Thứ Năm, 12 tháng 11, 2015

Nguyễn Hữu Mùi- Bia ma nhai mang niên đại Lê Sơ ở khu di tích Tây Thiên, Tam Đảo, Vĩnh Phúc

BIA MA NHAI MANG NIÊN ĐẠI LÊ SƠ
Ở KHU DI TÍCH TÂY THIÊN - TAM ĐẢO - VĨNH PHÚC
NGUYỄN HỮU MÙI
TS. Viện nghiên cứu Hán Nôm.
 tạp chí hán nôm, số 4(113) 2012; Tr.60-63
Khu di tích danh thắng Tây Thiên thuộc địa bàn xã Đại Đình huyện Tam Đảo tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay còn lưu trữ một di vật lịch sử có giá trị, là tấm bia ma nhai ở khu vực mà người dân địa phương gọi là Bia đá chữ. Tấm bia này trước đây được nhiều người biết đến nhưng chưa ai công bố bởi những khó khăn trong việc đi lại tiếp xúc với bia hiện vật.
Gần đây nhân chuyến sưu tầm tư liệu văn bia ở Vĩnh Phúc, nhờ sự giúp đỡ của Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, cũng như của Ban quản lý di tích danh thắng Tây Thiên, chúng tôi đã tiếp xúc với tấm bia nêu trên. Đó là bài văn bia được khắc trực tiếp vào giữa một phiến đá màu ngà, chiều dài khoảng 5m, cao khoảng 3m. Cả phiến đá nằm nghiêng bên bờ suối, tạo ra hình vòm, tựa như hàm ếch, khiến cho phần chữ của bia khắc ở giữa hàm ếch không bị bào mòn bởi mưa nắng.
Thác bản ma nhai ở Tây Thiên
Sau khi in rập công phu thành 2 thác bản, mỗi thác bản khổ 130 x 110 cm, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên thác bản và thấy Bia đá chữ có tổng cộng 121 chữ Hán, chữ khắc theo hàng dọc, phân bố trên 11 dòng, dòng nhiều 16 chữ, dòng ít 3 chữ. Chữ dùng theo thể khải thư, với đặc điểm chữ khắc sâu, dễ đọc. Duy ba chữ Bát nhã tuyền (Suối Bát nhã) đặt ở cuối bia được khắc to.
Nguyên văn chữ Hán:
...

Phiên âm:
Lê triều đệ tam vương, Thái Hòa bát niên, Canh Ngọ, ngũ nguyệt thập nhật, viết dĩ thời, phụng tế Tam Đảo sơn thần, nãi biến đăng chư phong, lịch cổ tích, cố vọng cương loan, tủng thúy, chướng điệp, oanh hồi, tương dữ Viên sơn đối trĩ. Toại khiết dư tình, thành vi Nam quốc chi hùng trấn, viên mệnh khắc thạch dĩ kỷ niên nguyệt nhật vân.
Suy thành Tá lý Hiệp mưu công thần, Vân Đồn trấn, Phụ quốc, Thượng tướng quân, Đặc tiến Nhập nội Tư khấu Đồng Bình chương sự, Thượng trụ quốc, tứ kim ngư đại, kim phù, Huyện Thượng hầu, tứ quốc tính, Thao Sơn động sĩ Lê Khắc Phục đề.
Bát nhã tuyền.
Dịch nghĩa:
Ngày mồng 10 tháng 5, năm Canh Ngọ, niên hiệu Thái Hòa thứ 8 (1450), đời vua thứ 3 triều Lê, nhân được thời, phụng mệnh tế thần núi Tam Đảo, mới trèo khắp các núi, thăm trải các nơi cổ tích, rộng ngắm sườn núi quanh co, cao chót vót xanh rờn, tựa như bức bình phong trùng điệp, quây quần hội tụ, đối diện với núi Tản Viên đứng một mình. Ta rất cảm kích, thực là nơi hùng trấn của nước Nam, rồi sai người khắc vào đá để ghi năm tháng từng đến đây.
Suy thành Tá lý Hiệp mưu công thần, Trấn thủ Vân Đồn, Phụ quốc, Thượng tướng quân, Đặc tiến Nhập nội Tư khấu Đồng Bình chương sự, Thượng trụ quốc, được ban chiếc túi thêu cá vàng cùng chiếc bùa vàng, tước Huyện Thượng hầu, vua ban quốc tính họ Lê, hiệu Thao Sơn động sĩ, là Lê Khắc Phục đề.
Suối Bát nhã.
Một vài nhận xét:
1. Về niên đại
Văn bia Bia đá chữ tạo Thái Hòa thứ 8 (1450) đời vua Lê Nhân Tông. Bia thuộc giai đoạn Lê sơ (1428-1527) - giai đoạn tồn tại xấp xỉ 100 năm trong lịch sử dân tộc. Tuy vậy văn bia mang niên đại Lê sơ hiện còn lại không nhiều. Theo thống kê của chúng tôi trong kho thác bản văn bia lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện nay, cả nước chỉ còn 73 văn bia mang niên đại của giai đoạn này, tập trung chủ yếu ở khu di tích Lam Kinh (Thanh Hóa) và Văn miếu Quốc tử giám (Hà Nội). Nay có sự bổ sung bằng văn bia mang niên đại 1450 ở Tây Thiên (Vĩnh Phúc) sẽ làm tăng số lượng văn bia thời Lê sơ ở nước ta.
2. Về tác giả
Tác giả văn bia là Lê Khắc Phục. Về Lê Khắc Phục, tra trong chính sử, thấy ghi về ông như sau: Đầu năm 1429, ông là một trong số 93 công thần được ban biển ngạch ở hạng Thượng trí tự Trước Phục hầu. Năm 1434, ông bị bãi chức Nam đạo Hành khiển, cho làm Phán đại tông chính.
Năm 1446, triều đình sai ông đem 60 vạn quân đánh Chiêm Thành, do đương thời chúa Chiêm Thành là Bí Cai thường xuyên vào cướp nước ta. Năm 1448, ông cùng Nguyễn Mộng Tuân, Nguyễn Văn Phú, Đào Công Soạn... lên phía Bắc hội khám với nhà Minh. Cũng trong năm 1448, nhân sứ thần Chiêm Thành mang quốc thư và lễ vật sang ta, ông được cử làm chủ trì việc ban yến tiếp đãi họ ở Sứ quán. Cũng năm đó ông sung chức Đề điệu Quốc tử giám.
Năm 1449, Triều đình sai ông đem người ở các cục bách tác, quân vệ Thiên nam, tứ sương và quân dân trấn Thái Nguyên đào lại sông Bình Lỗ (sông Cà Lồ) từ Lãnh Canh đến Phủ Lỗ, dài 2500 trượng, thông với sông Bình Than để tiện đi lại trong trấn Thái Nguyên. Năm 1451, ông và con ông là Phò mã đô úy [Trịnh] Bá Nhai cùng bị giết.
Giờ căn cứ vào lạc khoản văn bia do bản thân Lê Khắc Phục soạn giúp ta biết thêm thông tin: ông từng đảm nhận chức Trấn thủ Vân Đồn, được ban túi thêu cá vàng, bùa vàng, lại ban quốc tính họ Lê. Qua đây bổ sung tư liệu giúp chúng ta hiểu sâu hơn thân thế và sự nghiệp của ông.
3. Về nội dung
Văn bia là bài văn xuôi chẳng những ghi cảm xúc của Lê Khắc Phục trước phong cảnh thiên nhiên kỳ vĩ của núi rừng Tam Đảo mà còn cung cấp thông tin về đợt tế thần núi Tam Đảo vào năm 1450. Điều này không thấy đề cập trong chính sử, chính sử chỉ nhắc đến việc tế thần núi vào năm 1449: “Sai Tham tri Bùi Cầm Hồ, Lễ bộ Lang trung Nguyễn Cảnh đi cầu đảo ở núi Tản Viên và Tam Đảo, đều không hiệu nghiệm”(1).
Như vậy không chỉ có năm 1449 mà cả năm 1450, triều đình đều cử các quan về cầu đảo tại núi Tam Đảo. Về sau trong phần Tục biên của Việt điện u linh, mục viết về Thanh Sơn đại vương, nhà khoa bảng Nguyễn Văn Chất(2) cũng xác nhận điều này và cho biết kết quả của việc tế thần núi Tam Đảo vào năm 1450: “Hôm ấy mây nổi, khắp trời tối tăm, sáng hôm sau mưa xuống như trút rồi năm ấy được mùa. Từ đấy về sau, hễ gặp đại hạn lên đền cầu mưa liền ứng nghiệm. Thần núi được tôn là Phúc thần một phương và núi được ghi vào tự điển từ đấy”(3).
Trên đây là một số ghi nhận của chúng tôi về tấm bia ma nhai tạo vào thời Lê sơ ở quần thể di thắng danh thắng Tây Thiên (Vĩnh Phúc). Tựu trung qua tư liệu văn bia giúp ta hiểu sâu hơn tiểu sử của Lê Khắc Phục - một vị đại công thần ở thời Lê sơ của nước ta, đồng thời cung cấp thông tin về việc tế thần núi Tam Đảo vào năm 1450, dưới triều vua Nhân Tông nhà Lê.
Chú thích:
(1) Đại Việt sử ký toàn thư (Bản dịch), tập 2, Nxb. KHXH, H. 1993, tr.370.
(2) Nguyễn Văn Chất (1422-?): người xã Vũ Di huyện Bạch Hạc. Nay là thôn Vũ Di xã Vũ Di huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc. Đỗ Hoàng giáp khoa Mậu Thìn, niên hiệu Thái Hòa thứ 6 (1448), làm quan đến chức Hộ bộ Thượng thư. Ông biên soạn thêm 4 truyện: Sóc thiên vương, Thanh sơn đại vương, Càn Hải môn tôn thần và Quản gia Đô bác đại vương, đưa vào Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên vốn biên soạn từ đời Trần (1329).
(3) Xem Lý Tế Xuyên: Việt điện u linh, Nxb. Văn hóa, Viện Văn hóa (Bản dịch), H. 1960, tr.65-66./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét