguyễn Quang hà
Góp ý. File quá lớn! mong độc giả thông cảm!
Bài |
trang |
Ấn
bản của Nguyễn Quang Hà – Nguyễn Ngọc Thanh – Đinh Khắc Thuân |
Lỗi
sai thiếu kiến thức cơ bản |
|
Người
biên tập chỉnh bông, sắp xếp thiếu tính thẩm mỹ, dành hẳn 1 trang trắng tinh
chỉ để 3 chữ PHẦN MỞ ĐẦU. Khiến người chuyên môn cảm nhận thấy Ấn phẩm không
phải là sách nghiên cứu khoa học |
||
|
Comment
của Facebook HanguyenQuang 2/4/2023 trên tường Facebook của Cổ Hoan Nam Đường: Theo sở trường, tôi đã giao/mời Nguyễn
Ngọc Thanh “chân hoá” chữ thảo từ đầu cho đến cuối tác phẩm (58 bài, trong đó
có mấy bài do tác giả làm xong lại làm thêm vẫn chủ đề ấy |
GS.
Đinh Khắc Thuân viết lách khá vội vàng, thiếu nhãn quan Sử học. Theo thiết
chế phong kiến, vua các nước xung quanh Trung Quốc chỉ là chư hầu, phiên
thuộc. Khi đã xưng Thần 臣với
Trung Quốc thì phải Cầu phong求封,
dù trên thực tế là nước độc lập nhưng vẫn phải cầu phong, phải giao hảo với
Thiên triều. Đã Cầu phong thì đừng nói YÊU CẦU. Phải dùng từ XIN thì đúng
hơn. Nhưng cũng có thể dùng từ ĐỀ NGHỊ để về nước lòe cái tinh thần Dân túy
lên. GS.
Đinh Khắc Thuân đã cẩu thả không đọc bản thảo kỹ càng nên để lộ cái sai sót
là Thi tập gồm 58 khổ thơ với 51 Tiêu đề. Nhóm biên soạn đã đề mục 58 nhưng
viết ra lại là 54. Sau khi đọc bài góp ý của TÔI, dịch giả Nguyễn Quang Hà đã
cãi chày cối rằng có bài đề chữ HỰU又[①], nghĩa là vẫn tính trong 1 tiêu đề mà thôi. Tôi cũng muốn
khuyên Dịch giả đi học đếm lại đi. Tôi đếm và trừ chữ HỰU ra thì là 51 bài
thôi. Thầy trò không bảo ban nhau CÀNG CÃI CÀNG LỘ CÁI SAI RA. |
|
|
|
Nguyên
văn là „僭筆同閱tiếm
bút đồng duyệt“. Nghĩa là trong tình thân quen đưa thơ cho nhau đọc mà thôi.
Và danh giá của Nguyễn Gia Cát so với Lê Lương Thận, Nguyễn Du là cao hơn,
Nguyễn Gia Cát là Tiến sĩ Chế khoa, Lê Lương Thận không biết đỗ gì, nhưng làm
Hàn lâm đời Tây Sơn, Nguyễn Du chỉ đỗ Tam trường. Thậm chí có thể cả tuổi tác
nữa, nên Lê Lương Thận và Nguyễn Du chỉ là Tiếm僭, nghĩa là “kẻ dưới giả thác lấn người trên, gọi là Tiếm[②]” để
chen vào đọc duyệt thôi. |
|
|
Dịch
giả chú thích rất tùy tiện. Có cái thì dùng Footnote, có cái thì dùng Ngoặc
đơn(), nhưng không tương thích, khi 2 địa danh: 1 cái chú thích thuộc về cấp
quốc gia; 1 cái chú thích thuộc về cấp tỉnh, thành. |
||
|
Người
biên soạn Nguyễn Quang Hà đã hăng say mà viết tán con đường Sứ trình là đường Hoa, Ok! vì điển tích đi Sứ xuất
phát từ bài Hoàng hoàng giả hoa
trong Kinh Thi. Nhưng con đường máu thì tôi chịu, không biết
dịch giả trích dẫn ở đâu? và máu ở đâu ra mà nhiều thế? |
||
|
Ở
trang này người viết đã hoán đổi vị trí nhân vật một cách tùy tiện. Sử dụng
thuật ngữ Hán Việt thiếu chính xác khi đổi từ Duyệt thành từ Nhuận Sắc. Dường
như dịch giả tỏ vẻ tiếp thu nhưng lại không chịu nổi những Phê phán NGHIÊM
KHẮC. Dịch giả mong đợi những phê bình có văn hóa, có đạo đức và công tâm,
... Thậm chí dịch giả nhận định TÔI LÀ NGƯỜI mắc bệnh vọng ngoại trầm trọng với mục đích không trong sáng, Phi
Khoa học, là thóa mạ, mạt sát, nặng nề dịch giả. Tuy vậy, thật khó khăn
cho tôi khi phải lựa lời góp ý TẾ NHỊ, NHẸ NHÀNG. Và Sai Quá nhiều! Lỗi quá
nặng! |
||
|
Chỗ
phiên âm đọc Sai này là lỗi rất cơ bản. Nhưng chỉnh sửa bản thảo cũng không
soát cẩn thận. Dịch giả chỉ cho rằng mình mắc lỗi nhẹ, là quên, sơ suất thôi.
Nhưng theo tôi đây là lỗi cẩu thả, lỗi này nên bị đánh giá là lỗi nghiêm
trọng, vì nếu cẩu thả nhỏ xíu như này thì các thao tác quan trọng khác còn
tai hại hơn. |
||
|
Vâng
đây cũng thế. Bạn đọc đã thấy tính nghiêm trọng của cẩu thả, thiếu trách
nhiệm chưa. Cứ như thế này lặp đi lặp lại nhiều lần. Không thể gọi là sơ suất
được. Và tinh thần sùng bái thần tượng Nguyễn Du rất rõ nét. Tại sao phải đề
cao ông ta như vậy khi ông ta chỉ đóng vai trò phụ trong Thi tập này! Tuy
nhiên cả ba danh nhân nêu trong thi tập, đều là những người có đi Sứ, có thơ
đề vịnh về Trung Quốc, có đọc sách Tàu. Dịch giả Nguyễn Quang Hà đã lật lọng
sau khi đọc bài góp ý của tôi về Chu Lợi Lệ, dịch giả nhận định tôi “mắc bệnh vọng ngoại trầm trọng với thiện
chí không trong sáng”[③]. Dịch
giả Nguyễn Quang Hà như hất một gáo nước lạnh vào mặt các Tiên nho Khoa bảng
từng đi sứ, từng “Vọng Ngoại” như Nguyễn Gia Cát, Lê Lương Thận, Nguyễn Du, …
|
||
|
Status của Ha Nguyenquang 3.4.2023 lúc 13g53: Điều đó cho thấy, căn bệnh vọng ngoại và
với một thiện chí không trong sáng đã rất trầm trọng https://www.facebook.com/ha.nguyenquang.7564129 Dịch giả tự trình bày trên tường Facebook của mình. 3.4.2023 lúc 13g 53 |
Về
phần Tài liệu tham khảo. Dịch giả nêu lên được 10 tên sách tiêu biểu, chứ
thực tế dịch giả “quần quật hàng năm
trời khảo sát về các nhân vật .... Các tư liệu liên quan như: Văn bia Tiến
sĩ, tộc phả, Đại Nam thực lục... tư liệu ngồn ngộn chung quanh các nhân vật
này[④]”.
Tuy nhiên, tài liệu tham khảo cần có tiêu chí sắp xếp. Theo quy trình lịch sử
nghiên cứu vấn đề, những nghiên cứu từ trước tới nay, về đối tượng nghiên cứu
được nhắc tới. Thì bài viết Trung văn 2 trang của Chu Lợi Lệ được coi là
nghiên khảo đầu tiên về Hoa trình thi tập của nhà Khoa bảng Nguyễn Gia Cát,
phải là tài liệu tham khảo cấp độ 1, tức là cao nhất, rồi sau đó mới đến các
tài liệu khác. Dịch giả Nguyễn Quang Hà chưa chắc đã đọc hiểu hết bài viết
của Chu Lợi Lệ, vì dịch giả còn đọc sai cả chữ Hán tên Chu Lợi Lệ朱莉麗thành Chu Mạt Lệ朱茉麗.
Có người chỉ cho dịch giả mới sửa lại. Và dịch gỉa tự Vả vào mặt mình khi
tuyên bố có quyền không phân tích … vì KHÔNG
CẦN THIẾT! |
|
|
|||
bìa |
31 |
-
Đọc sai Chữ Quỳ, chữ Vãn Bối -
Dịch sai chữ Tiếm bút đồng duyệt chỉ
có ý nghĩa là Lạm quyền mà mạo muội duyệt lại thi tập –Không hề có ý nghĩa là
Chỉnh sửa thơ theo kiểu Hiệu đính! |
|
1 |
32 |
- Đọc sai chữ Tại thành chữ Chí |
|
|
2. 33 |
Từ
cổ chí kim chỉ nghe nói có Sóc phong 朔風là Gió Bắc, chưa từng nghe thấy nói Tố phong溯風. Chữ nghĩa như vậy mà đụng ai nói phê bình thì gọi là mạt sát, thóa mạ, ... |
|
|
34 |
vì
đọc sai nên dịch sai, chứ không hề nhầm lần |
|
2 |
34-35 |
Chữ
Hán đánh đúng mà phiên âm sai. Dịch nghĩa Chinh
nhân là Người đi chinh chiến.
Tôi nghĩ rằng anh Nguyễn Quang Hà là dân thi Khối C, chắc anh cũng thuộc câu
thơ của Hồ Chủ tịch bài Giải đi sớm:
Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng,
Nghênh diện thu phong trận trận hàn. Mà nhà thơ Nam Trân đã dịch là: Người đi cất bước trên đường thẳm, Rát
mặt, đêm thu, trận gió hàn. |
|
|
36 |
Dường
như sợ người đọc không hiểu tiếng Việt, NNC Nguyễn Quang Hà đã phải chú thích
cả Lông mày với Lông mi. |
|
3 |
6. 41 |
Ở đây có 1 chữ không rõ ràng |
|
|
7. 42 |
|
|
4 |
45 |
Giải lãm解纜: tức là cởi
giây buộc thuyền, nghĩa là thuyền khởi hành để di. Mà lại dịch là Buộc thuyền,
thì ra là dừng thuyền à? Tất cả các chỗ Giải lãm dịch giả đều dịch thành Buộc
thuyền. Mà buộc thuyền người ta hay dùng từ Hệ lãm 繫纜chữ không bao
giờ dùng Giải lãm Thái Bái彩斾phiên thành
Thái Thi, rồi dịch là giây buộc tóc? |
|
4 |
46 |
Đinh đầu hàn lộ ưng vô phụ汀頭寒鷺應無負: Không phụ với cánh cò tiết lạnh đầu bãi
sông. Dịch thành cò không có chỗ dựa? |
|
5 |
47 |
贈長送秦營閫用南海龐擧人元韻伊員名懷仁見任馗纛營臺閫府/ Tặng quan Doanh khổn họ Tần (Dùng theo
nguyên vận đề quạt của Bàng cử nhân người Nam Hải. Viên quan này tên là Hoài
Nhân, nhậm chức Khổn phủ ở doanh đài Quỳ Đạo). Doanh Quỳ Đạo ở huyện Ninh
Minh, Quảng Tây. Dịch giả đã không hiểu ngữ pháp Cổ Hán ngữ, không tra cứu địa
danh, chức danh, lại dịch lược bỏ nhân danh. Vì căn bản không đọc được chữ Quỳ馗, và cũng
không tra được. |
|
6 |
9. 50 |
次韻奉太平王府堂Làm bài nối dâng
lên ngài Phủ đường họ Vương ở Thái Bình.
Dịch giả dich một cách tối nghĩa và vu vơ khiến người đọc không hiểu Vương
phủ là gì ? Phủ vương gia hay phủ gì? |
|
7 |
51 |
Minh Giang ký
kiến/ Ghi chép những điều trông thấy ở Sông Minh Giang. Thì đọc thành Minh
Giang ký hiện và dịch ra là Ghi
chép khi nhìn sông Minh Giang. Sai khác hoàn toàn. Chữ Kiến見
là chữ thảo không hề khó đọc mà lại đọc là chữ Hiện現 được? Tôi hoàn toàn thất vọng về kiến thức lộn xộn của
người dịch. 石屏削玉碧攢空Thạch
bình tước ngọc bích toàn không/ Núi như bình phong đá vút vào tầng trời biếc mà dịch
thành Cái bình phong cái tước ngọc để
không. Rõ ràng đọc Sai, phiên Sai, hiểu Sai, diễn dịch Sai, chú thích
cũng Sai. |
|
|
52 |
Sinh khách生客, tức là người khách lạ. Ngữ pháp của Hán văn Bạch thoại. |
|
8 |
53 |
Phiên
âm tùm lum, phiên một chữ dịch một chữ. Trư sơn phiên thành Thư sơn, rồi dịch
lại dịch là Trư sơn. Chữ Huân 薰thì
đọc nhầm là Đổng 董rồi
để nguyên cả Huân lẫn Đổng thành câu thứ 5 phiên âm thành 9 chữ. Cẩu thả! Câu
thứ 3: gió thổi dòng sông sóng không
chút động. Nghe thật phi lý? Mà dịch giả cũng dịch ra được. |
|
9 |
54 |
|
|
|
56 |
壯嵗勝游私自喜, 不孤初度設桑蓬Tráng tuế thắng du tư tự hỉ, Bất cô sơ độ thiết tang bồng/
Lớn lên được đi ngao du những nơi danh thắng cũng thầm vui, Không nến nỗi phụ
khi xưa ôm ấp chí tang bồng. |
|
10 |
57 |
|
Mật độ chữ đọc Sai đỏ quạch như thế này: cụ ý – hữu ý; niểu
giang – cưu giang; đạc sang鷁艭- nghịch sang; phát thạch kiệt- tàng
thạch kệ; Hiệp khu – Hiệp âu; Ngao hạc – Yêu hạc; 滌塵腔Địch trần xoang/ Tẩy lòng
trần mà lại đọc thành Điều tọa khang. Dịch là lòng
trống rỗng. Đầu
bài đã ghi rõ sự tài tình của Tác giả là mỗi câu thơ sẽ nhắc đến tên 1 con Cầm(con
chim), vậy mà dịch giả bỏ qua không dịch nổi và 8 câu 8 chim đã bị cắt mất 4
chim. DỊCH GIẢ TỰ BỎ CHIM ĐI 4 CHỖ. |
|
|||
|
58 |
鳥徑深深藏石碣,鴨煙細細漏天窗Điểu kính
thâm thâm tàng thạch kệ, Áp yên tế tế lậu thiên song/ Lối chim rừng qua lại
sâu hun hút còn ẩn bia đá, Khói hình vịt mảnh mai qua cửa trời. Mà dịch giả dịch
là Con chim xám xám (dịch theo âm
Việt: “thâm thâm” là “Xám xám”); Vịt
lông mịn màng; Hồng tân鴻賓 ý nói cánh chim Hồng làm khách bay lại, thanh
thoát như muốn tẩy sạch lòng trần. Địch trần xoang/ Tẩy lòng trần mà lại đọc thành Điều
tọa khang. Dịch là Khách quý mấy lần
muốn ngồi, nhìn sóng mà lòng trống rỗng. Sai và bịa đặt đến thế là cùng. |
|
11 |
59-60 |
|
Bài
11 cũng vậy: đọc sai, phiên sai, dịch sai. |
12 |
61 |
Bài
12 vẫn đọc sai, phiên sai. nghênh tân
迎賓–
đối với vế dưới là tống khách 送客. Cứ cho là lỗi đánh máy đi , đã đánh thành Nghênh tên, vậy ra không ai có trình
độ đọc bản Thảo bông hay sao? |
|
13 |
62 |
Đọc
sai, phiên sai, dịch sai. Miên âu 眠鷗là chim ngủ, đọc thành Nhãn
âu眼鷗,
dịch thành mắt con cò. |
|
|
63 |
|
Đọc sai,
phiên sai loạn hết cả lên. Thái bái 彩旆–
Thái thi彩施; Túc điểu 宿鳥– Tú điểu; Miên âu 眠鷗là
chim ngủ, đọc thành Nhãn âu眼鷗, dịch thành mắt con cò; Phạn 梵–
Phần焚. Người dịch không nhận dạng được sự khác biệt kết cấu nét
chữ của những chữ Hán cơ bản nhất. |
14 |
64-65 |
Vương Bột. Đằng vương các tự: Lạc
hà dữ cô vụ tề phi; Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc落霞與孤鶩齊飛,秋水共長天一色. Tất nhiên ở đây chữ
Vụ không phải là Cò, mà là loài chim nước nói chung, người dịch bài đã dịch tạm
là cò mà thôi. Nhiều bản dịch dịch rõ là “con vịt trời” |
Cô hỏa孤火 tức là “ngọn lửa lẻ loi, ngọn đèn
lẻ loi”, thì dịch giả chữ nghĩa lẫn lộn với câu thơ Lạc hà dữ cô vụ tề phi; Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc[⑤]. Mà chụp ngay chữ
Cô này là Cò. Chữ Thiên
cơ 天機viết thảo, người chân hóa giúp đỡ
thế nào mà để dịch giả đọc thành Chi kỷ支機. Đúng ra thì phải đọc là Chi cơ. Rồi từ đó dịch bậy ra là Đá tri kỷ và chú thích Chi cơ thạch支機石. |
15 |
66 |
[1] Nghiêm Quân Bình: một học giả đời Tây Hán. |
Đã đọc sai,
phiên âm sai, dịch sai. CHÚ THÍCH copy trên mạng Trung Quốc về dịch cũng SAI
LUÔN: 汉传说为天上织女用以支撑织布机的石头。“昔有一人寻河源,见妇人浣纱,以问之,曰:‘此天河也。’乃与一石而归。问严君平,云:‘此支机石也。[⑥] /Truyền thuyết đời Hán kể
rằng, trên trời có người con gái dệt vải, dùng viên đá để cài cái máy cửi giữ
vải. „Lại tích xưa, có người đi lần theo nguồn sông, thấy có người phụ nữ giặt
lụa, bèn hỏi thăm người đó, người đó đáp: đây là sông Thiên hà. Bèn tặng cho
1 viên đá đem về. Đem chuyện hỏi ông Nghiêm Quân Bình[⑦],
đáp rằng: Đấy là viên đá cài máy cửi vậy“. |
15-16 |
67 |
Bài
này cũng đọc sai, dịch sai. Chữ Đồng 銅viết thảo thì đọc ra chữ Sóc朔; chữ Trượng丈
thì đọc ra chữ Đại大.
Và dịch thế nào đây? |
|
|
22. |
Đã
đọc là Sóc trụ thì phải dịch là cột trụ ở phương Bắc. “Nam giao – Đông
lạc” là 2 danh từ riêng, chỉ những vùng đất phương nam mà Mã Viện đi
chinh phục được. “tề đồng trụ” – đối với vế dưới “tiểu họa đồ”. Là sự tích
công lao của Mã Viện sau này được vua Hán cho họa hình công thần treo ở gác
Vân Đài[⑧]. Ý cả
đôi câu để tán thán họ Mã rằng: Cõi Nam
giao có thờ cúng còn truyền bia miệng cái cột đồng; Đất Đông lạc được lưu
danh cũng chỉ một bức tranh treo ở Vân Đài mà thôi! Ý tứ câu thơ hay như
vậy mà dịch giả đã bôi ra lời dịch và chú thích rất nguy hại. |
|
|
|
Cái
chuyện cái cột Đồng Mã Viện là cái sỉ nhục với người Giao Chỉ. Nên chuyện thờ
phụng cũng chỉ là chuyện bịa đặt, chứ người Giao Chỉ không có ai thờ phụng
Cột Đồng Mã Viện cả. Dịch thế có nguy hại hay không? Còn
ở bài thứ 16. Người đọc chữ thảo không nổi, chữ Hiểm 險viết thảo thì đọc ra chữ Cường強. Tra cứu chỉ có Ngũ Hiểm than五險灘 chứ không có Ngũ Cường than五強灘. Câu thơ thứ 4 trong bài, chữ Thố 兔đọc thành chữ Nhi兒, vì nó phải đối với câu trên là Long hổ - Thố xà. Mà câu dịch
lại dịch thành „con khỉ, con rắn“ . |
|
|
|
|
Bất tiêu ám bốc
miếu tiền nghê/ Chẳng tin hãy hỏi thử con nghê trước cửa miếu. Ý thơ ẩn dụ
như vậy. Nhưng hãy xem dịch giả biến tấu: Không
để cho mất mát, kém cỏi, bí mật xem quẻ bói trước ngôn miếu mạo! |
17 |
71 |
Ở bài số 17,
tôi bàng hoàng, vì dịch giả không hiểu CHÍNH TU TỪ TIẾNG VIỆT. Đầu bài đã lổn
nhổn. Đoản tống là tiễn đưa 1 đoạn
ngắn, để phân biệt với Trường tống
là tiễn đưa một đoạn dài. Theo thông lệ Sứ thần đi qua địa phương thì quan
địa phương phải đón và tiễn, bảo đảm an ninh. Có Tiễn ngắn,
có tiễn dài. Dịch giả từ chữ tiễn ngắn mà bịa ra: “có bài thơ ngắn”. Ngay câu đầu tiên có cụm từ Chu Tuyền周旋, (tiếng Việt vẫn dùng chữ Chu Tuyền)dịch giả đọc Sai là Chu
Thi 周施, và chú thích đàng hoàng ở dưới. Copy từ mạng Baidu.Baike
của Trung Quốc và dịch ra cũng lung tung cả chả ra cái nghĩa lý gì: 周旋是一个汉语语词,拼音是zhōu xuán,意思形容尽量拖延时间,和对方相持下去以等待有利时机。另有古代语词释义,出自《左传·僖公十五年》[⑨]. |
|
17 |
72 |
Vâng! Chú thích chữ Chu
Thi như hình bên, bằng cách copy trên mạng tiếng Trung Quốc về, và cũng dịch
lung tung phèng ra. Các nghĩa của Chu Tuyền theo Internet: 周旋zhōuxuán(1)[socialize]∶打交道;应酬:周旋于达官显贵之间 1. vòng quanh; lượn quanh; lượn vòng。回旋;盘旋. 2. giao thiệp; chào hỏi; làm quen。交际应酬;打交道。成天跟人周旋,真累人suốt ngày chào hỏi mọi người, mệt chết đi được 3. quần nhau; vật lộn; đọ sức。与敌人较量,相机进退 |
|
18 |
74 |
Bài
số 18 Tầm châu dạ bạc thì miễn
tranh luận. Nhìn qua cách phiên âm và sắp xếp ngữ pháp của lời dịch thì người
đọc muốn hiểu sao thì hiểu! |
|
19 |
77 |
Bài
số 19. Câu thứ 1 đã Sai: Tứ thập nhất
tuế nhập thế nhân. Là tác giả nói mình đã sống được trên đời 41 năm. Dịch
giả dịch là Bốn mươi mốt tuổi mẹ về
trời(?); Câu thứ 6 cũng Sai: Thời
trở không hoài điện dũ tần. 奠Điện ở đây là nơi đặt linh vị cho người chết. Trông lên
Linh vị mà tưởng nhớ đức tảo tần của mẹ. Đã được dịch giả suy diễn là Điện
lợp bằng rau tần. Không biết dịch giả có biết rau tần là rau gì không mà có
thể lợp Điện. Và Điện là cái gì mà có thể Lợp được? |
|
20 |
77 |
Chữ Ôi隈, đọc thành chữ Ngung隅.
Đọc ra so với câu dưới Trái vần như thế mà Dịch giả vẫn đọc được. Tài tình! |
|
20 |
78 |
Tiêu đề là Ngô Châu trừ dạ: Tức là đêm 30 ở Ngô Châu. Ngày
cuối nam thì gọi là Trừ Nhật除日, đêm
cuối năm thì gọi là Trừ Tịch除夕, hay
Trừ Dạ除夜. Dịch giả dịch sai như thế này tôi muốn nói rất có văn
hóa với dịch giả là cái chữ Trừ đơn giản này, trong Từ điển người ta có giải
thích sao không tra? |
|
21 |
79 |
Bài số 21 lại
đọc sai tiếp. Địch lữ trần滌玈塵: nghĩa là tẩy sạch bụi trần lữ
khách, thì đọc là Điều thi trần條施塵. Không biết học
chữ Hán ở đâu mà đọc Sai nhiều thế? |
|
21 |
80 |
Bài
số 21 này mới thấm thía cái chữ nghĩa kém cỏi. Tiêu đề Khách trung nguyên nhật. Bài này nối bài đêm 30 ở Ngô châu. Tức
là Ngày đầu năm vẫn (thân) làm khách phương xa. Đồng chí dịch giả kính mến đã
dịch thành Người khách trong ngày tết Trung nguyên. Lại còn Mở ngoặc (Rằm tháng Bảy) |
|
22 |
83 |
Bài
số 22, lại đọc sai. Chữ Hát 喝viết
thảo thì đọc là chữ Minh鳴. Nghĩa
cả câu là tiếng người lái đò hô gọi nước sông cạn. Đã được dịch giả thân yêu
dịch thành: Cầm cây sào gọi người lái đò, tiếng vang khắp sông. |
|
23 |
84-85 |
|
Trời
ơi! Bài 23 chúng tôi lấy làm một ví dụ điển hình cho sự Sai, thiếu kiến thức.
Chữ 易này
phải phiên là Dị; 故園cố viên tức là vườn xưa, tức là ám chỉ quê hương, quê nhà. Cố viên tâm故園心 tức là tình quê, thế thôi! Dịch giả đã bịa đặt ra câu
dịch: Lúc nhàn rỗi, dễ lẻ loi nên chỉ
để tâm vào chuyện vườn tược. (Đang đi sứ mà tậu vườn bên Trung Quốc mà
trồng cây được ư?). Đến dịch thơ thì câu dịch lại trái ngược câu dịch nghĩa: Suốt ngày vương tược chả cần lo!(??!) Bình Than平灘, ở đây chỉ
có nghĩa là bãi sông, bến nước thông thường. vậy mà chú thích là bến Bình
Than nơi diễn ra Hội nghị Diên Hồng trong kháng chiến chống quân Nguyên(Đây
là đất Quế Lâm của Tàu mà!); Lương thông梁通, chỉ là nói
chuyện cầu lưu thông mà lại bịa đặt lếu láo là Ngột Lương Hợp Thai và Vương
Thông, bịa ra giặc Ngô và giặc Thát[⑩]. Ở câu thứ 5, Vân y thì khởi diệt: nghĩa là mây
theo thời gian bay ra bay vào. Đã bị dịch giả bẻ cong nghĩa là Diệt giặc! KHÔNG THỂ CHẤP NHẬN ĐƯỢC! Có một
bạn Facebooker nickname Phạm Huy Lê cho rằng Lương Thông sự 梁通事là ông Thông sự họ Lương, tức là ông Phiên dịch. Quả thật có chức
Thông sự, ghép với câu dưới thành câu hỏi cảm thán đường xa:”Bao lâu nữa thì đến Quê Lâm”. Nghe
cũng có vẻ hợp lý. Tôi cũng có tra cứu chức danh ngoại giao này, nhưng bản thân tôi không ủng hộ ý kiến đó,
nên tôi chọn ý là: “Đầu thuyền hỏi chuyện
cầu lưu thông ở đây/ Biết bao giờ lại đến lại Quế Lâm” – Ý tả cảnh theo mạch
toàn bài thơ. Chứ các cụ Tiến sĩ Nho học ít khi làm thơ nêu chức danh, tên họ
người khác vô cớ, và lại không có chú thích, khuyên, điểm gì để tỏ ra đây là
một danh từ chỉ người! |
25 |
88 |
Bài
thứ 25, lại đọc sai, phiên sai, dịch sai. |
|
26 |
91 |
Chữ
Phì đọc là Phù. Dưới dịch là Mập.
Dịch theo nghĩa chữ Hán hay dịch theo âm đọc? |
|
27 |
92 |
Bài
thứ 27: Đọc sai, phiên sai, hiểu sai, dịch bịa. Tẩm 浸đọc thành Xâm侵; Trùng viên nguyệt 重圓月chỉ
có ý nói, Trăng lại tròn, nghĩa là lại gặp được buổi đẹp trời. Mà dịch
thành vui vì có 2 tháng Nhuận! |
|
27 |
93 |
Câu
thứ 5, có một điển tích rất quan trọng đối với người học Hán văn cổ, của
những người coi mình là học trò của Khổng phu tử. Là điển tích Nghi thủy đồng quan沂水童冠[11] trong sách Luận ngữ. Không ai học Hán Nôm mà không học
sách Luận ngữ, không ai đọc Luận ngữ mà không biết tích Nghi thủy đồng quan[12]. Dịch
giả đọc sai thành Cân thủy long quan沂水竜冠.
Và dịch bậy bạ: Dòng Cân thủy như chiếc mũ rồng ngoài cõi này. Sai đến thế là cùng! |
|
27-28 |
94-95 |
|
Dịch
thơ còn bậy bạ hơn: Nhìn dòng Cân thủy
như rồng lượn! Bài số 28: Đọc sai, phiên sai, KHÔNG CÒN GÌ
ĐỂ NÓI |
29 |
96 |
|
|
30 |
4198 |
Bài
số 29, tiêu đề ngữ pháp lại đọc sai: Khách để thư hoài. Nghĩa là Thư tỏ lòng
đề nơi khách quán. Nguyễn Gia Cát lúc này vẫn đang làm khách nơi đất lạ. Ông
viết bài thơ trong lúc còn làm thân khách nơi xứ người, đang ở nhờ nơi nhà trọ.
Vậy mà dịch giả Nguyễn Quang Hà dịch ra là: Nhớ mãi bức thư ở nhà khách phủ đệ. |
|
31 |
98 |
|
|
31 |
101 |
Bài
số 31, có cụm Hán ngữ còn lưu dấu trong Bạch thoại hiện đại là Sinh diện
khách生面客,
nghĩa là Người khách lạ mặt. Ở đây dịch giả đã áp dụng lối mách nước của NNC
Nguyễn Ngọc Thanh: là chỗ nào có chữ Sinh 生thì đổi sang chữ Thanh聲, chỗ có chữ Thanh 聲thì đổi sang chữ Sinh生. Cho thấy độ
tào lao và cẩu thả của người dịch. Và bản thân dịch giả đổ lỗi thứ tự lộn xộn
các trang Nguyên văn chữ Hán do Nxb. Nhưng tôi biết chắc rằng, chính dịch giả
đã không biết xếp thứ tự các trang với nhau. Nxb chỉ ghép nguyên như văn bản
dịch giả gửi tới. Vô trách nhiệm với chính mình! |
|
32 |
102 |
Bài
thứ 32, Giải lãm tức là cởi giây buộc thuyền, tức là lên đường! Dịch giả tiếp
tục dịch ngược lại là Buộc thuyền. |
|
|
103 |
Dịch
cởi thuyền thành ra buộc thuyền. Sai đến mức như thế này
mà đòi người ta Phê Phán phải công tâm, đạo đức, văn hóa,… Dịch giả tưởng
rằng dịch giả dịch sai ít thôi! Nhưng toàn sai NGHIÊM TRỌNG! KHÔNG THỂ CHẤP
NHẬN ĐƯỢC! |
|
33 |
105 |
Bài
thứ 33, Dù đã đăng khoe trên Facebook, có sự tham gia trao đổi với NNC Nguyễn
Ngọc Thanh và Lê Quốc Việt. Người ta comment đã nói chữ tiêu đề là chữ Dạ.
Dịch giả đã vâng! dạ! Nhất chí cao! Cảm ơn cảm huệ rồi! Nhưng cũng không sửa! |
|
35 |
109 |
Đây
bài 35, Toàn châu Đoan Dương thứ vận. Phiên
âm đọc thử đọc thiếc ướm đi ướm lại rồi mà Sai đỏ quạch cả ra thế kia. |
|
|
110 |
Chú
thích thì thừa thãi, không kiên quan gì đến điển tích văn học, dịch giả đi
chú thích cho người đọc biết Cỏ Bồ Hoàng là cỏ gì? Cao bao nhiêu? Phân bố ở
đâu? |
|
36 |
111 |
Bài
thứ 36, vẫn cẩu thả sai nhiều lắm. Sai đến mức phiên âm, chú thích vẫn sai,
sai đi sai lại những chữ rất cơ bản, Tương phi thì đọc là Tương kỷ. Không hề
đánh máy nhầm nhé. Vì ở dưới dịch giả chú thích Tương kỷ rất đàng hoàng nhưng
trong đó lại đọc là Tương Phi! Thế không phải CẨU
THẢ thì là gì? |
|
|
112 |
|
|
|
112 |
|
|
37 |
113-114 |
Bài
37, lại đọc Sai. Dịch bừa bãi. “Xả thân
tự cổ xỉ huyền đàm/ Từ xưa bàn luận đạo huyền vi đã nhiều”. Mà dịch Huyền đàm 玄談là Ba hoa! Trời
ơi! |
|
38 |
116-117 |
Bài
số 38, đọc sai mà tự vẽ ra chữ Hán, không biết vì sự bịa đặt của
mình. 派vẽ thành 似; 滿滿thì
vẽ
thành chữ 瀯瀯. Phiên thành doanh doanh |
|
39 |
118 |
Bài thứ 39, Tương phi trúc thứ vận. Bài này phiên sai, dịch sai thì
đã đành. |
|
|
119 |
Mạn thiên là đầy trời, thì dịch thành “Coi thường trời”. “Tâm hư dị mãn cương thường
hận/ Là Lòng không dễ đầy mối hận đạo
cương thường chưa vẹn” Đạo Cương Thường tức là nói Tam Cương và Ngũ Thường.
Là từ để ví von với những giềng mối đạo đức, mực thước trong giao tế xã hội
xưa: Tam Cương là Quân – Thần, Phụ - Tử, Phu – Phụ. Mà dịch giả chú thích là:
“Quân – vua, Sư – Thầy, Phụ - Cha.” Có thể thấy kiến thức của dịch giả cực kỳ
hạn chế, làm việc cực kỳ cẩu thả. Vì không hiểu CHÍNH XÁC Tam Cương là những
món gì nhưng chú thích bậy bạ tùy tiện. |
|
40 |
120 |
Bài
40, đọc sai, phiên sai, dịch sai đã đành. Tu từ ngữ pháp cũng không thể hiểu
nổi. Chữ Vân 云đọc
thành Vận 韻: đây là tên người.
Nguyên Văn là登紅極樓次云田題壁元韻Đăng Củng Cực lâu[13]
thứ Vân Điền đề bích nguyên vận: Lên lầu Hồng Cực nối vần thờ đề trên tường
của ông Vân Điền.[14]
[1] Vân Điền 雲田: tự hiệu của Trương Kỳ Trác張祇倬,thi nhân đời Thanh người huyện Trường Sa. Sứ thần Lê Quang Định cũng có bài Đăng Củng Cực Lâu Bộ Vân Điền Nguyên Vận. IT Trung văn chú: Vân Điền có thể là Trương Kì Trác. Hoặc Trần Khuê đời Minh cũng có bài thơ đề Củng Cực lâu nổi tiếng. |
|
|
121 |
Đọc
sai. Dịch sai. Hiểu sai ngữ nghĩa, ngữ pháp. |
|
41 |
123 |
Bài
41, lại cẩu thả đến mức này nữa cứ phiên sai hoài. 湘妃Tương phi thành Trương Phi, 范蠡Phạm Lãi thành Phạm Đố.
Và chúng ta đừng nhầm là dịch giả chỉ nhầm lẫn
đánh máy. Dịch giả hoàn toàn đưa đúng các từ này vào Sách Dẫn ở cuối ấn phẩm.
Cho thấy Dịch giả Sai hệ thống. Mà đầu tiên là Cẩu thả, Vô trách
nhiệm, Làm việc suy đoán, bịa đặt, không hề tra cứu. Chỉ nhờ người đọc hộ chữ
Hán xong, rồi phiên âm bừa bãi, dịch nghĩa bậy bạ, … và cả dịch thơ sai ý tác
gia nữa. |
|
42 |
124 |
Vâng!
Bài 42 này thì mới sai Chính tả. |
|
43 |
125 |
[1] Thiên Thai am: là di tích kiến trúc từ thời Đường. Nay thuộc Trường Trị Bình Thuận huyện ở tỉnh Sơn Tây. https://zh.wikipedia.org/wiki/%E5%A4%A9%E5%8F%B0%E5%BA%B5 |
Vâng
bài 43 tiếp tục sai cẩu thả kinh hoàng! |
43 |
126 |
|
|
44 |
128 |
Đọc
sai, phiên sai. Thiên Thai am 天臺奄[15] |
|
|
|
||
45 |
130 |
Bài
45, bỏ qua chữ Hán không đọc được, rồi dịch bừa dịch bậy. Không biết tiêu đề
bài thơ mà đoán đó là Thắng cảnh. Vậy cảm thụ văn học, cảm xúc ngôn từ như
thế nào?
武勝関Vũ Thắng Quan[16] [1] Vũ Thắng Quan: là 1 trong Cửu đại hùng quan của Trung Quốc, kiến
trúc từ thời Nam Triều Tề, nay nằm giáp giới của huyện Tín Dương tỉnh Hà Nam và
huyện Quảng Thủy tỉnh Hồ Bắc. Là một địa danh nổi tiếng. |
|
|
131 |
|
|
46 |
132 |
Tiếp
tục giai điệu Sai, Sai, Sai, … bất tận, những
chữ đơn giản nhất. Và dịch sai những hoạt dụng
từ đơn giản nhất. |
|
46 |
133 |
Câu
đầu tiên thật là Kinh hoàng về ngữ pháp trật tự của dịch giả. Kiều Dương Tam Phục thiên. Trung tâm
ngữ là chữ Thiên, chỉ thời tiết có Tam Phục trong Khí Dương Mạnh. Chữ
Lý 李là
hoạt dụng từ thông với chữ Lý 理là
sắm sửa hành trang. Lý 李 ở đây không
phải là HỌ LÝ, giống như ông Fan Hui Lê nào đó bảo là Lương thông sự 梁通事trong bài số
23 là ông PHIÊN DỊCH HỌ LƯƠNG?[17] Đãi lậu niên là chờ đợi
trong khoảng thời gian nào đó, chứ không có “bí mật” hay “lịch ban hành”
gì cả? Bản thân tự dịch nghĩa ra dịch thơ cũng SAI HẾT! |
|
47 |
134-135 |
Bài
số 47 nay thì Dịch giả quá ảo tưởng khi tự tiện dịch câu Bình chương thả đãi sứ hồi thì: Chức quan Bình chương sẽ được cấp cho
khi đi sứ về? Và
chú thích cũng liên thiên. |
|
48 |
136 |
Bài
số 48 thì cũng Điệp khúc sai ngữ pháp, sai tu từ. |
|
|
137 |
Từ
Chức danh hiểu thành Động từ rồi biến tấu liên thiên! Trí tưởng tượng thật là
vô địch. Từ 1 ông Đốc học sứ tên Ngô Vân Tiêu biến ra thành 2 ông: Ông Đốc
học sai Ông Ngô Văn Tiêu. Cẩu thả thế bảo TÔI KHÔNG CHÊ thì TÔI BIẾT LÀM GÌ? Đẩu
Thai nghĩa là sánh SAO ĐẨU SAO THAI đã hóa thành “rêu phong trên đài cao” |
|
49 |
138 |
Điển
tích vua Văn Vương nhà Chu diễn giải Kinh Dịch thì đã biến thành Văn Vương
giảng bài. Hai quẻ Tiểu Súc và Minh Di trong kinh Dịch thì đọc ra Tiểu Phú Minh Di rồi dịch sai bét ở
dưới: “Những kẻ có ít tiền của giáo hóa
bọn Man di có nhiều điều chí lý”. Dữu
Lý là nơi Văn Vương bị giam cầm, tức là địa danh đã biến thành Mỹ Lý “Những làng quê tươi đẹp?” |
|
49 |
140 |
|
|
50 |
140 |
Bài
số 50 này cũng thật là Kinh Hoàng về dịch thuật, khi Dịch giả biến điển tích Lư sinh hoàng lương mộng thành “giấc mộng của anh Lư sinh tên là Hoàng
Lương” Hoàng Lương
ở đây chính là Kê Vàng, Nồi Kê Vàng nhé! bạn Fan Hui Le! Đừng suy
ra họ Hoàng, họ Lương như Lương thông sự
ở bài số 23 nhé![18] |
|
|
141 |
|
Vẫn
bài 50: Vị thục 未熟là chưa chín! (Nồi kê vàng) chưa chín nhé! bạn Fan Hui Le nhé! Vì Vị thục còn có nghĩa là chưa thành thục. Văn vị thục, Võ vị thục, Thư vị thục, … đều có
nghĩa của nó nhé! Bạn Fan Hui Le nhé! |
51 |
142-143 |
|
Bài
số 51, thì đọc sai, lẫn lộn chức năng ngữ pháp các cụm Hình dung từ và Danh
từ với nhau: Thinh châu, Hùng châu.
|
|
143 |
Đinh
châu, Hùng châu đều là cụm Hình dung từ mà lại hóa ra Danh Từ riêng chỉ địa
danh? Liêu tận
là Hết lụt mà lại thành “chỗ tận cùng của chỗ ngập” |
|
52 |
144 |
Bài
52, lại đọc sai, nhưng chữ dễ hều! |
|
52 |
145 |
Tương huề thu nguyệt: Dắt nhau dưới trăng thu. Năm nào cũng đi lễ chùa Long Hưng hay sao mà có “Hằng
mùa”? |
|
|
Dịch
nghĩa lẫn dịch thơ đều Sai cả! |
||
53 |
146 |
Bài
số 53, tuyền Chẩn đọc thành lữ chẩn. Tuyền Chẩn nghĩa là quay về
vùng Sao Chẩn. Nghĩa là ông ý được phép Về nước ạ! |
|
|
147 |
Bài
53, hai câu đầu dịch sai ghê ghớm. Sứ
hồ tự cổ thuộc anh du/Huống thị tân bang đệ nhất trù: Nghĩa là: Đi sứ xưa
nay cũng là một sự du ngoạn phong lưu/ Huống chi lại là kế hoạch xây dựng
nước nhà mới. Mà dịch giả dịch ra như hình chụp, ý tứ rất là kiêu căng của
một kẻ sĩ khoa bảng! KHÔNG! KHÔNG THỂ NÀO! Phân phó thanh thanh quan mạch liễu/ Ý tứ là Dặn dò cây
liễu xanh ven đường! Hình tượng của người phải đi xa! Dịch giả đã dịch
thành “Hà hơi cho liễu xanh tươi”!
(Nói lộn chứ! phải người thúi mồm thì liễu héo vàng úa hết!) |
|
54 |
148-150 |
|
Bài
số 54, tiêu đề ngữ pháp và tu từ đọc sai nên dịch ra lộn. Phiên âm thiếu hẳn
1 chữ ở câu thứ 6! Thế mới hay! Vậy mà cứ bảo là đã cố gắng! Những thiếu sót
không thể tránh khỏi! Nhưng thiếu mãi rồi! Thiếu mãi thôi! |
|
|
Tiêu
đề phải dịch là: Đến Hàm Đan trực lệ, quan Phân phủ họ Lý tiễn một đoạn ngắn,
có làm 1 bài thơ Du Nam thiên để tặng, nên xin làm bài này để họa đáp lại. Dịch
giả dịch LỘN! |
|
55 |
150-151 |
|
Bài
số 55, ở đây có 1 số chữ đặc trưng Hán học, nếu không thông huấn hỗ, tường cú
đậu, thông tục thể dị thể, giả tá, dụng thông, điển từ, … thì không dịch được.
Phụng trĩ là đi sứ; Tứ bình là dùng
thông giả đọc là Tứ biền, nghĩa là ban cho được quay xe về nước. Dịch giả
đọc không được, nên hiểu sai, dịch sai, chưa kể có chữ để … |
|
152 |
Tiêu
đề cũng dịch lộn bậy: Ngày mùng 9 ở Nghi câu thì dịch thành 9 ngày ở Nghi
Câu! Cả
2 câu đầu: Phụng trĩ lai thời phùng thất tịch/Tứ biền hồi nhật trực trùng
dương. Ý nói là đi sứ đúng ngày 7/7; Được ban chỉ về nước đúng ngày 9/9. Vậy
là dịch thành: “Kẻ sĩ có phẩm cách”; “có kẹo mầm, xe có màn vây quanh”. Chú
thích rất liên thuyên! |
|
55-
56 |
153 |
Ngày
thất tịch 7/7 là ngày gì mà lại dịch ra là Tết Ngâu? Kỉ
nguyệt sa trần lân khách cửu nghĩa là Mấy tháng bụi đường thương thân khách!
Sao lại thành Tháng Ngâu này nhiều cát bụi? Dịch
dưới mới kinh: Tháng Ngâu sụt sùi ? Bài
số 56 thì sao? Thơ có 4 câu x 7 chữ, Phiên âm sai luôn cả 4 chữ cơ bản nhất
không hề viết thảo: Sam衫,
Khoản欵, Xuyên川,
Thanh聲. Mặc dù
chữ Thanh 聲là NNC Nguyễn Ngọc Thanh đã nhắc sửa trong lần comment ngày
27.11.2022 trên Facebook. Dịch giả Nguyễn Quang Hà đã nhất trí rất cao. Nhưng
cũng không SỬA? Vì không biết nó ở đâu mà sửa? |
|
57 |
154 |
Dịch
giả Nguyễn Quang Hà không hiểu gì về ngữ pháp cổ Hán văn, nên đã phiên sai Động
từ chữ和 có 2 âm đọc là HÒA và HỌA. Chữ này ở đây phải phiên là HỌA,
nghĩa là LÀM THƠ HỌA LẠI. Dịch giả đọc là HÒA và Phịa ra cả câu dịch là Tặng sách cho 2 ông là Hứa
Thế Phong và Sâm Phố Tồn. Nguyên là Nguyễn Gia Cát được người tên Hứa
Thế Phong hiệu là Sâm Phố tặng thi tập tên là Sâm Phố tồn cảo gồm
2 quyển, và làm 2 bài Tuyệt cú và xin được Họa thơ lại. Nên Nguyễn Gia Cát
làm bài thơ này để đáp lại. Nguyên văn dịch đúng phải là: Dừng nghỉ ở Hứa Châu, được ngài Tiến sĩ Hứa Thế Phong[1] tặng tập Sâm Phố tồn cảo 2
quyển, lại làm 2 bài tuyệt cú xin thơ Họa lại, nên nhân đó làm bài này để đáp
lại. |
|
|
154 |
Câu thứ
3: Ngẫu tiếp dao hàm. Là chữ Dao trong Quỳnh
Dao, trong bài Mộc Qua. Kinh Thi投我以木桃,报之以琼瑶Đầu ngã dĩ mộc đào, báo chi dĩ quỳnh dao. (Tặng
ta quả mộc đào, ta tặng lại ngọc quỳnh dao)[2]. Không hề liên quan đến lệnh chỉ nhà vua gì hết!
Dịch giả Nguyễn Quang Hà dịch như vậy đấy! |
|
58 |
155-156 |
Bài 58, ở đây, người chép đã phê sửa chữ Ngư漁 thành chữ Vân雲 . Dịch giả Nguyễn Quang Hà không đọc được chỗ này và người Chân hóa cũng không nhắc sửa chỗ này. Thao tác làm văn bản học rất kém. Dịch
giả đã dịch sai, diễn ý, tu từ tùy tiện không có Trung tâm ngữ và Định ngữ. Ngô
học viện吳學院 là chỉ người học thức uyên bác họ Ngô, tức Ngô Phương Bồi 吴芳培[3](1752-1822),tên tự là Vân Tiều, nên ông có thi tập tên là Vân Tiều thi tiên; Còn Sâm Phố 森圃là tên hiệu của Tôn Thế Phong孙世封, nên ông có thi tập tên là Sâm Phố tồn cảo. Dịch giả đã bịa đặt ra caí Học viện là Học viện Mông
Ngô. Nguyên văn phải dịch đúng là: Hôm trước, được ngài Viện trưởng họ Ngô tặng tập thơ Vân
Tiều thi tiên. Hôm nay xấu hổ lại được tặng thi tập của ngài (Sâm Phố)
là Sâm Phố tồn cảo, hợp cả hai quyển lại nâng niu như nâng ngọc
quý. Vậy mà dịch giả Nguyễn Quang Hà dịch 璧(Ngọc
Bích) thành壁(tường vách) như hình bên, là Kính cẩn đề ở tường nhà. Dịch giả Nguyễn Quang Hà không hiểu cung
kính ngữ của chữ Hán, không hiểu về tu từ, ngữ pháp, là
trung tâm ngữ ở đâu cả. Dịch giả bịa đặt và nhét chữ vào mồm tác giả Nguyễn Gia Cát. Đoạn dưới đọc sai chữ Ngư 漁,người chép đã sửa bên cạnh thành chữ Vân雲 để dịch tùm lum tào lao thành Người đánh cá và Tiều phu, trong khi tiêu đề thì dịch là Mây núi và Người kiếm củi? |
|
|
|
||
|
159-160 |
Phần
cuối cùng của Ấn phẩm, là phần Sách Dẫn. Thông thường chúng ta hiểu Sách Dẫn
là thư mục để ta Tra cứu Nhân danh, Địa danh, Danh từ riêng của Tác phẩm, hay
những từ khóa quan trọng của dịch phẩm để tiện tra cứu tìm đọc. Nhưng ở đây
hoàn toàn không Phải! Dịch giả copi lại tất cả Văn bản, rồi xóa đi- Delete đi
hết các từ không Viết Hoa. Tất nhiên xóa đi xóa lại, xóa bằng tay không Hết
nên vẫn cứ lặp đi lặp lại. Thậm chí các cụm Danh từ Bịa Đặt vẫn còn y nguyên.
Nghĩa là những Sai Nhầm của Dịch Giả và nhóm Biên Soạn, Nhà Xuất bản hoàn
toàn do: - CẨU THẢ, - THIẾU CHUYÊN MÔN, - THIẾU KỸ CÀNG, - THIẾU ĐỌC DUYỆT - SAI Ở TẦM CỠ HỆ THỐNG TOÀN BỘ ẤN PHẨM chứ không phải sai nhầm về Kỹ thuật hay Đánh máy! Dịch giả nên nhanh chóng sửa chữa, bổ sung CÀNG SỚM CÀNG TỐT. Dịch giả đã có lời mời tôi tham gia Hiệu đính cho TÁI BẢN. Nhưng tôi thiết nghĩ: Những đóng góp của tôi như đã đăng CÔNG KHAI đủ để Dịch giả thông cảm cho Tôi! |
|
|
|
||
|
|||
|
|||
|
LEIPZIG - Ngày Quốc GIỖ VNCH - Arbeitenstag. 2023.
Cổ Hoan - Phụ nguyên - Trực
tâm 全!敬!
[①] Comment của Facebook HanguyenQuang 2/4/2023 trên tường Facebook của Cổ Hoan Nam Đường: Theo sở trường, tôi đã giao/mời Nguyễn Ngọc Thanh “chân hoá” chữ thảo từ đầu cho đến cuối tác phẩm (58 bài, trong đó có mấy bài do tác giả làm xong lại làm thêm vẫn chủ đề ấy nên có thêm “Lại một bài nữa”( 又) (chứ thực chất cũng chỉ có 54 bài với 54 chủ đề). https://www.facebook.com/nguyenductoan.thang
[②]
Thiều Chửu. Hán Việt tự điển. Phiên bản 1.5(2005.10.28)
[③] Status
của Ha
Nguyenquang 3.4.2023 lúc
13g53: Điều đó cho thấy,
căn bệnh vọng ngoại và với một thiện chí không trong sáng đã rất trầm trọng
https://www.facebook.com/ha.nguyenquang.7564129
[④] Dịch giả tự trình bày trên tường Facebook của mình. 3.4.2023 lúc 13g 53
[⑤]
Vương Bột. Đằng vương các tự: Lạc hà dữ cô vụ tề phi; Thu thủy cộng
trường thiên nhất sắc落霞與孤鶩齊飛,秋水共長天一色. Tất nhiên ở đây chữ Vụ không phải
là Cò, mà là loài chim nước nói chung, người dịch bài đã dịch tạm là cò mà
thôi. Nhiều bản dịch dịch rõ là “con vịt trời”
[⑦] Nghiêm Quân Bình: một học giả đời Tây Hán.
[⑧]
Vua
Hán Quang vũ cho vẽ hình công thần 28 danh tướng treo ở gác Vân Đài để ghi
công, Mã Viện cũng được dự trong số đó.
[⑩]
Có một bạn Facebooker nickname Phạm Huy Lê cho rằng Lương Thông sự 梁通事là
ông Thông sự họ Lương, tức là ông Phiên dịch. Quả thật có chức Thông sự, ghép
với câu dưới thành câu hỏi cảm thán đường xa:”Bao lâu nữa thì đến Quê Lâm”. Nghe cũng có vẻ hợp lý. Tôi cũng có tra
cứu chức danh ngoại giao này, nhưng bản thân tôi không ủng hộ ý kiến đó,
nên tôi chọn ý là: “Đầu thuyền hỏi chuyện
cầu lưu thôn ở đây/ Biết bao giờ lại đến lại Quế Lâm” – Ý tả cảnh theo mạch
toàn bài thơ. Chứ các cụ Tiến sĩ Nho học ít khi làm thơ nêu chức danh, tên họ
người khác vô cớ, và lại không có chú thích, khuyên, điểm gì để tỏ ra đây là
một danh từ chỉ người!
[11]王陽明/山中示諸生五首/其二/滁流亦沂水,童冠得㡬人。莫負詠歸興,溪山正暮春. Thơ của Vương Dương Minh có câu: Trừ lưu diệc Nghi thủy, Đồng
quan đắc kỷ nhân. Mạc phụ vịnh quy hứng, Khê sơn chính mộ xuân.
[12]
Luận
ngữ. Tiên tiến. ““子曰:“何伤乎?亦各言其志也”。曰:“莫春者,春服既成,冠者五六人,童子六七人,浴乎沂, 风乎舞雩,咏而归”。夫子喟然叹曰:“吾与点也!” Khổng tử hỏi chí hướng các môn đệ. Tăng Điểm nói: Tôi khi mùa xuân chưa hết, áo xuân đã may xong. Cùng với 5-6 người đội mũ, 7-8 đứa trẻ con. Ra tắm ở sông Nghi Thủy, hóng
gió nền Vũ Vu, ngâm vịnh rồi về thôi. Khổng tử nói: ta cũng như Điểm vậy.”
[13]
https://baike.baidu.com/item/%E6%8B%B1%E6%9E%81%E6%A5%BC/1183013 Củng
Cực lâu ở trên cổng Xương Bình môn, Trương Gia khẩu tỉnh Hà Bắc, xây dựng thời
Vĩnh Lạc, trùng tu thời Tuyên Hóa. Là kiến trúc văn hóa nghệ thuật từ triều
Minh.
[14] Vân Điền 雲田: tự hiệu của Trương Kỳ Trác張祇倬,thi nhân đời Thanh người huyện Trường Sa. Sứ thần Lê Quang Định cũng có bài Đăng Củng Cực Lâu Bộ Vân Điền Nguyên Vận. IT Trung văn chú: Vân Điền có thể là Trương Kì Trác. Hoặc Trần Khuê đời Minh cũng có bài thơ đề Củng Cực lâu nổi tiếng.
[15] Thiên Thai am: là di
tích kiến trúc từ thời Đường. Nay thuộc Trường Trị Bình Thuận huyện ở tỉnh Sơn
Tây. https://zh.wikipedia.org/wiki/%E5%A4%A9%E5%8F%B0%E5%BA%B5
[16] Vũ Thắng Quan: là 1 trong Cửu đại hùng quan của Trung Quốc, kiến trúc từ thời Nam Triều Tề, nay nằm gipas giới của huyện Tín Dương tỉnh Hà Nam và huyện Quảng Thủy tỉnh Hồ Bắc. Là một địa danh nổi tiếng.
[17]
Bài Ngẫu chiếm số 23.
[18] Vì bài Ngẫu chiếm số 23 có bạn copi về trình bày cách hiểu chữ Lương thông sự là người thông sự họ Lương, đăng trên trang Hạn chế nên tôi lưu ý: CÁI
GÌ trông NHƯ THẾ nhưng MÀ chưa chắc NHƯ THẾ!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét