(trích ĐÂ AHT) Tiếp theo của: https://www.facebook.com/namhhn/posts/3944310838964157
Chủ Nhật, 21 tháng 3, 2021
GHÉC MANH TẢN MẠN KÝ - ph.2. facebooker Nam Nguyên
Thứ Bảy, 20 tháng 3, 2021
GIÉC MANH TẢN MẠN KÝ - ph.1/ Facebooker Nam Nguyen
GIÉC MANH TẢN MẠN KÝ - ph.1= facebooker Nam Nguyen
https://www.facebook.com/namhhn/posts/3944310838964157
https://www.facebook.com/groups/155546961301895/user/100007962010516/
Thứ Sáu, 19 tháng 3, 2021
Thư pháp - Trịnh Bản Kiều - Trung Quốc/
Đọc bản "nhuận cách" (*) của thư hoạ gia Trịnh Bản Kiều vui ra trò, nhã tục giao dung, châm biếm cực độ, không hổ danh "Dương Châu bát quái". Dịch đại khái thế này:
大幅六兩,中幅四兩,小幅二兩,書條對聯一兩,扇子斗方五錢。凡送禮物、食物,總不如白銀為妙。公之所送,未必弟之所好也。送現銀則中心喜樂,書畫皆佳。禮物既屬糾纏,賒欠尤為賴帳。年老神倦,不能陪諸君子作無益語言也。l"Bức
to giá 6 lượng, bức trung giá 4 lượng, bức nhỏ giá 2 lượng. Thư pháp điều bức
và câu đối giá 1 lượng; quạt giấy, đẩu phương giá 5 tiền. Phàm tặng lễ vật hoặc
đồ ăn thì cũng không hay bằng bạc trắng. Đồ huynh tặng chưa chắc đệ đã thích
vậy. Tặng hiện ngân thì trong tâm vui vẻ, thư hay hoạ đều sẽ đẹp. Lễ vật thì
lằng nhằng, như nợ đồng lần biết bao giờ trả hết. Tuổi già thân yếu, cũng chẳng
thể hầu các đấng quân tử nói những lời vô ích vậy."
-------
(*)
nhuận cách: thư hoạ gia thời xưa viết bảng báo giá thù lao vẽ tranh hoặc viết
chữ, gọi là "nhuận cách".
Tử Hư dịch nghĩa văn
畫竹多於買竹錢,
紙高六尺價三千。
任渠話舊論交接,
只當秋風過耳邊。
乾隆己卯,拙公和尚屬書謝客。板橋鄭燮。
Vẽ trúc
đắt hơn tiền mua trúc,
3 nghìn tiền Giấy dài 6 thước.
Kệ ông
chuyện cũ bàn giao thiệp,
Qua tai gió thu thoảng mấy chốc.
Năm Kỷ mão niên hiệu Kiền Long, chúc thư tạ
khách Chuyết công Hòa thượng.
Hoàng
Phủ lang trung Đề đời Đường làm soạn văn bia chùa Phúc Tiên cho Bùi Tấn công. Lời
văn 3254 chữ, mỗi chữ thù lao 3 tấm lụa quyến. Tổng cộng 9702 tấm. Hoàng Phủ nhận lụa không một chút sắc thẹn,
từ cổ đến giờ nhuận bút hậu hĩnh như thế không ai hơn được như vậy. Chuyện chép
trong thiên Tần Liêu tử, sách Đường Khuyết sử
Chủ Nhật, 14 tháng 3, 2021
TÌm gió tăm hơi dài đâu thấy - Chạy xin nhóm lửa hút trời bay - Mẹ già giờ đã trên mây - Gió dài không thấy lửa bay lên trời
Ngó qua xin lửa
Hàn lâm viện chạy về xuôi
Qua tòa Thương Bạc tới chơi Ngô Quyền
Biển đề 51 còn nguyên
Là nhà của Bộ Tuyên truyền nước ta
Bố con xe đậu lân la
Hỏi Cục Di sản 1 tòa trong đây
Bác Hoa Thien, có không hay
Rằng tôi là bạn lâu ngày ghé chơi
Có quan gác cổng tươi cười:
"Nêu tên đích thực thì người mới ra
Tên như thế, có những 3
Dũng Tàu hình dáng như nhà cậu nêu
Số cầm tay cậu cứ kêu
Người ra thì sẽ rước vào hàn huyên"
Lạy cụ tôi cũng người tiên
Đi thăm là tiện chẳng phiền handy
May thay đồng nghiệp tức thì
Có người bấm hộ 1 khi dũng tàu
Rằng đi công tác từ đầu
30 cây số còn lâu mới về
Lần sau bác phải định kỳ
Thăm nom mà có lịch thì OK
14/3/2018
Lang thang khách lạ quê nhà - Mẹ đi đất bỗng hóa ra quê người/14/3/2021
Lang thang khách lạ quê nhà - Mẹ đi đất bỗng hóa ra quê người/14/3/2021
Trưa nay qua chốn Hàn lâm

Thứ Ba, 9 tháng 3, 2021
Lời thưa về sách Hoàng triều sử ký - bản công hành 2021
https://www.facebook.com/photo?fbid=1631573793693041&set=a.138742729642829
Vương triều nhà Nguyễn là triều đại quân chủ phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Khác với các triều Lý-Trần-Hồ đoạt quyền qua đảo chính; khác với nhà Lê phải kháng chiến chống Minh; khác nhà Mạc là tiếm ngôi; khác họ Trịnh là lấn quyền; khác nhà Tây Sơn là cướp nước. Nhà Nguyễn từ một dòng họ công thần triều Lê, trải bao gian nan để tranh được thiên hạ. Vượt qua các sự chèn ép của các đối thủ chính trị, vượt Hoành Sơn vào mở mang Trung Kỳ, vượt Hải Vân để khai phá phương Nam. Các vua chúa nhà Nguyễn với nhiều chính sách khôn ngoan, ép Chiêm Thành đến vong quốc, thuần phục người Minh hương thành bản địa. Các nước Xiêm La, Chân Lạp phải lo lắng. Đối đầu chống Tây Sơn hung bạo, ngửng đầu nhận sắc với Mãn Thanh. Cho đến lúc xác lập cương thổ trên dải đất rộng lớn nhất trong lịch sử dân tộc.
Đến ngày
Âu phong tràn tới, khắp Á địa tan hoang. Thử giả thiết, các triều đại anh hùng như Lý-Trần, Lê, Mạc, Trịnh, Tây Sơn có đối đầu với Phương Tây giỏi hơn triều Nguyễn?. Nhà Nguyễn từ tinh thần tự chủ, chiến Tây, ghét Tây dần biến thành hòa Tây, hiếu Tây. Bát nguyệt thu
chính biến thành công với làn sóng đỏ ngập nửa địa cầu, lịch sử vương triều cáo
chung trước các thủ đoạn phân hóa chính trị đầy mưu mô sâu sắc. Các loạt cải
cách, các loạt chỉnh phong, cải tạo tư tưởng phong hóa lạc hậu, thay đổi nhận
thức nhân dân lại chính là những thủ đoạn thâm độc diệt chủng văn hóa mạnh mẽ
đến tàn bạo, lạnh lùng còn hơn cả Âu
phong Á vũ, còn hơn cả đại bác tàu đồng của kỹ nghệ tây dương. Vương triều
vàng son tráng lệ, những chiến công của thánh vương hiền tướng đã lùi xa. Hơn
100 năm đã trôi qua, mỗi lần soi gương sử, trên chính đất nước của ông cha, đều
phải nhìn, lựa, xem sự kiểm duyệt có đúng tinh thần, đúng đường lối hay không.
Nếu lệch ra là bị phê phán kịch liệt, bị tấn công điên cuồng bởi những kẻ vong
bản chỉ biết trông chờ vào ân huệ cơm ăn áo mặc và quyền được lên tiếng, của
một nhóm người, đang cố gắng uốn khúc lòng người. Cái chủ trương dìm nhà
Nguyễn, từ “có tội” đến “có công lẫn có tội”, rồi “công ít mà
tội nhiều”. Thực ra họ chẳng có tội gì ngoài cái tội bị người khác lật đổ.
Chẳng qua chỉ là muốn bôi đen quá khứ, để thấy hồng ở
hiện tại chứ không phải là một phương pháp sử học chân chính. Bấy lâu nay,
những người yêu lịch sử văn hóa truyền thống, yêu cổ cựu như chúng tôi chưa hề
được biết đến một bộ sử nào khen nhà Nguyễn cả (Ngoài bộ Đại Nam thực
lục của chính triều đại này cho biên soạn).
Năm
2007, tôi đến đọc sách tại Thư Viện Quốc Gia Hà Nội. Cầm trên tay bản chép bút
sắt của Trần Văn Giáp sách Hoàng triều sử ký. Tưởng rằng chỉ là
những trang nháp của nhà nghiên cứu hàng đầu, buồn tay chép lại cho nó khỏe đầu
óc. Nhưng không. Cầm lên dương mắt đọc, tôi lạc vào một giọng văn nôm na quê
mùa mộc mạc chất Bắc kỳ, về các liệt thánh của tiền triều. Những câu chuyện
ngắn gọn mà súc tích, đủ ý về các sự kiện lịch sử hình thành triều đại cho đến
tận niên hiệu Thành Thái (1907). Hồn văn du dương bi tráng. Lịch sử triều Nguyễn không
phải là những trang sử thất bại, hèn kém. Lịch sử nhà Nguyễn là những trang
chiến công hào hùng, thấm ưu tư, đẫm máu - mồ hôi, nước mắt của ông cha ...
trong công cuộc nam tiến, chống xâm lăng. Chỉ riêng 2 chữ Nam Tiến thôi đã có thể đưa vương triều này vào hàng đại công đầu
của Lịch sử Việt Nam. Như các công cống Tống cướp Chiêm của nhà
Lý, hơn 3 lần chạy Nguyên Mông của nhà Trần, hơn công hoà
Ngô của họ Lê, ... và hơn cái Bát nguyệt đảo chánh đến
n lần). Từ ngày thơ bé, suốt ngày nghe kể tội nhà Nguyễn. Chỉ hơi khen thôi
cũng bị chửi cho xấp mặt, không khác gì hơi khen Bảo Đại cũng bị quân tào lao ở
đâu nhảy vào hỏi thăm. Tập chép đây chỉ là những ghi chép tổng lược của nhà nho
Dương Lâm, một đại trí thức khoa bảng, trước cảnh hoang tàn của những oanh liệt
cha ông xưa. Hoài niệm dồn lại chỉ hơn 100 trang chữ Nôm mà chất chứa ưu tư lẫn
hi vọng. Sau ngày cách mạng, ông Trần Văn Giáp đã tiếp xúc với văn bản này, và
ông chỉ biết chép lại rồi gửi vào Thư viện Quốc gia Hà Nội. Hôm nay, nó đã đến
với người đọc qua Nxb.Th.TP.HCM. Anh linh của liệt thánh tổ triều Nguyễn chiếu
giám! Tôi
đọc say mê và phiên âm tác phẩm ra chữ Quốc ngữ từ trước những ngày xuất quốc
(2011) đến nay đã hơn 10 năm (2021). Cụ Dương Lâm đề
là phụng
dịch 奉譯 nên chúng tôi không viết cụ là người trước
thư著書, cho dù
đúng ra là như vậy. Những lối đọc Nôm cổ tôi vẫn thích nên cứ để đọc kiểu cũ: như
chữ Mấy氽, chữ Mới買,
chữ Nhời利 với cái nghĩa hiện đại
là Với, là Lời. Tôi cố tình đọc theo âm nôm Mấy,
Mới, Nhời. Tôi chú thích theo những kiến thức có thể tra cứu được ở mọi
nguồn. Còn tất cả đều nhờ tay Nxb làm giúp.
Ưu tư
muốn gửi nó cho nhà in, để đưa tình cảm của nhà nho Dương Lâm ra trước thời
đại. Nxb.Th.TP.HCM đã cho tôi vinh dự được đề tên là dịch giả trên ấn phẩm của họ.
Trân trọng cám ơn Nxb.Th.TP.HCM, với ban Giám đốc và BBT, Hành chánh Kế toán, mà
tôi mới chỉ quen qua bạn bè trên Internet. Cám ơn những bạn bè đã yêu
mến trân trọng khích lệ bản dịch nhỏ bé của tôi.
Taucha/ Sachsen/Deutschland
Sau ngày nhớ mẹ. 2021/3/9
Đồng hữu Hoành nhàn ngữ 仝有橫閒語
Thứ Sáu, 5 tháng 3, 2021
Nhớ quê là 1 con mê/ Tỉnh ra thì chẳng muốn về nữa đâu
蒼天雲白弄西風
旅客鄉思又轉蓬
城郊聖室闻鐘動
如覺魂迷夢幻中
Gió tây mây trắng trời trong
Nhớ quê lắc giắc cỏ bồng trong mê
Thánh đường chuông vọng đánh về
Lay người đang ở trong mê hoàn hồn
Thư pháp: Trương Hải/ Trung Quốc/ Thư Pháp báo/1999/4/26
Một vầng cô độc chiếu soi
Giang sơn tĩnh lặng nơi nơi im lìm
Tự nhiên cười nhẹ một mình
Thứ Tư, 3 tháng 3, 2021
Phụ lục biểu: Những điểm nhầm lẫn trong bản dịch Hoàng Việt Địa Dư chí của Phan Đăng (2012)
Phụ lục biểu: Những điểm nhầm lẫn trong bản dịch Hoàng
Việt Địa Dư chí của Phan Đăng (2012)
Tiếp theo bài trao đổi
http://yeuhannom.blogspot.com/2021/02/nguyen-uc-toan-trao-oi-ve-ban-dich-cua.html
HVĐDC. Phan Đăng dịch.
(1997-2012) |
Số
trang bản dịch |
Số
trang nguyên văn |
Nguyên
văn |
Nên
dịch là |
Hiếu
Triết vương (Nguyễn Phúc Tần) |
902 |
2b/ |
孝昭王
|
Hiếu
Chiêu vương (Nguyễn Phúc Lan) |
Núi
Hương Trăn |
903 |
3b/ |
香盌山 |
Núi
Hương Oản |
những
vật dụng làm từ răng voi ngà voi và trồng cây thì thật là việc tối ưu của cả
4 trấn |
903 |
3b |
象牙樹木多優於四鎮云 |
nghề
làm ngà voi, trồng cây nhiều hơn cả 4 trấn (so với Tứ trấn Đàng Ngoài) |
Cửa
Nhuyễn |
|
4a/ |
堧海門 |
Chữ
Nôm Eo giống chữ Nhuyễn耎nhưng thực ra là chữ要khắc nhầm |
từ ấy bờ biển sông ngòi ngày được mở
mang thêm về phía Quảng Nam vậy |
904 |
4a |
自此沿江日餘即廣南地
|
từ đây men theo đường sông hơn 1 ngày
là đến đất Quảng Nam |
Thuận Hóa hỏa thành ở phía Hạ lưu |
904 |
4b |
順化大城在下流nhầm chữ đại大
thành chữ hỏa火 |
thành
lớn Thuận Hóa ở phía Hạ lưu |
Tẩy Nguyên, chú là Tây Nguyên (BVV) |
904 |
4b |
洒源 |
Nguồn Sái |
thường
mang những thứ có vị mặn, thực phẩm khô, các thứ kim loại như đồng sắt thiếc
bạc lên vùng thượng du đổi lấy |
904 |
4b-5a |
商人多載鹽鹹乾薑鐵器銅錫鐵釵諸雜物往蛮人地易取 |
thương
nhân thường đem các đồ tạp phẩm, mắm muối, gừng khô, đồ sắt đồng, thiếc đến đất
người ma để đổi lấy |
dùng
voi chở về |
|
5a |
傭象載回
|
thuê
voi chở về |
núi này chạy liền với những ngọn núi ở
Lệ Thủy |
907 |
7b |
連山在麗水縣
|
núi Liên Sơn ở huyện Lệ Thủy |
Phá
Nhật Lệ |
|
8a |
日麗坡
|
Bờ
Nhật Lệ |
một loại ốc đẹp thường gọi là ốc
thông |
910 |
11a |
其文螺有名沃𦖻㺔 chữ Nôm |
có loại ốc văn loa có tên là ốc tai
voi |
họ thường đốt rừng làm rẫy, cứ tháng
giêng làm, đến tháng 5 quá nắng có khi không thu hoạch được do không biết lịch
canh tác |
911 |
12a |
刀耕火植正月作而五月熟不獲而捋不知日曆
|
phát rừng đốt nương, tháng giêng làm
thì tháng 5 chín, không thu hoạch mà chỉ đi mót thôi. Không biết lịch pháp |
Huyện
Phú Xuân |
912 |
13b |
同春縣
|
huyện
Đồng Xuân |
Thành Tân Kiến – Không thấy chép gì về
thành này |
916 |
16b |
新建城鎮府縣
|
Những thành trấn, phủ, huyện mới đặt |
Phần
về Hà Nội, văn bản khắc thêm các trang Thượng đóng lên trên các
trang thường. Hết phần trang có chữ Thượng lại đánh số bình thường. |
các
thứ tự trang theo bản dịch |
Thứ
tự của nguyên văn |
|
|
Đất này phía tây có núi Trị Sơn, phía
đông giáp biển |
919 |
18a |
其地西界沿山東畔臨海 |
Đất
này phía tây men núi, phía đông hướng biển |
Thượng
đạo thì nổi tiếng về văn vật nhưng khí tượng lại kém. Hạ đạo thì vật chất
phong phú nhưng con người thì thô thiển |
|
18a
- b |
上則文勝而氣浮下則質多而樸重
|
Miền
thượng đạo thì văn minh, mà khí thức bề
nổi; miền hạ đạo thì chuộng thực chất mà thích mộc mạc |
Xã
Ái Mạc |
920 |
19
thượng b |
愛慕
|
Xã
Ái Mộ |
Quách
Đạt |
|
|
郭逵
|
Quách
Quỳ |
bến
đò Đông Luật |
|
|
東津渡
|
bến
đò Đông Tân |
|
920 |
sắp
nhầm 19a thượng |
|
sắp
nhầm số trang nên cũng dịch nhầm. Đang từ Sông Tô Lịch chuyển sang Phủ Thường Tín(Tất nhiên Phủ
Thường Tín cũng có 1 đoạn sông Tô Lịch) |
bị con thuồng luồng hiếp |
|
19b |
為蛟
所捉 |
bị
con thuồng luồng bắt |
|
921 dịch từ tờ 20 thượng a-b |
20thượng a |
社與銳江合襟từ 19b nhảy sang 20thượng: đang từ đền Bộ Đầu của Thường Tín lại quay
về sông Tô Lịch phủ Hoài Đức |
có
xã … hợp dòng với sông Nhuệ |
Hoàng Phúc cầm quân sang đánh nước
ta, khi qua đến sông Tô Lịch y cho dừng quân lại và đặt là sông Tô Giang |
921 dịch từ 20thượng/a-b |
20thượng a |
黃福重加浚治因王師吊伐民獲穌息便名曰來穌江 |
Hoàng
Phúc lại cho khai thông sông này, nhân vì có quân sang điếu phạt khiến dân được
yên ổn nên đặt tên là sông Tô (Tô tức là được sống yên vui trở lại) |
thần
Long Vương |
922
dịch từ 20thượng/a-b |
20thượng
|
龍肚
|
Long
Đỗ |
lại còn nói là chim phượng hoàng từng
uống cạn nước hồ, hoặc từng thấy núi phía nam tự nhiên sáng rực lên và trong
ánh sáng ấy thấy hình con rồng cuộn |
922 dịch từ 20thượng/a-b |
20thượng |
在此謂鳳凰飲水格列之奏稿嘗對山南爛柯山龍脊有金牛自山谷中逸出隱於湖中 |
ở
đây có cái thế Phượng hoàng ẩm thủy, từng có con Trâu vàng ở lưng sườn núi Lạn
Kha trấn Sơn Nam chạy đến ẩn vào trong hồ |
Mục
Chân |
|
20thượng
|
穆慎
|
Mục
Thận |
chẳng bao lâu cây cỏ phong cảnh và
linh khí của hồ cũng tàn tạ |
922 dịch từ 20thượng/a-b |
20thượng |
未幾而朝革吁亦山川草木靈氣之先兆云 |
chẳng
bao lâu thì triều đại đổi thay. Than ôi! có phải là điềm báo của linh khí cỏ
cây sông núi đấy ư! |
|
922 |
20b |
|
đang từ tờ 20thượng nhảy qua tờ 20b:
đang nói về Hồ Tây lại quay về cái đền Bộ Đầu đã dịch nhầm phía bên trên |
giữa hồ có đắp ngôi nhà, lấy phương bắc
làm bên tả, phương nam làm bên hữu, hướng trông vào giữa thành |
923 dịch của tờ 20 nhảy sang 21 thượng |
21thượng |
湖中斷築為二在北為左望在南為右望其原一也đang từ tờ 20 lại nhảy về tờ 21 thượng: từ phủ Ứng Hòa mọc ra Hồ Hoàn
Kiếm |
trong
hồ đắp chia làm 2, ở phía bắc là Tả vọng, ở phía nam là Hữu vọng, nguyên chỉ
là 1 |
bốn
phía đều có tường đá bao bọc |
923 |
21
thượng |
四邊皆砌築磚牆
|
bốn
bên đều có tường xây gạch |
Ông Lê Quang Hưng là một vị tướng quê
ở Mỹ Lương, Quốc Oai, Sơn Tây khi lên làm quan mới đổi thành Lang Xá |
924 dịch tờ 21 thượng quay về tờ 21 a |
21a |
黎光興間增建昭事殿
////// (山西國威美良
) 將閥世官則稱良舍
|
đang từ tờ 21 thượng thì lại nhảy đến
tờ 21 a: đang từ Đàn Nam Giao thì nhảy về ông Lê Quang Hưng ở Mỹ Lương. Mà
cũng không có ông Lê Quang Hưng, chính xác là đời Lê niên hiệu Quang Hưng |
|
925 dịch từ tờ 21 |
21 |
đang từ tờ 21 lại nhảy về tờ 22 thượng:
đang ở núi Hinh Bồng bay về điện Chiêu Sự |
|
Miếu
Linh Hương |
926
dịch từ tờ 22 thượng |
22thượng |
靈
霩廟 chữ Lang郎 có bộ Vũ雨 |
Miếu
Linh Lang |
đối diện bên kia bờ có núi Hoài An |
926 dịch từ tờ 22 thượng |
22 |
與懷安諸山隔岸相對đang từ tờ 22 thượng nhảy về 22 a:
đang ở đền Cao Sơn, huyện Thọ Xương lại bay về núi Tiên Sơn cạnh thắng cảnh Hinh Bồng |
cùng với các núi huyện Hoài An cách bờ đối lập |
Hưng
Binh đẩu |
927
dịch từ 22 |
22 |
吳兵斗
|
Ngô
binh đấu (Đấu đong quân Ngô) |
Việc này thấy có thật mới chép ra đây |
927 dịch từ 22 |
22 |
事詳捷記 |
Việc
chép rõ trong sách Tiệp ký |
lúc Lê Nhượng đế khởi binh ///// Lê Cảo có soạn bài văn |
928 dịch từ tờ 23 thượng |
23 thượng |
黎襄翼起兵 //// 黎嵩奉撰碑文刻石đang từ tờ 22 lại nhảy về tờ 23 thượng:
đang ở huyện Chương Đức đăng khoa bay vèo về Đền Cao Sơn, phường Đông Tác, với
ông Lê Tương dực |
Lúc
Lê Tương dực khởi binh //// Lê
Tung vâng mệnh soạn văn bia khắc vào đá |
thờ
Khai chúa Linh võ đại vương |
928 |
23
thượng |
盟主靈武大王
|
Minh
chu linh vũ đại vương |
Hoàng đệ Dự thánh đi đông chinh nhưng
Vũ Đức tam vương sẽ có mưu làm phản |
|
|
皇第翌聖東征武德三王謀不軌 |
các
vị hoàng đệ là Dực Thánh vương, Đông Chinh vương, Vũ Đức vương mưu làm phản |
Thái tông sai tướng cầm binh ra chống
cự, sau vua phải đích thân ra cầm quân mới thắng được |
|
|
即命約提兵拒戰及內難平帝嘉其有協應
助順
之功
nguyên văn khắc nhầm chữ Tướng 將
thành chữ Ước約 |
liền
sai tướng dẫn quân cự chiến, đến khi nội nạn được bình, vua khen thưởng công
hiệp ứng trợ thuận |
ông Đặng Công Huấn, tự là Nghĩa |
929 dich từ tờ 23a |
23a |
鄧自義公訓為中興功名Đang từ 23 thượng nhảy về 23 a: từ đền
Đồng Cổ vèo về xã Chi Nê, Chương Đức |
Họ Đặng
từ cụ Nghĩa công tên Huấn là bậc công danh đời Trung hưng |
đất Lạc Trường gọi là Ốc, chẳng biết
ai gọi là Ốc từ bao giờ, nay chỉ chép lại cho biết vậy thôi //// Hồng
Thái |
929 dịch từ tờ 24 thượng |
24 thượng |
屋不知祠屋創在何時因併錄之
(đây là đoạn nối vào đền Đồng Cổ) ///// 洪聖 đang từ tờ 23 a lại bay về tờ 24 thượng:
nghĩa là từ nhà ông Đặng Huấn ở Chi Nê bay về đền Chiêu Ứng huyện Vĩnh
Thuận |
(chưa
có) nhà, không biết đền được dựng từ khi nào, nên cứ chép cả lại//// Hồng
Thánh |
có viên Đô hộ phủ hay đa nghi sĩ tốt
trong ngục, không ai giãi bày được nỗi oan, họ bèn lập đền ngay trong ngục cầu
thần linh ứng nghiệm trừng phạt kẻ âm mưu chuyện ác. Sau khi tắm rửa sạch sẽ
đốt hương cầu đảo, đêm ấy nhà vua chiêm bao thấy một người mặc nhung y tự
xưng là thượng đế bảo ban sắc cho Phạm
Cự Lượng làm An Nam đô hộ phủ chúa ngục. Khi tỉnh dậy, vua hỏi tả hữu
thì thấy ai cũng nói đêm qua đều mộng thấy như vậy |
930 dịch từ tờ 24 thượng |
24 thượng |
都護府多疑獄士師不能決擬立祠於獄中要得彰著神靈者以痛懲奸慝乃熏沐焚香請告于帝是夜夢見一朱衣使者稱上帝口敕賜范巨兩為安南都護獄主及覺以問左右所言皆如夢中所見
|
phủ
đô hộ có nhiều án ngờ. Quan Sĩ sư không thể phán quyết được. Nên đề nghị lập
đền trong ngục để dùng uy linh hiển ứng của thần để răn chừng quân gian ác.
(Vua) liền tắm gội, đốt hương tấu cáo thượng đế. Đêm mơ thấy 1 vị sứ giả áo đỏ,
xưng là Thượng đế có lời truyền cho Phạm
Cự Lượng làm An Nam đô hộ ngục chủ. Đến khi tỉnh lại, hỏi tả hữu, thì đều tâu
có người như lời trong mộng. |
Vương cùng sáu đệ tử phân ra làm thần
ánh sáng của Hồ Tây xứ An Hoa |
|
24 thượng b |
王與其六弟子分為日昭廣布西湖安花之神 |
Vương
cùng 6 người anh em chia nhau làm thần ở các vùng Nhật Chiêu, Quảng Bá, Tây Hồ, Yên Hoa |
liền đến cầu đảo, thần giúp sức hàn lại
được đê |
|
24 thượng b |
遂禱于神水害得息 |
liền
cầu đảo với thần, thì nạn lụt được ngừng |
Chùa
Long Khánh |
|
24
thượng b |
毓慶寺
|
chùa
Dục Khánh |
điện Huy Văn dùng thờ Quang Thục
hoàng hậu. Dưới triều Lê đây là một trong những thắng cảnh đặc biệt của đất
Sơn Nam. Những ngọn núi như Công Sơn, Bát Cảnh sơn, … |
930 dịch từ tờ 24 thượng bay vọt về tờ
24 a |
24a |
|
đang từ tờ 24 thượng bay vèo về tờ 24
a: là từ điện Huy Văn bay về đất Hà Nam, phủ Lý Nhân |
Trên núi có chùa Văn Điện //// |
931 |
25 thượng a 1 dòng |
列置徽文殿寺丞及知事職 Đoạn
này là đoạn sau của chùa Huy Văn. Đang từ tờ 25 a lại nhảy về tờ 25 thượng : từ vùng Hà Nam núi non quay
về với chùa đền Hà Nội, chùa Long Ân, Báo Thiên, Trấn Quốc |
đặt
chức Tự thừa và chức Tri sự trông coi điện Huy Văn |
Chùa
Long Ân tại phường Hoàng Phố |
932 dịch từ tờ 25 thượng |
25 thượng a |
隆恩寺在永順縣廣布坊
|
chùa Long Ân ở phường Quảng Bá |
giữa một cái hồ
nhỏ vuông hình chữ khẩu |
933 |
25 thượng a |
此處有湖一口 |
ở đấy có một cái hồ |
Phủ Khoái Châu |
934 dịch từ tờ 25 - 26 |
25a 4 dòng cuối |
đúng phải là phủ Thường
Tín |
từ tờ 25 thượng lại vọt về tờ 25 a: đang ở chùa đền Hà
Nội bay về Hưng Yên |
có một cô ả đào
lập mưu đánh lừa khiến quân Minh đang đêm phải triệt đồn đi nơi khác |
935 dịch từ tờ
26 |
26 a b |
有一婀陶夜賺明人入囊徹投于江明人移屯 |
có một cô đào, đêm lừa người Minh vào trong bao, ném xuống
sông. Quân Minh phải dời đồn đi |
Ngày xưa có hai người con gái tên là
Lân – Xã đến miếu bái tạ |
935 dịch từ tờ
27 |
27 a chỉ có 8
dòng |
昔鄰社貳娘拜謝Từ tờ 25– 26-27
lại quay lại tờ 26 thượng: từ Hưng Yên bay qua Thường Tín |
xưa ở xã bên có hai người con gái đến đền lễ bái tạ |
Phủ Thường Tín |
935 dịch từ tờ 26 |
26 thượng b chỉ có 4 dòng cuối |
đúng phải Trấn Nam Định |
từ 26 thượng nhảy về tờ 36a: phủ Thường Tín cũng chỉ kê
được có 3 huyện rồi lại nhảy sang Phủ Bắc Hà |
Phủ Bắc Hà |
936 dịch từ tờ 36 |
36a
–b chỉ có 12 dòng giữa |
|
tờ
36a lại quay về tờ 27 : Cũng chỉ kê được đến người đỗ đạt của Phủ này rồi lại
nhảy sang Nam Định |
xuất
phát từ dinh Bạch Hiến |
937 dịch từ tờ 28 a |
28 a |
自憲營早發
|
xuất phát từ Hiến Doanh |
núi Ninh Hồ |
946 |
34b |
寧朔山
|
núi Ninh Sóc |
từ ông Nguyễn Nhân Thất trở xuống |
947 |
35b |
自仁
浹公以下 |
Từ cụ Nhân Thiếp công trở xuống |
|
|
36b chỉ có 4 dòng cuối. vì các dòng khác về Phủ Bắc Hà
đã bị đính nhầm về Hà Nội |
|
lại nhầm số trang. Đang từ 35 b nhảy sang 36 b bỏ qua
bài thơ của Lê Quý Đôn ở 36a |
|
|
Từ đây không nhầm số tờ nữa |
|
|
có bọn Trần Tung |
947 |
37b |
陳嵩作亂
|
Trần Cảo làm loạn |
núi Đông Cửu |
948 |
38 |
東究山
|
núi Đông Cứu |
trong xã hội có một người rất hùng
dũng |
949 |
39 |
有伊社人勇力絕倫 |
có người ở xã ấy có sức khỏe tuyệt luân |
Tử Khê |
954 |
42a |
禁溪
|
Cấm Khê |
Kiều Thuận từng xây
thành ở đó |
956 |
44b |
喬順潮築城于此
|
Kiều Thuận Triều đắp thành ở đây |
sau phân ra 50
người con trai cai trị đất này trở thành thần núi Tản Viên |
958 |
46b |
生百子分治傘圓神乃歸山五十男之一 |
sinh
ra trăm con chia nhau cai trị, thần Tản Viên là 1 trong 50 người con lên núi |
Thân Nhân Trung đến đúc vại dựng lầu
và soạn văn bia để ghi lại sự tích ấy |
961 |
48b |
申仁忠撰鼎建樓為碑文以記之 |
Thân Nhân Trung soan bài khắc, dựng lầu làm văn bia ghi
lại |
Lê Đĩnh ở làng
Đoan Khách |
961 |
49a |
黎公鼎在端慶
|
ông Lê công Đỉnh
ở đời (Mạc) Đoan Khánh |
|
|
các bản đều thiếu khuyết tờ số 52 |
|
bổ sung từ bản chép tay |
Sổ Khê |
964 |
53b |
漊溪
|
Lâu Khê |
Hắc Động |
|
54a |
墨洞
|
Mặc Động |
Núi Cổ Trai |
965 |
55a |
為古齋左朝之山thực ra không có
núi ở Cổ Trai, mà nói là các núi chầu về đất Cổ Trai |
là núi chầu về bên trái của xứ Cổ Trai |
hai nhánh này gặp nhau ở phía đông trước khi đổ ra biển |
966 |
55b |
東會于南召海門
|
phía đông chảy về cửa biển Nam Chiếu |
Núi Đồ Sơn ở xã Đồ Sơn |
968 |
57b |
屯山在屯山社
|
núi Đồn ở xã Đồn Sơn |
đến động Giang Châu thuộc huyện Chí Linh |
969 |
57b |
至靈江朱洞có bút son sổ là
danh từ |
Chí Linh, Châu Động
|
còn có tên là Xuyến Châu |
|
58a |
一名串珠 |
một tên khác là Quán Châu |
xong lại về Vân Đồn phá phỉ Ô Lan |
970 |
58b |
又擒雲屯觀瀾烏匪
|
lại bắt giặc phỉ Tàu Ô ở Quan Lạn, Vân Đồn |
38 tuổi ở Thanh
Phiên trấn giữ Tương Châu |
|
58b |
三十八青藩留鎮驩州 |
năm 38 tuổi ra phiên trấn, trấn giữ Hoan Châu |
Sau ông được
phong Đông Ngàn hầu, con cháu ông nhờ chế độ giám sinh mà cũng được cầm quân
trong nhiều trận cho đến hết đời Lê |
972 |
59b |
謂公後東岸侯亦以監生典兵累為閫帥至於黎末皆亡Phạm Đình Trọng
lúc sống đã là Hải Quận công, truy phong Vước tước rồi, còn phong Hầu làm gì
nữa. |
Đây nói là hậu
duệ của ông, có Đông Ngạn hầu cũng làm
Giám sinh mà cầm quân, nhiều phen trong trướng soái, đến cuối đời Lê đều mất
cả |
người ngựa nghe
thấy đều tránh xa, chẳng ai dám đương địch, nếu có ai gan dạ thì cũng bị đại
đao chém chết |
|
59b |
官君人馬躃易走不及者皆被刀剉死 |
quan quân người ngựa khèo cả chân, ai chạy không kịp đều
bị đao quay chết |
giặc này chỉ là
sợi lông của nước Nam mà nay lại làm An Ninh thần |
972 |
60a |
鯑賊為南國項羽也今為安寧神 |
giặc He thực là Hạng Vũ của nước Nam, vậy mà nay đã làm
thần Yên Ninh rồi |
các tỉnh biên giới
phải xin gia phong cho ông là Võ Quốc công, mang chỉ xuống tận Nam Quan để
nói với triều đình phong cho ông là An Quốc vương, họ lại chặt lấy thủ cấp của
giặc bỏ vào cái hòm rồi đặt trên cái bè cho trôi đến sông Vĩnh Niệm |
973 |
61a |
公以兵破北朝外省牒移我國公詣南關請當刑以安國王北人貯尸首函中置江水上插一傘盖自此回至永念江分
|
ông đem quân đánh phá các tỉnh ngoài của Bắc triều. Văn
thư gửi sang nước ta. Ông lên cửa ải xin chịu tội để giữ yên cho vua ta. Người
phương bắc cất thi thể và đầu ông vào hòm để trên sông, trên có cắm lọng che.
Từ đấy trôi về địa phận sông Vĩnh Niệm |
tục
gọi là Cồn Lang |
973 |
61b |
俗曰𡑱柳
|
tục gọi là Cồn Liễu |
Bồ Điếu |
|
2bq2 |
蒲鉤
|
Bồ Câu |
có bọn Cảo Khiêm tung hoành trong
vùng 7 châu, mãi cho đến khi chúng chết thì vùng đất ấy mới thuộc vào nội địa |
977 |
3aq2 |
存嵩謙等七州沒入內地 |
còn 7 châu Tung, Khiêm nhập vào nội địa |
Công Chất đã chết,
con của y sợ bỏ chạy |
979 |
5aq2 |
公質已死子公瓚惶恐既走 |
Công Chất đã chết, con là Công Toản sợ chạy |
đồng thời dân
trong 7 châu phải chịu sự cai quản của quan trấn, người nào không nghe theo
phép nước quá 3 lần có thể cho phép quan binh tùy nghi xử liệu, dân miền núi
phải làm nhà và lập làm xã ấp, không được sống tự tiện nay đây mai đó. Các
quan phủ huyện phải thân chinh đi khám xét thường kỳ. |
979 |
5bq2 6aq2 không hiểu
nổi dịch giả dịch từ đâu ra? |
後公瓚內投七州之民嵩陵醴泉黃岩綏阜合肥萊州謙州凡七州以地勢遼遠略緣內附於是內地縣官概行征繕 |
sau Công Toản đem dân 7 châu nhập vào Nội địa, là 7
châu Tung Lăng, Lễ Tuyền, Hoàng
Nham, Tuy Phụ, Hợp Phì, Lai Châu,
Khiêm Châu), lấy cớ đường núi xa khó, dần quay về nội địa. Huyện quan trong nội
địa làm đại thể cứ nối thu ghi vào. |
do đó y về kinh để tự tố tội trạng của mình |
981 |
8aq2 |
訃京自訴
|
đến kinh tố cáo |
cái biển ở xã Vũ |
985 |
11bq2 |
左支為海武社二海
|
nhánh bên trái là 2 bể của xã Hải Vũ |
Thanh vương thân
chinh cầm 6000 quân đi đánh dẹp |
988 |
14bq2 |
清王親率六軍進討 |
chúa Trịnh Thanh vương thân cầm Lục quân đi đánh |
Mạc Kính Vũ đầu
hàng nhà Thanh rồi đổi tên hiệu |
|
15aq2 |
敬宇降于清改號敬曜 |
Mạc Kính Vũ hàng nhà Thanh, rồi đổi hiệu là Kính Diệu |
Nguyên Thanh đã cùng quan nhà Thanh là Quang Trạch
Vương |
989 |
15bq2 |
元清與明光澤王
|
Mạc Nguyên Thanh cùng Quang Trạch Vương nhà Minh |
tố cáo ngược đời |
|
|
請還誥之 |
xin về Tấu lại |
nhân
đó hòn đá này mới có chuyện như vậy |
990 |
17aq2 |
此石象人形俗失訛傳 |
hòn đá đó giống như hình người, nên người ta lưu truyền
sai đi như vậy |
thần lại báo mộng
cho biết ba vị tướng âm mưu làm phản khó mà dẹp yên, nhà vua xuống chiếu
phong thần núi làm tước vương để cầu an cho thiên hạ |
997 |
22bq2 |
復托夢告以三王謀返事至難平詔為天下主盟神封王爵
|
thần lại báo mộng sự mưu phản của 3 Vương, đến khi nạn
được bình, xuống chiếu phong làm Thiên hạ minh chủ, tước Vương |
thiếu mất phần dịch núi An Hoạch sơn |
|
|
|
|
Núi Bàn Diệu |
998 |
23aq2 |
盤沙
|
núi Bàn Sa |
Lương Đắc Bằng |
1000 |
24bq2 |
梁安鵬
|
Lương Yên Bằng |
Thái
Chữ Lưu Đình Tán |
1000 |
|
葵渚劉廷
|
ông Lưu Đình ở Quỳ Chử |
Núi Vân Nam |
1003 |
26bq2 |
雲岩山
|
núi Vân Nham |
vương là con thứ hai của vua Lê
Thái Tổ |
1016 |
36aq2 |
王乃太祖兄仲子 |
vương là con thứ 2 của anh trai Lê Thái Tổ |
vua đem chuyện ấy nói với mọi người rằng phu nhân xin
được cùng đi |
1023 |
42aq2 |
上寤語左右日夫人力請行 |
vua đem chuyện nói với tả hữu, hôm sau Phu nhân ra sức
xin đi |
tên gọi của Nam
Trưởng |
1026 |
45bq2 |
蛮長之號 |
hiệu của người đứng đầu xứ Man |
Qua đời người em
là Lư Cầm Hương thì không còn thế tập nữa |
1026 |
|
其弟盧琴香繼襲 |
người em là Lò Cầm Hương nối chức |
ủy thác cho cựu
xà là Lư Cầm Hương và Lư Cầm Uẩn quản lý việc phủ như cũ |
1028 |
47bq2 |
委鎮寧舊蛇盧琴香之姪盧琴蘊管理府事 |
ủy thác cho cháu của người Xà cũ Lò Cầm Hương là Lò Cầm
Uẩn quản lý việc trong phủ |