Thứ Hai, 22 tháng 4, 2013

MINH VĂN TRÊN TẤM GƯƠNG ĐỒNG TẠI QUẢNG NINH



(Bài gửi Hội nghị Thông báo Hán Nôm  học năm 2010)

GIỚI THIỆU MINH VĂN TRÊN
TẤM GƯƠNG ĐỒNG ĐỜI HÁN MỚI PHÁT HIỆN TẠI QUẢNG NINH
Ths.Nguyễn Đức Toàn.
Phòng nghiên cứu Văn bản Văn học
Viện nghiên cứu Hán Nôm
183, Đặng Tiến Đông, Hà Nội
Trong các cổ vật bằng kim khí, Gương đồng/ Đồng Kính/銅鏡là một trong những loại cổ vật đặc trưng, tiêu biểu cho Cổ vật kim khí của Trung Quốc và Á đông. Người Trung Quốc là một trong những dân tộc chế tạo và sử dụng Gương đồng sớm nhất trên thế giới.
Việc nghiên cứu sưu tầm các Minh văn trên gương đồng có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu quá trình diễn biến và phát triển của văn tự chữ Hán. Bên cạnh đó, minh văn trên gương đồng còn được các nhà nghiên cứu văn học cổ đưa vào thể loại nghiên cứu, góp phần tìm hiểu ý thức tư tưởng thời cổ đại, là những chứng cứ trực tiếp hỗ trợ các nhà khảo cổ xác định niên đại mộ táng, hoa văn tiêu biểu của các thời kỳ, chưa kể đến những minh văn có nội dung ghi chép các sự kiện lịch sử, có giá trị tham khảo cho nghiên cứu những giai đoạn lịch sử xã hội Trung Quốc.
Gần đây, trong công tác khảo sát tại địa phương, chúng tôi mới phát hiện trong bộ sưu tập của cá nhân tại huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, được một tấm gương đồng đời Hán, với hoa văn gần như còn nguyên vẹn. Chúng tôi đã cố gắng tra cứu các tư liệu của Trung Quốc nghiên cứu về gương đồngminh văn trên gương đồng để khôi phục, giới thiệu lời minh của nó, góp phần tư liệu cho nghiên cứu Văn khắc Hán Nôm nói chung, nghiên cứu Khảo cổ học và các khoa học liên nghành khác.
Đây là chiếc gương đồng có đường kính 13,5 cm; Mặt sau gương có trang trí hoa văn chia thành nhiều lớp: Từ núm gương  ra có 1 vòng 9 nhũ đinh nhỏ (có lẽ biểu tượng cho Cửu quang九光[1]); lớp minh văn bên trong (15 chữ); hàng ngoài có 1 vòng 7 nhũ đinh lớn (có lẽ là biểu trưng của Thất diệu七耀[2]), xen kèm hình chim thú (long, phượng, hổ, báo, dê, ...); lớp minh văn bên ngoài (34 chữ) với hình trạm các múi nhọn tam giác biểu tượng các tia sáng phát ra từ trung tâm như trên các hoa văn của trống đồng; ngoài cùng là hoa văn Vân Tảo lượn sóng.
Minh văn chia thành 2 lớp:
- Lớp ngoài 34 chữ:
尚方御竟大毋傷。
刻之成文章。
左青龍右白虎辟不祥。
朱鳥玄武順陰陽。
子孫
Phiên âm:
Thượng Phương ngự kính[3] đại vô thương.
Xảo công khắc chi thành văn chương.
Tả thanh long hữu bạch hổ tịch bất tường.
Chu điểu huyền vũ thuận âm dương.
Tử tôn bị cụ.
Đại ý:
Gương ngự Thượng Phương[4] lớn không khuyết.
Thợ khéo đúc nên thành văn chương.
Tả thanh long hữu bạch hổ tránh bất tường.
Chu điểu huyền vũ thuận âm dương.
Con cháu cát tường đầy đủ.
  - Lớp trong 15 chữ:
新有善同日月而湅治銀錫清而明兮
Phiên âm:
Tân hữu thiện đồng nhật nguyệt nhi luyện trị ngân tích thanh nhi minh hề.
Đại ý:
Nhà Tân[5] có đức tốt, sánh cùng với nhật nguyệt, luyện bạc thiếc[6] trong mà sáng thay.
Minh văn trên Gương đồng này là những lời văn ngắn gọn súc tích, cầu mong những điều cát tường may mắn đến với chủ nhân. Có giá trị thông tin, cung cấp thông tin về một đơn vị quản lý và chế tạo đồ ngự dùng cho hoàng thất, quý tộc thời cổ đại tên là Thượng Phương尚方; Vòng minh văn bên trong cho ta thông tin về khoảng thời gian chế tạo gương đồng là thời Vương Mãng nắm chính quyền cuối đời Tây Hán (9 – 23 sau Công nguyên), lấy quốc hiệu là Tân ; Bên cạnh đó là chất liệu hợp kim được sử dụng để tạo gương đồng thời ấy bao gồm Ngân/Bạc Tích/Thiếc, phần nào phản ánh công nghệ chế tác luyện đúc đồng thời bấy giờ.
Tấm gương đồng thời Hán mới phát hiện tại Quảng Ninh bổ sung hiện vật cho cổ vật nước ta. Nghiên cứu sưu tầm minh văn Hán Nôm trên các chất liệu như gỗ, đá, kim loại, ngói, gốm sứ, …là công việc có ý nghĩa mà giới nghiên cứu Hán Nôm gần đây đã rất quan tâm. Việc khảo sát văn tự, phiên dịch, giải mã chúng mang giá trị khoa học không nhỏ cho nghiên cứu Hán Nôm nói chung và các nghiên cứu khác. Chúng tôi xin giới thiệu cùng độc giả.

Ảnh tấm gương đồng mới phát hiện tại Quảng Ninh
Tài liệu tham khảo
1. 劉東亞. [2007-12-26]. 漢唐銅鏡裝飾藝術概述. 河南博物院建院80週年論文集
3.《全粵詩》/目錄
4. 夢溪筆談. 卷十九/ 器用
5. 辭源. 商務印書館. 北京.2002







[1] Cửu quang: Biểu tượng mặt trời soi chiếu tứ phương, sắc thái nhiều vẻ.
[2] Thất diệu một thuyết cho là các sao: Nhật, Nguyệt, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Sách /Tố vấn có chép: 九星縣朗七耀周旋/Cửu tinh huyền lãng, thất diệu chu tuyền/ Chín sao chiếu rọi, bảy sao luân hồi.
[3] Nguyên văn là chữ Cánh. Theo phép Giả tá, thông nghĩa với chữ Kính
[4] 尚方Thượng Phương: Cơ quan quản lí chế tạo các đồ dùng trong cung đình hoàng thất thời cổ đại. Đến đời Minh mới bỏ. Cơ quan này sản xuất ra các đồ dùng cho cung đình, kính do cơ quan này làm ra gọi là Kính Thượng Phương 尚方鏡, mà về sau cụm từ Thượng phương còn được nhắc lại trong truyền thuyết về Bao Thanh thiên, được vua Tống ban cho cây Thượng phương Bảo kiếm.
[5] Nhà Tân: Triều đại của Vương Mãng (9 – 23 sau Công nguyên); Các gương đời Hán thường có chữ Hán hoặc Tân mở đầu.
[6] Phản ảnh chất liệu hợp kim đúc gương thời bấy giờ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét