Thứ Hai, 24 tháng 3, 2014

Ba bài thơ của Sứ thần An Nam chép trong thư tịch Hán văn Hàn Quốc

Chỉnh sửa bổ sung lại từ nguồn blog Đông A
http://donga01.blogspot.de/2011/06/ba-bai-tho-cua-su-gia-viet-nam-noi.html

Ba bài thơ của sứ giả Việt Nam nổi tiếng ở Triều Tiên

Trong tập thơ Tư Trai tập 思齋集 của Kim Chính Quốc金正国(김정국1485-1541), người Hàn Quốc có chép lại ba bài thơ của sứ giả Việt Nam đi sứ ở Trung Quốc. Đấy là ba bài thơ đề quán dịch Lộ Hà ở Thông Châu, ngoại thành Bắc Kinh của các sứ thần Nguyễn Lâm hiệu Nam Trân, Nguyễn Hoài Nhất, Trương Phu Duyệt hiệu Ân Thần, được các sứ giả Triều Tiên khi sang Trung Quốc đọc thấy, chép lại và mang về Triều Tiên. Cùng trang tư liệu này, tác giả họ Kim có nhắc đến hai bài tuyệt cú không rõ người nào viết, nhưng qua nội dung thì cũng có thể phỏng đoán là của nhân vật hai nước Triều Tiên – An Nam xướng họa với nhau (trước năm 1514). Nguyên văn nói đến nhân vật tên hiệu là Bá Thị, năm Bính tí đi sứ chúc mừng, đến Điểu Lĩnh, dừng nghỉ chân thấy ở ngôi đình nhỏ trên tường có 2 bài tuyệt cú đó. Có thể suy luận là thơ xướng họa của 2 nhân vật An Nam và Triều Tiên, vì lời thơ có nhắc đến các cụm từ Đông hải nho tông東海儒宗 – Lĩnh Nam lão thố嶺南老兔.

Tiếp đến năm Mậu Dần, Bá Thị vâng mệnh đi sứ, về nói chuyện lại với họ Kim (nguyên văn xưng Dư/Tôi) là ở dịch quán Lộ Hà có thơ của các sứ thần An Nam. Ba bài thơ này được người Triều Tiên coi là bằng chứng chứng tỏ Việt Nam là một quốc gia văn hiến đồng văn, và được đánh giá là "phong lưu văn nhã風流文雅". Tư Trai tập 思齋集 được khắc in vào năm 1603. Ba bài thơ được làm theo kiểu xướng họa cùng một vận. Đề mùa hạ năm Giáp Tuất, tức là năm 1514, tương ứng với năm Hồng Thuận thứ 6 triều Lê Tương Dực của Việt Nam.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Năm Hồng Thuận thứ 5 (1513), Tháng giêng, ngày 26, nhà Minh sai chánh sứ là Hàn lâm viện biên tu Trạm Nhược Thuỷ, phó sứ là Hình khoa hữu cấp sự trung Phan Hy Tăng sang sách phong vua làm An Nam Quốc Vương và ban cho một bộ áo mũ quan võ bằng da, một bộ thường phục. Tháng 2, ngày 27, vua sai Lại bộ hữu thị lang Nguyễn [21b] Trang, Hàn lâm viện kiểm khảo Nguyễn Sư (tức Nguyễn Sư Truyền), Lễ khoa cấp sự trung Trương Phu Duyệt sang nhà Minh tạ ơn sách phong và tạ ơn ban mũ áo.
Chú thích của bản dịch Đại Việt sử ký toàn thư ghi về lai lịch ba vị sứ giả là:
- Nguyễn Trang: người làng Thượng Thanh Oai, huyện Thanh Oai (nay thuộc tỉnh Hà Tây), đỗ tiến sĩ khoa Canh Tuất (1490) đời Hồng Đức.
- Nguyễn Sư: người làng Lý Hải, huyện Yên Lăng, đỗ tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1508) đời Đoan Khánh.
- Trương Phu Duyệt: người làng Kim Đâu, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

Vậy tên của Trương Phu Duyệt được ghi chép rõ ràng, còn Nguyễn Trang có khả năng chính là Nguyễn Lâm, Nguyễn Hoài Nhất là Nguyễn Sư Truyền. Chúng tôi dẫn lại theo Đông A blog để chờ khảo cứu tiếp.


Chúng tôi xin giới thiệu lại nguyên văn trang tư liệu này theo nguồn IT cổ văn Hàn Quốc: http://db.itkc.or.kr/index.jsp?bizName=MM&url=/itkcdb/text/bookListIframe.jsp?bizName=MM&seojiId=kc_mm_a117&gunchaId=&NodeId=&setid=5497377

Nguyên bản trong Tư Trai tập


Nguyên văn chữ Hán:


伯氏丙子年。特加嘉善。拜慶尙監司。拜辭。行至鳥嶺之院亭小憩。仰見壁問。書二絶云。東海儒宗一國卿。靑春持節按諸城。南民拭目瞻新政。實效應須副盛名。又玉節朱鞍勞驛吏。曾無毫補到蒼生。嶺南老兔皆三窟。攬轡澄淸待國卿。竟不知誰人所書。伯氏。戊寅年以謝恩使赴京回還。語余曰。通州潞河驛門樓壁上。安南國使臣題詩曰。潞河河上驛樓前。日永風淸思豁然。北望長安纔咫尺。南曕衡岳隔三千。四方弧矢初心契。萬里君親一念懸。早晩金臺回馬首。蓬萊峯頂會群仙。甲戌季夏。安南國使晦齋023_076d阮琳南珍。又半簇危樓枕水前。登臨行客興悠然。葩經點撿詩三百。梅驛驅馳路八千。上國衣冠前度熟。左門弧矢宿心懸。男兒到此眞奇事。休說三神海外仙。安南國使阮淮一。又十二欄干霽景前。望窮沙漠接燕然。車同軌轍統歸一。臺築黃金價倍千。路遠南交霜屢閱。天低北極日長懸。擧頭喜見紅雲近。香案叨陪次第仙。安南國使張孚說殷臣。三詩體格稍卑弱。然音律鏗鏘。殊類我國之作。可想其風流文雅。


Dịch nghĩa:

Bá Thị năm Bính tí (1518), đặc gia ban Gia Thiện, làm Bái Khánh thượng giám ty[1]. Đi bái từ. Đi chơi đến ngôi đình nhỏ ở Điểu Lĩnh, dừng nghỉ. Thấy trên vách có 2 bài tuyệt cú :

東海儒宗一國卿。

靑春持節按諸城。

南民拭目瞻新政。

實效應須副盛名。

Đông hải Nho tông nhất quốc khanh.

Thanh xuân trì tiết án chư thành.

Nam dân thức mục chiêm tân chính

Thực hiệu ưng tu phó thịnh danh

 

Dịch nghĩa:

Là vị quan hàng quốc khanh của dòng Nho miền Đông hải[2],

Buổi thanh xuân vâng mệnh trị các thành.

Lão dân miền Nam[3] này lau mắt để chiêm ngưỡng chính sự mới của ngài,

Thực là hiệu nghiệm xứng đáng với cái danh vọng lớn mà ngài được ngợi khen.

(Bài này có lẽ là của Sứ An Nam khen sứ Triều Tiên)

Dịch thơ:

Dòng Nho Đông hải chức quốc khanh,

Thanh xuân vâng mệnh trấn các thành.

Dân Nam rửa mắt xem chính mới,

Thực là hiệu nghiệm xứng đại danh.

 

Lại bài

玉節朱鞍勞驛吏。

曾無毫補到蒼生。

嶺南老兔皆三窟。

攬轡澄淸待國卿

Ngọc tiết chu yên lao dịch lại

Tằng vô hào bổ đáo thương sinh

Lĩnh Nam lão thố giai tam quật

Lãm bí trừng thanh đãi quốc khanh

Dịch nghĩa:

Yên son cờ ngọc làm sứ giả chịu lao khó,

Chưa từng có được chút bổ ích nào cho dân.

Như lão thỏ vùng Lĩnh Nam nhiều mưu kế[4],

Nắm cương trị nước, được đãi vào hàng quốc khanh.[5]

(Bài này có lẽ là của Sứ Triều Tiên họa lại bài Sứ An Nam)

Dịch thơ:

Yên son cờ ngọc nhọc sứ trình,

Chưa từng chút nhỏ giúp sinh linh.

Cụ thỏ Lĩnh Nam nhiều mưu kế,

Nắm cương trị nước, bậc quốc khanh.


Không biết của ai viết.

Bá Thị năm Mậu Dần(1520), vì việc đi sứ tạ ơn, đến Kinh. Khi về, nói với tôi là: Ở Thông Châu, trên vách cửa lầu dịch quán Lộ Hà có Sứ thần nước An Nam đề thơ rằng:

Bài thứ nhất

潞河河上驛樓前。
日永風淸思豁然。
北望長安纔咫尺。
南曕衡岳隔三千。
四方弧矢初心契。
萬里君親一念懸。
早晩金臺回馬首。
蓬萊峯頂會群仙。
甲戌季夏。安南國使晦齋阮琳南珍。
Lộ Hà hà thượng dịch lâu tiền
Nhật vĩnh phong thanh tứ khoát nhiên
Bắc vọng Trường An tài chỉ xích
Nam diêm Hoành Nhạc cách tam thiên
Tứ phương hồ thỉ sơ tâm khế
Vạn lý quân thân nhất niệm huyền
Tảo viễn kim đài hồi mã thủ
Bồng lai phong đính hội quần tiên
Giáp tuất quý hạ An Nam quốc sứ Hối Trai Nguyễn Lâm Nam Trân

 Dịch nghĩa
Lầu dịch quán Lộ Hà[6] ở bên sông,
Suốt ngày gió mát, khiến tâm tư sảng khoái.
Phía bắc ngắm về Trường An[7] chỉ còn trong gang tấc,
Mặt nam trông núi Hành Nhạc đã cách hơn ba nghìn. [8]
Chí nam nhi bốn phương hồ thỉ nay mới thỏa lòng[9],
Ơn cha ơn vua vẫn nặng một nỗi lòng.
Sớm muộn cũng được quay đầu ngựa dời chốn đài vàng,
Được cùng hội ngộ quần tiên ở đỉnh non Bồng.[10]
Cuối hè năm Giáp tuất (1514), quốc sứ nước An Nam là Hối Trai Nguyễn Lâm Nam Trân
Dịch thơ:
Bên sông dịch quán Lộ Hà,
Suốt ngày gió mát thật là sướng thay.
Trường An phía bắc gần đây,
Mặt nam Hành Nhạc xa bay ba nghìn.
Bốn phương hồ thỉ giữ bền,
Quân thân nghĩa nặng vấn vin nỗi lòng.
Kim đài sớm muộn việc xong,
Được cùng hội ngộ non Bồng quần tiên.

Bài thứ hai
半簇危樓枕水前。
登臨行客興悠然。
葩經點撿詩三百。
梅驛驅馳路八千。
上國衣冠前度熟。
左門弧矢宿心懸。
男兒到此眞奇事。
休說三神海外仙。
安南國使阮淮一。
Bán thốc nguy lâu chẩm thủy tiền
Đăng lâm hành khách hứng du nhiên
Ba kinh điểm liễm thi tam bách
Mai dịch khu trì lộ bát thiên
Thượng quốc y quan tiền độ thục
Tả môn hồ thỉ túc tâm huyền
Nam nhi đáo thử chân kì sự
Hưu thuyết tam thần hải ngoại tiên
An Nam quốc sứ Nguyễn Hoài Nhất

Dịch nghĩa:
Một dãy lầu lớn nguy nga gối sát mép sông,
Khách lên du ngoạn hứng thú vô cùng.
Một tập kinh hoa kiểm điểm được ba trăm bài[11],
Nơi dịch trạm đường mai rong ruổi tám nghìn trùng.
Chế độ y quan nơi thượng quốc thật là tinh chế,
Cửa Tả môn treo cung tên thỏa lòng trước[12].
Kẻ làm trai đạt được thế cũng thực là chuyện lạ,
Khỏi phải nói ba chuyện thần tiên nơi biển vắng nữa.[13]
Quốc sứ An Nam Nguyễn Hoài Nhất
Dịch thơ:
Nửa dãy lầu cao sát mép sông,
Đăng lâm thưởng ngoạn hứng vô cùng.
Kinh hoa kiểm điểm ba trăm ngót,
Sứ dịch đường mai tám nghìn trùng.
Chế độ y quan nơi thượng quốc,
Thỏa lòng cửa Tả chỗ treo cung.
Làm trai được thế cũng là lạ,

Khỏi chuyện thần tiên chốn biển đông.

Bài thứ ba
十二欄干霽景前。
望窮沙漠接燕然。
車同軌轍統歸一。
臺築黃金價倍千。
路遠南交霜屢閱。
天低北極日長懸。
擧頭喜見紅雲近。
香案叨陪次第仙。
安南國使張孚說殷臣。
Thập nhị lan can tễ cảnh tiền
Vọng cùng sa mạc tiếp Yên nhiên
Xa đồng quỹ triệt thống quy nhất
Đài trúc hoàng kim giá bội thiên
Lộ viễn nam giao sương lũ duyệt
Thiên đê bắc cực nhật trường huyền
Cử đầu hỉ kiến hồng vân cận
Hương án thao bồi thứ đệ tiên
An Nam quốc sứ Trương Phu Duyệt

Dịch nghĩa:

Mười hai bực lan can trước cảnh trời quang tạnh,
Nhìn xa tận sa mạc sát cõi đất Yên.
Xe cùng trục bánh, đường lối quy về một,
Đền đài xây đắp giá cao muôn vàng.
Đường xa tận cõi Nam giao trải nhiều sương móc đổ,
Trông vời cực Bắc cực ánh thái dương.
Ngẩng đầu mừng được thấy gần sát mây hồng,
Theo đòi hương án tiếp bồi cảnh tiên.
Quốc sứ An Nam Trương Phu Duyệt
Dịch thơ:
Trời quang mười bực lan can,
Trông ra sa mạc đất Yên cõi ngoài.
Xe cùng trục, một lối thôi,
Vàng kia xây đắp đền đài giá cao.
Đường xa tận cõi Nam giao,
Trông vời cực Bắc cực đón nhiều ánh dương.
Sát mây đầu ngửng tỏ tường,
Theo đòi hương án nhập dường hội tiên.

Ba bài ấy về thể cách thì hơi yếu, nhưng mà âm luật vang vang, khác hẳn những bài của nước ta. Thế thì cũng biết được cái phong lưu văn nhã của nước họ.

Nam Đường Phụ nguyên thị trùng biên dịch



[1] Một chức vụ ngoại giao lo đối đáp bái tạ. Đây là nói cử đi Sứ làm việc tạ ơn.
[2] Xưa coi nước Triều Tiên ở mé Đông. Nên trong thơ văn thường xưng nhận là Đông quốc, hay Đông hải.
[3] Dân Nam: có lẽ sứ An Nam tự nhận mình là dân vùng phía Nam.
[4] Câu thành ngữ, thố hữu tam quật. Ý nói là thỏ khôn có tới 3 cái hang. Đây là khen người Lĩnh Nam lắm mưu kế.
[5] Điển câu lãm bí trừng thanh. Ý nói là có mô hình trị nước cho nước được thanh bình.
[6] 潞河Lộ Hà: ở Thông huyện. Là một địa danh của Trung Quốc, cảnh sắc rất tươi đẹp, còn có tên là Bạch Hà. Phía bắc thông lên Bắc Kinh, mé đông nam xuống Thiên Tân, là con sông có vị thế giao thông trọng yếu của Kinh đô. Các Sứ thần đến kinh đều có nghỉ dịch trạm ở đây.
[7] Trường An: chỉ kinh đô.
[8] Hành Nhạc: tức là Hành Sơn, một trong 5 ngọn núi lớn ở Trung Quốc. Nam nhạc Hành Sơn-núi Hành Sơn ở phía Nam. Đây có ý nói đã xa cách phía nam đến 3000 dặm rồi.
[9] Lấy điển câu Nam nhi hồ thỉ tứ phương/ Chí nam nhi ở tại 4 phương.
[10] Non Bồng: Tức đảo Bồng Lai ngoài biển, ngọn núi tiên trong truyền thuyết Đạo giáo nơi các tiên ở. Ý nói được tụ tập bạn hiền.
[11] Ba trăm bài: Ý nói Kinh Thi có 300 bài thơ. Xưa nói, học hết Kinh Thi đủ để đi Sứ ứng đối.
[12] Xem chú số 4. Lễ đời xưa, sinh con trai thì treo cây cung bằng gỗ dâu bên cửa trái, còn sinh con gái thì treo cái khăn trên cửa phải. Tỏ ý trai thì chí lớn như cung bắn ra 4 phía, gái thì chăm việc điểm trang.
[13] Xem chú số 5.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét