HOÀNH PHI –
CÂU ĐỐI
ĐỀN VÀ - Sơn Tây
Câu đối ở Nghi môn (7 đôi)
1. 顯于西巨鎮巍峨天並壽
出乎震故宮赫赫日同光
Âm: Hiển vu Tây, cự trấn nguy nga thiên tịnh thọ
Xuất hồ Chấn[1],
cố cung hách hách nhật đồng quang.
Nghĩa: Hiển ở Tây, trấn lớn nguy nga, thọ sánh với trời;
Ra ở Chấn (Đông), cung xưa rực rỡ, sáng cùng vầng nhật
Hiển
ở Tây, trấn lớn nguy nga cùng trời thọ
Ra tại
Đông, cung xưa rực rỡ với nhật quang
2. 天柱賴以尊雲徹三峰開帝宅
聖澤流無盡龍泉一水到人間
Âm: Thiên
trụ lại dĩ tôn[2],
vân triệt tam phong khai đế trạch[3]
Thánh trạch lưu vô tận, long
tuyền nhất thủy đáo nhân gian.
Nghĩa: Cột trời nhờ đó mà tôn, ba ngọn mây
thông mở ra Đế trạch;
Ơn Thánh tuôn chảy vô tận, một dòng long thủy khắp nhân gian.
Cột
trời đấy mà tôn, ba đỉnh chọc mây ơn thánh đế
Thánh
ân còn vô tận, một dòng long mạch khắp nhân gian
3. 當與山俱傳赫赫靈聲千古仰
維有天在上巍巍氣象五雲低
Âm: Đương
dữ sơn câu truyền, hách hách linh thanh[4]
thiên cổ ngưỡng
Duy hữu thiên tại thượng,
nguy nguy khí tượng ngũ vân đê[5].
Nghĩa: [Thánh]
với núi cùng truyền, lừng lẫy tiếng thiêng, nghìn đời chiêm ngưỡng.
[Thánh] chỉ có trời ở trên, lồng lộng khí tượng, năm mây thấp buông.
Danh với núi cùng
truyền, lừng lẫy linh thiêng muôn thủa kính
Chỉ có trời ở trên, bừng
bừng khí tượng sắc năm mây
4. 越丁黎李陳以迄于今南國山河並壽
經風雨晦冥依然猶昨東宮草木長春
Âm: Việt
Đinh Lê Lý Trần dĩ hất vu kim, Nam quốc sơn hà tịnh thọ,
Kinh phong vũ hối minh y
nhiên do tạc, Đông cung thảo mộc
trường xuân.
Nghĩa: Trải
Đinh Lê Lý Trần cho đến ngày nay, (Thánh) cùng thọ với nước Nam sông núi,
Qua gió mưa tối tăm vẫn nguyên như cũ, cây cỏ Đông Cung mãi mãi xuân.
Trải Đinh Lê Lý Trần
đến nay, sông núi nước nam còn mãi
Giãi mưa gió tháng
ngày cũng thế, Đông cung cây cỏ vẫn tươi
5. 屹宇宙之巍峨麗日棟連雲扉造啟別留乾淨地
補乾坤之齧鈌潦麥晴槁苗雨精靈能挽太和天
Âm: Ngật vũ trụ chi nguy nga, lệ nhật đống, liên
vân phi, tạo khải biệt lưu can tịnh địa.
Bổ càn khôn chi khiết khuyết, lạo mạch
tình, cảo miêu vũ, tinh linh năng vãn thái hòa thiên.
Nghĩa: Sừng
sững nguy nga trong vũ trụ, cột liền trời, cửa liền mây, mở dựng còn riêng một
nơi thanh tịnh;
Bổ
vào thiếu khuyết của trời đất, tạnh lúa lụt, mưa mạ khô, tinh linh có thể kéo lại
trời thái hòa.
Đứng nguy nga giữa vũ trụ, cột liền trời,
cửa liền mây, thanh tịnh còn lưu miền mở dựng;
Bổ thiếu
khuyết của trời đất, tạnh lúa lụt, mưa mạ khô, thái hòa kéo lại bởi tinh linh.
6. 一簇[…] […]迴海水
百花銅柱峙炎邦
Âm: Nhất
thốc [….][6]
hồi hải thủy
Bách hoa đồng trụ trĩ Viêm
bang.
Nghĩa: Một cụm …. tuôn về biển nước,
Trăm hoa đồng trụ sừng sững Viêm bang [7].
Một
cụm tuôn về biển lớn
Trăm
hoa đồng trụ nước nam
7. 闢地開天靈跡永傳今史冊
捍災恤患神功再造此山河
Âm: Tịch
địa khai thiên, linh tích vĩnh truyền kim sử sách
Hãn tai tuất hoạn, thần công
tái tạo thử sơn hà.
Nghĩa: Mở mang đất trời, dấu thiêng mãi truyền
trang sử mới
Cứu trừ tai hoạn, công thần tái tạo núi sông này.
Đất
mở trời khai, dấu thiên còn truyền nay sử sách
Cứu
tai trừ hoạn, công thần gây dựng núi
sông đây
Câu đối ở Gác trống (2 đôi)
1. Tầng trên
鴻圖開百粵
署色壯三邊
Âm: Hồng
đồ khai Bách Việt
Thự sắc tráng tam biên[8]
Nghĩa: Cơ đồ lớn mở mang Bách Việt
Ánh bình minh mạnh vững ba vùng.
Bách
Việt cơ đồ mở
Ba
cõi rạng bình minh
2. Tầng dưới
淅 水縈迴外
山雲指顧間
Âm: Tích[9]
thủy oanh hồi ngoại
Sơn vân chỉ cố gian
Nghĩa: Dòng Tích Giang bên ngoài uốn khúc
Dáng núi mây quanh quất tẩm nhìn.
Câu đối ở Gác chuông (2 đôi)
1. Tầng trên
鏗鏘存古典
論樂有元音
Âm: Khanh
tương tồn cổ điển
Luận nhạc
hữu nguyên âm[10].
Nghĩa: Ngân nga lưu điển cũ
Cung bậc rõ nguyên âm
2. Tầng dưới
聲也能夏必大
聽之終和且平
Âm: Thanh
dã, năng hạ tất đại[11]
Thính chi, chung hòa thả
bình[12]
Nghĩa: Âm thanh, có thể phát xuất âm thanh của Hoa Hạ ắt sẽ to lớn
Nghe rồi, rút cục được hòa và bình
Âm thanh, của
lễ nhạc thì lớn thay
Tiềng nghe,
kết thúc hòa mà lại bình
Câu đối ở Hữu mạc (1 đôi)
1. 酒邀江口月
琴弄岸頭風
Âm: Tửu
yêu giang khẩu nguyệt
Cầm lộng ngạn đầu phong.
Nghĩa: Cửa sông trăng mời rượu
Đầu núi gió gẩy đàn
Hoành phi treo ở Tiền tế (14
bức)
1. 南天聖祖
啟定八年 秋
沐恩從善縣知縣舉人阮陳謨拜薦
Âm: Nam
thiên Thánh tổ
Khải Định bát
niên, thu.
Mộc ân Tùng Thiện
huyện, Tri huyện Cử nhân Nguyễn Trần Mô bái tiến.
Nghĩa: Thánh tổ cõi trời Nam
Mùa thu năm Khải Định 8 (1923)
[Người] gội ơn: Cử nhân Nguyễn Trần Mô, Tri huyện huyện Tùng Thiện bái tiến.
2. 出乎震
成泰甲辰孟冬穀旦奉北寧牛渚萬盆號恭進
Âm: Xuất
hồ Chấn
Thành Thái Giáp
Thìn Mạnh đông cốc đán,
Phụng Bắc Ninh
Ngưu Chử Vạn Bồn hiệu cung tiến.
Nghĩa: [Đế] ra từ Chấn[13]
Ngày lành tháng 10 năm Giáp Thìn (1904) niên hiệu Thành Thái.
Hiệu Ngưu Chử Vạn Bồn ở Bắc Ninh cung tiến.
3. 生而為英
啟定丁巳年秋月. 東溪沐恩弟子吳王梠拜進
Âm: Sinh
nhi vi anh
Khải Định Đinh Tỵ
niên, thu nguyệt.
Đông Khê mộc ân
đệ tử Ngô Vương Lữ bái tiến.
Nghĩa: Sinh ra thành người xuất chúng.
Tháng 8 năm Đinh Tỵ (1917) niên hiệu Khải Định.
Đệ tử gội ơn Ngô Vương Lữ, người Đông Khê bái tiến.
4. 山與天齊
保大丙子季春國威府知府潘維楫教授陳黎仁仝拜
Âm: Sơn
dữ thiên tề
Bảo Đại Bính Tý
quý xuân.
Quốc Oai phủ,
Tri phủ Phan Duy Tiếp, Giáo thụ Trần Lê Nhân đồng bái.
Nghĩa: Núi cao ngang trời
Cuối xuân, tháng 3 năm Bính Tý (1936) niên hiệu Bảo Đại
Tri phủ phủ Quốc
Oai Phan Duy Tiếp; Giáo thụ [phủ Quốc Oai] Trần Lê Nhân cùng tiến dâng.
5. 浩氣長存
壬午夏日穀旦河內華僑粵帮代表關熾亨敬酬
Âm: Hạo khí trường tồn
Nhâm Ngọ hạ nhật, cốc đán.
Hà Nội Hoa kiều Việt bang đại biểu Quan Xí Hanh kính thù.
Nghĩa: Khí hạo nhiên còn mãi[14]
Ngày lành mùa hè năm Nhâm Ngọ
(1942)
Đại biểu Hoa kiều Việt bang ở Hà Nội,
Quan Xí Hanh kính tạ.
6. 傘領鍾靈
保大戊辰夏 沐恩河內姜林號拜進
Âm: Tản Lĩnh chung linh
Bảo Đại Mậu Thìn hạ. Mộc ân Hà Nội Khương Lâm hiệu bái tiến.
Nghĩa: Non Tản tụ khí thiêng.
Mùa hạ năm Mậu Thìn, niên hiệu
Bảo Đại (1928).
Hiệu Mỹ Lâm ở Hà Nội bái tiến.
7. 樓宇神工
維新玖年 夏先朗知縣陶有瑰拜進
Âm: Lâu vũ thần công
Duy Tân cửu niên, Hạ. Tiên Lãng Tri huyện Đào Hữu Khôi bái tiến.
Nghĩa: Lầu gác (có bàn tay) thần tạo dựng
Mùa hạ năm Duy Tân 9 (1915)
Đào Hữu Khôi, Tri huyện huyện Tiên
Lãng bái tiến.
8. 壽同天
保大甲申年
海寧省南案座參佐錄事陶世興拜進
Âm: Thọ đồng thiên
Bảo Đại Giáp Thân niên.
Hải Ninh tỉnh, Nam án tòa Tham tá lục sự Đào Thế Hưng bái tiền.
Nghĩa: Thọ cùng trời
Năm Giáp Thân (1944), niên hiệu Bảo
Đại.
Tham tá tòa Lục sự Đào Thế Hưng,
tòa Nam án tỉnh Hải Ninh bái tiến.
9. 靈應助威
保大癸未春
山西飛機團副管:枚文安,阮潘京,杜名浴仝拜進
Âm: Linh ứng trợ uy
Bảo Đại Quý Mùi, Xuân. Sơn Tây Phi cơ đoàn Phó quản: Mai Văn An, Nguyễn
Phan Kinh, Đỗ Danh Dục đồng bái tiến
Nghĩa: Cảm ứng linh thiêng trợ thêm uy vũ
Mùa xuân năm Quý Mùi, niên hiệu Bảo
Đại (1943)
[Các] Phó quản Đoàn Phi cơ Sơn Tây: Mai Văn An, Nguyễn
Phan Kinh, Đỗ Danh Dục cùng bái tiến.
10. 岳降精英
保大七年秋
河東清威巨陀:巨 江武文新 ,巨祥丁文說
拜進
Âm: Nhạc giáng tinh anh
Bảo Đại thất niên thu
Hà Đông, Thanh Oai, Cự Đà: Cự Giang Vũ Văn Tân, Cự Tường Đinh Văn Thuyết
bái tiến.
Nghĩa: Núi giáng tinh anh[15].
Mùa thu năm Bảo Đại 7 (1932)
Cự Giang Vũ Văn Tân, Cự Tường Đinh Văn Thuyết, [làng]
Cự Đà, [huyện] Thanh Oai, [ tỉnh] Hà Đông bái tiến.
11. 天地大德
維新乙卯秋
海陽雙台何文成恭進
Âm: Thiên địa đại đức
Duy Tân Ất Mão, thu.
Hải Dương, Song Thai Hà Văn Thành cung tiến.
Nghĩa: Đức lớn của trời đất[16].
Mùa thu năm Ất Mão (1915) niên hiệu
Duy Tân;
Song Thai Hà Văn Thành , [tỉnh] Hải
Dương cung tiến.
12. 與參天
保大辛巳春
山西阜亭潘仲淹拜薦
Âm: Dữ tham thiên
Bảo Đại Tân Tỵ, xuân.
Sơn Tây, Phụ Đình Phan Trọng Yêm bái tiến.
Nghĩa: Tham hợp với Trời[17].
Mùa xuân năm Tân Tỵ (1941) niên hiệu
Bảo Đại
Phụ Đình Phan Trọng Yêm, [tỉnh] Sơn
Tây bái tiến.
13. 嶽降
龍飛乙酉仲秋
Âm: Nhạc giáng
Long phi Ất Dậu trọng thu.
Nghĩa: Núi giáng Thần[18]
Tháng 8 năm Ất Dậu.
14. 山英
維新甲寅夏
本省前肅甫黎文誰拜進
Âm: Sơn anh
Duy Tân Giáp Dần, hạ.
Bản tỉnh, Tiền Túc phố, Lê Văn Thùy bái tiến.
Nghĩa: Tinh anh của núi.
Mùa hạ năm Giáp Dần (1914)
niên hiệu Duy Tân
Lê Văn Thùy, phố Tiền Túc, bản
tỉnh bái tiến.
Câu đối ở Tiền tế (18 đôi)
1. 西傘東宮此地巡遊傳異跡
左書右杖參天神化福同人
保大十年秋總督加尚書銜致士南元禮亭秋園潘廷槐代擬
河東青威巨陀賞授從九品文階王文利拜進
Âm: Tây Tản Đông cung, thử địa tuần du truyền dị
tích
Tả thư hữu trượng, tham thiên thần hóa phúc đồng nhân.
Bảo Đại thập niên, thu. Tổng đốc gia Thượng thư hàm, trí sĩ Nam Nguyên Lễ
Đình Thu Viên Phan Đình Hòe đại nghĩ
Hà Đông, Thanh Oai, Cự Đà thưởng thụ Tòng cửu phẩm văn giai Vương Văn Lợi
bái tiến.
Nghĩa: Núi Tản, Đông cung, đất này tuần du còn truyền dấu lạ
[Tay] trái gậy, [tay] phải sách, cùng trời thần hóa, để phúc cho dân.
Mùa thu năm Bảo Đại thứ 10 (1935) Tổng đốc gia Thượng thư hàm, trí sĩ Nam
Nguyên Lễ Đình Thu Viên Phan Đình Hòe soạn
giúp;
Tòng cửu phẩm văn giai Vương Văn Lợi ở [làng] Cự Đà, [huyện] Thanh Oai ,
[tỉnh] Hà Đông bái tiến.
Núi Tản ở Tây- cung ra ở Đông, đất ấy tuần du truyền dấu lạ
Sách thánh bên trái-gậy thần bên phải, cùng trời
tham hóa phúc muôn dân
2. 傘嶺秀重靈道德千秋昭聖跡
圓山真顯赫香煙萬世保民心
保大丁丑冬吉旦沐恩弟子山西人和堂敬送
Âm: Tản Lĩnh tú trùng linh, đạo đức thiên thu
chiêu thánh tích
Viên Sơn chân hiển hách, hương yên vạn thế bảo dân tâm.
Bảo Đại Đinh Sửu, đông, cát đán. Mộc ân đệ tử Sơn Tây, Nhân Hòa Đường
kính tống.
Nghĩa: Tản Lĩnh đẹp khí thiêng, đạo đức nghìn thu, rạng ngời dấu Thánh,
Viên Sơn thực hiển hách, khói hương muôn thưở, che chở dân tâm.
Đỉnh có tán, thiêng
càng thiêng, đạo đức nghìn thu, rạng ngời dấu Thánh
Núi hình tròn, thực
hiển hách, khói hương muôn thưở, che chở dân tâm.
Ngày tốt, mùa đông năm Đinh Sửu (1937) niên hiệu Bảo
Đại. Đệ tử gội ơn Nhân Hòa
Đường, [ở tỉnh] Sơn Tây kính cúng.
3. 傘嶺千尋揚偉烈
東宮億載仰鴻庥
辛亥冬. 山西使座判事杜廷善奉進
Âm: Tản Lĩnh thiên tầm dương vĩ liệt
Đông cung ức tải ngưỡng hồng hưu.
Tân Hợi đông. Sơn Tây Sứ tòa Phán sự
Đỗ Đình Thiện phụng tiến.
Nghĩa: Non Tản nghìn tầm nêu nghiệp lớn,
Cung Đông vạn thuở ngưỡng ơn lành.
Mùa đông năm Tân Hợi.
Phán sự ở Tòa sứ Sơn Tây Đỗ Đình Thiện phụng dâng.
4. 有宇宙有此山地接傘圆宮是廟
在左右在其上世從鴻貉聖而仙
維新己酉夏北圻 使院一項通判笵廷進恭進
Âm: Hữu vũ trụ, hữu thử sơn, địa tiếp Tản Viên, cung thị miếu
Tại tả hữu, tại kỳ
thượng, thế tùng Hồng Lạc thánh nhi tiên
Duy
Tân Kỷ Dậu hạ. Bắc Kỳ Sứ viện nhất hạng Thông phán Phạm Đình Tiến cung tiến
Nghĩa:
Từ khi có vũ trụ, có núi đây. Đất liền
núi Tản Viên, cung ở cũng là miếu thờ
Lồng lộng cả phải trái, cả trời cao.
Đời dõi từ Hồng Lạc, vừa là thánh lại là tiên
Mùa
hè năm Kỷ Dậu, niên hiệu Duy Tân. Thông phán hạng nhất Sứ viện Bắc Kỳ là Phạm
Đình Tiến cung tiến
5. 仙龍逸史傳書杖
靈傘雄藩峙廟堂
啟定庚申春山西法越場教學陶文筆拜進
Âm: Tiên long dật sử truyền thư trượng
Linh Tản hùng phiên trĩ miếu đường
Khải Định Canh Thân, xuân. Sơn Tây Pháp – Việt trường Giáo học Đào Văn
Bút bái tiến.
Nghĩa: Rồng Tiên dật sử truyền lưu sách [ước], gậy [thần]
Non Tản trấn lớn sừng sững miếu, đền.
Rồng
Tiên sử cũ còn truyền, gậy thần, sách ước
Tản
thiêng sừng sững hùng phiên, còn miếu, còn đường.
Mùa xuân năm Canh Thân (1920) niên
hiệu Khải Định;
Giáo học trường Pháp - Việt Sơn Tây
là Đào Văn Bút bái tiến.
6. 仙杖約書傳逸史
東宮西鎮屹靈祠
保大丙子秋北寧嘉林鄧舍黎村沐恩弟子武壯猷拜進
Âm: Tiên trượng ước thư truyền dật sử
Đông cung Tây trấn ngật linh từ.
Bảo Đại Bính Tý, thu. Bắc Ninh, Gia Lâm, Đặng Xá , Lê thôn mộc ân đệ tử
Vũ Tráng Du bái tiến.
Nghĩa: Gậy tiên sách ước truyền dật sử,
Đông cung Tây trấn ngất đền thiêng.
Mùa thu năm Bính Tý, niên hiệu Bảo
Đại (1936);
Đệ tử gội ơn Vũ Tráng Du, thôn Lê, [xã] Đặng Xá Lê, [huyện]
Gia Lâm, [tỉnh] Bắc Ninh, bái tiến.
7. 青宮一脈重奇氣
傘嶺千秋仰福神
成泰浮沙社鄉長梁嶺陳道恭拜
Âm: Thanh cung nhất mạch trùng kì khí
Tản Lĩnh thiên thu ngưỡng phúc thần.
Thành Thái, Phù Sa xã Hương trưởng Lương Lĩnh Trần Đạo cung bái.
Nghĩa: Cung Đông[19] một cõi, chập chùng khí lạ
Đỉnh Tản nghìn năm, trông ngưỡng phúc thần.
[Niên hiệu] Thành Thái, Phù Sa xã Hương trưởng Lương Lĩnh Trần Đạo cung tiến.
8. 神為之靈地為之靈亦人崇為之靈屹爾東宮西鎮
山得其術水得其術即今欲得其術渺乎仙杖約書
啟定丁巳年山西巡撫裴向誠拜題
Âm: Thần vi chi linh, địa vi chi linh, diệc nhân
sùng vi chi linh,
ngật nhĩ Đông cung Tây trấn;
Sơn đắc kỳ thuật, thủy đắc kỳ thuật, tức kim dục đắc
kỳ thuật, diểu hồ Tiên trượng Ước thư.
Khải Định, Đinh Tỵ niên. Sơn Tây Tuần phủ Bùi Hướng Thành bái
đề.
Nghĩa: Thần vốn đã thiêng, đất vốn đã thiêng, thêm người sùng kính
mà thiêng, sừng sững Đông cung Tây trấn,
Núi được phép thuật, nước được phép thuật, đến nay lại muốn phép thuật, một vùng sách ước, gậy tiên.
Năm Đinh Tỵ, niên hiệu Khải Định (1917). Tuần phủ Sơn Tây Bùi Hướng Thành
bái đề.
9. 基跡自鴻朝西嶺風雲傳奕廟
顯靈先越甸南天草木浹餘波
Âm: Cơ tích tự Hồng triều, Tây lĩnh phong vân
truyền dịch miếu
Hiển linh tiên Việt điện, Nam thiên thảo mộc tiếp dư ba.
Nghĩa: Nền móng từ triều Hồng Bàng, mây gió núi Tây truyền miếu lớn
Hiển linh [hàng] đầu đất Việt, trời Nam cây cỏ nhuần thấm ơn sâu.
Nền móng tự Hồng
Bàng, mây gió núi Tây truyền miếu lớn
Hiển linh đầu đất Việt,
trời Nam cây cỏ thấm ơn sâu.
10. 巍峨西土嵩維嶽
陟降東宮聖乃神
保大辛巳秋山西南戶從九品百戶黃文益拜進
Âm: Nguy nga Tây thổ Tung duy nhạc[20]
Trắc giáng Đông cung Thánh nãi Thần
Bảo Đại Tân Tỵ thu. Sơn Tây, Nam Hộ, Tòng cửu phẩm Bá hộ Hoàng Văn Ích
bái tiến.
Nghĩa: Chót vót cõi Tây, Tung là núi,
Qua lại Đông cung, Thánh mà Thần.
Mùa thu năm Tân Tỵ (1941), niên hiệu Bảo Đại;
Nam Hộ Tòng cửu phẩm Bá hộ Hoàng Văn Ích, [tỉnh] Sơn Tây bái tiến.
11. 有生長等三天地
不死高標四聖神
沐恩山藩權充九品蔡伯玩拜
Âm: Hữu sinh trường đẳng tam thiên địa
Bất tử cao tiêu tứ thánh thần.
Mộc ân Sơn Phiên quyền sung Cửu phẩm Thái Bá Ngoạn bái.
Nghĩa: Sinh ra cùng sánh với Trời và Đất là ba
Bất tử đứng đầu trong bốn vị Thánh Thần.
[Người được] gội ơn là Sơn Phiên, quyền sung Cửu phẩm Thái Bá Ngoạn bái.
Có sinh cùng sánh trời và đất
Chẳng chết nêu cao bốn thánh thần
12. 煦育深恩拭目東宮紅日近
鬱蔥佳氣擡頭西嶺絳雲多
保大癸酉秋本省石金遯亭沐恩弟子武文叁偕兒武文𧉻武玉蝀武登瀛拜進
Âm: Hú dục thâm ân, thức mục Đông cung hồng nhật
cận
Uất thông giai khí, đài đầu Tây lĩnh giáng vân đa.
Bảo Đại Quý Dậu, thu. Bản tỉnh, Thạch Kim, Độn Đình mộc ân đệ tử Vũ Văn
Tam; hài nhi: Vũ Văn Bạng, Vũ Văn Đông, Vũ Đăng Doanh bái tiến.
Nghĩa: Nồng ấm ơn sâu dưỡng dục, lau mắt nhìn Đông cung vầng hồng gần sát,
Kết tụ khí lành tươi tốt, ngẩng đầu trông núi Tản mây tía bao trùm.
Mùa thu năm Quý Dậu, niên hiệu Bảo Đại (1933). Đệ tử gội ơn là Vũ Văn
Tam; các con: Vũ Văn Bạng, Vũ Văn Đông, Vũ Đăng Doanh bái tiến.
13. 千秋鴻貉兩故化一故神民之初生其跡特異
一簇行臺夢可祈籤可卜山不在高有仙則名
維新辛亥冬山西記室翰林阮有定供進
Âm: Thiên
thu Hồng Lạc, lưỡng cố hóa, nhất cố thần[21],
dân chi sơ sinh, kỳ tích đặc dị
Nhất thốc
hành đài, mộng khả kỳ, tiêm khả bốc, sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh[22].
Duy Tân Tân Hợi, đông. Sơn Tây Ký thất Hàn lâm Nguyễn Hữu Định cúng tiến.
Nghĩa: Nghìn thu Hồng Lạc, có hai nên hóa, họp một nên thần, từ thuở sinh dân, đã lưu dấu lạ.
Một cụm lâu đài, mộng có thể cầu, quẻ có thể bói, núi không tại cao, có tiên thì thiêng.
Mùa đông năm Tân Hợi, niên hiệu Duy Tân (1911). Thư ký Hàn lâm Nguyễn Hữu
Định ở [tỉnh] Sơn Tây cúng tiến.
14. 真身降世無生沒
寰海從今有鬼神
啟定元年仲冬山西法越教學潘文德恭進
Âm: Chân thân giáng thế vô sinh một
Hoàn hải tòng kim hữu quỷ thần.
Khải Định nguyên niên, trọng đông. Sơn Tây Pháp – Việt Giáo học Phan Văn
Đức cung tiến.
Nghĩa: Chân thân giáng thế không sinh tử!
Hải nội từ nay có quỷ thần.
Tháng giữa đông [tháng 11], năm Khải
Định thứ nhất (1916).
Giáo học trường Pháp - Việt Sơn Tây
là Phan Văn Đức cung tiến.
15. 神降東宮靈莫測
山標西鎮仰彌高
保大十九年寧平省嘉遠縣提谷總玉珥社弟子高文俚拜進
Âm: Thần giáng Đông cung linh mạc trắc
Sơn tiêu Tây trấn ngưỡng di cao.
Bảo Đại thập cửu niên. Ninh Bình tỉnh, Gia Viễn huyện, Đề Cốc tổng, Ngọc
Nhị xã, đệ tử Cao Văn Lý bái tiến.
Nghĩa: Cung Đông thần giáng, linh thiêng khó biết
Trấn Tây núi dựng, ngưỡng trông càng cao[23].
Năm Bảo Đại thứ 19 (1944). Đệ tử Cao Văn Lý, xã Ngọc Nhị, tổng Đề Cốc,
huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình bái tiến.
16. 萬古靈聲扶宇宙
千秋青史顯勳名
啟定元年孟春本省從善縣右美舖充商政座率隊范廷亨電報座范廷利仝 拜 進
Âm: Vạn cổ linh thanh phù vũ trụ
Thiên thu thanh sử hiển huân danh.
Khải Định nguyên niên, mạnh xuân. Bản tỉnh, Tùng Thiện huyện, Hữu Mỹ phố,
sung Thương Chánh tòa Suất đội Phạm Đình Hanh, Điện báo tòa Phạm Đình Lợi đồng
bái tiền.
Nghĩa: Vạn thuở tiếng thiêng đỡ nâng vũ trụ
Nghìn năm sử sách rạng rỡ huân danh.
Tháng Giêng, niên hiệu Khải Định năm đầu (1916). Suất đội Phạm Đình Hanh
[làm việc tại] Thương Chánh tòa, Phạm Đình Lợi [làm việc tại] Điện báo tòa, phố
Hữu Mỹ, huyện Tùng Thiện, tỉnh nhà đồng bái tiến.
17. 靈聲赫濯瀘南北
正氣昭焄傘古今
Âm: Linh thanh hách trạc Lô nam bắc
Chính khí chiêu huân Tản cổ kim[24]
Nghĩa: Nam bắc sông Lô, tiếng thiêng hiển hách
Xưa nay non Tản, chính khí tỏ ngời.
18. 滿地草花皆聖澤
一天維柱在名山
成泰甲辰冬
浮沙社鄉長梁嶺陳道恭拜
Âm: Mãn địa thảo hoa giai thánh trạch
Nhất thiên duy trụ tại danh sơn.
Nghĩa: Rợp đất cỏ hoa nhuần ơn thánh
Giữa trời sừng sững một non cao.
Mùa đông năm Giáp Thìn (1904) niên hiệu Thành Thái,
Hương trưởng xã Phù Sa là Lương Lĩnh Trần Đạo cung tiến.
Hoành phi treo ở Trung cung và hậu cung (4 đôi)
1. 嶽降神
保大壬午秋
沐恩弟子炮製科藥士裴伯慶恭進
Âm: Nhạc giáng thần[25]
Bảo Đại Nhâm Ngọ, thu.
Mộc ân đệ tử: Bào chế khoa Dược sĩ Bùi Bá Khánh cung tiến.
Nghĩa: Núi giáng Thần
Mùa xuân năm Nhâm Ngọ (1942) niên hiệu Bảo Đại.
Đệ tử gội ơn Dược sĩ khoa Bào chế Bùi Bá Khánh cung tiến.
2. 萬古英靈
Vạn cổ anh linh
Linh thiêng muôn thửa
3. 無山與齊
與天地之參
成泰戊戌春
Âm: Dữ thiên địa chi tam
Thành Thái Mậu Tuất, Xuân.
Nghĩa: Cùng với Trời, Đất ba ngôi
Mùa xuân năm Mậu Tuất, niên hiệu Thành Thái (1898)
4. 上等最靈
嗣德癸未年造
Âm: Thượng đẳng tối linh
Tự Đức Quý Mùi niên tạo.
Nghĩa: Thượng đẳng tối linh (Linh thiêng bậc nhất)
Tạo năm Quý Mùi (1883) niên hiệu Tự Đức.
Câu đối ở Trung cung và Hậu cung (13 đôi)
1. 不死有神名北地
厥生為祖蓋南天
山西布政使 卑武科奉上
Âm: Bất tử hữu thần danh Bắc địa
Quyết sinh vi tổ cái Nam thiên.
Sơn Tây Bố chánh sứ ty Vũ Khoa phụng thướng.
Nghĩa: Bất tử bậc thần tiên, nổi danh đất Bắc
Sinh thành làm Thánh tổ, trùm khắp trời Nam.
Vũ Khoa, Ty Bố chánh sứ Sơn Tây phụng dâng.
2. 不死英聲騰海北
有生灝氣聳山南
成泰己丑冬
Âm: Bất tử anh thanh đằng hải Bắc
Hữu sinh hạo khí tủng sơn Nam.
Nghĩa: Tiếng thiêng bất tử vang biển Bắc
Hạo khí sinh thành dậy non Nam.
Mùa đông năm Kỷ Sửu (1889) niên hiệu
Thành Thái.
3. 神書仙 杖多詒福
國祭朝封用享山
嗣德己丑春
福壽縣南安社阮惟芻恭薦
Âm: Thần thư tiên trượng, đa di phúc
Quốc tế triều phong, dụng hưởng sơn[26]
Tự Đức Ất Mão, xuân.
Phúc Thọ huyện, Nam An xã Nguyễn Duy Trâu cung tiến.
Nghĩa: Sách Thần, gậy Tiên, ban cho nhiều phúc
Vua phong, quốc tế, thờ tự sơn thần
Mùa xuân năm Ất Sửu, niên hiệu Tự Đức (1865).
Nguyễn Duy Trâu, xã Nam An, huyện Phúc Thọ cung tiến.
4. 鐵杖顯靈傳外史
金錢表異自前唐
沐恩山藩權玖品蔡伯玩
沐恩阮廷榜恭進
Âm: Thiết trượng hiển linh truyền ngoại sử
Kim tiền biểu dị tự tiền Đường.
Mộc ân Sơn phiên quyền Cửu phẩm Thái Bá Ngoạn,
Mộc ân Nguyễn Đình Bảng cung tiến
Nghĩa: Gậy sắt hiển linh truyền ngoại sử
Vàng tiền chuyện lạ tự thời Đường[27].
[Người] gội ơn Sơn phiên, quyền Cửu phẩm Thái Bá Ngoạn;
[Người] gội ơn Nguyễn Đình Bảng cung tiến.
5. 參天地為三兩國褒封三上等
四聖神第一東宮陟降一靈祠
嗣德庚午
雲遮村權充率隊馮文龍恭進
Âm: Tham thiên địa vi tam, lưỡng quốc bao phong
tam thượng đẳng
Tứ thánh thần đệ nhất, Đông cung trắc giáng nhất linh từ.
Nghĩa: Cùng Trời - Đất là ba, hai nước tặng phong ba ngôi thượng đẳng
Đứng đầu Tứ Bất tử, Đông cung hiển hiện một đền thiêng.
Tự Đức Canh Ngọ.
Vân Già thôn, quyền sung Suất đội Phùng Văn Long cung tiến.
6. 真形 斗峭橫空立
灝氣光芒萬古存
成泰甲午冬
沐恩弟子福壽縣衙通吏杜樸恭進
Âm: Chân hình đẩu tiễu hoành không lập
Hạo khí quang mang vạn cổ tồn.
Thành Thái Giáp
Ngọ, đông.
Mộc ân đệ tử
Phúc Thọ huyện nha, Thông lại Đỗ Phác cung tiến.
Nghĩa: Dáng hình sừng sững ngang trời rộng
Hạo khí mênh mông vạn thuở còn.
Mùa đông năm
Giáp Ngọ (1894) niên hiệu Thành Thái.
Đệ tử gội ơn
Thông lại Đỗ Phác ở nha huyện Phúc Thọ cung tiến.
7. 全圖山岳尊無對
降世神仙跡尚傳
成泰戊戌春
光祿寺卿領山西按察使黎輝番拜
Âm: Toàn đồ sơn nhạc, tôn vô đối
Giáng thế thần tiên, tích thượng tồn
Thành Thái Mậu Tuất, xuân.
Quang lộc Tự khanh, lĩnh Sơn Tây Án sát
sứ Lê Huy Phiên bái.
Nghĩa: Toàn
bức núi non, tôn kính không gì sánh được,
Thần
tiên giáng thế, sự tích vẫn lưu truyền.
Mùa xuân
năm Mậu Tuất, niên hiệu Thành Thái (1898),
Quang lộc Tự khanh,
lĩnh Sơn Tây Án sát sứ Lê Huy Phiên bái.
8. 得一以靈傘嶽降神開粵甸
參三而立雲巖顯聖敞宸宮
成泰丁酉夏
Âm: Đắc
nhất dĩ linh[28],
Tản nhạc giáng thần khai Việt điện,
Tham tam nhi lập, vân nham
hiển thánh sưởng thần cung.
Thành Thái Đinh
Dậu, hạ.
Nghĩa: Được
một mà thiêng, Núi Tản giáng thần, mở mang cõi Việt,
Thành ba mà lập, mây ngàn hiển thánh, sáng rỡ cung
đền.
Mùa hạ năm Đinh
Dậu (1897) niên hiệu Thành Thái.
9. 傘嶺 鎮雄封洋洋在上
東宮留祀典濯濯厥靈
成泰己亥秋沐恩弟子山藩九品高得四恭進
Âm: Tản
Lĩnh trấn hùng uy, dương dương tại thượng
Đông cung lưu tự điển, trạc
trạc quyết linh[29]
Thành Thái Kỷ Hợi,
thu.
Mộc ân đệ tử Sơn
phiên Cửu phẩm Cao Đắc Tứ cung tiến.
Nghĩa: Tản Lĩnh trấn oai hùng, rạng rỡ ở trên
cao,
Đông cung lưu điển lễ, hiển hách linh thiêng.
Mùa thu năm Kỷ Hợi,
niên hiệu Thành Thái (1899),
Đệ tử gội ơn Sơn
phiên Cửu phẩm Cao Đắc Tứ cung tiến.
10. 雄貉山河大南國
傘圓雲雨故東宮
啟定元年秋
扶龍社阮揆拜
Âm: Hùng
Lạc sơn hà Đại Nam quốc
Tản Viên vân vũ cố Đông
cung.
Khải Định nguyên
niên, thu.
Phù Long xã Nguyễn
Quỹ bái.
Nghĩa: Nước Nam Việt, núi sông Hùng Lạc
Đông cung xưa, mây gió Tản Viên.
Mùa thu năm Khải Định thứ nhất (1916).
Nguyễn Quỹ, người xã Phù Long bái tiến.
11. 龍則靈仙則名書杖餘威雄貉後
雝在宮肅在廟堂壇古色傘圓東
成泰戊戌春
山西電報座通事阮德清 拜進
Âm: Long
tắc linh, tiên tắc danh[30],
thư trượng dư uy Hùng Lạc hậu
Ung tại cung, túc tại miếu[31],
đường đàn cổ sắc Tản Viên đông.
Thành Thái Mậu
Tuất, xuân.
Sơn Tây Điện báo
tòa Thông sự Nguyễn Đức Thanh bái tiến.
Nghĩa: Có
rồng thì linh thiêng, có tiên thì nổi danh, gậy và sách dư uy truyền từ thời
Hùng Vương về sau
Hòa
kính trong cung đình, nghiêm trang nơi miếu điện, đền Và đài tráng lệ non Tản phía
đông.
Có rồng thì linh, có tiên thì nổi, gậy sách dư uy Hùng Lạc nối
Hòa ở cung đình, nghiêm trang ở miếu, đền Và tráng lệ Tản non đông.
Mùa xuân năm Mậu Tuất (1898) niên hiệu Thành Thái,
Nguyễn Đức Thanh, Thông sự tòa Điện báo Sơn Tây bái tiến.
12. 南天揖遜唐虞聖
西土焄高山岳神
成泰辛卯春
Âm: Nam
thiên ấp tốn Đường Ngu thánh
Tây thổ huân cao Sơn nhạc thần.
Thành Thái Tân
Mão, xuân.
Nghĩa: Trời Nam nhường lui, sánh Đường Ngu
Xứ Đoài thờ phụng, giáng sơn thần.
Mùa
xuân năm Tân Mão, niên hiệu Thành Thái (1891).
13. 天地與之参
一居才其壹
沐恩山番權充九品蔡伯玩拜
Âm: Thiên địa dữ chi tam
Nhất cư tài kỳ nhất
Mộc ân Sơn phiên quyền Cửu phẩm Thái Bá Ngoạn bái.
Nghĩa: Cùng trời và đất làm ba ngôi
Trong tam tài, đứng thứ nhất
[Người]
gội ơn Sơn phiên, quyền Cửu phẩm Thái Bá Ngoạn bái.
Cùng
trời-đất, làm ba ngôi
Trong
tam tài, đứng thứ nhất
Ngoài ra còn một đôi câu đối chưa thấy treo trở lại sau tu bổ:
奠粵神功千萬古
歸山仙跡十三宣
龍飛己丑春平江鄒溪黃同石恭進
Âm: Điện Việt, thần công thiên vạn cổ
Quy sơn, tiên tích thập tam tuyên[32].
Long phi Kỷ Sửu, xuân. Bình Giang,
Châu Khê Hoàng Đồng Thạch cung tiến.
Nghĩa: Trị yên nước Việt, công thần còn lưu muôn thuở
Châu tuần về núi, dấu tiên mười ba thừa tuyên
Mùa xuân năm Kỷ Sửu rồng bay.
Hoàng Đồng Thạch, [xã] Châu Khê, [huyện] Bình Giang cung tiến.
Câu đối chép trong Tản Viên Sơn Thánh sự tích (8 đôi)
1. 德澤大同洮水洞
功名長與傘山高
Âm: Đức trạch đại đồng Thao thủy động
Công danh trường dữ Tản sơn cao.
Nghĩa: Ân đức lớn cùng dòng Thao thông suốt
Công danh mãi sánh núi Tản cao vời.
2. 威靈濯濯洮之北
功德巍巍傘以南
Âm: Uy linh trạc trạc Thao chi Bắc
Công đức nguy nguy Tản dĩ Nam.
Nghĩa: Uy linh lừng lẫy mạn bắc sông Thao,
Công đức vời vợi phía nam núi Tản.
3. 仙杖約書今古曠
鰲山鯨海德功如
Âm: Tiên trượng ước thư kim cổ khoáng
Ngao sơn kình hải đức công như.
Nghĩa: Gậy tiên sách ước xưa nay không ai có
Núi ngao bể kình đức độ sánh ngang bằng.
4. 神聖聲靈窮地北
德功高厚冠天南
Âm: Thần thánh thanh linh cùng địa bắc
Đức công cao hậu quán thiên nam.
Nghĩa: Thần thánh linh thiêng suốt đất bắc
Công đức cao dày khắp trời nam.
5. 境土康寧蒙大德
人民安集仰嘉庥
Âm: Cảnh thổ khang ninh mông đại đức
Nhân dân an tập ngưỡng gia hưu.
Nghĩa: Cõi đất khang ninh, chịu ơn đức lớn
Nhân dân an ổn, ngưỡng được phúc lành.
6. 西成東作分平秩
夏暑東寒絕怨咨
Âm: Tây thành đông tác phân bình trật[33]
Hạ thử đông hàn tuyệt oán tư.
Nghĩa: Xuân làm, thu thành tựu, phân chia trật tự
Hè nực, đông hàn lạnh, dứt tuyệt oán than.
7. 夏雨春風人傘笠
東皋南畝客耕鋤
Âm: Hạ vũ xuân phong nhân tản lạp
Đông cao Nam mẫu khách canh sừ.
Nghĩa: Gió mưa xuân hạ, người che tán
Ruộng đất đông nam khách cấy cầy.
8. 萬畝先疇風雨蕙
一臺壽域水雲村
Âm: Vạn mẫu tiên trù phong vũ huệ
Nhất đài thọ vực[34]
thủy vân thôn.
Nghĩa: Muôn mẫu ruộng xưa ơn mưa móc
Một đài cõi thọ, xóm nước mây.
[1] Xuất
hồ Chấn (Ra từ quẻ Chấn). Phần Thuyết quái trong Kinh Dịch có câu: “Đế xuất hồ
Chấn” (Thượng đế khiến cho muôn vật được sinh ra từ quẻ Chấn). Chu Dịch dịch chú của Hoàng Thọ Kỳ và
Trương Thiện Văn giải thích: “Đế là vị
chúa tể thiên nhiên dưới con mắt người xưa, ở đây chỉ nguyên khí trong mình vị
chúa tể thiên nhiên. Quẻ Chấn về phương vị tượng trưng cho hướng đông, mặt trời,
mặt trăng mọc lên từ đây; về thời tiết tượng trưng cho tiết Xuân phân, muôn vật
bắt đầu sinh ra từ lúc này, cho nên nói “đế” khiến cho muôn vật được sinh ra từ
“Chấn”. Như nói sự sống trong vũ trụ bắt đầu manh nha từ đây”.
[2] Thiên trụ lại dĩ tôn: Bài Chính khí ca của Văn Thiên Tường đời Tống
có câu: “Địa duy lại dĩ lập, thiên trụ lại
dĩ tôn. Tam cương quán hệ mệnh, đạo nghĩa vi chi căn”. Nghĩa là: Giềng đất
nhờ đó (chính khí) mà lập, cột trời nhờ đó mà tôn. Tam cương liên quan tới hệ mệnh,
đạo nghĩa là căn bản.
[3] Đế trạch: Nơi ở của Đế.
[4] Hách hách linh thanh: Thơ Ân vũ trong Thượng tụng – Kinh Thi có
câu: 赫赫厥聲濯濯厥靈Hách hách quyết thanh, trạc
trạc quyết linh (Ttiếng tốt rạng rỡ, uy linh sáng tỏ).
[5] Khấu Chuẩn người tỉnh
Sơn Tây, sống vào thời Bắc Tống, Trung Quốc. Ông sinh ra trong một gia đình
dòng dõi học hành đỗ đạt. Cha ông mất sớm nên cả gia đình phải dựa
vào công việc dệt vải của mẹ ông để sống qua ngày. Mẹ của Khấu Chuẩn thường dạy
dỗ và mong mỏi ông trở thành một người có ích bằng cách học tập chăm chỉ.
Khấu Chuẩn thông minh vượt trội hơn bạn bè đồng trang lứa. Năm 7 tuổi ông đã
sáng tác bài thơ nổi tiếng “Vịnh Hoa Sơn” trong vòng 3 bước chân:
Chỉ hữu thiên tại
thượng,
Cánh vô sơn dữ tề,
Cử đầu hồng nhật cận,
Hồi thủ bạch vân
đê.
Tạm
dịch:
Chỉ có trời là ở
trên,
Càng không có núi
sánh ngang,
Ngẩng đầu mặt trời
hồng ở gần
Ngoảnh lại mây trắng
xà xuống thấp.
Ngẩng đầu mặt trời
đỏ ở gần,
Quay đầu thấy mây
trắng dưới thấp.
Ngũ vân: Mây năm sắc, xanh,
trắng, đỏ, đen vàng.
[6] Hai chữ này chúng tôi chưa luận ra là những
chữ gì.
[7] Chưa rõ nhắc điển tích gì.
[8] Tam
biên: Đời Hán chỉ ba cõi Hung Nô, Nam Việt, Triều Tiên; Chưa
rõ ở đây Tam biên chỉ ba cõi nào.
[9] Tích thủy: Sông Tích Giang, còn gọi là
sông Con.
[10] Thơ Linh đài
– Đại Nhã - Kinh Thi: “Ô luân cổ chung, ô lạc Bích Ung (Ôi! Để đem chuông
trống hoà long người cho hợp luân lý. Ôi! Để làm vui chốn nhà học Bích Ung của
thiên tử).
[11] Sách Tả
truyện – Chiêu công năm thứ 29:
Quý Trát nghe nhạc nước Tần, khen đây là
thanh âm Hoa Hạ, mà thanh âm Hoa Hạ thì sẽ lớn! Tác giả câu đối chơi chữ,
chữ Hạ 夏cũng có
nghĩa là lớn. Đây cũng có ý nói Hoa Hạ là nơi Lễ nhạc,
văn hiến nữa
[12] Thơ Phạt mộc –Tiểu nhã - Kinh Thi có câu:
神之聽之. 終和且平Thần chi thính chi! Chung hòa thả
bình (Thần
linh lắng nghe cho, rồi sau cũng được vui hoà và bình yên). Chỉ cái ý hòa hòa vui sướng mà bình bình trúng lễ. Là cái vui
hòa mục của đạo lý lễ nhạc. Không ái ố, không dâm bi vậy.
[13] Xem
chú thích câu đối số 1 ở Nghi môn.
[14] Hạo khí, tức Hạo
nhiên chi khí. Sách Mạnh Tử - Công
Tôn Sửu: 我善養吾浩然之氣Ngã thiện dưỡng ngô hạo nhiên chi khí (Ta khéo nuôi khí hạo nhiên của ta).
[15] Thơ Tung
cao – Đại Nhã – Kinh Thi có câu:
崧 高維嶽 ,峻極于天. 維嶽 降神,生甫及申Tung cao duy nhạc, tuấn cực vu thiên. Duy
nhạc giáng thần sinh Phủ cập Thân (Tung cao là ngọn núi, cao vút đến tận trời. Vì ngọn núi cao đã cho Thần
giáng xuống, sinh ra Thân bá và Phủ hầu).
[16] Kinh Dịch – Hệ từ truyện có câu: 天地之大德曰生Thiên địa chi đại đức, viết sinh (Đức lớn của trời đất là “sinh”.
[17] Tham hợp với trời, do câu “tham tán thiên
địa chi hóa dục” trong sách Trung Dung. Chữ “Dữ”
trong bức hoành có hai cách đọc. Nếu là Dữ
thiên tham thì nghĩa là Tham hợp với trời. Nếu đọc là Dự thì nghĩa là Dự vào ngôi tham hợp với Trời.
[18] Xem chú
thích bức hoành số 10 ở Nhà Tiền tế.
[19] Phương Đông ứng với màu xanh, nên “Đông
Cung” còn gọi là “Thanh Cung”.
[20] Xem chú thích bức hoành phi số 2, Nhà Tiền
tế.
[21] Lưỡng cố hóa, nhất cố thần: Vì có hai (âm – dương) cho nên biến hóa,
vì hợp nhất (âm – dương) cho nên là Thần. Trong Tham lưỡng, sách Chính Mông của Trương Tái có câu: 一 物 兩 體 ,氣也. 一故神, 兩故化.此天地之所以參也. Nhất
vật lưỡng thể, khí dã. Nhất cố thần, lưỡng cố hóa. Thử thiên địa chi sở dĩ tham
dã (Một vật đều có hai thể (âm – dương), đó là khí. (Nhất là chỉ sự thống nhất của mặt đối lập). Hợp nhất lại là Thần, có
hai thể (âm – dương) nên hóa sinh muôn vật. (Ấy là nguyên nhân tham phối với trời
đất vậy).
[22] Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc
danh: Trong Lậu thất minh của Lưu Vũ Tích đời Đường
có câu: sơn bất tại cao, hữu tiên tắc
danh, thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh (Núi không cốt phải cao, có tiên
thì nổi danh. Nước không cốt phải sâu, có rồng thì linh thiêng).
[23] Ngưỡng di cao là chữ trong Luận ngữ - Thiên Tử Hãn: 仰之彌高,鑽之彌堅.瞻之在前,忽焉在後Ngưỡng
chi di cao, toản chi di kiên. Chiêm chi tại tiền, hốt yên tại hậu (Đạo của Khổng Tử ngửa trông thấy càng
cao, dùi vào càng thấy cứng. Mới thấy ở trước mặt, bỗng hiện ở sau lưng).
[24] Kinh
Lễ: Kỳ khí phát dương vu thượng vi chiêu minh, huân
cao, thê sảng, thị vật chi linh, thần chi trứ dã.
[25] Xem chú thích câu đối số 10 ở Nhà
Tiền tế.
[26] Dụng hưởng sơn: Hào Lục
tứ của quẻ Thăng trong Kinh
Dịch có câu: 王用享于岐 山 Vương dụng hưởng vu Kỳ Sơn (Bậc quân vương đến núi Kỳ Sơn tế tự thần
linh). Ở đây ý nói Thần Tản Viên được các bậc đế vương các đời cúng tế.
[27] Theo Tản
Viên sơn Đông thần cung tối linh từ di tích 傘 圓 山 東 宸 宫 最 靈 祠 遺 跡 thì vào thời nhà Đường, Cao Biền sang yểm
các linh mạch nước ta. Tản Viên thì không thể nào yểm được. Sau Cao Biền về nước
tâu lại chuyện đó với vua Đường Ý Tông. Vua Đường Ý Tông bèn sai người mang gạo,
tiền và vàng sang đền Và để làm lễ tế.
[28] Đạo Đức kinh có câu: 天得一以清, 地得一以寧, 神得一以靈 Thiên
đắc nhất dĩ thanh, địa đắc nhất dĩ ninh, thần đắc nhất dĩ linh (Trời được một thì trong, đất được một
thì yên, thần được một thì thiêng). “Nhất” ở đây là chỉ Đạo. Một (Nhất) là số của
Đạo. Đạo dựng ở Một.
[29] Xem chú thích câu đối số 3 ở Nghi môn.
[30] Xem chú thích câu đối số 13 ở Nhà Tiền tế.
[31] Ung tại cung, túc tại miếu: Chữ trong Kinh Thi.
[32] Thập tam tuyên: Mười ba thừa tuyên, tức 13 đơn vị hành
chính dưới thời Lê Sơ.
[33] Theo thiên Nghiêu điển – Kinh Thư: Bình trật đông tác平秩東作nghĩa là sắp xếp một cách trật tự công việc
mùa xuân. Bình trật tây thành 平秩西成nghĩa là sắp xếp một cách có trật tự công
việc thu hoạch vào mùa thu.
[34] Thọ vực: Chỉ cảnh đời thái bình thịnh thế, người
người đều được hưởng tuổi trời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét