Hai bức Trâm của nhà cụ Cử nhân Hoàng thúc Hội, ở làng Yên quyết, quận Cầu giấy Hà Nội.
Nội dung là lời trâm, khen ngợi dòng tộc, con cháu dòng họ Hoàng ở làng Yên Quyết. Là một dòng dõi trâm anh thế phiệt, có học thức được nhiều người noi theo. Cụ Cử Hoàng thúc Hội (1870-1938), đậu Cử nhân năm 1906, nhưng không ra làm quan. Cụ ở nhà dạy học viết sách, làm báo. Cụ có bài thơ vịnh Hai bà Trưng dự thi kỷ niệm trùng tu đền Hai bà, do báo Trung Bắc tân văn tổ chức. Bài thơ được khắc vào bia đá, hiện vẫn còn tại đền ở làng Đồng Nhân(nay là Phường) Hà Nội. Cụ có nhiều thơ văn đề vịnh ở một số di tích ven trục Sông Hồng.
Con trai cụ là nhà nghiên cứu lịch sử Hoàng thúc Trâm (1902-1977) hiệu Hoa Bằng, có nhiều cống hiến cho nghiên cứu lịch sử. Hiện ở Hà Nội có phố mang tên hiệu ông là Phố Hoa Bằng.
Hiện trạng: Ván gỗ cũ đã cũ nứt, nét chữ viết tháu linh hoạt. Chúng tôi tạm phiên âm, xin Bằng Hữu chỉ bảo bổ sung những chỗ sai hoặc nhầm.
已己孟冬飄搖風雨幾番來
載重家门一柱材
隆棟衹今皆積累
充閭他日此胚胎
李桃英敘芳園樂
松菊宜於晚節開
老實精深衣鉢在
就中間架見心裁
行四家弟記事七品文階季通拜題
Đầu đông năm kỷ Tỵ:
Gió mưa lay động mấy phen rồi,
Việc nhà gánh nặng một cây thôi.
Tài cao cột trụ nhờ tích lũy,
Xóm làng ngày trước đã phôi thai.
Đào mận thơm hoa vườn xưa hợp,
Tùng cúc nên chi tiết muộn khai.
Y bát tinh thâm còn truyền lại,
Tựu trung vun đắp sẵn lòng rồi.
Em hàng thứ tư, chức Ký sự thất phẩm ban văn là Quý Thông đề!
保大四年己已秋
蘇水鍾奇氣
香飄桂樹花
诗書傳世業
簪绂大方家
清絕層霄露
汪然千頃波
神仙真骨相
士願識韙多
侍生山石金平阮登熒拜
Mùa thu năm kỷ Tỵ niên hiệu Bảo Đại thứ tư ()
Dòng Tô hun khí lạ,
Cành quế dãy hương xa.
Thi thư vốn nghiệp nhà,
Một phương dòng châm hốt.
Thanh cao tầng mây ngút,
Nghìn khoảng sóng bao la.
Cốt cách thần tiên đó,
Kẻ sĩ học theo đa.
Chức Thị Sinh, Sơn thạch-Kim bình Nguyễn đăng Huỳnh bái đề.
Hoan nghệ mộc ngư khảo dịch驩乂木魚考譯
盛夏二〇二二欧陸
Nguyễn đức Toàn dịch thơ
BẢN DỊCH CỦA anh Châu Hải Đường trên Facebook Hoàng Liên (Cháu cụ Trâm, chắt cụ Hội). Anh Châu Hải Đường ở bài số 1 đọc được hơn tôi 1 chữ Cộng共; chữ đó tôi không nhận ra tôi đọc là chữ Anh英; anh Châu Hải Đường đọc là chữ Nghiệp 業tôi đọc là chữ Thực 實. Bài số 2 anh Châu Hải Đường đọc khác tôi ở chữ Hàn 韓;tôi đọc là chữ Vĩ 韪. Cám ơn anh Châu Hải Đường và bạn Hoàng Liên. Cho phép tôi copy để cùng thưởng thức.
Báo cáo các bác, em đã nhờ được dịch giả Châu Hải Đường dịch giúp nhà em 2 bức hoành treo trước buồng thờ ở nhà ngoại.
Đó là 2 bài thơ mà cụ nội em (cụ Hoàng Thúc Hội) được tặng bởi người em trai (cụ Hoàng Quý Thông) và người học trò (cụ Nguyễn Đặng Huỳnh). Cụ Hoàng Quý Thông là cụ ngoại của anh Trần Minh Hải, người có nhiều bài viết và tranh vẽ công phu trên các trang Facebook gần đây về các câu chuyện xưa.
Xin đa tạ Châu Hải Đường tiên sinh! (là em bắt chước cách xưng hô ngày xưa)😊 Xin trân trọng mời anh và anh Trần Minh Hải cùng những ai quan tâm đến chuyện xưa, đến thăm tệ xá nhà em ở làng Cót vào 1 ngày gần đây ạ! 😍
Nội dung bài thơ của cụ Hoàng Quý Thông ạ:
己巳孟冬
飄搖風雨幾番來;
載重家門一柱材。
隆棟祇今皆積累;
充閭他日此胚胎。
李桃共敘芳園樂;
松菊宜於晚節開。
老業精深衣鉢在。
就中間架見心裁。
(行四家弟記事七品文階季通拜題)
(Kỷ tị mạnh đông)
Phiêu diêu phong vũ kỷ phiên lai;
Tải trọng gia môn nhất trụ tài.
Long đống chi kim giai tích lũy;
Sung lư tha nhật thử phôi thai.
Lý đào cộng tự phương viên lạc;
Tùng cúc nghi ư vãn tiết khai.
Lão nghiệp tinh thâm y bát tại;
Tựu trung gian giá kiến tâm tài.
(Hàng tứ gia đệ Ký sự thất phẩm văn giai Quý Thông bái đề)
Dịch nghĩa:
(Tháng đầu đông năm Kỷ tị (1929)
Phiêu diêu mưa gió mấy phen lại đây;
Chở nặng, gia đình nhờ ở một cây cột chống.
Tài lương đống, đến nay đều nhờ bởi tích lũy bao ngày;
Vẻ vang gia tộc, ngày sau sẽ phôi thai từ đây.
Đào mận cùng nêu cảnh vui nơi vườn thơm;
Tùng cúc hợp với việc nở muộn,
Nghiệp cũ tinh thâm y bát (ý nói truyền thừa) vẫn còn;
Xem kết cấu bố trí trong đó, có thể thấy được tâm ý sắp đặt.
(Em hàng thứ tư là Ký sự thất phẩm văn giai Quý Thông bái đề)
Và nội dung bài thơ của cụ Nguyễn Đặng Huỳnh:
保大四年己巳秋
蘇水鍾奇氣;
香飄桂樹花。
詩書傳世業;
簪紱大方家。
清絕層霄露;
汪然千頃波。
神仙真骨相;
士願識韓多。
(侍生山石金平阮鄧熒拜)
(Bảo Đại tứ niên Kỷ tị thu)
Tô thủy chung kỳ khí;
Hương phiêu quế thụ hoa.
Thi thư truyền thế nghiệp;
Trâm phất đại phương gia.
Thanh tuyệt tằng tiêu lộ;
Uông nhiên thiên khoảnh ba.
Thần tiên chân cốt tướng;
Sĩ nguyện thức Hàn đa.
(Thị sinh Sơn Thạch Kim Bình Nguyễn Đặng Huỳnh bái!)
Dịch nghĩa:
(Mùa thu năm Kỷ tị, Bảo Đại thứ tư (1929)
Sông Tô chung đúc nên khí lạ;
Hương thơm hoa quế ngạt ngào.
Thi thư lưu truyền sự nghiệp nhiều đời;
Trâm phất (phất: dây đeo ấn. Trâm phất cũng như nói trâm anh) vốn nếp nhà dòng dõi.
Trong vắt mấy từng mây khói;
Mênh mông ngàn khoảnh sóng nước.
Thực là cốt cách của bậc thần tiên;
Biết bao kẻ sĩ mong được gặp gỡ quen biết.
(Học trò Sơn Thạch Kim Bình Nguyễn Đặng Huỳnh bái tạ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét