Cao
Bằng ký lược. A999 Viện nghiên cứu Hán Nôm
Cao phiên Phạm An phủ soạn.
Nguyễn Đức Toàn / Viện nc Hán Nôm Phiên âm – Dịch nghĩa
Hiện chưa có phụ bản chữ Nho, nên chúng tôi đăng cả phiên âm cho người rảnh rỗi đọc vui.
Phiên Âm:
Phiên Âm:
Cao Bằng chi sơ bất khả khảo dã, kỳ hữu cố thành nhị, nhất
tại Thạch Lâm, Na Lữ, nhất tại Thạch An (cựu thuộc Thạch Lâm châu) Phúc Hoà,
kim dĩ đồi hoại hoang lương, niên đại bất kí. Thổ nhân truyền ngôn chuyên thạch
gian hữu chí Hàm Thông niên hiệu giả. Đường thời Đô hộ Cao Biền chi sở trúc da,
diệc vô xác chứng. Kì tản kiến ư kí lục nhi khả trưng giả tắc thị cổ chi nhất
phủ dã. Lý thời lệ Thái Nguyên xứ, vi bắc đạo hữu Thái Nguyên, Quảng Uyên, tam
châu. Phiên dân thế tập, Càn Phù niên gian, thổ tù Nùng Toàn Phúc bạn bị sát,
tử Trí Cao tự chức, thị kì kiêu hùng cử binh nội lược thủ Ung Hoành nhị châu.
Hậu vi Tống tướng Địch Thanh sở bại, sự kiến Tống sử. Nhân ngôn Trí Cao bại hậu
bôn quy cố địa, thừa long mã đằng không nhi khứ, thuyết thuộc hoang đường, đãn
kim tức Sầm Sơn thượng hữu cổ miếu tồn yên, lịch triều phong thượng đẳng thần,
nẫm trứ linh ứng.
Lê Thuận Thiên tứ niên thổ nhân Bế Khắc Thiệu
cứ địa mưu bạn, Thái tổ thân thảo bình chi, trú quân vu Na Lữ thành, kim kì từ
tại thành trung, Na Lữ phường dân phụng tự, phụng chuẩn miếu phu tam thập nhân.
Thành chi tây bắc Hoà Ninh xã thạch sơn thượng hữu lặc thạch thi nhất thủ:
Bất
từ vạn lý chỉnh sư đồ,
Duy
dục biên phương xích tử tô.
Thiên
địa bất dung gian đảng tại,
Cổ
kim thuỳ xá bạn thần chu.
Trung
lương tự khả ưng đa phúc,
Bạo nghịch trung nan bảo nhất khu.
Đới lệ bất di thần tử tiết,
Danh thuỳ vạn cổ dữ sơn câu.
Thi hậu khắc Thuận Thiên tứ niên Tân hợi chính nguyệt nhị
thập nhất nhật đề đẳng tự. Thử kì di tích dã. Lê Quang Thuận niên gian cải hiệu
Bắc Bình phủ, châu tứ viết Thái Nguyên, Lộng Nguyên, Thượng Lang, Hạ Lang, hậu
hựu cải Thái Nguyên vi Thạch Lâm, Lộng Nguyên vi Quảng Uyên nhưng do phiên thần
chức cống. Trí nhược Quảng Nguyên chi vi Lộng Nguyên cải ư hà thời tắc bất khả
khảo. Lê Quang Hưng niên gian nguỵ Mạc Kính Cung tiếm hiệu Càn Thống, soán cư
Cao Bằng chi Vu Thuỷ (Cựu Thượng Bạch, Hạ Thuỷ xã) Lịch Càn Thống, Long Thái,
Thuận Đức tam thế, chính lệnh nhật phồn, thổ nhân yếm chi. Mạc hiệu uý Bế Công
Lượng (Bác Khê nhân thuộc Thạch An huyện) mưu sát Mạc Kính Thuỵ bất quả đào phó
Bắc Kinh, hướng dẫn Lê binh phân đạo tiễu trừ, Kính Thuỵ soán nhập nội địa ngụ
Quảng Tây chi Nam Ninh thành, cái đương Lê Cảnh Trị chi thế dã. Chính Hoà nhị
niên Kính Thuỵ tử vu Sái Thành. Tam niên Bắc nhân cầm Kính Thuỵ chi đệ Kính
Tiên giải tống Nam Quan, Kính Tiên ẩm độc tử, Mạc toại vong. Kim Vu Thuỷ địa
thượng hữu Hoa Viên, Liên Trì, Xứ Bắc thử Mạc thị chi cố cư dã. Mạc vong hậu
thuỷ biệt trío vi Cao Bằng xứ bất lệ Thái Nguyên, mệnh quan trấn trị. Sơ Thiết
trấn trị vu Lạng Sơn, Thất Khê (cựu Thượng Bạch Hạ Thuỷ kim cải Khê) huyện chi
Lạc Dương. Tầm hựu di vu Cao Bằng phố (tức Mạc thị cố cư kim cải An Bình) tái
thiên vu Mục Mã thành, tức kim chi tỉnh lị dã. Phủ nhất viết Trùng Khánh phủ,
châu tứ nhân danh cựu. Cảnh Hưng nguyên niên Lạng sơn tặc Yến, Lộc xâm lược hạt
giới Đốc đồng Nguyễn Đình Bá cự vu Thạch Lâm chi Phúc ứng sơn phận (kim thuộc
Thạch An) đại phá chi. Nhị niên tặc Sơn tặc Toản đài hựu phân đạo bức giới,
Nguyễn Đình Bá hựu đốc chiến bại chi, tặc đảng tuần tẩu, châu dân toại yên,
nguyễn Đình Bá lưu lĩnh đốc trấn. Ngũ niên Thái Nguyên Thư Xỉ tặc xâm lược
Quảng Uyên, Thượng Lang, Hạ LAng tam châu, Nguyễn Đình Bá tương binh tiến thảo,
Quân vu Cảm Hoá chi Trưng Hoa thị (thuộc Thái Nguyên địa) bệnh tốt vu quân.
Châu dân truy cảm công đức thiết từ tự chi, sự văn phong thượng đẳng thần, kim
từ tại tiỉnh thành đông bắc quách ngoại(Nguyễn Đình Bá nguyên Sơn Nam trấn
Khoái châu Bình Dân nhân Lê Bảo Thái Đinh mùi khoa đông ftiến sĩ xuất thân công
tốt hậu dân tự chi từ thuộc Thạch Lâm Kim Giáp xã dân phụng sự. Kim hiệu Thanh
trung Từ. Hậu công tử Nguyễn Đình Trù Cảnh HƯng kỉ sửu khoa đông ftiến sĩ xuất
thân hậu cải danh Lạc Thiện kế vi Cao Bằng trấn đốc đồng lặc thạch vi kí) Cảnh
Hưng tứ thập thất niên mệnh Nguyễn Hàn vi Đốc đồng, Lưu Tiệp (Thanh Trì Nguyệt
áng nhân cử tiến sĩ)vi đốc tráan. Chiêu Thống nguyên niên Nguyễn Hàn âm dữ thổ
tù Lê VĂn Kiện (kim nghịch Ngỗi chi phụ) mưu công trấn doanh, phục binh vu Cao
Tiên miếu(kim Cao Dũng trại) cập thổ thành lộ bàngLưu Tiệp chiêu Trưởng xử Nhàn
Văn Khởi thôi binh thủ hộ. Nguyễn Hàn dữ Kiện công chi bất hạ độn Xuân Hoảng xã
(kim thuộc An Thạch) Lưu Tiệp sử Nhàn Văn Khải truy kích chi, Nguyễn Hàn tử
yên, kim y xã nhân lập miếu phụng tự, Lê Văn Kiện diệc bị thù nhân sát tử. Lê
đế mệnh ngự sử đài Nguyễn Đình Hương tường tra kì sự, trực nguỵ Tây phiến động,
sự toại chỉ. Chiêu Thống tam niên, Thạch Lâm châu Bác Khê nhân Nhàn Văn Cung
thụ Hộ bộ đổng lý tài phú kiêm đô ngự sử đài hữu Kiểm đô ngự sử lĩnh Cao Bằng
án trấn hành Đốc trấn sự, suất binh tuỳ Thanh quốc, Điền Châu vãng Thăng Long
thành dữ Tây tặc cự chiến. Kỉ dậu chính nguyệt Thăng Long thất thủ Chiêu Thống
đế tòng Lưỡng Quảng tổng đốc Tôn Sĩ Nghị do Nam Quan đaàu nhập nội địa Nhàn Văn
Cung diệc khiết quyến tòng vong. Thanh nhân an sáp vu Giang Nam tỉnh chi Giang
Ninh phủ Thượng Nguyên huyện trí bản triều Gia Long tam niên Giáp tí thuỷ đắc
quy quốc (Văn Cung tại nội địa kì tử Hựu Nhân dữ Bắc nhân tòng học hữu Lạc Sơn
thi tập ấn bản hành vu quốc trung quy quốc hậu sĩ trí Hải Dương hiệp trấn. Kim
Nhàn Văn Định nãi Văn Cung chi tôn Hựu Nhân chi điệt tộc đảng giai vi Cao Bằng
cự phiệt). Nguỵ Tây kỉ dậu niên chính nguyệt Lê hoàng đệ tam đệ (thất danh) cứ
thủ Tuyên Quang chi Bảo Lạc châu. Cửu nguyệt uỷ Tri châu Nùng Văn Liêm (nghịch
Vân phụ) vi Tiền bộ tướng tương binh xâm lược trấn thành. Trấn thủ Phong
(khuyết tính) bại tẩu Lạng Sơn, viện Lạng Sơn binh sách ứng thu phục trấn
thành, hựu bất cư thủ tái vãng Lạng Sơn, Văn Liêm truy chi bất cập. Thập nguyệt
Tây tặc khiển Đại đô đốc Uyển (thất kì tính) công phục trấn thành, Văn Liêm
phản hồi Bảo Lạc. Tân hợi niên thập nguyệt, trấn thủ Hương (thất kì tính) hội
đồng Tuyên Quang trấn công Bảo Lạc châu, hoạch Lê hoàng đẹ tam đệ giải hồi Thăng
Long. Chí Tân dậu niên cửi nguyệt Văn Liêm tái tương châu binh xâm lược trấn
thành, trấn thủ Hội (thất kì tính) quan báo Thái Nguyên trấn thủ Long (thất kì
tính) đồng lai thủ hộ, thành bất hạ. Văn Liêm lược thủ hạt dân ngưu lao nhi
khứ. Bản triều Gia Long sơ niên phủ châu chi hiệu thượng nhân kì cựu, dân sự
nãi do thổ ti phân phát. Thời triều đình sơ chế, dĩ bất trị trị chi, đãn ki mi
chi nhi dĩ, kì trấn hạt nãi do Mục Mã trú, duy trấn lị tiền thổ sơn địa tối
hiểm yếu, nãi nhân sơn trúc thành, biệt kiến thương khố hựu vu thương thành chi
nam thổ sơn thượng thiết vọng lỗ dĩ vi chi phiên tễ yên. Minh Mạng thập tứ niên
cải vi Cao Bằng tỉnh kiêm hạt hưu thiết Lạng Sơn tuần phủ. sự chi khẩn yếu quan
trọng giả thuỷ do chi, hựu yếm thổ ti chi tễ, tỉnh chi, tứ châu thiết trí Tri
châu, diệc cải thổ quy lưu chi tiệm dã. Thập tứ niên thổ ti Bế Văn Cận (Bác Khê
nhân) quả tòng Tuyên Quang Bảo Lạc nghịch tặc Nùng Văn Vân đấu đảng tứ sự vi
nhiễu tỉnh thành, Bố chính Bùi Tăng Huy, án sát Nguyễn Đình Trạc dữ sách ứng chi,
Lạng Sơn lãnh binh Phạm Văn Lưu cứ hiểm thoái thủ thương thành lương tận lực
kiệt, các tự tận, tặc toại tứ mạn. Thưòi hữu Cao Hùng cơ tứ đội, suất đội Bế
Văn Định(Bác Khê nhân) Kì binh Trình Văn Châu (Quảng Uyên Như Lăng nhân) tương
suất vãng Quảng Uyên địa diện dữ thổ hào Ma Ngọc Lí (Cổ Lạc nhân) đấu hợp hương
dũng kì yết bất tòng Bảo Lạc, hợp lực phấn kích xạ sát phỉ Cận, nghênh ứng quan
quân, tiễu trừ phỉ đảng, phục tỉnh thành chiêu hạt dân hồi phục như cố. Cập sự
định, Tổng thống quân vụ đại thần Tạ Quang Cự tất dĩ sự văn phụng ngã Thánh tổ
Nhân hoàng đế niệm Bùi Tăng Huy đẳng chi tận tiết, tứ tế nhất đàn, hựu mệnh lập
từ tự chi hiệu Tam Trung từ, cự niên xuân thu tế nhất thứ, hựu gia Bế Văn Định
đẳng chi hiệu lao hậu gia cấp thưởng, thụ dĩ Vệ uý, Phó vệ uý hữu sai chi bán
phụng tòng tỉnh sai phái. Kì ứng nghĩa chi hương dũng, thưởng thụ ngoại uỷ suất
đội cơ suất đội đội trưởng thiên hộ điển bạ giả chí lục thập dư nhân, tứ hiếu
nghĩa tri phương biển ngạch giả trí tam thập cửu xã thôn ( Quảng Uyên huyện nhị
thập tứ xã thôn, Cac Linh tổng, Cổ Lạc thôn, Vĩ Vọng xã, Gia Tuế thôn, Vĩnh Lại
xã, Cách Linh thôn, Bàn Duy xã, Phất Mê xã, Vũ Lăng tổng, Như Lăng xã, Bình
Lăng xã, Phiên Dương xã, Vu Điền xã, Ngưỡng Đồng tổng, Ngưỡng Đồng xã, Ngọc
Quản xã, Đồng Quản xã, Quả Thoát xã, Cảm Hiếu xã, Lực Nông tổng, Đa Tôn xã, Lạc
Giao tổng, Lạc Giao xã, Đà Thiên xã, Vô Song xã, Lạc Trang xã, Lăng Hoài xã
thượng, Lang Huyện lục xã thôn, Y Cống tổng Đoài côn xã, Cổ Phương xã, Mĩ Khê
tổng, Trung Dương xã, Lăng Yên tổng, Lăng Yên xã, Lũng Chung xã, Lũng Trát
thôn, Hạ Lang huyện thất xã thôn, Lệnh Cấm tổng, Lệnh Cấm xã, Minh giáo xã,
Dương tàm xã, Phúc An, Vĩnh Thọ tổng, Vĩnh Thọ xã, Liêm Thuỷ xã, Lạc Phú xã,
Thạch Lâm huyện, nhất xã Trà Lĩnh tổng, Đoài Khôn xã, Thạch An huyện, nhất xã,
Phúc Hoà tổng, Sầm Xuyên xã các tứ Hiếu Nghỉa Tri Phương biển ngạch các nhất).
Kì sở dĩ khích khuyến nhân tâm tương lệ phong tục giả vô bất dụng kì chí. Dân
chi dị sử, kì tại tư hồ. Thập ngũ niên tứ châu cải vi tứ huyện. Thập lục niên
hựu phân Thạch Lâm, Thạch An nhị huyện biệt thiết vi Hoà An phủ, dư Thượng
Lang, Hạ Lang, Quảng Uyên tam huyện nhưng lệ Trùng Khánh phủ, thuỷ bãi thổ
quan, phân mệnh lưu quan vi tri phủ, tri huyện, kì tổng lí danh mục dĩ trí binh
lương khoá trình, nhất đồng chư đại tỉnh chi lệ. Nhị thập nhị niên hựu cải tu
bạ tịch, Đinh nhật gia đa, điền nhật quảng tịch, pháp độ nhật dĩ ích tường nhi
thường hành bạ tịch chi lậu chí thử khứ hĩ. KIm kể kì tổng số, điền thổ tam vạn
lục thiên tứ bách dư mẫu, nhân đinh bát cửu thiên thượng hạ, nhất tuế sở nhập
tô túc nhị vạn lục bách dư đấu, thuế tiền nhất vạn lục thiên dư cưỡng, thuế
ngân tứ thiên hoàn, kim sa tứ thập hoàn thượng hạ, nhi thủ dân chi chế tắc ngân
tiền quy hạ, túc mễ quy đông, binh tắc thập đinh gián nhất, hựu tiểu dị đại tỉnh
chi lệ, niệm kì biên viễn tiểu hạt, diệc khoan hậu đãi dân chi di ý dã. Nhiên
kì cương vực sợ cập tắc đông giáp Thanh quốc Thái Bình phủ chi Long châu,
Thượng Long châu, đông bắc giáp y phủ chi An Bình, Hạ Lôi đẳng châu, bắc giáp
Thanh quốc chi Thuận An châu, Quy Thuận châu, tây giáp Tuyên Quang chi Để Định,
Vĩnh Điện nhị huyện (cựu Bảo Lạc châu, nghịch Vân định hậu cải thiết) Tây giáp
Thái Nguyên chi Thông Hoá phủ, tây nam giáp y phủ Cảm Hoá huyện, nam giáp y
huyện cập Lạng Sơn chi Thất Khê, đông nam giáp Lạng Sơn y huyện cập Thoát Lãng
châu. Thời Thanh quốc chi Thái Bình phủ, Hạ Gián châu lí lổ chí, tắc tự tỉnh
thành chi đông nam dô quan báo lục lộ quá Thạch An huyện chi Cao Phúc, Cao Nhã
nhị dịch, nam chí Lạng Sơn tỉnh địa dĩ Chung Sơn bán lĩnh vi giới, kể trình bất
cập nhất nhật. Tự tỉnh thành chi tây nam do quan báo lục lộ qua Thạch An huyện
chi Cổ Lân bao, tây chí Thái Nguyên tỉnh địa dĩ Cổ Lân bán lĩnh vi giới, kể
trình nhhất nhật tự tỉnh thành chi tây bắcdo lục lộ qua Thạch Lâm huyện chi
Trung Thảng bao, Khung sơn tây bắc chí Tuyên Quang tỉnh địa dĩ Na tình sơn bán
lĩnh vi giới, kể trình nhị nhật tự tỉnh thành chi đông nam do thuỷ trình chuyển
đông lưỡng ngạn kinh Thạch An, Quảng Uyên nhị huyện quá Na Thông bao, đông chí
Thanh quốcchi Thái bình phủ Long châu La tứ động thuỷ quan dĩ y thuỷ quan vi
giới, kể trình nhị nhật. án đồ nhi quan tắc kì đông tây trường nhi nam bắc túc,
diệc thiên địa an bài tự nhiên chi khu vực dã. Tự Lê dĩ tiền tứ châu chi địa
diên biên ải khẩu thập tam sở. Thạch Lâm châu tắc Thông Nông, Sóc Hồng, Trừng
Hà, Trà Lĩnh, Bác Nẫm, Na Lan phàm lục sở. Quảng Uyên châu tắc Quả Thoát, Na
Thông nhị sở, Thượng Lang châu tắc Cổ chu Nga ổ nhị sở. Hạ lang châu tắc Củng
Xương Đống long Bí hà tam sở. Bản triều Gia Long niên gian nguyên thiết thập
lục đồn. Thạch lâm châu tắc Trà Lĩnh Gia Bằng, Phù Tang, Trung Thảng, Sóc Tứ,
Nẫm Nương, Nhượng Bạn (tục hiệu Nước Hai) Cổ Lân, Bác Khê, Na Lan, Bác Cung
phàm thập nhất đồn. Quảng Uyên châu tắc Quả Thoát, Na Thông nhị đồn. Thượng
Lang châu tắc Cổ Chu, Nga ổ nhị đồn, Hạ Lang châu tắc Bí Hà, Củng Xương, Đống
Long tam đồn, hậu hựu tỉnh khứ Đống Long, Nhượng Bạn, Nẫm Nương tam đồn. Minh
Mạng thập ngũ niên hựu tăng thiết Long Khê nhất đồn,Thập thất niên cải đồn vi
bao, nhị thập nhất niên hựu tỉnh khứ Quả Thoát, Củng Xương, Nga ổ Đống Long,
Sóc Tứ, Long Khê, Bác Cung thất bao chỉ lưu Na Thông, Bác Khê, Trung Thảng, Cổ
Lân, Gia Bằng, Trà Lĩnh, Phù Tang, Na Lan, Bí Hà, cửu bao nhi dĩ kim nhân chi
duy kì thế dị sự thù, diên cách bất đồng, đa quả bất nhất, nhi kì sở dĩ cố
phong thủ an dân cư giả. Kì quỹ nhất dã. Gia Long niên gian nguyên thiết tuần
ti thập tứ sở thạch lâm châu thất sở, ngũ chính nhị chi, Liêu Sơn Trà Lĩnh, Bác
Khê, Bác Cung, Lương Mã, vi ngũ chính nhi Bắc Toà, suối vực tắc vi bắc cung
tuần chi nhị chi. Quảng Nguyên, tam sở nhị chính nhất chi, Na Thông, Phiên
Dương, vi nhị chính Nhi Bác Nẫm tắc vi Na Thông tuần chi nhất chi. Thượng Lang
Châu nhị sở, Cổ Châu, Nga ổ, Hạ Lang, nhị sở Củng Xương, Đống Long, chí Minh
Mệnh niên gian tỉnh khứ Liêu Sơn, Bác Cung, Trà Lĩnh, Bác Khê, Bắc Toà, Suối
Vực, Phiên Dương, Bác Nẫm, Cổ Chu, Nga ổ, Củng Xương, Đống Long thập nhị sở,
chỉ lưu Lương Mã, Na Thông, nhị quan. Nhi tuần ti chi hiệu cải vi quan tân thuỷ
thử. Thiệu Trị nguyên niên hựu tăng thiết lệnh cấm. Chung Thảng, Na Lan, quan
tam sở, tựu chung hoặc đa hoặc quả, hoặc giảm hoặc tăng cái diệc thời thác chi
nghi dã, kì thổ sản sở xuất. Thiết khoáng hữu nhị, tại Thạch An tắc hữu đông
nam khoáng tại Thạch Lâm tắc hữu Khải Hoà khoáng. Cự niên sản thế lệ nạp ngân
lượng, kim khoáng hữu tứ, nhất viết Phú Nội, nhất viết Tĩnh Đà. Nhất viết
Thượng Hạ Pha, nhất viết Vĩnh Giang (kim Thôn Nhàn) giai tại Thạch Lâm địa hạc.
Đồng niên phân kì thái nạp kim sa, tra sở tòng lai tắc đông nam thiết khoáng Lê
đại diệc dĩ hữu chi. Dư giai tự Minh Mệnh niên thuỷ nhiên ư thử. Ngoại kim sở
sản chi địa hoặc hữu chi diệc tạo vật vô tận chi tàng dĩ sĩ quốc gia chi dụng
nhĩ. Bất tất chi nghịch ức dã. Địa chi đại khái tắc sơn hành liên lạc, lâm mãn
tùng tạc, tỉnh vực chi địa trạng tựa hồ lô, mạch tòng đông nam đinh long quán
hạ. Đông tây bắc tam diện giang thuỷ loan bão, hoàn nhược ngân đái, tứ diện
thanh sơn như khốc. Nam hữu Khâu Luân, bắc hữu Khâu Sầm, đông hữu Bà Hoàn, tây
hữu Khấu Lĩnh giai tại Thạch An huyện giới phận, xưng tứ trụ sơn ngật nhiên đối
trĩ vi nhất tỉnh chi biểu thức, tú vượng sở chung, thiên nhiên chi hình thế dã.
Ngoại thử chi Thống Sơn, Liêu Sơn, Ngưu Lĩnh, Trà Lĩnh, ngữ kì cao đại xứ xứ
hựu đa hữu chi. Đãn khứ tỉnh thành hữu giao viễn giả, hữu cận nhi vô phương hựu
giả kì sơn cảnh hựu vô kì thắng danh tích khả lục, cố đặc vô tứ trụ nhi biểu
xuất chi. Giang lưu tắc uỷ diểu thấu hội tiền lưu, nhi nhật lưu, nhất vũ triếp
dật, vũ chỉ tuỳ hựu lạc tịch. Nhân giai khả tẩu thiệp giả, cái tuy danh viết
giang nhi tối hiệp tối tiểu cố dã. Kì nhất danh Mãng Giang, thượng nguyên tứ
điều tòng tây bắc hạ chú, nhất điều tự Thanh Quốc chi Quy Thuận châu Bình Mạnh
ải khẩu phóng quá Thạch Lâm huyện chi Na Khải, Sóc Hồng, Hà Quảng, đẳng xã,
thông chí Quảng Trù xã. Nhất điều tự Thanh Quốc chi Quy Thuận châu Lũng Phong
ải khẩu phóng quá Thạch Lâm huyện chi Trừng Hà xã, do thạch nham chung xuất hựu
quá Hoà Mục, Phù Tang, Nghi Bố, đẳng xã, diệc thông chí Quảng Trù xã, chí tiền
điều hợp vi nhất lưu phóng hạ Xuân Trù, Bác Xá, Linh Cai, đẳng xã, thông chí Hà
Gian xã. Nhất điều tự Thạch Lâm huyện Phù Đống xã do thạch nham chung lưu xuất
phóng quá Tĩnh Phú, Thái Thành nhị xã, diệc thông chí Hà Gian xã, dữ tiền nhị
điều hợp vi nhất lưu quá Minh Loan Nhượng Bạn An Ninh đẳng xã. Nhất điều tự
Thanh quốc chi Quy Thuận châu Khô Chi ải khẩu phóng quá Thạch Lâm huyện chi
Thông Nông xã do thạch nham chung lưu xuất hạ chí Lương Y, Thông Sơn, Hậu Năng,
Lương Can, Trọng Khôn, Hoà Ninh đẳng xã diệc thông chí Nhượng Bạn, An Ninh nhị
xã, dữ tiền các điều hợp vi nhất lưu phóng quá Nẫm Khê, Thọ Cương, Cầu Lâm, Na
Lữ, Vu Thuỷ đẳng xã lịch Thạch An huyện chi Xuân Lĩnh, Tân Trại, Hà Hoàng, Xuân
Bá, Gia Cung đẳng xã lưu chí tỉnh thành chi bắc dữ Hiến Giang hợp vi nhất lưu.
Kì nhất danh Hiến Giang thượng nguyên tam điều tùng tây nam hạ chú. Nhất điều
tự Thái Nguyên tỉnh chi Thông Hoá phủ Cảm Hoá huyện, Kim Mã xã lưu xuất. Nhất
điều diệc tự y huyện. Bằng Đức xã nguyên xuất, tịnh quá Thạch An huyện chi Xuân
Hoả xã tương hợp vi nhất, quá Cẩm Lí xã thông chí Cổ Vũ xã. Nhất điều hựu tự Bằng
Đức xã quá Thạch An huyện chi Nội Chiêm xã diệc thông chí Cổ Vũ xã dữ tiền nhị
điều hợp vi nhất nguyên, lưu chí tỉnh thành chi tây Mục Mã phố chuyển chí Gia
Cung xã, dữ Mãng Giang hợp vi nhất nguyên chuyển chí tỉnh thành chi đông Lương
Mã phố, hựu dữ Cổn Giang hợp nguyên. Kì nhất danh Cổn Giang, thượng nguyên nhất
điều tự Thanh Quốc, Tứ Bang ải khẩu phóng quá Thạch Lâm huyện chi Chu Sơn,
Tráng Biên, Tĩnh Lãng, Trà Sơn đẳng xã, chí Hoảng thôn xuyên nhập thạch nham
chung nguyên xuất lịch Thạch An huyện chi Khâu An, Hàm An, Gia Cung đẳng xã,
thông chí tỉnh thành chi đông Lương Mã phố dữ Hiến, Mãng hợp thành đại giang vị
chi Mã Giang, thuận nguyên phóng quá Thạch An huyện chi Nga Chỉ, Xuân Hoả, Phúc
Hoà, Kì Bạn, dữ Quảng Uyên huyện chi Phất Mê đẳng xã, chí Na Thông quan chi nam
phóng nhập Thanh Quốc, Long Xuyên, La Hồi động thuỷ quan đông khứ hợp nhị quan
chi Hiến Mãng chi dữ Cổn Giang, nguyên đầu hữu bát tổng nhai đồng quy nhi vi Mã
Giang, kì Mã Giang chi hạ nguyên tự Thạch An huyện chi Xuân Hoả xã dĩ chí La
Hồi thuỷ quan. Giang tâm hựu hiệp lưỡng ngạn lộ thạch như bích lập, cố tuy
xuyên nguyên bất xả trú dã nhi thạch dũng chung hành chi thuỷ diệc bất năng
xung kích, dĩ thành đại giang, cố vũ lạo chi thời chúng thuỷ tệ hạ, chung gian
bất miễn trướng dật chi hoạn. Minh Mệnh thập bát niên thành ngoại phố chí hữu
ốc hoại nhân tử giả. Kim Quan Đế linh miếu chuyên tường tẩm cựu ngấn cao chí
cửu xích dư, y nhiên thượng tồn, tuy thiên số chi biến diệc địa thế chi sử
nhiên nhi nhân lực vô sở chi dã. Chí ngữ kì thuỷ tính chi lương tắc Cổn Giang
vi tối, cái thượng nguyên hạ chú kí vô kim thiết chi khoáng lưỡng biên đối ngạn
hựu vô trướng độc chi lâm, cố dã. Kì nhất danh Huề Giang, thượng nguyên nhất
điều, bắc tự Thanh Quốc chi Quy Thuận châu Thuận ải khẩu phóng qúa Quảng Uyên
huyện chi Quả Thoát, Ngưỡng Đồng, Cảm Hiếu, Thông Huề đẳng xã. Phố kinh Thượng
Lang huyện chi Đoài Côn, Giáp Dương, Cổ Phương, Tứ Mĩ đẳng xã, lịch Hạ Lang
huyện chi Xuân áng xã tái chuyển quá Quảng Uyên huyện chi Vĩ Vọng, Cổ Lạc, Bàn
Duy, Cách Linh, Phất Mê đẳng xã chí Na Thông quan chi đông diệc phóng nhập
Thanh Quốc chi Quy Thuận châu, Ba Hoài ải khẩu, lưu quá Thượng Lang huyện chi
Báo Khê xã, Kim Côn, Lũng Định, Cổ Hạng (sản hương não ngư) chí Hạ Lang huyện
chi Trác Nhi đẳng xã, tái tòng Thanh Quốc chi An Bình châu Hạ Cụ ải bắc khứ,
hựu hữu nhất điều giang, tây tự Thái Nguyên chi Cảm Hoá huyện Vũ Loan xã lưu
quá Thạch An chi Cao Môn xã chuyển chí Bác Khê xã chí tòng Lạng Sơn chi Bình
Quân xã nam khứ. Thử tam điều giang tỉ chi Hiến Mãng nhị giang hựu vi hiệp
tiểu. Đãn kì nhất thôn nhất thổ thuận quỹ trường nguyên, sở dĩ trướng dật chi
hoạ, thường thiểu giả, thử nhĩ. Kì dân tắc Thạch Lâm thập tổng, xã thôn phường
trại động phố giả cửu thập hựu bát. Thạch An lục tổng, xã thôn phố trại động
thị giả bát thập hựu cửu. Hạ Lang tứ tổng, xã thôn trại giả tam thập. Thượng
Lang tứ tổng, xã thôn giả tam thập hựu cửu. Quảng Uyên châu tứ tổng, xã thông
phố trại giả ngũ thập. Kì gian Nùng Thổ gián tạp phong tục bộc dã, lâm lũng tuỳ
xứ thác lạc tiêu điều. Tỉ chi bắc kì chi hương lí trù mật, trúc mộc thành hàng,
gia ốc liên lạc, yên hoả tương vọng giả thập phân nam đạo kì nhất nhị. Thử cái
sơn cư chi dị ư dã cư giả dã. Nùng điền hi thiểu hữu thu vô hạ, hữu chi giả
diệc gián kiến kì nhất nhị xứ nhĩ, cố niên chí nội bát cửu nguyệt chí chính nhị
đẳng nguyệt cận hữu túc mễ khả cung phạm chiên. Tự tam tứ nguyệt chí lục thất
nguyệt chỉ tư vu mạch nhật dụng vi sinh diệc hữu nhập lâm bộ thủ báng mộc tâm
mễ tương hồi chư chúc thực chi (báng mộc kì ngoại kiên sát khả dụng tác thừa
lôi giả, thổ nhân phẫu thủ kì tâm tương hồi thung mễ tẩm chi, dĩ thuỷ lự tịnh,
chử chúc thực chi. Ngã nhân dụng tác bính, kì vị tiện giác giai hào) nhi kì
nhân phong độn tỉ chi chung tuế thực mễ chi nhân giả, diệc vô dĩ dị. Cái kì nại
cửu nhi hữu thường cố dã. Thổ sản chi xuất kì sa lê vị tối thanh hương, huyện
huyện hữu chi, duy Quảng Uyên, Thượng Lang, Hạ Lang tam huyện vi đa. Thường
niên lệ hữu thái mại cung tiến. Chí nhược giang hữu hương não chi ngư, sơn hữu
kì hương chi sạ dữ phù thổ cẩm, văn trúc tịch chi hảo tắc Trần quân phong thổ
chi phú bị hĩ. Dư sở kiến sở văn cận đắc kì lược toát thủ đại khái nhi kí chi.
Chí ngữ kì tường dĩ sĩ quân tử.
Thiệu Trị ngũ niên trọng thu vọng tiền kí.
________________________________
Tam Trung Từ Kí
Thiên địa mạc đại hồ cương thường, sĩ phu nhi năng dĩ
thân trọng giả, khởi khả bất quý dã hồ. Thành diệc nan hĩ, tự chính khí chi
kính bất tác kì gian trục cô trung lệ tinh tháo, tài kiến nhất nhị, vị hữu đồng
thời tuẫn tiết chí ư tam nhân giả khởi bất thành khả quý dã tai. Tam nhân vị
thuỳ nhất Bùi nhị Phạm dã Minh Mệnh thập tứ niên Quý Tị án sát Phạm đại phu lai
tiết tư thổ nhị đại phu khoa mục trung nhân dã. Tuy lị sự nhật thiển nhi kì thí
triển chi tích, dĩ lược kiến kì uẩn hĩ. Thị niên bát nguyệt nghịch Vân phiến
biến, tự Bảo Lạc tư mạn duyên biên chư bao lực bất năng kháng, cửu nguyệt tặc
bức thành. Nhị đại phu nãi cứ thành vi thủ kế, thời hữu Lạng tỉnh lãnh binh
Phạm tướng quân lai dữ vi thủ chi trì nhất nguyệt, trù hoạch vạn phương, Chương
Hứa Thư Dương chi dịch dã. Kì thành cố tuấn nhi cô nhân bất đa nhi khiếp, diêm
không đạn tận, viện tuyệt thế cùng, nãi tương vị lực kiệt hĩ, sự bất khả vi hĩ,
kí bất năng thủ vương thổ tu đương tử ư đương sự. án sát Phạm tiên sinh hoàn
tiết, bố chánh Bùi, lãnh binh Phạm diệc tương kế quyên khu, kì hĩ tai, tam nhân
chi nhất kì tâm dã. Phù tam nhân giả, khởi lạc vi thị tai, cái diệc kì chức
phận nhi dĩ hĩ. Thời thập nguyệt chi sơ ngũ dã. Nguyệt dư thành nãi phục. Tổng
thống đại thần dĩ sự văn hoàng đế viết: y chung tai tam thần, trẫm gia nãi
thiện bất dĩ tinh chi tương hà dĩ khuyến. Đặc chuẩn tỉnh thần chi phố hạng lập
từ vu kì địa, viết Tam Trung từ yên. Ô hô, tam thần tử hĩ, Sầm Sơn tiêu liệt,
Hiến Thuỷ lưu anh, bách thiên tài hạ lẫm nhiên như sinh. Ngô cố chi thử địa chi
tam trung từ, đương dữ Bình Định chi song trung, tịnh thuỳ bất hủ. Nhược vô đãi
hồ ngôn dã. Cố tam trung sở thủ, quân tử sở nạn, bất duy khả dĩ hoàn tự thân
chi danh tiết, nhi diệc hữu dĩ thực vạn cổ chi cương thường. Nhất phiến hâm mộ
chi tư bất năng tự dĩ. Cố ư từ chi thành dã ngôn dĩ kí chi hựu vi chi chương dĩ
ca chi, nhược phù bách niên chi hạ văn nhi hứng khởi tại nhân hồ, tại kí dữ thi
hồ tắc ngô bất đắc nhi chi dã.
Kì thi nhất
Tự cổ bành thương đô nhất mộng,
Như kim danh tiết nghĩa tam trung.
Cô thành duyệt nguyệt anh cuồng khấu
Tân miếu thiên thu trĩ bích khung
Hạo khí cao phù sầm lĩnh thuý
Dư linh trường nhiễu hiến giang phong
Hồng trần lộ ngoại khan lai vãng
Kim cổ nhân tâm thử lí đồng
Tuẫn quốc tự nhân tồn đại nghĩa
Kiến từ duy đế trận tam trung
Tam sinh nhược sách đề niên nhật
Nhất tử tuần kham đối nhưỡng khung
Cổn cổn ngưu xuyên đồng thệ thuỷ
Du du chung cổ cộng thanh phong
Vân trường hiền miếu tương luân xứ
Chính khí hạo nhiên nam bắc đồng
Hiếu bả thử thân hoàn tạo vật
Tối nan bình thế hiển
chung thanh
Thiên quan địa lí
cương thường trọng
Lộ diệp sương hoa
tính mệnh khinh
Khí tác sơn hà thu
bất tán
Tâm đồng thiết thạch
tử do sinh
Túc ung cô miếu lâm
giang chử
Bất hủ trường lưu vạn
cổ danh.
Cao cao đài Bùi Quốc
Trinh soạn
Cao Bằng án sát Liêu
Xuyên Phạm Công Trạc tuẫn tiết đồng khế điếu văn.
Ô
hô, tử cố nan hĩ, nhiên nhi công giả diệc khởi dĩ nhất tử vi túc ư tâm dư. Nhân
sinh tại thế, uẩn thiên địa thông minh phụ thánh hiền học vấn, cố dục chác
nhiên hữu sở thụ lập, dữ thiên hạ cộng thụ kì tứ dĩ xứng minh lương chi ngộ,
bất hạnh nhi đương nguy nan, do dĩ trung nghĩa cảm kích nhân tâm, dữ nhất
phương câu hoạt dĩ trọng triều đình chi thác, tắc vi đắc kì nguyện nãi phu dĩ
tử vi kế giả. Kì tâm khởi bất trường tịch mịch tai, khử thu tặc khởi Tuyên
Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng gian chư đạo đại binh phân suất, nhi Cao
Bằng cô dung bất năng thông. Mỗ đẳng giai mộ công cẩu bất tế tất tử, đông thủ
nhân truyền ngôn công tự tận, nhiên nhi vị đắc kì tường dã. Kí lạp công thấn
quy đáo Nhĩ Thuỷ. Mỗ đẳng lục tục điếu vấn yên. Thuỷ chi tặc dĩ bát nguyệt quý
nhiễu tỉnh, chiến phất địch, đồng bố chánh lãnh binh chư viên đăng sơn thương
thành cự thủ. Chuyển chiến nhất nguyệt thành như cố, cập Lạng Bình tuần phủ
Hoàng Văn Quyền lai viện vi tặc sở lỗ, dĩ thị, dược đạn kí tận, quân nãi loạn.
Công chi thế bất chi nãi dĩ tử, dữ bố chánh viên mưu, từ quy, cụ triều phục bắc
diện ngũ bái, tựu văn miếu bái, tuỳ phục đông vọng bái kì gia lưỡng đường.
Nhiên hậu giải phục cập sở đái đồ thư dĩ phần, soạn thi nhất chương dĩ kiến ý.
Chí thư vu phụ mẫu thỉnh chung thần đạo nãi súc đồng bộc huyệt địa vi định, chí
dạ tương lâm huyệt, khủng tặc bất chi tử xứ, hại cập thành chung dân nữ bình
thản cụ nghi trượng như thường, lập đoạn táng tương tiên sát kì thê tử, miễn vi
tặc sở đắc, gia bộc khấp thỉnh, vi tiếu viết: ta hồ, anh hùng khí đoản, thê tử
tình trường, nãi lâm huyệt ngoạ. Đồng bộc bất nhẫn điền thổ hựu khởi khấp dụ.
Nhiên hậu dĩ duệ yêm kì diện nãi khẳng điền. Tặc đăng sơn tứ hồi quan yên, thổ
tạm bình, bố chánh Bùi công (huý Tăng Huy gia định nhân) vấn án sát công an
tại, quân viết tử hĩ, nãi tự ải tử, lạng tỉnh lãnh binh Phạm (huý Vân Lưu tự
lạng lai viện) diệc nhiên. Tặc tức nhật thành nãi hội, nan hĩ tai. Phương tặc
chi vị khởi dã. Công dĩ xuân lai ngũ lục nguyệt dĩ chi kì như thử, thả chúc
nhân thân bộ cập chí thư vu bàng tỉnh lưu hữu viết: tặc thế vị động, bất cảm
văn, nhi chung bất khả át. Vạn nhất lực cô tiên sát thê tử nhiên hậu sát thân
dĩ báo quốc. Dĩ nhi quả nhiên. Thi hựu viết:
Tam
thập hựu tam nhật, thần lực vân kiệt hĩ tắc phi uý túc nhi tử giả. Cập thành
chi hội dã thất nhật nhi tặc viện thoái, nhất nguyệt tặc suy nhi đại binh chí,
hựu nhất nguyệt triều đình thuỷ tất kì điên mạt, ân dụ hữu viết sự thuộc cô
nguy, viết thung dung tựu nghĩa tắc chân phi đồ vi tắc trách vi tử hĩ. Ô hô
công cố bất hạnh nhi hựu thử tử dã, nhiên nhi tự thử dĩ lai hựu khởi đa bất nhi
công tai, hựu bất hạnh nhi mai một ư noạ phu sàn phụ chi khẩu. Hậu hữu chí giả
thuỷ câu thích kì nhất nhị vi tiểu truyện, như Âu Dương công chi sở dụng tâm giả.
Khả thán tai, kim nhi thượng năng vi triều đình sở tương khuyến hạ nhi do vi sĩ
phu sở cảm kích, tắc kì tử dã khả vi thế đạo nhân tâm bốc hĩ. Công dĩ Tân Tị cử
nhân. Do kinh lục niên khiêu tuyển bổ chi huyện, hựu lục niên thủy đặc bổ Cao
Bằng, Cao Ti, vị cập bán niên nhi cập nạn, kì dữ bằng hữu dã cửu nhi di kính,
đạm nhi hữu vị đàm tuế ôn như, ngoại nhược vô sở khả phủ kì chung cái lẫm nhiên
bất khả đoạt giả thử mỗ đẳng sở dĩ ư quyến luyến nhi bất năng vong tình dã.
Dũng thọ phó bảng phương đình Nguyễn Văn Siêu soạn
________________________________________
Phạm Công Trạc tuẫn
tiết, Đông Tác tiến sĩ Nguyễn Văn Lí tế văn.
Ô
hô, Bạt Khanh tử kim lục nguyệt hĩ. Dư thuỷ điếu vu cố cư, khởi dư chi bất tình
dã gia, dịch sự sở ma quy thấn chi nhật bất chi kì đồ kinh, ta hồ Bạt Khanh tử
hĩ, quốc nhân mạc bất đạn tích tráng thả vinh quốc quân ân tuất dĩ thù tinh lâm
văn khấp bái huyết dư kì hình trạng, ngô tì như thường lĩnh dữ phương đình hà
dư ngôn chi đinh ninh đề bạt hương dư tề niên dã. Kinh để thủ tương phùng bão
phụ bất khuy kì sinh bình, độc nhất quan bất khuất thụ ân ư nhân giả, bất khinh
ngô chi mệnh quy, cập đăng đệ vật mang, cố thi dĩ tương tình, dư cảm yên. Đặc
chỉ xuất hiến, dĩ thi tống hành, tắc viết: thập dư niên du từ bất đãi thần hôn,
duy thiếu uỷ lục tuần song khánh. Cẩm y cập vũ ư ban đình, mộ thân chi tường,
ngôn biểu sở hình, khấp nhậm tăng tỉ nguyệt, Tuyên Quang phỉ khấu, tứ mạn vu
Cao Lạng dĩ tung hoành. Công dữ bố chính trích thủ dĩ thủ cô thành, thường đối
nhân viết: tất tiên sát thê tử nhi hậu tự sát. Tráng tai ngôn, oanh oanh liệt
liệt, sử nhân kinh, thế bất chi khí thành di sơn, cứ thương túc dĩ vọng phù
triều đình viện binh, tịnh lực công tiễu dĩ bất cô thủ thổ chi danh, Lạng Sơn
lộ viện binh bất chí. Công kế duy tử dĩ tự minh, thị tử hĩ. Độc di phụ mẫu chi
thư dữ ngũ ngôn kiến thứ chi thi, lâm li huyết mặc, thung dung chung hậu nhi
hoà bình, phi tố hữu bão phụ nhi nhất tử sinh hồ. Dư tụng kì văn tủng nhiên
viết: Bạt Khanh Bạt Khanh phi ngô hữu dã, ngô sư dã khởi dư chi tán bình. Ô hô
Thăng Long thành bại, bình nhật cố cư, Mục Mã quan đầu, song chung di miếu
trích kê đấu tửu, liêu dĩ ngụ ngô thành.
_______________________________
Phạm Công tuẫn tiết, Bái Dương tiến sĩ Ngô Thế Vinh vãn văn
Ô
hô, nhân chi thuỷ dã, hoài hồ mệnh nghĩa nhi sinh dã yên, cập kì chung dã đắc
hồ mệnh nghĩa nhi kì tử dã yên, nãi kim chi ngô hữu Phạm cao sứ chi tử, khởi
phi đắc mệnh nghĩa nhi an giả gia. Phù, cao sứ cố phong cương chi trách giả dã.
Thủ thổ chi thần nhi chí ư tư tắc kì sở đắc tử giả mệnh. Sở dĩ khả tử giả
nghĩa. Bạt khanh tử chi, sử nhân chi mệnh chi bất khả vi, nghĩa chi bất khả
cẩu, nhi kim nhi hậu, văn bạt khanh chi phong giả, nhụ phu lập yên, ngoan phu
liêm yên, kì vi tử dã hoán hồ vĩ tai. Thượng nhi triều đình ưu tuất bao sùng
chi dĩ vi vạn thế chi trung thần nghĩa sĩ giả khuyến, hạ nhi khanh đại phu mạc
bất tráng kì trung nhi ai kì ngộ. Ngũ lục chi kỉ, hoặc tháo văn dĩ điếu, hoặc
vi thi dĩ khốc. Vu thị nhi công luận định hĩ. Hậu lai giả bình bút đại thư tất
viết trung liệt chí sĩ, xả bạt khanh nhi thuỳ khả. Ô hô kì vi an dã, thục hữu
đại hồ. Cổ lai tuần sự chi thần, tráng nhiên hữu sở thụ lập, cố giai kì đạo
nghĩa vi căn, chính khí bàng bạc, nhược kì khảng khái vô nan, thung dung bất
bức tắc hữu như bắc triều chi Triệu Đàm châu, Từ Hành tỉnh, dữ phù ngã triều
trung hưng công thần chi Vũ Hoài công, Ngô Lễ bộ, tắc phù sổ sổ nhiên giả nhi
Phạm cao sứ chi phong như thử, đương Phạm cao sứ chi tồn dã. Viện binh vị trí
giặc thậm xương quyết, nãi dữ Bùi Phiên sứ, Lạng tỉnh lưu lãnh binh tất lực
chiến thủ Phàm tam thập hựu tam nhật, tam nhân tử tài kì nhật nhi viện binh
chí. Kì sự thực dữ Trương Chân Nguyên Hứa, Thư Dương tương loại. Khởi phi trung
nghĩa chi sĩ, thiên thực mệnh chi giả dư. Nhiên thiên hạ chi hào kiệt tất hữu
quá nhân chi tháo. Cái kì tự dưỡng chi tố, hạo nhiên kí hoàn, lâm sự chi thời
kiến nghĩa diệc xác, thủ nghĩa thành nhân, hà tố hà cự, nhi khởi bức nhi hậu
tử, trung hữu sở hối chi tỉ giả gia. Tích Bạt Khanh thượng vi sĩ thời, học hành
ái hữu phương dự, đệ hậu tòng bộ hành tẩu cửu đồng bối chi tiên đạt giả.Hoặc
dục vi chi suy hư, Bạt Khanh từ yên, thí chính Hà Đông, thượng bất nhiễu công
pháp hạ bất đắc tội ư lại dân. Kí nhi tòng sự kinh lường tích lục thất niên
gian bất dĩ yêm khuất dịch sở thủ. Cánh mông hiển bạt, cửu chi hữu Cao Bằng chi
mệnh, diệc xuất đặc giảng, cố bình nhật sĩ phu giai vĩ kì tháo, nhược phù cần
học lệ hành, khắc thiệu gia thanh dĩ hiển phụ mẫu, tương hữu gia nghiêm song
thọ, bất luận bằng hữu chi tại viễn dữ nhĩ, giai đầu thư báo khánh nhi thi văn
chi kỉ liêm tương giả, bất hạ bách thiên. Quốc nhân dĩ vi diễm đàm, diệc khả dĩ
vi hiếu hĩ. Bỉ kì cư bình thực bình tháo điềm tĩnh kì tự dưỡng hữu đạo như thử,
cố nghi lâm đại nạn kiến đại tiết, tạm nhiên nhi bất khả cập dã dư. Ô hô Bạt
Khanh chi tử thành vô hám yên, chi Bạt Khanh chi tâm giả ức hà ai yên, tuy
nhiên chúng phương đồng mậu, nhất lan tự phần du du thanh khí, ngã tâm như
huân, Nùng Sơn chi trắc, Nhĩ Thuỷ chi phần cố cư do tại, chướng vọng hoàng vân.
Ô hô thống tai.
Hà Các lão khốc thi
ngũ thủ.
Kì nhất
Bạt Khanh Cao Bằng
cao sứ dã, thổ phỉ bức tỉnh, phất khắc thủ tử chi. Dư văn chi nhi bi, cửu đắc
kì tường, bất giác kính phục. Nhiên diệc vị cảm hạ bút. Cái kì tiết thậm đại,
kì sự thậm cố, nan hồ vi ngôn dã truy kiến Tây hồ chư quân tử tế văn, nãi tường
kì sự chi điên mạt, nhân thứ kì sự vận chi vi thi, liêu dĩ ngụ kính dữ phục bi
khái chi đại ý vân nhĩ. Nhược viết thiên thu công luận tắc dư ô hồ cảm.
Lẫm
liệt tử do sinh,
Hùng
tai Phạm bạt khanh
Thư
sinh tác hà trạng
Thiên
tử vị chi danh
Chiến
thủ câu vô địa
Tồn
vong cộng thử thành
Khả
lân văn tín vãn
Sự
định thuỷ phân minh.
Kì nhị
Tả sử chi bút, Cao
Bằng vô thành trì khả thủ, nhân dữ bố chánh Bùi mưu di thủ sơn đồn, đãi viện.
Đãi Lạng Bình tuần phủ Hoàng Văn Quyền thất sự, vi tặc sở lỗ. Cao Bằng viện
tuyệt tặc vi thậm cấp nãi tử yên.
Tam
thập hựu tam nhật
Tất
lực tại vi trung
Phủ
viện binh tiên tán
Sơn
đồn lộ nãi cùng
Không
quyền trung phất tế
Thích
huyết cánh nan thông,
Mục
Mã sầu vân đoạn
Tái
gia thê dĩ phong
Kì tam
Thổ phỉ chi biến
Tuyên Quang hữu dĩ khích chi dã, man cập Cao Lạng, công dữ phiên ti Bùi Tăng
Huy, lãnh binh Phạm Văn Lưu đồng nhật tận tiết.
Kí
chi lực bất tế
Nãi
dữ tử tương mưu
Đồng
thành hữu tam liệt
Nhất
tử câu thiên thu
Khích
biến thuỳ chi tội
Hoàn
danh thiên sở lưu
Chỉ
kim công luận định
Di
miếu tại sơn châu
(Triều
đình bao mĩ vi kiến từ dĩ tinh chi)
Kì tứ
Bạt Khanh tương tử,
tương phần sở đắc cáo thân, quan đái vọng khuyết bái, hựu giao bái kì gia thân
nãi quật huyệt tự khanh, dục tiên sát kì thê tử nhiên hậu hạ khanh, tỉnh lại
khốc thỉnh nguyện đắc kì thê tử nãi tiếu nhi hứa chi.
Khấp
kì quan đái tuẫn
Tiếu
dữ lại dân môn
Quân
thân do vị báo
Thê
tử an túc luận
Nhất
phó anh hùng hốt
Thiên
thu tiết nghĩa hồn
Giang
sơn hữu dư phẫn
Đạo
tặc khởi trung tồn.
Kì ngũ
Bạt Khanh tương tử vi
gia thư vô nhất ngôn cập tư, hựu phú thi nhất chương dĩ kiến chí, sinh bình
thoái nhiên nhược bất thăng y dữ nhân ngôn tuẫn nhiên, bất ý lâm đại tiết hữu
như thử.
Kì
tai nhiễu chỉ nhu
Hoá
vi bách luyện cương
Lâm
huyệt bất suỷ lật
Phú
thi tăng khái khảng
Cổ
nhân cánh hà nhượng
Nhụ
phu đương tự cường
Chi
giao phàn cảm trọng
Hoà
lệ tả ai chương.
Binh bộ biện lí Nhâm Thìn hoàng giáp Phạm Đôn Nhân vãn thi
Lâm
nguy kiến đại tiết
Hùng
tai Phạm bạt khanh
Sinh
bình thiện dưỡng khí
Dữ
vật vô sở tranh
Thập
niên sử uất kết
Lí
đạo hoàn an chinh
Nhất
nhật mông giản chí
Hiên
sa xuất biên thành
Nhân
giai vi quân hỉ
Quân
độc vô thù tình
Cái
sở súc giả đại
Mạo
vô quy dữ doanh
Sở
dĩ nhất đán phát
Hạo
nhiên tắc thương minh
Tuyên
Quang khích biên hấn
Tặc
quả diên Cao Bằng
Cô
dung viện dĩ tuyệt
Trích
thủ chung nan anh
Báo
quốc thệ nhất tử
Toàn
thể hoàn như sinh
Quỷ
thần khấp tráng liệt
Sơn
nhạc bàn dư linh
Liệt
liệt Bùi sứ quân
Kiều
kiều Phạm lãnh binh
Đồng
tuẫn hữu tam nhân
Duy
quân thụ tiên thanh
Đại
tiết bất cửu hối
Thế
đạo chung đương minh
Loan
thư tứ hiển tiễn
Miếu
vũ thuỳ chênh vênh
Tạo
hoá dữ quân hậu
Ư
dư hà sở minh
Y
nhân bất khả kiến
Bồi
hồi không sái linh.
______________________
Đích tử thành phục tế
văn
Ô
hô phụ tử cự kim sổ nguyệt hĩ. Nhi thuỷ đắc chi. Nhật giả vương sư vị chí lí lộ
canh trở, gián hoặc đắc chi truyền văn, diệc vị cảm thâm tín, bản nguyệt nhật
khâm mông hộ bộ lục tống ân tuất tiền, thuỷ xác nhiên hữu sở định cứ. Tuy nhật
nguyệt chi vị tường, nguyên uỷ chi vị tất nhi văn ai tắc khả dĩ thành phục hĩ.
Ô hô phụ xuất thân khoa mục, tao tế minh thì, lịch tiễn sĩ đồ toại dĩ lang
chung xuất lãnh cao vu Cao Bằng tỉnh. Vị cập bát nguyệt thổ phỉ xuẩn động, tòng
thử phụ chi âm thư bất phục đồ hĩ. Tạc đắc hung tín tuần chi Cao Bằng nhân lai,
giai vân tặc chí thời, dữ bố chính quan bế thành cự thủ lực hát kế chi dĩ tử
thủ thổ chi chức sự dã. Tự hữu công luận nhi bối phục hà vân tai. Sở khả thống
giả tổ phụ mẫu niên cao hĩ, nhi bối cai đồng hà kham thừa đại, bát niên Vu Từ
huyện vọng tử, thiên lí chi ngoại tiếu sắc âm dung, thời nhận ư lai thư từ nhĩ,
kim xuân dĩ Cao Bằng chi mệnh, phụ tử tổ tôn phục đắc tụ thủ lữ mộng vị tinh
ninh tri tòng thử vĩnh quyết da thị hoan hợp vô ki nhi biệt li vô kì hĩ. Thị
thiên dĩ hoàn tiết tì phụ nhi đoạt nhi bối chi sở khổ dữ tổ phụ tổ mẫu chi sở
ái dã. Phụ an chi hĩ kì như sinh giả hà. Ô hô Quan sơn tu trở tinh phách an tác
mẫu đệ kì khu âm vấn vị chí du du bỉ thương yết kì hữu cực da. Tuy nhiên ngô
phụ kì sinh dã an nghĩa, mệnh kì tử dã. Trượng trung tiết hạo nhiên chi khí
bàng bạc ư vũ trụ gian, bất dĩ tử sinh nhi nhị dã. Thành nam cố trạch thị phụ
hồn hề lai ta.
____________________________
Quy táng cố hương
thân phụ tế văn.
Ô
hô nhĩ chi tán hài quy hĩ, nhĩ tri chi hồ, nhi thụ mệnh án Cao Bằng tỉnh tặc
chí bất năng toàn thành dữ cai khoát thần đồng tử, ngô cập nhĩ mẫu nhật dạ tỉ
vọng hội lệ nhi vị cảm chí ai hạnh vương sư thu phục cố địa, nhi chi hài cốt
hạt quy táng cố hương nhữ chi trách khả vị giảm nhi ngô chi ai diệc khả dật hĩ.
Địa
hạ như đắc kiến chư Tiên công kì miễn nhĩ vu lệ nhi ngã chi giáo tử, diệc khả
thiểu nộ hồ. Thị khả khấp nhi cáo vu nhĩ dã, chí như nhĩ chi cô tử quả thê
thượng hữu ngã dữ nhi mẫu tại, nhi hà bi. Ô hô mã phố xuân quy tuyệt tắc chi
mộng hồn dĩ tinh độc khâu phong tế giai thành chi nộ khí nhưng hiệu kim kí táng
hĩ suất nhi thê tử cộng uý.
Nhĩ hồn nhi kì tri
chi.
Phạm công tang sự chư
vãn liên
Trực cương hạo khí
tồn chung khổ
An Thuận thần tâm tín
thử sinh
Phủ ngưỡng tức kim
chung hàm hận
Hiếu trung tự tín lưỡng
nan toàn
Hạo khí chính khí tồn
thiên địa
Lưu thử hoàn danh đối
sĩ phu
Quan cư tứ phẩm sinh
vô thái
Thủ tiết thành danh
tử hữu văn
Khoa lộ hiển dương
gia hiếu tử
Cô thành thê thương
quốc trung thần
Tuyệt bút nhất chương
trung thả hiếu
Kháng nhan tam liệt
tử do sinh
Trung hiếu lưỡng toàn
nan trung hữu hiển danh hoàn thị hiếu (họi nguyên đỗ quang)
Tử sinh thiên cổ mộng
tử ư đại nghĩa diệc do sinh.
Hiếu tại hiển phụ mẫu
chi danh song thọ môn đình tri hữu tử.
Tử năng lệ sĩ phu chi
tiết tam trung miếu vũ lẫm như sinh.
Di hiếu vi nhân viết
hạnh tai hữu tử
Dĩ nghĩa chế mệnh
công kì bất năng giả thiên.
Hứu quốc thử thân
trung thị hiếu.
Danh cao thiên cổ tử
do sinh.
Hà tất sổ vãng lai
tri ngã phiến tình các chung cổ.
Tương cảm gỉa chí khí
lượng công kim nhật taị bình sinh.(Thượng Phúc tiến sĩ Lê Văn Trung)
Tam sinh bất phụ
giang hồ chí.
Nhất tử hà sầu tiêm
lộ ca.
Phạm Công tuẫn tiết
sự lục bi.
Bi
giả bi dã, bi vu tâm nhi kí vu thạch chí kì sự dã. Hoàng triều Minh Mệnh thập
tứ niên, tặc vi Cao Bằng, tiên linh tử yên, sĩ phu thuật kì swj viết : Tiết
nghĩa Phạm Bạt khanh, húy Đình Trạc, Hải Dương Đường Hào Liêu xuyên nhân, Lê
triều Thái tể Phạm Công Trứ chi hậu dã. Minh Mệnh nhị niên tân tị hương tiến,
sơ tùng lễ bộ hành tẩu, hữu dĩ huyện chi mỹ khuyết bảo cử giả. Công phủ chi,
trưng kiến kì khaí, hậu tòng Hà Đông tri huyện, Lễ bộ chủ sự viên ngoại lang,
lịch thiên lại bộ lang trung. Thập tam niên thập nhị nguyệt nhật, điều bổ Cao
Bằng án sát sứ. Thập tứ niên bát nguyệt nhật Tuyên Quang thổ phỉ NùngVăn Vân
thưà nghịch Khôi chi
biến thiết cứ Bảo
Lạc, tứ mạn, Tuyên Thái Lạng tam biên đại trấn, kì đảng Nguyễn Hữu Huyền,
Nguyễn Tá Cận ứng chi công bức tỉnh thành, thế thậm xương cuồng. Tỉnh duy hưũ
Cao Hùng thổ dân nhất cơ dữ Cận đẳng hữu tố, cố chiến bất lực. Thị nguyệt Lạng
Bằng tuần phủ Hoàng Văn Quyền ủy Lãnh binh Phạm Văn Lưu tương binh lai viện đốc
sử xuất chiến. Văn Lưu nan chi dĩ ước lai trợ thủ vi từ. Công dữ Bố chánh Bùi
Tăng Huy xuất chiến, chúng quả phất địch, thoái nhập thành, mưu kháng thủ dĩ sĩ
viện. Cửu nguyệt sơ nhị nhật tặc tất chúng lai bức, thành trung đơn hư, dục hội
giả sổ hĩ, nãi di cứ sơn thương thành vi thủ kế. Thương hiểm nhi sạ, trạch đắc
nghĩa dũng tam thập dư nhân kiệt lực chuyển chiến, nguyệt dư đồn như cố. Tự nhi
dược đạn diêm thực thủy tận, quan binh nhiễm bệnh cập đào tuần quá bán. Thập
nguyệt sơ tam nhật ngụy Vân tế tập chư đạo tự lai đốc chiến, bức trúc thổ sơn
tứ diện, liên xạ thụ diệp tận lạc, thế thậm nguy cấp, trí dạ bán, văn tượng
linh thanh, đồn trung kinh hỉ, hiểu kiến Hoàng Văn Quyền vi tặc hạm trí tượng
bối dụ lệnh tốc hàng, đồn trung đại nhiễu. Công tri sự bất khả vi, ngữ dữ Bùi
công viết: Nguyệt tiền văn Tổng thống Tạ Văn Cự công giải Lạng Sơn chi vi, viện
binh bất trí nại hà. Kim kế duy hữu tự tận dĩ toàn đồn trung binh dân, duy mệnh
nhi dĩ. Công từ quy, lệnh huyệt địa đông thủ, trung dĩ bản, chỉ thâm đàm viết
ngô thê tử giai thành dã, tốc tự đầu, vô nhục tặc thủ. Thê tử thoái khấp viết
Gia đường song thân cụ tại, hạnh bất tử đại công thị dưỡng. Công đỗng viết
Thiên quả tùng nhân nguyện hồ. Nhân tiềm phú thi :
Tân tị đông xuất thân,
Quý tị đông thân tử.
Quân thân hữu thử tử,
Phủ ngưỡng tài nhất kỉ.
Viết chung dã tắc vị,
Cầu hồ tử sự thân.
Thọ diên chỉ nhất hỉ,
Quỹ
vi thiên lí trình.
Sàn
phụ dữ ấu tử,
Tam
thập hựu tam nhật.
Thần
lực vân kiệt hĩ,
Bất
năng thủ vương thổ.
Nguyện
tử ư vương sự,
Phiếu
diểu khuyết đình vân.
Bạt
vọng tình hà dĩ,
Tử
bái thân ngiêm từ án hạ, khang thọ bách phúc, tử thác phụ mẫu di thể dĩ hữu thử
thân hữu kim nhật, khuất chỉ tam thập cửu niên, tụ thỉêu li đa, vị năng nhất
nhật hiếu dưỡng, thành tử hữ dư tội. Ngưỡng hà thiên tử giản bạt, trật trí tứ
phẩm, quan chí phương diện, thành phúc quá kì lượng hĩ. Kí bất năng vi triều
đình thủ thổ, hựu bất năng tử ư quốc sự, tương hà nhan diện đối thiên hạ sĩ
phu. Thị dĩ cam tâm nhất tử dĩ toàn thần đạo, sàn phụ cô nhi phục khất chiếu
cố, tử tuy tử chi nhất nhật, do sinh chi niên, hà hà khổ trung, bút bất năng
khánh. Thống duy thiên vạn bảo trùng dĩ dẫn hà linh. Tử khấp huyết bái thân (đệ
Huệ, muội Tố nghi ủy thân tâm, tử Quỹ, Vĩ, Thị Thư bối diệc khác tuân giáo hối
vô tiếm môn phong thị ngã sở thâm vọng dã)
Phạm
công tự mệnh thụy.
Hoàng
Việt tân tị ân khoa cử nhân, nhâm ngọ hội thí khoa dự trúng tam trường, Cao
Bằng đẳng xứ địa phương đề hình án sát sứ ti án sát sứ Phạm phủ quân, thụy Đoan
Trực, hiệu Thuần Tiết chi linh, thủ tả ngật, phộoc vu thứ tử tí khấp viết : Nhữ
hạnh sinh hoàn, cự trình lưỡng tổ đường. Kê minh thiết hương án vu văn miếu
tiền, cụ triều phục vọng khuyết ngũ baí. đông vọng phụ mẫu tứ bái, giải triều
phục cập cáo thân đồ thư dĩ phần. Bình minh cụ nghi trượng như thường, nhung y
tựu huyệt. Hoặc thỉnh dị y, tiếu khước viết: Thử khả dĩ kiến ngô tiên tổ dã,
chúng hoàn khấp bất nhẫn điền thổ, công tiếu từ hiểu dĩ nghĩa, cử duệ yêm diện
bất phúc ngữ, chúng nãi cái nhi thổ chi, thổ tạm bình, đồn trung hô khốc thanh
động. Bùi công quái vấn quân viết án sát công tử hĩ, tức ư ngọa sở, dẫn kiếm tự
cảnh bất tử, toại dĩ su đới tự ải, Phạm Văn Lưu diệc tự ải tử. Cao tỉnh phó
lãnh binh Vũ Viết Lợi thúc giáp dĩ hàng, đồn nãi hội vi tặc sở cứ. Kỳ thê tử
dịch thổ nhân y tiềm vãng Phúc Tăng xã sơn động cư yên, thời thập nguyệt chi sơ
ngũ dã. Nguyệt dư thành phục sự văn hoàng đế viết: Sự thuộc cô nguy, viết thung
dung tựu nghĩa, đặc chuẩn tỉnh thần bị quan hồi quán. Chi phó hạng lập từ vu kỳ
địa viết Tam Trung từ, cự niên xuân tế, Bùi công Phạm công tịnh tự. Tái thưởng
ngân nhất bách lượng, trí tế vu kì gia dĩ vi tận tiết gỉa khuyến. Ô hô, tiên
quân tử chính khí, tắc hồ khung nhưỡng, triều đình tương chi, đồng chí ủy chi,
thiên cổ vinh ai tại nhân nhĩ mục, dư hà cảm chuế. Duy hạnh ngưỡng bằng dư ấm
lai lị tư thổ, xúc mục cảm thương ô năng dĩ dĩ, liêu thuật kì sự đăng chi vu
thạch dụng chí kì tâm chi bi yên nhĩ.
_______________________
Cao Bằng tam trung từ
kí.
Nguyên
Bố chánh sứ Bùi công, án sát sứ Phạm công, Lạng Sơn Lãnh binh Phạm công tam
trung thần dã. Hoàng triều Minh Mạng thập tứ niên, tặc vi thành hãm. Tam công
tử chi, thị niên thập nguyệt sơ ngũ dã sự văn Thánh tổ Nhân hoàng đế gia kì
tiết mệnh lập từ tự chi, cự niên xuân tứ tế nhất thứ, tòng tiền lị tư thổ giả
lâm phong cảm niệm, mỗi kị nhật bị sinh trí tế, tuế dĩ vi thường. Đãi Tự Đức
thập niên đinh tị xuân trọng, thự Bó chánh sứ kim lãnh Lạng Bình tuần phủ Đông
Doanh Thụy Tế Bùi công, nguyên án sát sứ kim Thái Bộc tự khanh lãnh bố chánh sứ
Nam phố Vũ công, Thự phó Lãnh binh Cổ lũy Nguyễn công tương dữ mưu viết : Phi
hữu tự thổ vô dĩ thùy vĩnh cửu dã. Viên hội hợp thân biền, các xuất thường bổng
mại Gia Cung xã Đồng Cố xứ thổ nhị mẫu dĩ vi thường niên kị lễ thu thất nguyệt,
viên ngoại lang lãnh án sát sứ Thượng Mão Nguyễn công để lị, nghĩa kì cử, quảng
kì tự, hợp tự gia bổng tái dĩ Cao Tiên tuế tự sở thặng chi túc tăng mại thử xứ
thổ nhất mẫu, cộng tam mẫu, tương liên thính y xã nhân lĩnh canh. Cự niên thu
tiền ngũ thập quan dĩ bị nguyên đán, đoan dương, trừ tịch kị thời chư lễ, tịnh
giao thành úy viên nhận biện nhi mệnh dư tác kí. Phù tam trung danh tiết chiêu
như nhật tinh hà sĩ dư chi chuế tán. Duy từ chi hữu tự thổ, sự dĩ nghĩa khởi
dã. Hữu triệu chi ư thủy, hữu thành chi ư trung, kì sở dĩ vi nhân tâm phong tục
kế diệc hậu hĩ. Cố đương thọ chi vu mân, dụng tồn thực sự vân. Nguyên Trùng
Khánh phủ giáo thụ Hợp Ôn châu tri châu Nguyễn Trọng Lâm cẩn kí.
Tự
Đức thập nhất niên nhị nguyệt sơ thập nhật.
_______________________________
Đông Tác tiến sĩ
Nguyễn quan vãn.
Thỉ
vũ thành trung thế tựa mộng,
Thung dung di bút đối quân thân.
Do
lai hào kiệt khinh sinh tử,
Tự
thị giang hà khấp quỷ thần.
Kiếm
khí quang hàn liêu thủy nguyệt,
Bề
thanh giao thảm mục giao vân.
Thiên
niên công luận quy thanh sử,
Thùy
thị phong cương đệ nhất nhân.
__________________________
Cao Bằng phong thổ
phú.
Hồng
duy ngã hậu yêm hữu viêm giao. Tại thư dĩ định sơn hà, Nhật Nam địa quảng (Sự
tại sử kí) Cư sở hàm hoàn tinh tú, thời bắc thiên cao. Thống chi hỗn văn quỹ
chi đồng. Tằng thí khoách ư Lạc khai Hùng thác, đức chi hành chí bưu chi tốc.
Bạc kí tạm ư hải quán sơn sào, Vực tứ phương nhi mị kiết di, diệc khổng chi cố.
Đẳng nhị nghi nhi đồng kì đại, vô sở bất bao, tắc hữu Cao Bằng nhất cảnh, bản
lệ Thái Nguyên, Cảnh Trị lục niên biệt vi trấn nhưỡng. Miến lịch triều chi kiến
thiết, hoặc phủ hợp hoặc châu phân(sự tường Kí Lược). Khâm thánh đaị chi cánh
trương, kì huyện ngũ kì phủ lưỡng. Mã thành tỉnh lị, trở tam diện chi uynh hồi.
Ninh lĩnh đồn quân, tráng nhất phương chi li chướng. Thủ vĩ giới hò Lạng Tuyên,
đông tây khống hồ Vân Quảng. Kì dân thác tạp Thổ Nùng, kì địa kì khu lâm mãng.
Tuần ti thập nhất chu xa lợi đạt nhĩ hà (chú đồng tiền), ải khẩu thập tam, nam
bắc đồ thông lai vãng (đồng tiền) hữu vô mậu dịch hề nãi bát kì triền (tỉnh
thành Lương Mã, Mục Mã nhị phố. Trà Lĩnh, Cách Linh, Phiên Dương tịnh tại cai
xã Cổ châu tại Hiếu lễ, Đống long tại Linh lang Củng xương tại Đồng loan. Thử
bát thị dã). Đa thiều cộng thu hề, nãi nhất kì xưởng (đông tây xưởng kim khí
chi). Kì sơn cái tuấn, kì thuỷ cái thâm. Thanh bài vạn nhẫn, bích dũng thiên
tầm. Biên phiên vũ phượng chi hình, tứ trụ dẫn quần phong nhi liệt trướng.
Khuất khúc tẩu xà chi thế, tam giang thu chúng thuỷ dĩ hợp khâm (đồng tiền).
Tiếu lập y y hề, khan triều đại. Trường lưu cổn cổn hề, tống cổ kim. Mô sơn
(tại Mang động xã). Thống sơn (tại Trà lĩnh xã) diệc ngu nga nhi tiệc nghiệp.
Ngưu lĩnh (tại Xuân hoả xã) Liêu lĩnh (tại Phúc tăng xã). Giai tủng bạt nhi
khâm hâm. Bế sơn tắc kiệt lĩnh hoành phô, địa đa linh thảo (sơn tại Xuất tính
xã sản sa nhân, thi dự). Bình dương tắc giản lưu, giản lưu hoàn bão, thạch tận
nam châm (sơn tại Quảng trù xã, đa xuất nam châm thạch). Thiên sơn chi trúc
thành ban, văn như cẩm tú (tại Dương áng xã). Hoàng sơn chi thạch xuất ngọc mĩ
tựa Cầu lâm (tại Trà lĩnh xã). Man đà sơn trúc mộc anh hoa, chiêm Tiên phong
chi thắng cảnh (sơn tại Man đà xã, cổ hữu cú vân: điểu đạo biên phiên ngưng vũ
hoá, hà tu đông hải phỏng bồng doanh). Ngưỡng Uy lĩnh phong quang tú lệ, khai
bích động chi tình âm (sơn tại Nội chiêm xã, tú lệ thậm khoa cổ hữu cú vân:
bích thụ bài thanh thường động, uy sơn thiên tĩnh tiếu tình lang). Niên niên
cảnh sắc thanh thông, Bình phong chi hồng danh bất lão (sơn tại Kì xuyên xã, tứ
thời thảo thụ âm sâm, thanh thông bất cải. Cổ hữu vân: tứ thời cành sắc trường
xuân, bát tiết hồng danh bất lão). Thế thế công hầu phú quý, thiên mã sơn chi
cát địa khả tầm (sơn tại Phúc tăng xã hình thế đoan trang, địa kiềm hữu vân:
thiên mã phục hình, thiên đắc thử thế thế công hầu anh hùng bất tuyệt dã). Kê
minh tắc thế phấn long trúc, bôn tẩu lực bì chiến mã (sơn tại Thượng pha xã,
tiếp Giang ngô xã, u nhi tuấn, tích mạc tướng danh Phú bại trận, liên dạ trí
sơn thượng, văn thôn kê minh. Nhân danh yên, cổ hữu vân: an chi tướng binh hán,
diệc lạc thử sơn chi thú dã). Giảng văn tắc hình thành báo biến, đăng lâm hãn
thấp chinh khâm (sơn tại Minh luân xã, tràng Trọng khôn xã, cổ hữu vân: đăng
sơn thấp chinh phu chi hãn). Mĩ tai long đĩnh chi giang, Lũng đĩnh chi giang
ngư não hương phiêu toà thượng (ngư xuất Lũng đĩnh giang, phẫu thời mĩ tựa tân
nhụ chi vị. Mãn toà hinh hương khả ái). Quái để thông huề chi thuỷ, giao diên
nhật trường đàm tâm (giang lưu xuỷ cấp, đa hữu giao long tại yên, lạo thời
thường vi dân hại. Nhân tác kiều độ chi). Địa thiết trĩ lưu tổng kinh khách
nhãn. Thiên nhiên cảnh trí, thậm trợ tao ngâm. Phục hoà thành thạch kiệt luỹ luỹ,
khái Hàm thông hữu chí (đồng tiền). Na lữ miếu chuyên dung ngật ngật, tưởng Lê
đế chi quang lâm. Cố luỹ cựu thành, đài mai mạc mạc. Di từ cổ tự, thảo thụ xâm
xâm. Trướng tiền nhân chi an tại, chuyết cao phong chi khả khâm. Chí Cao tuấn
mã chi phi đằng, lũ kinh Tống tướng (Chí cao, Nùng tính, Quảng uyên nhân dã. Kì
phụ Toàn Phúc tiếm nghịch vi Lí đế cầm sát. Cao dữ mẫu A Nùng y vu thúc gia mục
mã dã ngoại. Thường kiến nhất phiến hắc vân bàn chuyển như long phục tẫn mã bối
thượng. Cao tâm ám hỉ, kì mã sản nhất hùng mã, Cao lực thỉnh mục dưỡng. Kì nhi
trưởng nhất tuấn mã. Cao nhật thừa chi, túng sính như phi, ngẫu đăng Thống sơn,
hốt ngộ nhất dị nhân thụ dĩ binh thư. Lí Càn Phù gian biểu thỉnh khí quản sâm
tống, khắc phục Ung, Hoành đẳng châu. Tống sử Địch thanh hãn ngự Cao luỵ bại
chi. Trảm sát phả đa, Tống nhân trấn khủng. Khởi kì thiên hạ bắc nam, hốt dạ bị
Tống nhân vi chi, Cao liệu thế bức, thực khai hậu doanh nhất giác, thừa mã phục
hồi cố địa, cư vô hà, thừa mã đằng không nhi khứ. Lí đế tích kì dũng lược,
phong lập Sầm đại vương từ, tại Tượng cận xã vân). Quan Triều chi thần y xuất
một, khắc phục ngã cương (Quan Triều Thái Nguyên nhân dĩ ngư vi nghiệp. Nhất dạ
tản cương ư Quán triều chi khê, giao văn ngạn thượng huyền ca chi thanh. Vãng
thiết thính chi kiến nhất nhân lai khích. Giải y y chi dẫn chí, hội tịch tửu
nhất tuần, nga nhi tịch tán thành nhất không sơn. Quan triều tự đắc thần y chú
hành chi nhân bất kiến, dạ hành nhi khuyển bất phệ. Nhân nhập khố. Du tiền tài
sở đắc tận hành cấp tán diệc bất lưu nhuận kì gia. Dĩ thử nhân đa quy phụ, cử
chi y xuyên nhất khổng, bổ chi dĩ bạch quyến. Mỗi xuất khố thời đãn kiến hồ
điệp xuất nhập, nhi khố nô mỗi vi sở thất. Chúng nhân dẫn cương bộ hoạch, nãi
Quan triều dã tống phồn nhạc, ngẫu trực bắc binh xâm cương, quan triều tấu
thỉnh thảo tặc mại tội Lê Đại Hành hoàng đế hứa chi, nãi đái nghĩa binh tự trứ
thần y nhập trận, tung hoành sát tặc khắc phục cương thổ. Bái hộ quốc tướng
quân. Thượng Hồng Liên công chúa thực ấp Phú bình chư phủ, một hậu giai công
chúa truy phong thần hiệu. Từ tại Tượng an tổng Xuân lĩnh xã). Trừ tam quái giữ
yên dân, Trần Quý Trần Kiêm chi lợi kiếm (Nhị Trần Ninh sóc nhân dã, thừa mẫu
di chúc trảm yêu cứu dân chi sự. Nhất nhật huynh đệ trì kiếm hành chí Sầm khê
kiến nhị nữ thương hoàng tiền lai, vấn chi đáp Vị Cừ nãi dân nữ, duyên vi Cù
Sơn chi nham, Muộn Động yêu quái danh Bà Trằn tịnh nhất tôn nữ cốt sấu sắc sồ,
thiệt trường xích hứa, cận khê nhất huyệt yêu xà trường ngũ thập trượng, lân
như thiểm điện, nhãn tựa minh tinh, Xuân Lan xã quái điểu trạng như nga ưng,
phi minh vũ động, triển dực vân thuỳ, tam quái hằng vi dân hại. Khoảnh kiến Bà
Trằn hốt chí, cố Cừ kinh tẩu. Nhị Trần tức tựu sơn thôn đầu, tràng ngẫu Bà
Trằn, huy kiếm hằng trảm, mỗi vi trường thiệt đê quyển đao khẩu chi huyết, chung
bất năng thương. Nhật mộ Bà Trằn thoái quy vu động ngữ tôn dĩ sự. Tôn viết :
Tòng kim bất khả khứ hĩ. Tha nhược tri dĩ uế vật đồ kiếm tắc hưu hĩ. Nhị Trần
tiềm khuy văn đắc, nãi ô kì kiếm, liên dạ trực đáo tận sát chi.Thừa bộ sấn trảm
yêu xà quái điểu chi đầu, tam quái kí trừ, phương dân đức chi, từ vu Mạnh Sơn
xã). Bỉnh nhất tâm dĩ quy chính, Phù Thắng, Phù Thiết chi cương trường (Nhị
Phù, Hạ Lang Minh Luân nhân, thế vi tù trưởng, cập Mạc Thị chiếm cứ, nhị nhân
bất khẳng xuất sĩ, Mạc di kì tộc, Phù Thiết miễn cưỡng tòng chi. Nhiên nhất tâm
quy chính vị thường vong dã. Tuỳ hựu đấu chúng cứ hiểm cự thủ, hậu vi thương
đàu hoài nhị, bị cầm, đầu giang nhi vẫn. Cập Lê đế bình Mạc hậu, sắ phong Giang
châu tiết chế Đại vương, từ tại Mạnh Sơn xã). Cầm Mạc thị nhi nghênh vương sư,
Trần công hà kì hùng nghị (Trần công danh Lâm, Cẩm Dã nhân văn vương sư tiến
tiễu Mạc thị, nghệ quân nguyện vi tiên phong, truy Mạc thị cập vu biên tái, cầm
chi hậu tử trận, sắc phong Đại vương, từ tại Xuân Lĩnh xã). Bại Tống binh nhi thu
châu địa, Hoàng Lục hà kì kiêu cường (Công Thượng Lang nhân, nhân Tống binh
truy Trí Cao xâm vu ngã giới, nãi đấu đinh tráng thiết phục công bại chi tịnh
hữu bát châu tịch hiến. Lý đế phong an biên tướng quân, hậu phục biểu thỉnh
công phá Ung châu,vi Tống binh sở thương, truy phong đại vương, từ tại nguyên
quán Lũng Định xã). Thụ đồng tiễn ư sơn thần Nùng Đắc Thái chi xạ tài Mạc địch
(Công Thái Nguyên nhân, nhất nhật du lạp tị vũ sơn trung, kiến nhất nhân toạ
đàm xạ pháp. Kì nhân tứ chi đồng nô tiễn, các nhất tiễn thúc lang nha, tiễn vũ
bạch hạc mao, kí nhi chuyển loan sơn giác hốt thất ảnh tích. Đắc Thái đắc chi
mỗi xạ nhất tiễn biến thành bách tiễn, bách phát bách trúng hựu năng thu hồi kì
tiễn dĩ vi thần trợ, toại hữu cự mệnh chi ý, hậu vi Khắc Thiệu chấm sát). Tung
hoả công ư thuỷ động, Nùng Công Kim chi tích phẫn khả thưởng (công Thạch An,
Kim pha nhân, trúc cư Hiến giang ngạn trắc, sinh hữu nhất nữ, niên bô cập châm,
tư sắc thù tuyệt. Nhất nhật phu thê tha vãng, độc nữ tại khuê đường chức, kiến
nhất nam tử hoá tác giao hình phiên thân duệ khứ. Kì nữ tử bất li toan, ti điều
thượng liên quyến trữ, trí vu giang thuỷ. Cập mộ phu thê hồi gia bất kiến nữ
tại, bất thăng thê thảm, nhân tùng ti điều thẩn thuỷ khứ, kiến nhất thạch đậu,
từ nhập tiềm đắc khoan quảng, giá ốc trùng lâu nghiễm nhược cung phủ. Thiết
thính chi, ti trúc nhàn ca, diệc hữu xưng hạ tân hôn chi thanh giả. Nga hữu
nhân xuất, dữ đạo thị phi tiện mệnh hôn giả duệ xuất. Công đái nộ nhi hồi, tự
thổn bất dụng hoả công bất năng tiết phẫn dã. Tức bị lưu hoàng, diêm tiêu hoả
khí, thịnh dĩ trúc dõng, phục tiềm nhập thuỷ phóng hoả diên thiêu điện vũ,
chuyển thượng thuỷ diện, quả kiến sơn vi chi băng trụy, hoả khí đằng diệm, thảo
mộc tiêu khô, tam nguyệt bất diệt, nhân tranh khan, truyền thuyết dĩ vi kì sự.
Trí kim sơn đột tam diện, kì hạ do hữu thổ thán vân). Phảng phất dư linh thanh
thanh tuyền, bộc hỗn hoàng bao điển, tự tự chu lương. Thế tập cơ cừu tác phiên
phụ vu vương thất. Nhân nhàn cung mã thụ huân nghiệp vu biên phương, thử giai
đắc hồ địa khí, cố diệt xuất hồ danh lương. Lược văn nhân phẩm chi đa kì, khái
kiến dân phong chi sở hướng. Hữu chất lỗ nhi thiểu văn, hữu cương cường nhi đa
cống. Hoặc thứ bạo ư phẫn tranh, hoặc phóng tình ư trì đãng. Thượng bạn tắc
nhân sảo hồn thuần, Hạ bạn tắc nhân đa trá võng. Dâm dật thổ âm chi khúc, nữ
huề nam quy. Thù li tục ngạn chi ca, nam hoà nữ xướng. Nhàn thiên du hí, ngân
bội su triền. Tân tịch ẩm thù tửu thăng nhục hoàn. Diệc hữu phú hào nam tử hề
sự canh vân. Hoa diễm nữ nhi hề cần chức phương. Điền gian mộc mã, thừa hạ thử
nhi bá ương. Lũng thượng mộc chu, loát thu hoà nhi tích tàng. Vụ nông dĩ lạp,
lão thủ thất nhi tráng tùng cầm. Điền tuấn dĩ ngư, phụ chwngr phiệt nhi phu
trương võng. Đại tiền tắc kết dĩ thằng, trái ngân tắc khắc dĩ trúc. Thuần mang
vô dị hồ cổ phong, cư gia tắc giá dĩ các. Cấp thuỷ tắc đài dĩ dũng. Bộc dã lược
đồng hồ thái thượng, lân thôn tích bính, tự tiên nguyên đán hề bị tục hậu.
Phong mật điều chư, khoản khách tam chiêu hề cộng dã huống. Hôn lễ tắc tài ngũ
lục tuế, đồng tử tiên kì nạp tễ dĩ cầu hôn. Tang lễ tắc nhị thập tứ hiếu ca
chương, nhạc công xuy tiêu nhi trợ táng. Mộ gian hoạ ốc nhị chích kê lưu tặng
hồ vong nhân. Phần thượng ca diên ngũ sắc bính dụng quân ư tộc đảng. Khu trừ
quỷ phách, tang phất lực huy. Kì đảo mị vu, cầm thanh linh hưởng. Dĩ tập chi sở
nhiễm hề, thiên lí bất đồng phong. Duy vật chi sở hữu hề, tứ thời giai khả
thưởng. Thiết lệnh, thanh ngư, anh vũ mĩ lân da xuất ư thuỷ tân. Bạch nhàn, Tử
xạ, cẩm kê kì vật thường xuất ư sơn dã. Hữu phục khả dĩ hoa thân hề, ti bố mĩ
văn. Hữu cam khả dĩ thích khẩu hề, túc lê giai quả. Hữu cẩm trướng hề khả phô
trương, hữu mật tịch hề khả toạ ngoạ. Hoàng kim hề, kì chân. Thiết tử hề kì
hoá. Xung ba khích thuỷ dĩ bộ ngư chi thuần cầm, việt lĩnh xuyên khê hữu truy
phong chi lương mã. Trí như hắc miêu hà vật tư dữ xà giao (gia súc hắc tẫn miêu
giả, trí động thời tiện vãng hoang viên đề khiếu, hốt hữu hắc xà lai nhiễu miêu
thân, nga nhi thuỷ giải. Hậu sinh miêu nhi tắc linh lợi, tiệp quần thử vi chi
viễn tị, thù vi trấn gia chi bảo). Thổ phượng hà cầm tình thu viên giá ( Thổ
phượng hoàng giả, đại tựa nga, thư hùng thành ngẫu. Duy thư giả thường thu dữ
viên hợp, vãng vãng sinh hữu viên loại. Mỗi chí hạ nguyệt, ư thạch lĩnh nguy xứ
kết sào sản, tất song noãn. Kì thư tại sào bão chi, kì hùng vãng ngự mộc điều
giao giá khởi, sào ngoại giao dĩ cảm lãm chi, duy lưu nhất khổng duy thư xuất
đầu ngưỡng thực. Mãn nguyệt nhi sinh, như kiến viên loại, tái gia điền tắc sào
khẩu, sử thư giả giai viên nhi cụ tử kì trung). Hạn lao trưng Mô động chi ngưu (động
tại Thượng lang chi Bồng thượng xã giới, hiệu Ba Mô. Sơn hạ hữu điền thuỷ lưu
vu điền gian, nhân thậm lợi chi. Cảnh Hưng gian, mục nhân Nùng Văn Bồng, nhân
động khẩu thuỷ hạc, thuận bộ nhi nhập, kiến nhất cự ngưu hoành ngoạ, thủ vũ
ngưu nhi ca, ngưu nãi khởi thân tẩu nhập thâm xứ, hốt bất kiến. Tu du nham thuỷ
lưu xuất. Tự hậu hữu văn nham ngưu hống giả, kì niên thuỷ lao luỵ hữu trưng
dã). Phong niên ngiệm đà sơn chi hoả (sơn tại Thạch An chi Bình Giản xã, lĩnh
thượngthảo mộc xâm uý. Ư lục thất nguyệt gian, tự nhiên hữu hoả phần giả, kì
niên mộc cốc phong đăng). Tứ thời dị đạo hà xứ đắc lai (Quảng Tây tỉnh An Bình
châu, Đông KIêu hương nội, thạch sơn lĩnh thượng bình khoát ước nhất trượng dư,
thâm ước xích hứa, thậm nê ninh. Kì thuỷ bất hạc. Mỗi ư chính nguyệt thời hầu
hốt sinh đạo hoà thậm mậu, nhị nguyệt thổ hoa, tam nguyệt thành thục. Hệ chí hạ
thu đông thời hầu diệc như chi, bất canh nhi hoạch kì lợi vô phương). Bát Bảo
thần chung tùng hà lưu quá (chung nguyên tại Quan Triêu từ, cao tứ xích ngũ
thốn, khoát tam xích mỗi khấu thanh văn bách lí. Hốt dạ vu từ trắc chi giang
dàm, thiền tăng khuy kiến xà trùng triền chung thân, tái trầm tái phù, giang
thuỷ phất động, nga nhi phục hồi nguyên sở. Dạ dạ như chi, đệ bát dạ phục
trương vãng bất hồi, biệt vô thanh ảnh, nhi thử đàm diệc vô xà hoạn, nhân hiệu
chung đàm. Sự tại Lê Vĩnh Tộ gian. CHí Chính Hoà trung hữu Thái Bình châu nhân
lai tỉnh bản mại, cụ ngôn tiền hữu nhất quả hồng chung tùng Long châu giang
nghịch nguyên lưu vu Thái Bình châu. Hắc hà chi tân châu quan tằng hứu tượng
nhân dung dịch kì chung, biên thể hãn lưu như vũ, nộ thanh như lôi. Châu quan
chiến cụ mệnh tu điện vũ tự dĩ Thái lao, thử bát bảo thần chung dã, sử nhân tựu
xứ tế nhận đích thị quan triều tự chung). Tiên muội tác phối, không đàm Trần Triệu
chi kì duyên. Lộc thể biến thân lãng đạo Trần công chi ác quả (Trần công thế cư
Ninh Sóc, kì thê Hoàng thị hoài dặng khốc hiếu lộc nhục. Công xuất lạp thường
hoạch di chi thực yên. Cập sinh nhất tử, mệnh danh Trần Triệu. Nhi công chuyên
sự điền lạp sát snh thậm đa, đầu hốt sinh giác, thân sinh vĩ thủ túc giai thành
lộc thể, khiêu dược nhập sơn dữ mê lộc vi quần. Cập Triệu trưởng thành vấn mẫu
tri chi, bất giác tình động ư trung, biên vãng sơn lâm thám phụ tiêu tức, hạnh
nhi tương ngộ, nhân huề chí hạng môn, lộc vi lí mang sở phệ kinh tẩu, triết
giác chúc kì tử thủ tố hệ giác nhi duệ câu xứ tức tịch vi điền, khả dĩ tư
dưỡng.Triệu quy duệ chi, ngẫu li quả phụ tang viên, nhưng cầu vi điền, thực
hoà, thu thành hoạch tận, hựu sin sở thậm lợi. Nhất nhật hoạch vu điền thượng,
hốt kiến nhất đoàn mĩ muội, hoặc khuông hoặc lữ bà sa nhi trí thái thái nhu
tang. Triệu dĩ ngôn khiêu chi viết : Thìu năng vi ngã hoạch tận thử đạo, ngã
nguyện vi thái tang. Trung hữu nhất nữ ứng nặc. Nhật kí mộ chư muội tán tận,
độc đại hoạch giả vi Triệu nghễ vọngthái bất doanh khuông, bồi hồi cố vọng, một
như chi hà. Nhân tuỳ Triệu cam dụ khích lưu. Thời chính minh nguyệt tại thiên,
nhân ảnh tại địa, nhị nhân huề thủ đồng quy, tâm đầu ý hợp. Nhất dạ thành phu
phụ sinh hạ nhị tử Trần Kiên, TRần Quý, nhất nhật chúc nhị tử trừ yêu cứu dân
chi sự, ngôn ngật đằng không nhi khứ. Trần Triệu lân chi, diệc nhập sơn cầu đạo
bất tri sở chi) Đô Dũng chi sinh hoàn xà tống, ngữ thiệp hoang đường (công
Thạch Giao, Tiên An nhân, vi Mạc thị bả trục binh, tiên giả hồi gia, thừa chu
du vu Xuân Hoảng chi giang. Dạ nhân ngẫu vũ, đăng ngạn hồng y, ngẫu nhập nhất
nham, thính hữu nhân thanh điểm binh, hô Đô Dũng danh, cừ tức khai tiếu khẩu
nhất ứng. ứng liễu nhi xuất, nga kiến cự giao nhị hồng lân cẩm bối, kế hữu tiểu
gia thành ngũ, liên xuất khứ tòng thuỷ hạ, nhật xuất phương chỉ. Hốt kiến lưỡng
nhân quy bản hà hình đột lai đề cự duệ nhập nham khứ. Trí nhất đại đường, nhất
nhân phục trứ thanh bào triều mạo, trách dĩ hối pháp, dục gia chi tội. Đô Dũng
đáp dĩ văn danh nhi ứng, hữu hà khinh hối, kì nhân yết tống khứ. Khứ đồ gian sở
tống giả ngôn, tạc dạ điểm binh vi trừ Long châu chi thảo khấu dã. Cập hoàn Đô
Dũng lịch tự kì sự, kiến phong thổ lục). Thiên Hoà chi tử hoá điểu minh, sự thù
nghi nhạ (Thiên Hoà, Thạch An, Thời Hoà nhân. tức Nùng Qúy Hổ phẫn Mạc thị chi
tiếm, suất dân binh công chi bất khắc, đầu sơn nhi tử, hoá vi vô thường điểu,
thác mộng báo nhân tức tầm trí tử xứ. Quả kiến điểu minh, nãi oán Mạc thị chi
minh dã). Phàm bách truyện văn bất tận miêu tả, sĩ quân tqr xả quái nhi tồn
thường, đại thánh nhân quan phong nhi hoá hạ. Y sơn xuyên tự tại, phong khí du
quan. Nhất đại hữu nhất đại chi anh kì, hà tiên nhi hà hậu. Nhất châu hữu nhất
châu chi hiếu thượng, khả trừng khả quan. Cảm tiền nhân công đức chi bất vong
tắc thụ kệ tồn thường mỗi tư sùng báo (chú đồng tiền). Phẫn nghịch đảng hung
ngoan chi bất cung tắc loả lương đới giáp, hề đạn lao nan (chú đồng tiền). Hội
biến Di nhi nhập Hạ, tương phụ hậu nhi cách nhan. Dư dã tài tạm bao trướng,
chức thiểm phiên hàn, tứ cố sơn hà hạnh phong trần chi tĩnh thiếp. Nhất phương
thương xích, khánh nhâm tịch chi tương an. Tư kí sự nhi khảo ngôn, liêu bị quan
ư công hà, nãi mệnh đề nhi tác phú, tận quy chuyết ư hào đoan.
Dịch
Nghĩa:
Thời
sơ khai của xứ Cao Bằng thì không khảo xét vào đâu được nữa, chỉ còn hai toà
thành cũ, một ở Na Lữ, Thạch Lâm, một ở Phúc Hoà, Thạch An (trước thuộc châu
Thanh Lâm) đến nay đã đổ hoang phế cả. Niên đại không ghi chép lại được, chỉ
nghe người bản xứ truyền miệng rằng trong đống gạch đá hoang phế ấy có viên ghi
niên hiệu Hàm Thông, phải chăng đó là do Đô hộ sứ Cao Biền đời Đường dựng nên?
Thực cũng chẳng có chứng cứ gì chính xác.
Xem
tản mát trong các sách vở ghi chép mà có thể khảo được, chỉ còn có một phủ cổ
ấy vậy. Đời Lý lệ vào xứ Thái Nguyên làm một đạo ở phía bắc, có Thái Nguyên,
Quảng Uyên nữa là ba châu. Dân Phiên nối đời thế tập coi giữ. Vào những năm Càn
Phù, có người thổ tù là Nùng Toàn Phúc làm phản bị giết, con là Trí Cao lại nối
chức, cậy có sức mạnh cử binh vào cướp lấy hai châu Ung, Hoành trong nội địa.
Sau bị tướng nhà Tống là Địch Thanh đánh bại, việc ấy có chép trong Tống sử. Có
người kể lại rằng Trí Cao sau khi bị đánh bại bỏ chạy về đất cũ, cưỡi long mã
bay lên trời mà đi mất. Thuyết ấy tuy là truyện hoang đường, nhưng đến nay ở
Sầm Châu hãy còn toà miếu cổ, trải qua các triều đều phong tặng Thượng đẳng
thần, rất là linh ứng. Năm Thuận Thiên thứ 4, người bản xứ là Bế Khắc Thiệu
chiếm giữ đất ấy mưu làm phản, Thái tổ đích thân cầm quân đi dẹp yên, trú quân
ở thành Na Lữ, nay trong thành còn có đền thờ do dân phường Na Lữ phụng sự. Bên
trên chuẩn cho 30 người làm phu miếu. Núi đá ở phía tây bắc thành còn có một
bài thơ khắc vào vách đá :
Chẳng
từ muôn dặm chỉnh cơ đồ,
Chỉ
mong biên viễn dân được no.
Trời
đất không dung quân gian ở,
Xưa
nay phản tặc chỉ diệt chu.
Hiếu
trung tự khắc thêm nhiều phúc,
Bạo
nghịch thân kia khó thoát cho.
Mài
dũa chẳng mòn thần tử tiết,
Cô
sơn muôn thủa với danh lưu.
Cuối bài thơ có đề mấy chữ: Ngày 20
tháng giêng năm Tân hợi niên hiệu Thuận Thiên thứ 4 đề. Đó là những di tích còn
sót lại.
Thời Lê Quang Thuận đổi tên là phủ Bắc
Bình, có 4 châu Thái Nguyên, Lộng Nguyên, Thượng Lang, Hạ Lang. Sau lại đổi
Thái Nguyên ra Thạch Lâm, Lộng Nguyên ra Quảng Uyên, vẫn để cho Phiên thần giữ
lễ cống nạp. Đến như từ Quảng Nguyên đổi ra Lộng Nguyên là từ khi nào thì cũng
không thể khảo được.
Thời Lê Quang Hưng, bọn nguỵ triều Mạc
Kính Cung tiếm xưng vương hiệu là Kiền Thống, chiếm cứ Vu Thuỷ, Cao Bằng (tức
xã Hạ Thuỷ, Thượng Bạch cũ). Trải ba đời Kiền Thống, Long Thái, Thuận Đức,
chính lệnh phiền nhiễu, dân chúng chán ghét. Quan Hiệu uý nhà Mạc là Bế Công
Lượng (người Bác Khê, nay thuộc huyện Thạch An) mưu giết Mạc Kính Thuỵ, việc
không thành, trốn lên Bắc Kinh dẫn đường cho quân nhà Lê chi binh lên tiễu trừ.
Mạc Kính Thuỵ chạy vào nội địa, ở thành Nam Ninh, Quảng Tây. Lúc ấy là vào
khoảng thời vua Lê Cảnh Trị. Năm Chính Hoà thứ 2, Kính Thuỵ chết ở Sái Thành,
đến năm thứ 3 thì người nước Bắc bắt em của Kính Thuỵ là Kính Tiên giải đưa về
Nam Quan, Kính Tiên uống thuốc độc mà chết. Nhà Mạc đến đây thì dứt. Nay trên
đất Vu Thuỷ hãy còn các tên Hoa Viên, Liên Trì, Xứ Bắc đó là chỗ cung cũ của họ
Mạc.
Sau
khi dứt được nhà Mạc, mới đặt riêng làm xứ Cao Bằng, không còn lệ vào Thái
Nguyên nữa, đặt quan cai trị trấn giữ. Khi xưa đặt lị trấn ở đất Lạc Dương
huyện Thất Khê, Lạng Sơn (trước là Thượng Bạch, Hạ Thuỷ, nay đổi làm Khê), sau
dời về phố Cao Bằng, tức chỗ cũ của họ Mạc, nay đổi làm An Bình. Lại đổi sang
thành Mục Mã, tức tỉnh lị ngày nay. Một phủ là Trùng Khánh, còn bốn châu vẫn
theo như cũ.
Năm
Cảnh Hưng nguyên niên bọn giặc Yên, Lộc ở Lạng Sơn xâm phạm vào cướp hạt giới.
Đốc đồng là Nguyễn Đình Bá chống cự ở địa phận núi Phúc ứng, châu Thạch Lâm
(nay thuộc Thạch An) phá được. Năm thứ 2 bọn giặc Sơn, giặc Toản lại ngoi đầu
dậy chia đường đến lấn ở địa giới. Nguyễn Đình Bá lại đốc chiến đánh bại được,
đảng giặc tan chạy, dân trong châu được yên, Nguyễn Đình Bá được lĩnh chức Đốc
trấn. Năm thứ 5, giặc Thư Xỉ ở Thái Nguyên xâm lấn cướp ba châu Quảng Uyên,
Thượng Lang, Hạ Lang. Nguyễn Đình Bá đem quân đi tiễu phạt, quân đi đến chợ Vi
Hoa đất Cảm Hoá (thuộc Thái Nguyên) thì ông bị bệnh mất trong quân. Dân trong
châu truy ơn công đức của ông dựng đèn phụng thờ, chuyện tâu lên được phong là
Thượng đẳng thần. Ngày nay đền nằm ở khu ngoài phía đông bắc của tỉnh thành.
(Nguyễn Đình Bá nguyên người Bình Dân, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam đỗ đồng
tiến sĩ xuất thân khoa Đinh mùi niên hiệu Bảo Thái. Sau khi ông mất dân lập đền
thờ thuộc xá Kim Giáp, châu Thạch Lâm. Dân chúng phụng tự, nay gọi là đền Thanh
Trung. Con ông là Nguyễn Đình Trù, đỗ đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỉ sửu niên
hiệu Cảnh Hưng, sau đổi tên thành Lạc Thiện tiếp tục làm Đốc đồng trấn Cao Bằng
khắc bia đá để chép lại sự tích.)
Năm
Cảnh Hưng thứ 47, mệnh Nguyễn Hãn làm Đốc đồng, Lưu Tiệp (người làng Nguyệt
áng, Thanh Trì, đỗ tiến sĩ) làm Đốc trấn. Năm Chiêu Thống nguyên niên, Nguyễn
Hãn âm mưu với thổ tù Lê Văn Kiện (là cha của phản nghịch Lê Khôi ngày nay) mưu
công chiếm trấn doanh, đặt phục binh ở miếu Cao Tiên (nay là trại Cao Dũng) và
bên đường thành đất ??. Lưu Tiệp gọi Trưởng xử là Nhàn Văn Khải đem binh cố
giữ. Nguyễn Hãn và Kiện đánh mãi không hạ được trốn về xã Xuân Hoảng (nay thuộc
Thạch An). Lưu Tiệp sai Nhàn Văn Khải truy kích, Nguyễn Hãn chết, nay người ở xã
ấy lập miếu thờ, Lê Văn Kiện cũng bị kẻ thù giết hại. Vua Lê sai Ngự sử đài
Nguyễn Đình Hương tra xét kỹ sự việc, sực bỗng nảy ra việc nguỵ Tây Sơn gây náo
động, việc ấy lại bèn thôi.
Năm
Chiêu Thống thứ 3 người Bác Khê ở châu Thạch Lâm là Nhàn Văn Cung thụ chức của
Hộ bộ đổng lý tài vụ kiêm đô ngự sử đài hữu kiểm đô ngự sử, lãnh chức Cao Bằng
án trấn hành đốc trấn sự dẫn quân từ Điền Châu nước Thanh về Thăng Long cùng
giặc Tây Sơn giao chiến. Tháng giêng năm Kỷ dậu, Thăng Long thất thủ, vua Chiêu
Thống theo Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị theo đường Nam Quan trốn vào nội
địa. Nhàn Văn Cung cũng dắt gia quyến theo tòng vong, bị người Thanh cho an trí
ở huyện Thượng Nguyên, phủ Giang Ninh, tỉnh Giang Nam. Đến bản triều năm Giáp
tí niên hiệu Gia Long thứ 3 mới được về nước (Văn Cung ở nội địa, con là Hựu
Nhân theo học với người phương Bắc, có Lạc Sơn thi tập ấn bản lưu hành ở trong
nước. Sau khi về nước làm quan tới chức Hiệp trấn Hải Dương, Văn Cung có cháu
là Văn Định gọi Hựu Nhân bằng bác, ngày nay họ tộc đều là những nhà thế phiệt
lớn ở đất Cao Bằng.)
Tháng
giêng năm Kỉ dậu thời nguỵ Tây Sơn, em thứ ba của vua Lê (không rõ tên) chiếm
giữ châu Bảo Lạc của Tuyên Quang, tháng 9 uỷ sai Tri châu Nùng Văn Liêm (cha
của nghịch tặc Vân) làm Tiền bộ tướng quân đem quân xâm cướp trấn thành. Trấn
thủ là Phong (không rõ họ), thua chạy sang Lạng Sơn, xin quân ở Lạng Sơn cứu
ứng. Thu lại được trấn thành lại không ở để giữ, lại sang Lạng Sơn, Văn Liêm
đuổi theo không kịp. Đến tháng 10 giặc Tây Sơn lại sai Đại đô đốc Uyển (không
rõ họ) tiến đánh thu lại trấn thành, Văn Liêm lui về Bảo Lạc. Tháng 10 năm Tân
hợi Trấn thủ Hương (không rõ họ) hội đồng cùng trấn Tuyên Quang tiến đánh châu
Bảo Lạc, bắt được em trai thứ ba của vua Lê giải về Thăng Long. Tháng 9 năm Tân
dậu Văn Liêm lại đem quân trong châu đến cướp trấn thành, Trấn thủ là Hội
(không rõ họ) báo tin cho Trấn thủ Thái Nguyên là Long (không rõ họ) cùng đến
phòng giữ. Không hạ được thành Văn Liêm cướp lấy trâu bò của dân đem đi.
Bản
triều đầu những năm Gia Long, tên hiệu của các phủ châu hãy còn theo tên cũ,
các việc dân sự vẫn do thổ ti sai đặt. Lúc ấy triều đình mới dựng, nên dùng
“bất trị” để mà cai trị, nhưng cũng chỉ là Ki mi mà thôi. Trấn hạt vẫn đóng ở
Mục Mã, duy có núi đất trước lị trấn là thế rất hiểm nên nhân núi ấy mà đắp
thành, dựng kho ở riêng, lại phía nam của kho thành trên núi đất dựng vọng lúa
để làm ??.
Năm
Minh Mạng thứ 14 đổi làm tỉnh Cao Bằng, kiêm cả hạt, lại đặt chức Tuần phủ Lạng
Sơn, những việc quan trọng khẩn yếu đều ở đó tước tiên. Lại ngăn ngừa tệ hại
của bọn thổ ti nên lược đi, ở bốn châu đều đặt chức Tri châu, cũng tạm sửa đổi
về địa chính cho thâu tóm được về một dòng. Năm thứ 14 thổ ti là Bế Văn Cận
(người Bái Khê) quả nhiên theo giặc nghịch Nùng Văn Vân ở châu Bảo Lạc, Tuyên
Quang kết đảng làm càn, bao vây tỉnh thành. Bố chánh là Bùi Tăng Huy, án sát sứ
là Phạm Đình Trạc làm kế ứng phó, Lãnh binh là Phạm Văn Lưu dựa vào thế hiểm
yếu lùi giữ kho thành, lương cạn lực kiệt cùng tự tận cả. Giặc được thể làm
loạn. Lúc ấy có suất đội bốn đội Cao Hùng Kì là Bế Văn Định (người Bác Khê), kỳ
binh là Trình Văn Châu (người Như Lăng, Quảng Uyên) cùng đến đất Quảng Uyên,
cùng thổ hào là Ma Ngọc Lý (người Cổ Lạc) kết hợp hương dũng dương cờ không
theo giặc Bảo Lạc, hợp sức chống giữ, bắn chết giặc phỉ Cận, nghênh tiếp quan
quân, bình tiễu phỉ thu phục tỉnh thành, chiêu tập dân hạt về làm ăn như cũ.
Đến lúc việc yên, Đại thần tổng thống quân vụ là Tạ Quang Cự đem việc tâu lên
Thánh tổ Nhân hoàng đế. Thánh tổ xét tình bọn Bùi Huy Tăng tận tiết, ban cho
lập đàn tế, cho dựng đền thờ gọi là đền Tam Trung, mỗi năm xuân thu tế một lần.
Lại khen bọn Bế Văn Định công lao vất vả, thưởng hậu cho thụ hàm Vệ uý, phó vệ
uý hữu sai, thuộc tỉnh thành sai phái. Còn các hương dũng ứng nghĩa ngoài ban
thưởng lại uỷ cho đội trưởng suất đội, đội trưởng kỳ suất đội, thụ Thiên hộ
điển bạ hơn 60 người, ban biển ngạch đề “hiếu nghĩa tri phương” cho hơn 36 xã
thôn
(+Huyện
Quảng Uyên 24 xã thôn, tổng Cách Linh, thôn Cổ Lạc, xã Vĩ Vọng, thôn Gia Tuế,
xã Vĩnh Lại, thôn Cách Linh, xã Bàn Duy, xã Phất Mê, tổng Vũ Lăng, xã Như Lăng,
xã Bình Lăng, xã Phiêu Dương, xã Vũ Điền, tổng Ngưỡng Đồng, xã Ngọc Quản, xã
Đồng Quản, xã Quả Thoát, xã Cảm Hiếu, tổng Lực Nông, xã Đa Tôn, tổng Lạc Giao,
xã Lạc Giao, xã Mộc Đấu, xã Đà Thiên, xã Vô Song, xã Lạc Trang, xã Lăng Hoài.
+Huyện Thượng Lang 6 xã thôn, tổng Y Cống, xã
Đoài Côn, xã Cổ Phương, tổng Mỹ Khê, xã Trung Dương, tổng Lăng Yên, xã Lăng
Yên, xã Lũng Chung, thôn Lũng Trát.
+Huyện
Hạ Lang 7 xã thôn, tổng Lãnh Cấm, xã Lãnh Cấm, xã Minh Giáo, xã Dương Tàm, tổng
Vĩnh Thọ, Phúc Yên, xã Vĩnh Thọ, xã Liêm Thuỷ, xã Lạc Phú.
+Huyện
Thạch Lâm một xã, tổng Trà Lĩnh, xã Đoài Khôn, huyện Thạch An một xã, tổng Phúc
Hoà, xã Sầm Châu, đều ban một biển đề “Hiếu Nghĩa Tri Phương”).
Cái
để mà khuyến khích nhân tâm, phát huy phong tục thì không gì là không dùng cho
đến cùng, dân chúng dễ sai khiến có lẽ là do ở đấy chăng?
Năm
thứ 15 đổi 4 châu ra 4 huyện.
Năm
thứ 16 lại chia thêm 2 huyện Thạch Lâm, Thạch An, đặt riêng phủ Hoài An, còn
lại 3 huyện Thượng Lang, Hạ Lang, Quảng Uyên cho lệ vào phủ Trùng Khánh. Lúc ấy
mới bãi chức thổ quan, sai đặt lưu quan làm Tri phủ, Tri huyện, tổng lý danh
mục các việc cho đến binh lương khoá trình đều cho giống như các tỉnh lớn.
Năm
thứ 21 lại sửa đổi bạ tịch, số Đinh ngày một thêm nhiều, ruộng đất ngày một mở
rộng, pháp độ càng thêm rõ ràng. Những tệ ẩn lậu bạ tịch đến nay đều bỏ hết.
Nay tính tổng số ruộng đất có hơn 36400 mẫu, nhân Đinh trên dưới 8 - 9 nghìn,
thuế thóc thu về mỗi năm hơn 20600 hộc, thuế tiền hơn 1600 xâu, thuế bạc 4000
hoàn, vàng cám trên dưới 40 hoàn. Chế định phép thu của dân thì bạc tiền quy về
mùa hè, thóc gạo quy về mà đông. Việc binh thì cứ 10 Đinh lấy 1, cũng có khác
tỉnh lớn một chút, ấy là niệm tình hạt nhỏ ở vùng biên viễn xa xôi nên cũng thư
khoan, hậu đãi cho dân vậy. Về cương giới, phía Đông thì giáp các châu Long
Châu, Thượng Long của phủ Thái Bình nước Thanh. Đông Bắc giáp các châu An Bình,
Hạ Lôi cũng của phủ ấy. Bắc giáp châu Thuận An, châu Quy Thuận. Tây giáp hai
huyện Để Định, Vĩnh Điện (trước là thuộc châu Bảo Lạc, sau nghịch Vân dẹp yên
rồi thì đổi đi). Tây giáp phủ Thông Hoá, Thái Nguyên, tây nam giáp huyện Cảm
Hoá của phủ ấy. Nam giáp huyện ấy và huyện Thất Khê của Lạng Sơn, đông nam giáp
huyện ấy của Lạng Sơn và châu Thoát Lãng.
Lúc
bấy giờ đường đi đến châu Hạ Gián, phủ Thái Bình của nước Thanh, tính từ cửa
đông nam của tỉnh thành, đi đường bộ qua hai trạm dịch Cao Nhã, Cao Phúc của
huyện Thạch An. Phía nam là đất tỉnh Lạng Sơn, lấy một nửa núi Chung Sơn làm
phân giới, đi chưa hết một ngày. Từ cửa phía tây nam của tỉnh thành đi đường bộ
qua dãy thành bao Cổ Lân huyện An Thạch, phía tây là tỉnh Thái Nguyên, lấy nửa
núi Cổ Lân làm phân giới, đi hết một ngày. Từ phía bắc tỉnh thành theo đường bộ
đi qua dãy thành bao Trung Thảng, núi Chung Sơn, phía tây bắc đến đất của tỉnh
Tuyên Quang, lấy một nửa núi Na Tình làm phân giới, đi mất 2 ngày. Từ phía đông
nam của tỉnh thành theo đường thuỷ đi về phía đông qua 2 bờ là hai huyện Thạch
An, Quảng Uyên, qua dãy thành bao Na Thông. Phía đông là cửa thuỷ quan La tứ
Động của Long Châu, phủ Thái Bình nước Thanh, lấy cửa thuỷ quan làm phân giới,
đi mất 2 ngày. Quan sát trên bản đồ thấy phía đông, phía tây thì dài mà phía
nam phía bắc thì hẹp. ấy cũng là do trời đất an bài các khu vực tự nhiên vậy.
Từ
đời Lê trở về trước, đất của 4 châu các ải khẩu ven biên có 13 sở. Châu Thạch
Lâm thì có Thông Nông, Sóc Hồng, Trừng Hà, Trà Lĩnh, Bác Niệm, Na Lan 8 sở.
Châu Quảng Uyên có Quả Thoát, Na Thông 2 sở. Châu Thượng Lang có Cổ Châu, Nga ổ
2 sở. Châu Hạ Lang có Củng Xương, Đống Long, Bí Hà 3 sở.
Bản
triều Gia Long nguyên niên dựng 16 đồn, châu Thạch Lâm thì có Trà Lĩnh, Gia
Bằng, Phù Tang, Trung Thảng, Sóc Tứ, Niệm Nương, Nhượng Bạn (tục gọi là Nước
Hai), Cổ Lân, Bác Khê, Na Lan, Bác Cung 11 đồn.
Châu
Quảng Uyên có Quả Thoát, Na Thông 2 đồn
Châu
Thượng Lang thì Cổ Chu, Nga ổ 2 đồn
Châu
Hạ Lang thì Bí Hà, Củng Xương, Đống Long 3 đồn
Sau
lại lược bỏ Đống Long, Nhượng Bạn, Niệm Nương 3 đồn.
Năm
Minh Mạng 15 lại thiết lập thêm một đồn Long Khê, năm thứ 17 đổi đồn thành
Thành Bao. Năm thứ 21 lại lược bỏ 7 thành bao là Quả Thoát, Củng Xương, Nga ổ,
Đống Long, Sóc Tứ, Long Khê, Bác Cung, chỉ để lại 9 thành bao là: Na Thông, Bác
Khê, Trung Thảng, Cổ Lân, Gia Bằng, Trà Lĩnh, Phù Tang, Na Lan, Bí Hà mà thôi.
Nay cũng theo thế, duy chỉ thời thế khác sự việc khác mà thôi, diên cách không
giống nhau, nhiều ít bất nhất, mà cái để giữ bền vững phong cương, yên định dân
chúng thì chỉ có một lối thôi.
Khoảng
năm Gia Long, nguyên đặt tuần ti 14 sở, châu Thạch Lâm 7 sở, 5 sở chính là Liên
Sơn, Trà Lĩnh, Bác Khê, Bác Cung, Lương Mã và 2 chi nhánh của tuần ti Bác Cung
là Bắc Toà, Suối Vực.
Châu
Quảng Uyên có 3 sở, 2 chính là Na Thông, Phiên Dương, một chi nhánh của Na
Thông là Bác Niệm.
Châu
Thượng Lang có 2 sở là Cổ Châu, Nga ổ.
Châu
Hạ Lang có 2 sở Củng Xương, Đống Long.
Thời
Minh Mạng thì bỏ 12 sở Liên Sơn, Bác Cung, Trà Lĩnh, Bác Khê, Bắc Toà, Suối
Vực, Phiên Dương, Bác Niệm, Cổ Châu, Nga ổ, Củng Xương, Đống Long, chỉ để lại 2
cửa là Lương Mã, Na Thông, mà tên tuần ty cũng đổi thành quan tân từ đó.
Năm
Thiệu Trị nguyên niên lại tăng thêm Cấm Trung, Thảng Na, La Quan 3 sở. Tựu
trung lại là lúc nhiều lúc ít, hoặc giảm hoặc tăng ấy là thích nghi của từng
thời vậy.
Thổ
sản thì có 2 mỏ sắt, ở Thạch An thì có mỏ Đông Nam, ở Thanh Lâm thì có mỏ Khải
Hoà, nộp thuế hàng năm bằng ngân lượng. Mỏ vàng thì có 4 nơi, một là Phú Nội,
một là Tĩnh Đà, một là Thượng Hạ Pha, một là Vĩnh Giang (nay là Phong Bế) đều ở
hạt Thạch Lâm. Mỗi năm phân kỳ thu nộp vàng cám. Tra thấy mỏ sắt Đông Nam đã có
từ thời Lê, còn lại thì đều mới từ thời Minh Mạng. Tuy nhiên ngoài vàng sắt ra
những thức khác hoặc giả cũng có thì đó là kho tàng vô tận của tạo vật để đợi
quốc gia sử dụng, vậy bất tất chẳng phải ức đoán trước. Đất đai đại khái là núi
non liên tiếp, rừng rậm um tùm, hình thế như quả hồ lô, mạch từ tây nam hướng
Đinh như rồng xuyên xuống dưới, đông tây bắc ba mặt có nước sông ôm bọc như một
giải khăn bạc, 4 bề núi xanh như búi tóc. Phía nam có gò Luân, bắc có gò Sầm,
đông có Bà Hoàng, tây có Khấu Lĩnh, đều thuộc giới phận huyện Thạch An, xưng là
Tứ trụ sơn sừng sững đối lập tiêu biểu của cả 1 tỉnh, vượng khí hun đúc nên
hình thế núi sông. Ngoài ra còn Thống Sơn, Liên Sơn, Ngưu Lĩnh, Trà Lĩnh, nói
về cao lớn thì đâu đâu cũng có nhiều nhưng cái thì cách xa tỉnh thành, cái thì
gần mà không có phương vị. Cảnh trí cũng không có gì là kỳ thắng danh tích đáng
chép, thế nên đặc biệt nêu đến tứ trụ để làm tiêu biểu.
Song
suối thì uốn khúc quanh co hợp dòng chảy trước, chảy theo ngày. Mỗi lần mưa to,
mưa ngừng thì nước chảy cuộn trào, mọi người đều có thể lội qua, tuy gọi là
sông nhưng rất hẹp, rất nhỏ là thế. Trong số ấy có một con gọi là sông Mãng, 4
dòng từ thượng nguồn phía tây bắc chảy xuống. Một dòng từ nước Thanh chảy về
cửa Bình Mạnh của Thuận Châu đi qua Na Khái cả huyện Thạch Lâm chảy về các xã
Hồng, Hà, Quảng đến tận Quảng Trù. Một dòng từ nước Thanh chảy về cửa khẩu Lũng
Phong của Thuận Châu, đi qua xã Trừng Hà của Thạch Lâm, từ trong núi đá chảy ra
qua các xã Hoà Mục, Phi Tang, Nghi Bố, thông đến xã Quảng Trù với dòng trước
hợp lưu chảy xuống các xã Xuân Trù, Bác Xá, Linh Cai đến xã Hà Gian. Một dòng
từ xã Phù Đống huyện Thạch Lâm, từ trong núi chảy ra qua 2 xã Tĩnh Phú, Thái
Thành cũng đến tận xã Hà Gian cùng hai dòng trước hợp làm 1 qua các xã Minh
Loan, Nhượng Bạn, An Ninh. Một dòng từ nước Thanh chảy về cửa khẩu Khô Chi của
Thuận Châu đi qua xã Thông Nông của huyện Thạch Lâm từ trong núi chảy đến các
xã Lương Y, Thông Sơn, Hậu Năng, Lương Can, Trọng Khôn, Hoà Minh, cũng đến 2 xã
Nhượng Bạn, An Ninh cùng các dòng trước hợp làm 1 chảy qua các xã Nẫm Khê, Thọ
Cương, Cầu Lâm, Na Lữ, Vu Thuỷ, qua các xã Xuân Lĩnh, Tân Trại, Hà Hoàng, Xuân
Bá, Gia Cung chảy đến phía bắc tỉnh thành cùng hợp với sông Hiến làm một dòng.
Một
sông là Hiến giang, ở thượng nguồn có 3 dòng từ tây nam chảy xuống. Một dòng từ
xã Kim Mã, huyện Cảm Hoá, phủ Thông Hoá của tỉnh Thái Nguyên chảy xuống, một
dòng cũng bắt nguồn từ xã Bằng Đức của huyện ấy, cùng với dòng ở xã Xuân Hoảng
huyện Thạch An hợp làm một chảy qua xã Cẩm Lý đến tận xã Cổ Vũ. Một dòng cũng
từ xã Bằng Đức qua xã Nội Chiêm huyện An Thạch, cũng đến xã Cổ Vũ cùng với hai
dòng trên hợp làm một chảy đến phố Mục Mã phía tây tỉnh thành, chuyển sang xã
Gia Cung hợp với sông Mãng thành một dòng chảy đến phố Lương Mã phía đông tỉnh
thành, lại hợp với sông Cổn.
Một
sông tên là Cổn Giang, thượng nguồn có 1 dòng từ cửa khẩu Tứ Bang của nước
Thanh chảy qua các xã Chu Sơn, Tráng Biên, Tĩnh Lãng, Trà Sơn cả huyện Thạch
Lâm, đến thôn Hoảng chảy xuyên vào núi rồi qua các xã Khâu An, Hàm An, Gia Cung
của huyện Thạch An đến phố Lương Mã phía đông tỉnh thành cùng với sông Hiến,
sông Mãng hợp thành một sông lớn gọi là sông Mã. Thuận dòng chảy qua các xã Nga
Chỉ, Xuân Hoảng, Phúc Hoà, Cần Bạn của huyện Thạch An cùng với các xã Phất, Mê
của huyện Quảng Uyên đến tận phía nam cửa Na Thông Quan chảy vào cửa thuỷ quan
động La Hồi, Long Châu nước Thanh chảy về đông. Tổng lại quan sát thấy sông
Hiến, sông Mãng và sông Cổn đầu nguồn có 8 cuối cùng cũng quy về một dòng sông
Mã. Hạ nguồn của sông Mã giang từ xã Xuân Hoảng của huyện Thạch An đến cửa thuỷ
quan La Hồi. Lòng sông thì nhỏ hẹp, hai bên bờ đá dựng như tường, tuy là nước chảy
không ngừng ngày đêm mà đá nổi lên nước không thể cuộn trào để thành sông lớn
được, mà mỗi lần mưa lụt thì các dòng cùng xuôi xuống, ở giữa không thể tránh
khỏi hại của lũ lụt.
Năm
Minh Mạng 18 lụt, các phố ngoài thành đến nhà cửa đều hư hại, người chết, nay ở
miếu Quan Đế, tường gạch còn vết mực nước cao hơn 9 xích, vết ấy hãy còn. Tuy
là số trời biến đổi mà cũng là thế đất khiến ra như thế, sức người không thể
làm gì nổi. Nói đến cái tốt của thuỷ tính thì sông Cổn là nhất. Đại để là từ
thượng nguồn chảy xuống, đã không có các mỏ vàng, sắt hai bên bờ lại không có
rừng thiêng chướng độc. Một sông tên là Huề giang, thượng nguồn có 1 dòng, phía
bắc về cửa khẩu Thuận của Quy Thuận châu chảy qua các xã, phố Quả Thoát, Ngưỡng
Đồng, Cảm Hảo, Thông Huề của huyện Quảng Uyên, qua các xã Đoài Côn, Giáp Dương,
Cổ Phương, Tứ Mỹ của huyện Thượng Lang qua xã Xuân áng huyện Hạ Lang, lại
chuyển qua các xã Vĩ Vọng, Cổ Lạc, Bàn Duy,Cách Linh, Phất Mê của huyện Quảng
Uyên đến phía đông cửa Na Thông quan chảy vào cửa thuỷ quan động La Hồi nước
Thanh đi về đông. Lại có 1 dòng, phía bắc từ cửa khẩu Ba Hoài châu Quy Thuận
nước Thanh chảy vào các vùng Bao Khê, Kim Côn, Lũng Định, ổ Hạng (sản loài cá
Hương Não) đến các xã Trác Nhi huyện Hạ Lang, lại vào Hạ Câu ải châu An Bình
nước Thanh đi về bắc. Lại có một dòng, phía tây từ xã Vũ Loan, huyện Cảm Hoá
của Thái Nguyên chảy qua xã Cao Môn của Thạch An chuyển đến xã Bác Khê, theo xã
Bình Quân của Lạng Sơn đi về nam. Đó là 3 dòng, so với hai sông Hiến, Mãng thì
nhỏ bé, nhưng chúng một dòng nuốt, một dòng nhả thuận chảy gây thành hoạ lũ
lụt, thường yếu kém là ở đấy.
Về
dân số thì huyện Thạch Lâm có 10 tổng, 98 xã thôn phường trại động phố. Huyện
Thạch An 6 tổng, 89 xã thôn phố trại động chợ. Huyện Hạ Lang có 4 tổng, 30 xã
thôn trại. huyện Thượng Lang 4 tổng, 39 xã thôn phố. Châu Quảng Uyên 4 tổng, 50
xã thôn phố trại. Trong vùng ấy, người Nùng, người Thổ sống xen nhau, phong tục
chất phác. Rừng cây, thung lũng tuỳ nơi rậm rạp, nơi tiêu điều, so với miền Bắc
kì làng xóm trù mật, tre trúc thành hàng, nhà cửa liên tiếp, khói bếp các nhà
có thể trông nhau được mười phần chẳng được lấy một hai, ấy cũng là do ở vùng
rừng núi khác với ở vùng đồng bằng vậy. Ruộng của người Nùng thì thưa thớt, chỉ
có ruộng thu không có ruộng hè, gián hoặc cũng có thấy một vài nơi thôi. thế
nên trong khoảng 1 năm, các tháng từ tháng 8, tháng 9 đến tháng giêng, tháng 2
chỉ có gạo tẻ để nấu cơm và cháo. Từ tháng 3, tháng 4 đến tháng 6, tháng 7 chỉ
có khoai, mạch dùng hàng ngày để sống, cũng có lúc vào rừng lấy cây Bảng mộc
tâm mễ (??) đem về nấu cháo ăn (Bảng mộc vỏ ngoài cứng có thể dùng làm thừa
lôi?? người Thổ bổ lấy ruột đem về lấy gạo ngâm vào, lấy nước lọc sạch nấu cháo
ăn, người ta dùng làm bánh, mùi vị rất ngon). Mà người ở đấy có vẻ mập mạp, so
với người quanh năm ăn gạo cũng không có gì khác nhau. Đại để là cái tính cần
cù chịu đựng là lẽ thường.
Thổ
sản thì có Sa lê hương vị rất thơm mát, huyện nào cũng có, duy 3 huyện Quảng
Uyên, Thượng Lang, Hạ Lang là nhiều. Hàng năm vẫn có lệ thu hái, mua đem tiến,
còn như sông có cá Hương não, núi có Xạ hương cùng tốt sánh với thổ cẩm, chiếu
trúc thì bài Phong thổ phú của Trần quân đã nhắc đầy đủ. Những cái mà tôi nghe
thấy, nhìn thấy chỉ là sơ lược, toát yếu lấy cái đại khái mà ghi lại, còn như
nói tường tận thì xin đợi người quân tử.
Ghi
vào ngày rằm giữa thu năm Thiệu Trị thứ năm.
Bài ký đền Tam Trung
Trong
trời đất không gì lớn hơn cương thường, bậc sĩ phu có thể lấy thân mình làm
trọng, há lại không biết quý nó ư !. Thực là khó lắm. Từ khi các bài ca ngợi
chính khí không còn dấy lên nữa, trong cái khoảng ấy những bậc ôm lòng trung,
khích lệ tiết tháo chỉ có một hai người, chưa từng có cùng lúc mà tuẫn tiết đến
ba người. Há không phải là thực quý đó sao. Ba vị ấy là ai vậy? Một họ Bùi, hai
họ Phạm đó. Năm Minh Mạng thứ 14, án sát Phạm đại phu đến trị vùng này. Hai vị
đại phu đều là người trong hàng khoa mục, tuy việc lãnh đạo chưa lâu mà vết
tích thi hành khai triển, sơ sơ đã thấy tinh vi sâu sắc rồi. Tháng 8 năm ấy,
bọn phản nghịch Vân gây biến, từ Bảo Lạc hoành hành các thành bao ven biên, sức
không chống lại được. Tháng 9, giặc vây thành, hai vị đại phu cứ thủ trong
thành làm kế chống cự. Lúc ấy có Lãnh binh tỉnh Lạng Phạm tướng quân sang cùng
chống giữ. Giữ được hơn 1 tháng, bàn hoạch tính toán muôn phương, như Trương Hử
trong trận Thư Dương, thành thì chắc mà lại đơn độc, quân không nhiều mà lòng
sợ. Thuốc hết đạn hết, viện binh tuyệt, thế lực cùng, bèn bảo với nhau rằng:
Lực đã kiệt, việc không thể giữ được. Đã không giữ được đất vua, thì nên chết
vì việc vua. án sát họ Phạm tuẫn tiết trước, Bố chánh Bùi, Lãnh binh Phạm lần
lượt kế tiếp quyên thân. Kỳ lạ thay, ba người cùng một lòng vậy. Ôi ba người ấy
há vui lòng mà như thế ư ?. ấy cũng là tận vì chức phận của mình mà như thế đó.
Lúc ấy là ngày 5 tháng 10. Hơn một tháng sau thu hồi lại tỉnh thành, Tổng thống
đại thần đem việc tâu lên. Hoàng thượng rằng: Ôi trung thay ba kẻ lương thần.
Trẫm khen là tốt mà không bày tỏ thì lấy gì để khuyến khích.Đặc chuẩn cho tỉnh
thần nơi ấy, lập đền thờ nơi đất ấy, gọi là đền Tam Trung. Ba vị toi đã mất,
non Sầm biểu tiết liệt, dòng Hiến lưu anh hào, trăm năm sau lẫm liệt như còn
sống. Ta có biết đền Tam Trung ở đất ấy, cùng sánh với Song Trung đất Bình Định
lưu truyền bất hủ, nên không ngại lời. Xem ba vị trung ấy giữ tiết, người quân
tử lúc nguy nan chẳng những bảo toàn danh tiết của thân mà còn nêu dựng cương
thường của muôn đời. Một lòng hâm mộ riêng, không kìm được, nên khi đền dựng
thành, đem lời ghi lại thành chương để ca ngợi. Ôi như một trăm năm sau, nghe
thấy mà hứng khởi ở người là do bài kí và lời thơ này chăng, ta cũng không rõ
nữa.
Bài
1:
Tự
cổ Bành thương đều là mộng,
Như
nay tiết nghĩa những ba người.
Thành
đơn một tháng ngăn giặc mạnh,
Miếu
dựng nghìn thu giữa trời xanh.
Hạo
khí cao tiêu xanh Sầm lĩnh,
Dư
linh còn mãi Hiến giang phong.
Hồng
trần đường ấy người lai vãng,
Nhân
tâm kim cổ lẽ ấy cùng.
Tuẫn
quốc tự thân lưu đại nghĩa,
Dựng
đền duy đế biểu ba trung.
Ba
sinh như có ngày tạo tác,
Một
chết cùng kham đối trời xanh.
Cuồn
cuộn nửa sông cùng nước xiết,
Mênh
mang muôn thủa với thanh phong.
Miếu
cùng mây trắng thêm gần gũi,
Hạo
nhiên chính khí nam bắc cùng.
Muốn
đem thân này đền tạo vật,
Thời
bình thật khó biểu tiếng trung.
Đội
trời đạp đất cương thường nặng,
Lá
móc hoa sương tính mạng khinh.
Khí
cùng sông núi thu chẳng tán,
Tâm
cùng sắt đá mất như còn.
Nghiêm
trang cô miếu bên bờ nước,
Chẳng
mục trôi dài vạn cổ danh.
Cao
Bằng Cao đài Bùi Quốc Trinh soạn.
Văn điếu của các bạn đồng khế điếu Cao Bằng án sát Liêu
Xuyên Phạm Đình Trạc
Ô
hô! Chết thật là khó lắm, nhưng được chết như ông, há có thể một chết cũng đủ
trong lòng chăng. Con người ta ở trên đời, nhờ sự thông minh của trời đất, ơn
học vấn của thánh hiền, nên muốn dựng lập vời vợi với thiên hạ đội ơn thiên tử
để xứng với các duyên hội ngộ quân thần. Chẳng may gặp lúc nguy nan, đem tấm
trung nghĩa để cảm kích lòng người, cho một phương được sống, coi trọng trách
triều đình là nặng nề, thì như thế là đắc nguyện. Còn như lấy chết để làm chết,
trong lòng há không tịch mịch sao. Mùa thu năm rồi, giặc nổi lên ở mạn Tuyên
Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, đại quân các đường cùng xuất mà Cao
Bằng cô quạnh đơn lẻ không đến được. Bọn ta đồ rằng ông không giữ được ắt chết.
Đầu đông có người đưa tin ông tự tận, nhưng còn chưa rõ ràng. Đến ngày lạp, di
hài đưa về đến Nhĩ hà, bọn ta lục tục điếu vấn, mới hay giặc vây thành cuối
tháng 8, đánh không lại, cùng với các viên Bố chánh, Lãnh binh lên kho thành
trên núi cố thủ. Được 1 tháng thành vẫn bền chắc, gặp phải Tuần phủ Lạng Bình
Hoàng Văn Quyền đem binh đến viện bị giặc bắt, thị cho xem. Đạn dược hết, quân
loạn, ông biết thế không giữ được bền đem việc chết bàn với quan Bố chánh, rồi
về mặc triều phục ngoảnh về bắc lạy năm lạy, đến văn miếu lạy, rồi trông về
đông bái lạy song đường. Rồi sau cởi triều phục, mang đồ thư theo cùng đốt,
soạn một bài thơ để tỏ ý mình, viết thư cho cha mẹ xin trọn đạo trung thần, sai
đầy tớ đào huyệt. Đến đêm ra huyệt, sợ giặc không biết chỗ mình chết sẽ hại đến
dân trong thành, bèn bình thản bày đủ nghi trượng như thường, lập đoạn táng.
Trước tiên giết vợ con, tránh để giặc bắt, đầy tớ khóc xin, ông cười nói: Anh
hùng khí ngắn ngủi, vợ con tình dài. Đoạn nằm xuống huyệt, đầy tớ không nhẫn
tâm lấp đất lại khóc ầm lên, rồi sau lấy vạt áo che mặt mà lấp. Giặc lên được
núi, xem 4 phía thấy đất đã bằng, Bố chánh Bùi công (huý Tăng Huy, người Gia
Định) hỏi quan án sát ở đâu, quân đáp đã chết rồi, bèn cũng tự thắt cổ chết.
Lãnh binh tỉnh Lạng họ Phạm (huý Văn Lưu, từ Lạng sang tiếp viện) cũng thắt cổ
chết. Giặc vào được, thành vỡ, khó thay. Lúc giặc chưa nổi lên, mùa xuân ông
đến, tháng 5 tháng 6 đã biết việc như thế, lại dặn trước thuộc hạ cùng đem thư
đến bằng hữu ở tỉnh khác nói: Thế giặc chưa động, không giám kinh động đến. Mà
rốt cuộc không ngăn được, vạn nhất sức cô, xin giết vợ con trước rồi sau tự
giết để báo ơn nước. Về sau quả nhiên.Trong thơ có câu : 33 ngày, sức thần đã
kiệt chứ không phải sợ, rút đầu mà chết đâu. Đến lúc thành vỡ, 7 ngày thì quân
viện của giặc rút, một tháng giặc suy mà đại quân cũng đến nơi. Cũng là một
tháng sau triều đình mới rõ đầu đuôi. Ân dụ có câu: Việc lúc nguy cấp, ung dung
tựu nghĩa, thực không phải là người tắc trách mà chết. Ôi ông không may mà phải
chết như thế, từ trước tới nay há có được nhiều người như ông chăng, lại không
may rồi sẽ bị mai một đi qua lời của những kẻ quê mùa. Kẻ có chí đời sau góp
nhặt một hai làm thành câu chuyện nhỏ, như dụng tâm của, Âu Dương công, đáng
than thay. Nay, trên thì triều đình khen tặng khuyến khích, dưới thì các bậc sĩ
phu cảm kích, thế thì cái chết ấy có thể khiến cho thế đạo nhân tâm phải ngưỡng
mộ.
Ông
đậu cử nhân năm Tân tị, ở kinh 6 năm tuyển bổ chức Tri huyện, được 6 năm đặc
tuyển bổ Cao Bằng Cao ti. Chưa được 6 năm thì gặp nạn. Đối đãi với bạn bè thì
càng thêm kính ái, nhạt mà có vị, cười nói ôn hoà bên ngoài thì như không có vẻ
gì tranh biện, bên trong thì có cái lẫm liệt không thể đoạt được. Đó chính là
cái mà bọn ta quyến luyến không thể quên được cái tình của ông.
Dũng
Thọ Phó bảng Phương Đình Nguyễn Văn Siêu soạn.
Bài tế văn của tiến sĩ Đông Tác tế Phạm công Trạc tuẫn tiết
Ô
hô! Bạt Khanh mất đã 6 tháng, ta mới điếu ở nơi nhà cũ, há có phải ta là người
không có tình chăng, ngày đưa linh cữu về, chẳng rõ đường về, ôi! Bạt Khanh
mất, người trong nứơc không ai không thương tiếc, bi tráng lại vinh quang.
Hoàng thượng ân tuất để biểu công lao, đọc văn tế khóc máu rơi rõ ngấn. Bọn ta
như Thường Lĩnh và Phương Đình, ta chẳng nói làm gì, chỉ đinh ninh Bạt Khanh
cùng ta là bằng tuổi, gặp nhau nơi kinh thành, ôm ấp mối bình sinh không ai
cùng biết, một chức quan cũng không chịu khuất, không dễ dàng nhận ơn của
người. Ta vì bệnh mà thoái quy, gặp lúc thi cử bận rộn nên dùng thơ để lưu
tình, ta rất cảm động.
Lúc
chịu chỉ ra làm quan ở ngoài,(ta) cũng dùng thơ tiễn tặng, có nói: Hơn mười năm
giao du, chẳng quản ngại sớm tối, duy có song thân đã quá lục tuần, Ban đình
phất phơ áo gấm. Lòng vì cha mẹ mà tưởng nhớ, lời nói biểu tình thâm. Khóc mà
đi nhậm chức, được mấy tháng, giặc Tuyên Quang làm càn tung hoành ở Cao, Lạng.
Ông cùng quan Bố chánh một tay chống giữ một cô thành. Thường có lúc nói với
người rằng: Trước xin giết vợ con sau xin tự sát, bi tráng thay lời nói âý,
oanh liệt khiến người phải khinh sợ. Thế không giữ được, dời lên núi giữ kho
thóc để trông vọng triều đình viện binh, cùng tiễu giặc. Lấy danh tấc thành nhỏ
mà giữ đất, quân viện ở Lạng Sơn không đến, ông chỉ còn một kế chết để tỏ lòng
minh bạch. Chết như thế, độc lưu cho cha mẹ một phong thư với một bài thơ ngôn
chí, lâm li máu hoà mực. Thung dung, trung hậu mà hoà bình, không hoài lòng ôm
ấp mà quyết một tử sinh. Ta đọc lời văn bỗng nhiên thốt lên: Bạt Khanh, Bạt
Khanh, chẳng phải là bạn ta, là thầy của ta đó, há ta có thể tán bình. Ô hô,
bên thành Thăng Long, chỗ ở cũ trước, cửa quan Mục Mã song miếu mới xây. Gà con
với bầu rượu đây, chước gửi lòng thành của ta.
Bài vãn văn của tiến sĩ Bái Dương Ngô Thế Vinh vãn Phạm công
tuẫn tiết
Ô
hô, mới bắt đầu của con người ta dựa vào mệnh, vào nghĩa mà sinh thì yên. Đến
lúc lúc cuối cùng mà cũng được cả mệnh, cả nghĩa mà chết thì cũng yên. Đây như
cái chết của bạn ta Phạm Cao sứ, há không phải là được cả mệnh, cả nghĩa mà an
đó sao. Ôi, Cao sứ là chức trách nơi biên cương, đương lúc thổ phỉ nhiễu loạn,
giữ cô thành ngoài đứt viện, sức không thể giữ nổi, rút cục lấy cái chết. Kẻ bề
tôi giữ đất mà đến được như thế, thì được chết thế là mệnh, được chết thế là
nghĩa. Bạt Khanh mất đi khiến người ta biết rằng mệnh không thể trái, nghĩa
không thể buông thả. Từ nay về sau, nghe đến phong khí của Bạt Khanh, kẻ khiếp
nhược cũng đứng vững, kẻ ngoan ngạnh cũng thêm liêm sỉ. Cái chết như thế rực rỡ
thay, chói lọi thay. Trên thì triều đình khen tặng, sùng phong làm khuyến khích
cho trung thần nghĩa sĩ của muôn đời, dưới thì các khanh đại phu không ai là
không bi tráng lòng trung mà ai cảm số phận. Năm, sáu người tri kỷ hoặc lấy văn
để điếu, hoặc lấy thơ mà khóc, rồi công luận định bàn, hậu thế cầm bút ghi lại
tất nói rằng là kẻ sĩ trung liệt mà không nhắc đến Bạt Khanh thì ai đáng đây. Ô
hô cái điều yên ấy có cái gì lớn hơn, từ xưa đến nay các bề tôi tuẫn nạn, hùng
tráng nêu danh, đều là đạo nghĩa làm gốc cả. Chính khí mồn một lòng khẳng khái
như không có nạn, thung dung không thể ép thì có thể sánh vớ Triệu Đàm Châu, Từ
Hành Tỉnh của Bắc triều, cùng các công thần trung hưng của triều ta Vũ Hoài
công, Ngô Lễ bộ, không sao tính xiết. Phong cách của Phạm Cao sứ là như thế.
Phạm cao sứ lúc còn, viện binh chưa tới, giặc thật hung hăng, cùng với Bùi
phiên sứ, Lưu lãnh binh tỉnh Lạng hết sức chống giữ đến 33 ngày. Ba người mất
mới được 3 ngày thì viện binh đến, việc thực giống với Trương Chân Nguyên Hứa
trong trận Thư Dương. Há không phải kẻ sĩ trung nghĩa, thực trời mệnh cho như
thế đó ư. Nhưng kẻ hào kiệt trong thiên hạ tất phải có tiết tháo hơn người, đại
để là cái tố chất tự ta nuôi dưỡng đó. Khí hạo nhiên đã đầy đủ thì lúc lâm sự
thấy việc nghĩa là đúng, giữ nghĩa để thành nhân. Bác bỏ nó ư ? chống lại nó ư
? mà há có thể ép mà chết, trong lòng còn có điều hối tiếc so bì hay sao. Xưa
Bạt Khanh lúc còn là kẻ sĩ, học hành có nhiều điểm tốt, thi đỗ xong theo làm nơi
các bộ làm việc, so với bạn đồng bối là người thành đạt sớm. Hoặc có kẻ muốn
làm điều thậm thụt, Bạt Khanh từ chối. Lúc thí chính ở Hà Đông, trên không
nhiễu loạn phép công, dưới không đắc tội trong trị dân. Lúc làm việc nơi kinh
đường, trải 6-7 năm không vì quyền thế mà thay đổi điều sở thủ, đội ơn đề bạt,
chẳng bao lâu có mệnh đi Cao Bằng, lúc đi cũng rất sơ sài giản dị, thế nên ngaỳ
thường sĩ phu đều khen ngợi tiết
tháo. Còn học tập thi hành, nối mối gia thanh, hiển đạt cho cha mẹ, lúc gia
nghiêm sắp lên song thọ, bất luận bạn bè xa gần đều gửi thư báo mừng, thơ văn
biên chép không dưới 100 thiên, người trong nước đều khen, cũng có thể coi là
hiếu. Thường sống thật thà, giữ tiết tháo, thích tĩnh, tự biết dưỡng đạo như
thế, vậy lúc lâm đại nạn nêu cao đại tiết, vời vợi không thể tới được chăng. Ô
hô Bạt Khanh mất đi, thực là cảm động. Biết lòng của Bạt Khanh lại càng thêm bi
ai. Tuy nhiên muôn hoa cùng tốt, một lan chịu đốt du du thanh khí vẫn còn, lòng
ta hun đúc như Nùng sơn, Nhị thuỷ. Nhà cũ hãy còn đây, ngắm mãi mây vàng, ô hô
đau đớn thay.
Năm bài thơ khóc của Hà Các lão
Bài
1
Bạt
Khanh là cao sứ Cao Bằng, thổ phỉ bức thành, giữ không được liền liều thân. Ta
nghe tin mà lòng bi ai, lâu sau biết được tường tận, bất giác thêm kính phục,
nhưng còn chưa dám hạ bút. Do vì tiết nghĩa lớn, sự việc lớn nên khó đặt thành
lời. Đến khi thấy tế văn của cac bậc quân tử ở Hồ Tây mới tường tận đầu đuôi,
nên thứ tự đặt vận thành thơ để gửi lòng kính phục bi khái vậy, còn như công
luận muôn đời thì ta đâu có dám.
Anh
hùng Phạm Bạt Khanh,
Lẫm
liệt tử như sinh.
Thư
sinh công trạng gì,
Thiên
tử chửa rõ danh.
Chiến
giữ đều không kế,
Tồn
vong với một thành.
Tiếc
thay nghe tin muộn,
Việc
rồi mới rõ rành.
Bài
2
Bút
quan Tả sử, Đất Cao Bằng không có thành trì nào có thể giữ được, nên cùng Bùi
bố chánh bàn dời đồn lên núi đợi viện binh. Đến khi Tuần phủ Lạng Bình Hoàng
Văn Quyền thất thế bị giặc bắt, Cao Bằng hết viện, giặc vây khẩn cấp, bèn cùng
chết.
Ba
mươi ba ngày dài,
Kiệt
lực tại vòng vây.
Viện
binh quân đều tản,
Đồn
núi tuyệt hết đường.
Tay
không khôn cứu tế,
Đường
máu cũng chẳng thông.
Mục
Mã mây sầu đoạn,
Biên
trại thê lương phong.
Bài
3
Thổ
phỉ gây biến, Tuyên Quang trấn kích lan đến tận Cao Lạng, ông cùng Phiên ti Bùi
Tăng Huy, Lãnh binh Phạm Văn Lưu đều một ngày tử tiết.
Biết
rằng sức không nổi,
Quyết
đem chết để liều.
Cùng
thành ba liệt sĩ,
Một
chết đủ thiên thu.
Biến
loạn ai nên tội,
Vẹn
danh trời sẵn lưu.
Đến
nay công luận định,
Sơn
miếu hãy truyền lưu.(triều đình khen tặng cho xây miếu để biểu dương)
Bài
4
Bạt
Khanh lúc mất, trước tiên đốt cáo thân, mặc quan phục hướng về cửa khuyết lạy,
lại lạy gia thân, rồi đào huyệt tự chôn, muốn giết vợ con trước, nhưng sau viên
tỉnh lại xin thoát cho vợ con,ông cười hứa cho.
Mang
theo triều phục để chôn,
Vẫn
cùng tiểu lại hàn huyên một lần.
Chữ trung chữ hiếu chưa đền,
Vợ
con rắt ríu chớ nên luận nhiều.
Anh
hùng xương cốt gửi theo,
Nghìn
năm khí phách còn lưu bóng hồn.
Giang
sơn như có mộ phần,
Há
cho đạo tặc được tồn hay sao.
Bài
5
Bạt
Khanh lúc mất thư về nhà không một câu bàn đến việc tư, lại làm thơ một bài để
tỏ chí khí. Bình sinh khiêm nhượng, rụt rè như người chưa mặc áo, nói chuyện
với người thì thành thực, chẵng may lâm đại tiết thì như vậy đấy.
Lạ
thay tính mềm mỏng,
Lại
hoá cứng trăm lần.
Xuống
huyệt không run sợ,
Ngâm
thơ khẳng khái tăng.
Người
xưa đâu có kém,
Người
yếu thêm tự cường.
Bạn
bè thêm trọng cảm,
Hoà
lệ viết chương buồn.
Thơ vãn của Binh bộ biện lý Nhâm thìn hoàng giáp Phạm Đôn
Nhân
Lâm
nguy thấy đại tiết,
Anh
hùng Phạm Bạt Khanh.
Bình
sinh thiện dưỡng khí,
Cùng
vật chẳng thèm tranh.
Mười
năm tài uất kết,
Theo
đạo về yên trinh.
Một
ngày ơn cất nhắc,
Xe
đến ngoài biên thành.
Người
người đều hân hỉ,
Mỗi
ông chẳng vị tình.
Lòng
nuôi chí khí đại,
Sắc
diện chính rành rành.
Để
một ngày phát tiết,
Hạo
nhiên tắc trời xanh.
Tuyên
Quang xảy biên phỉ,
Giặc
vây nhiễu Cao Bình.
Thành
cô viện binh tuyệt,
Một
tay thật nan hành.
Báo
quốc thề một chết,
Toàn
thân vẫn như sinh.
Quỷ
thần khóc tráng liệt,
Non
xanh quấn dư linh.
Lẫm
liệt Bùi sứ quân,
Kiêu
hùng Phạm lãnh binh.
Ba
người cùng tử tiết,
Duy
ông dựng trước tiên.
Đại
tiết không mờ nổi,
Thế
gian sáng bình minh.
Ơn
trên ban hiển hách,
Miếu
mạo thế chênh vênh.
Tạo
hoá công ơn hậu,
Ta
đâu biết tán bình.
Người
ấy chẳng gặp được,
Rẩy
chén khấn dư linh.
Bài văn tế của con trưởng ngày thành phục
Ô
hô! thân phụ mất đến nay đã mấy tháng, con mới biết tin. Ngày ấy quân vua chưa
kịp đến, đường xá cách trở, hoặc như có nghe tin cũng chưa dám thật tin ngay.
Ngày hôm ấy tháng ấy đội ơn bộ Hộ gửi tiền tuất, mới hay thực có cơ sở. Tuy
ngày tháng chưa rõ, nguyên uỷ chưa đầy đủ, nhưng nghe tin buồn thì cũng làm lễ
Thành phục. Ô hô, phụ thân ta xuất thân khoa mục, gặp được thời minh thánh,
trải đường sĩ hoạn, từ chức Lang trung lãnh chức Cao ở tỉnh Cao Bằng, chưa được
8 tháng thì thổ phỉ manh động, từ đó không thấy tin tức gia phụ. Bữa trước được
tin dữ, hỏi thăm những người từ Cao Bằng về, đều nghe nói lúc giặc đến thì gia
phụ cùng quan Bố chánh đóng thành chống giữ, kiệt sức kế nhau gặp nạn, ấy là
chức phận của người giữ đất. Từ khi nghe có lời bàn luận, bọn chúng con lại
biết nói gì, chỉ còn biết đau đớn thôi. Ông bà nội tuổi tác đã cao, bọn con thơ
ngây đâu dám dâng lời, tám năm trời ngong ngóng chờ con nơi xa ngàn dặm, nụ
cười sắc mặt cùng lời nói chỉ tiếp qua thư mà thôi. Năm nay được tin mệnh từ
Cao Bằng, cha con ông cháu được đoàn viên, mộng đẹp chưa tan đâu hay từ đây
vĩnh biệt. Vậy là vui vẻ chẳng lâu mà chia li bất chợt, vậy là trời cho cha
hoàn tiết mà đoạt nơi nương dựa của đàn con, cùng lòng yêu thương của ông bà
nội, gia phụ yên nghỉ rồi, những người còn lại biết sao đây. Ô hô, quan sơn
cách trở, tinh phách dựa vào đâu, anh em xa cách, tin tức không thông, mênh
mang xanh thẳm, ôi cực xiết bao. Tuy vậy, cha ta còn thì yên nghĩa mệnh, cha ta
mất thì tỏ lòng trung, khí hạo nhiên mờ mịt trong trời đất, chẳng thể sống chết
cả hai. Thành nam nhà cũ, hồn phách cha chừ, hãy về đây.
Bài văn tế của thân phụ ngày quy táng về quê cũ
Ô
hô, di xương tàn cốt con đã về đây, con có biết chăng? Con thụ mệnh án giữ tỉnh
Cao Bằng, giặc đến thành kia giữ chẳng đặng, cùng trị hạt các viên đồng tử
tiết. Ta và mẹ con trời bắc ngóng trông hôm sớm, nuốt nước mắt mà chẳng dám
buồn thương. May vương sư thu phục đất cũ, để hài cốt con được quy táng cố
hương, lòng trách con thì giảm mà lòng buồn trong ta thêm mãi. Dưới đất như gặp
các bậc tổ tiên thì con cũng được miễn lỗi mà điều dạy con của ta cũng được thứ
chút chăng, vậy thương khóc mà cáo với con đây. Như vợ goá con côi của con thì
có ta và mẹ con còn đây, buồn đau xiết bao. Ô hô, Mã phố xuân về, tuyệt trại
khiến mộng hồn tỉnh lại, Hồ khâu gió nổi, bối thành khí nộ còn gào. Nay đã táng
về, dắt vợ con con đến cùng an ủi hồn con, con hay chăng.
Các câu đối vãn tang Phạm công
Thẳng
ngay hạo khí còn muôn thủa- Yên thuận thần tâm tín đời nay.
Ngưỡng
xem xưa nay thêm lưu hận- Hiếu trung sẵn tín khó vẹn toàn.
Chính
khí hạo nhiên cùng trời đất- Danh tiết hoàn lưu với sĩ phu.
Quan
cao bốn bậc sinh chẳng thẹn- Thủ tiết lưu danh chết vẫn thơm.
Khoa
mục vẻ vang con hiếu thảo- Thành cô thảm đạm nước tôi trung.
Tuyệt
bút một chương trung lẫn hiếu- Hi sinh ba vị chết như còn.
Trung
hiếu khó vẹn toàn, trung có lưu danh là lại hiếu,
Tử
sinh mộng nghìn đời, tử vì nghĩa lớn cũng như sinh.
(Hội
nguyên Đỗ Quang)
Hiếu hiển danh cha mẹ, song thọ sân đình con
như biết,
Chết
khuyến khích sĩ phu, tam trung miếu lẫm liệt như còn.
(Hoàng
Giáp Phạm Sĩ ái)
Sức
giữ cô thành, thụ nạn duy tổ tiên tham nhung trận,
Danh
nêu trung miếu, không phụ triều đình dưỡng sĩ ơn.
(Cử
nhân Vũ Tuấn)
Khoa
mục lập thân, lưu danh tiết rạng sử sách,
Thung
dung tự nghĩa, hạo nhiên chính khí lấp sơn hà.
Da
ngựa bọc thây tráng chí quên run sợ- Suối rồng thác hóa bội văn chương.
Dẫm
hiểm đạp nguy, một bức chiến trường coi nhẹ chết,
Dựng
trung an nghĩa, ba trung miếu mạo lẫm như sinh.
Đổi
hiếu làm trung, người nói có con như thế may thay,
Lấy
nghĩa để chế mệnh, công luận chẳng nổi chỉ có trời.
Báo
nước thân này trung với hiếu- Tên lưu thiên cổ chết như còn.
Đâu
cần tính người qua lại, biết rõ lòng ta xưa nay cảm động,
Thương
nhau chí khí, lượng cho ông hôm nay như lúc còn.
(Thượng
Phúc tiến sĩ Lê Văn Trung)
Ba
sinh chẳng phụ chí tang bồng- Một chết đâu buồn mong ca tụng.
Bia ghi việc Phạm công tuẫn tiết
Cái
gọi là bia, âm gần với chữ buồn. Có phải là do buồn ở trong lòng mà gửi gắm vào
đá, ghi lại sự việc ấy chăng. Năm Minh Mạng thứ 14, giặc vây Cao Bằng, Tiên
linh mất, kẻ sĩ phu thuật lại sự việc rằng: Tiết nghĩa Phạm Bạt Khanh, huý Đình
Trạc người Liêu Xuyên, Đường Hào, Hải Dương, là hậu duệ của Thái tể triều Lê
Phạm Công Trứ. Năm Minh Mạng thứ 2 Tân tị đỗ Hương tiến, lúc đầu làm hành tẩu ở
bộ Lễ, có việc bầu cử ưu khuyết ở huyện, ông từ chối, thế đã thấy rõ đại khái.
Sau thụ chức Tri huyện Hà Đông, Lễ bộ chủ sự viên ngoại lang, trải sang làm
Lang trung ở bộ Lại, ngày 12/12 năm thứ 13 được điều bổ làm Cao Bằng án sát sứ,
ngày 8/8 năm thứ 14 thổ phỉ Tuyên Quang là Nùng Văn Vân, nhân nghịch Ngỗi làm
biến, chiếm giữ châu Bảo Lạc làm loạn. Ba vùng biên Tuyên Thái Lạng trấn động,
bè đảng là bọn Nguyễn Hữu Huyền, Nguyễn Tá Cận hưởng ứng tấn công bao vây tỉnh
thành, thế rất hung bạo. Trong tỉnh duy có thổ dân Cao Hùng một kỳ là cùng với
bọn Cận không liên hệ thân mật, thế nên đánh mà không được. Tháng ấy Tuần phủ
Lạng Binh Hoàng Văn Quyền uỷ cho Lãnh binh Phạm Văn Lưu đem quân đến viện Đốc
sứ xuất chiến. Văn Lưu gây khó, hẹn lời đến giúp giữ. Ông cùng Bố chánh Bùi
Tăng Huy xuất chiến, quân ít không địch được phải lui về thành, mưu giữ để đợi
viện binh. Ngày 2/9 giặc kéo cả đến vây, trong thành đơn lẻ, suýt vỡ mấy lần,
bèn dời đến giữ kho thành trên núi. Kho thành hiểm mà sâu, chọn được hơn 30 kẻ
nghĩa dũng, hết sức chuyển chiến, hơn một tháng mà đồn vẫn như cũ. Tiếp đấy thì
lương đạn lại hết, quan quân nhiễm bệnh, bỏ trốn nhiều quá nửa. Ngày 13 tháng
10 giặc Vân tụ họp các đạo tự đến đốc chiến, vây núi 4 bề, bắn đạn vào liên
tiếp, lá cây rụng gần hết, tình thế rất nguy cấp. Đến nửa đêm nghe tiếng chuông
voi, người trong đồn mừng lo khôn xiết. Sáng ra thấy Hoàng Văn Quyền bị giặc
đóng cũi đặt ở lưng voi, dụ trong đồn ra hàng, trong đồn nhiễu loạn. Ông biết
việc không thể được nữa, nói với Bùi công: Nghe nói tháng trước Tổng thống Tạ
Văn Cự đánh giải vây thành Lạng Sơn, viện binh không đến biết làm thế nào, chỉ
còn cách tự tận để bảo toàn cho binh dân trong đồn mà thôi. Nói rồi ông từ để
về, lệnh đào huyệt ở phía đông, trong để sẵn ván, chỉ xuống đầm sâu nói: Vợ con
ta là thành tốt, mau nhảy xuống đi đừng để nhục bởi tay giặc. Vợ con lùi lại
khóc nói: Song thân hãy còn cả, chẳng may ông mất xin được thay ông hầu hạ. Ông
động lòng nói: ý trời quả muốn cho lòng người chăng. Nhân đó làm một bài thơ:
Tân
tị đông ra làm quan,
Quý tị đông thì mất.
Ơn
vua mà được chết như thế,
Ngưỡng
xem mới được 1 kỉ.
Cầu
ở kẻ bề tôi thờ vua,
Rằng trung thì chưa chọn.
Cầu ở con thờ cha mẹ.
Vui chỉ một niềm tiệc thọ,
Ngóng
nghìn dặm xa xôi.
Vợ
cùng con thơ dại,
33 ngày sức thần đã hết.
Không thể giữ đất vua,
Nguyện chết vì việc vua.
Mây
bay nơi cửa khuyết,
Tình
hoài khôn xiết.
Con
dưới án vọng bái cha mẹ khang thọ bách phúc, con nhờ thân cha mẹ sinh thành như
ngày hôm nay, tính đốt 39 năm, tụ họp ít mà chia li nhiều chưa được trọn 1 ngày
nuôi dưỡng, thực chết còn dư tội. Đội ơn thiên tử tuyển dùng, tước trật đến tứ
phẩm, quan đến thế thực phúc không đo nổi. Đã không thể giữ đất cho triều đình,
lại không thể chết cho việc nước, còn mặt mũi nào đối với sĩ phu trong thiên
hạ. Thế nên cam lòng chịu chết để vẹn đạo làm tôi, vợ dại con côi xin nhờ mẹ
cha chiếu cố, dù ngày chết cũng như lúc còn. Khư khư một lòng khổ tâm, bút tả
không xiết, tất cả chỉ xin muôn vàn bảo trọng để giữ tuổi già, con khóc ra máu
mắt mà lạy tạ. (Em trai Huệ, em gái Tố nên cần cù bản nghiệp để yên lòng cha
mẹ, các con Hội, Quỳ, Thị, Thư cũng phải tuân lời dạy dỗ, chớ làm hỏng gia
phong ấy là điều cha mong mỏi lắm lắm).
Phạm
công tự mệnh thuỵ.
Hoàng
Việt Tân tị ân khoa cử nhân, Nhâm ngọ hội thí khoa trúng tam trường, Cao Bằng
đẳng xứ địa phương đề hình án sát sứ, ti án sát sứ Phạm phủ quân thuỵ Đoan
Trực, hiệu Thuần Tiết chi linh.
Viết
xong buộc vào tay con trai thứ khóc rằng: Con có may mà sống trở về thì trình
lên ông bà. Sớm ra bày hương án ở Văn miếu, mặc triều phục trông về cửa khuyết
lạy 5 lạy, hướng về đông trông cha mẹ lạy 4 lạy, cởi triều phục, mang cáo
thân(bằng cấp của quan lại) cùng đồ thư đốt đi. Sáng bày đủ nghi trượng như
thường, mặc nhung y(áo chiến) đi vào huyệt, có người xin đổi áo, ông cười nói :
Thế mới có thể đi gặp tổ tiên cuả ta. Nằm vào trong huyệt rồi, đầy tớ không nỡ
lấp đất. Ông cười lấy nghĩa chỉ bảo cho, lấy tay áo che mặt không nói nữa, đầy
tớ mới lấp đất lên. Đất lấp bằng rồi trong đồn mới khóc vang trấn động cả, họ
Bùi thấy lạ hỏi, quân đáp: Quan án sát đã chết rồi. Họ Bùi mới đến chỗ ông nằm
dùng kiếm tự sát không chết, mới lấy dải lụa tự thắt cổ chết, Phạm Văn Lưu cũng
tự thắt cổ chết, Phó lãnh binh tỉnh Cao Vũ Viết Lợi cởi giáp hàng, đồn liền vỡ
bị giặc chiếm. Vợ con ông thay trang phục của thổ dân chốn đến sơn động xã Phúc
Tăng. Lúc ấy là ngày 5/10.
Hơn
tháng sau thu hồi lại thành, việc tâu lên, hoàng thượng nói: Việc nguy cấp mà
thung dung tựu nghĩa, đặc sai tỉnh thần cho áo quan đưa về bản quán. Lại lệnh
cho phố xá chỗ ấy lập đền Tam Trung hàng năm xuân tế, cùng thờ cả Bùi công và
Phạm công. Lại thưởng 100 lạng bạc cho nhà ông để biểu dương lòng trung, tận
tiết. Ô hô, Chính khí người quân tử tắc ngẽn cả trời cao. Triều đình ban khen,
bạn đồng chí an uỷ, vinh dự bi ai, thiên cổ được nhắc nhở, ta đâu dám thừa lời,
duy may được nhờ ơn đến trị nhậm vùng này, mắt nhìn thấy cảm thương, sao dứt
được. Thuật lại sự việc đề vào đá để ghi lòng buồn thương vậy thôi.
Bài kí đền Tam Trung ở Cao Bằng
Nguyên
là có ba vị trung thần là Bố chánh sứ Bùi công, án sát sứ Phạm công, Lạng Sơn
lãnh binh Phạm công. Năm Minh Mạng thứ 14 giặc vây thành hãm, ba vị đều tử
tiết. 5/10 năm ấy việc tâu lên, Thánh tổ Nhân hoàng đế khen tiết liệt sai lập
đền thờ, hàng năm mùa xuân ban cho tế 1 lần. Trước trị nhậm vùng ấy, mỗi lần
đến nơi đều cảm nhớ, mỗi lần đến ngày giỗ thường biện tam sinh đến tế thành lệ
thường. Đến giữa xuân Đinh tị năm Tự Đức thứ 10, nguyên thự Bố chánh sứ, nay
lĩnh Tuần phủ Lạng Bình Đông Doanh Thuỵ Trai Bùi công, nguyên án sát sứ, nay là
Thái bộc tự khanh lãnh bố chánh sứ Nam Phố Vũ công, thự Phó lãnh binh Cổ Luỹ
Nguyễn công cùng bàn với nhau rằng: Không có ruộng thờ thì không thể lưu lâu
dài được. Bèn hội họp thân hào, mỗi người xuất lương bổng đóng góp mua 2 mẫu
đất xứ Đồng Cá xã Gia Cung để làm lễ giỗ hàng năm vào thu tháng 7. Viên ngoại
lang lĩnh án sát sứ Thượng Mão Nguyễn Công đến trị nhậm làm việc nghĩa cử mở
rộng việc thờ tự, lấy lương bổng, của nhà lấy số thóc dư thờ tự hàng năm ở Cao
Tiên và mua thêm 1 mẫu ở đấy, cả thảy 3 mẫu để dân xã ấy lĩnh canh tác. Hàng
năm thu tiền 50 quan để lo các lễ Nguyên đán, Đoan dương, Trừ tịch, giỗ, lại
giao cho viên Uý trong thành lo nhận biện. Lệnh cho tôi soạn bài ký. Ôi, ba vị
trung liệt, danh tiết như trăng sao sáng biết bao, ta thừa lời tán bình sao
được. Duy là đền có đất thờ, ấy là do nghĩa mà có được, cũng có nguyên do từ
đầu, đến lúc cuối thành tất, cũng có chút hậu với phong tục với nhân tâm. Thế
nên để lâu dài vào đá để giữ lại việc thực này.
Nguyên
Giáo thụ phủ Trùng Khánh, hiệp Tri châu Ôn châu Nguyễn Trọng Lâm cẩn kí.
Ngày
10/2 năm Tự Đức thứ 11.
Lời vãn của Đông Tác tiến sĩ Nguyễn
Ân
vua hào kiệt khinh sinh tử, từ đó núi sông khóc quỷ thần. Kiếm khí sáng lạnh
cùng trăng nước, trống canh thảm đạm biên ải mây. Nghìn năm công luận ghi sử
sách, ai biết biên cương có một người.
Bài phú về phong thổ Cao Bằng
(Biền
thể, lấy Cao, Quảng, Lâm, Lang, Thượng, Hạ, An làm vận)
Lớn
lao thay hoàng thượng, được khắp Viêm Bang. Thư sách đã định sơn hà, Nhật Nam
đất rộng (việc chép trong sử ký). ở vào vùng trăng sao vây bọc, Bắc cực trời
cao. Thâu tóm thư văn, xa luân đồng trục. Từng mở rộng khai thác thời Lạc, thời
Hùng. Đức hoá thi hành nhanh như đặt trạm, rộng đến tận góc biển chân non, khắp
bốn phương chẳng đâu là sót. Đã rộng lại bền, với hai nghi cùng lớn, chẳng gì
chẳng khắp. Đây một cảnh Cao Bằng, vốn lệ Thái Nguyên. Cảnh Trị lục niên đặt
làm biệt trấn. Trải các triều xây đắp, hoặc hợp phủ hoặc chia châu (sự tường ký
lược). Đội ơn thánh giáo thi hành, phủ thì hai mà chia năm là huyện. Tỉnh lị Mã
thành, ba bề cách trở. Ninh Lĩnh đồn quân, một phương hùng tráng. Đầu đuôi giới
hạn, bởi Lạng bởi Tuyên, đông tây khống chế do Vân do Quảng. Dân cư xen kẽ
người Thổ người Nùng. Hình thế quanh co rừng rậm. Tuần ti mười một trạm, thuyền
xe buôn bán gần xa (chú giống ở trước). ải khẩu 13, nam bắc đường thông qua
lại. (giống trước) Có buôn bán chăng chừ, 8 cái chợ (tỉnh thành, Lương mã, Mục
Mã hai phố. Trà lĩnh, Cách Linh, Phiên Dương cùng ở xã ấy. Cổ Chu ở Hiếu Lễ, Đống
Long ở Linh Lang, Củng Xương ở Đồng Loan ấy là 8 chợ ). Nhiều ít cùng thu chừ,
một cái xưởng.(Xưởng đông tây nay đã bỏ). Núi thì cao mà nước thì sâu. Xanh bày
muôn trượng, dòng biếc nghìn tầm. Phượng múa ngiêng ngiêng, tứ trụ đứng đầu,
muôn non giăng trướng. Uốn éo rắn trườn, hình ba sông thu gồm các mạch(giống
trước). Sừng sững chẳng dời chừ, ngắm triều đại. Dòng trôi cuồn cuộn chừ, tiễn
cổ kim.(ở xã Mang động). Núi Thống sơn(ở xã Trà Lĩnh) nguy nga chất ngất. Mỏm
Ngưu Lĩnh (ở xã Xuân Hoảng) đỉnh non Liêu (ở xã Phúc Tăng) cũng vút tầng xanh.
Ngọn Bế sơn, đỉnh Kiệt lĩnh ngang bày. Đất rộng cỏ thiêng nhiều(núi ở xã Suất
Tính có các loại cỏ sa nhân, cỏ Thi, cỏ Dự), miền bình dương suối khe bao bọc.
Đá có nam châm(ở xã Quảng Trù có nhiều đá nam châm), núi Thiên tre trúc. Sắc
điểm như gấm thêu(ở xã Dương áng) Hoàng sơn lắm đá quý. Cầu Lâm thì đẹp(ở xã
Trà Lĩnh) núi Mạn Đà trúc mộc anh hoa. Chiêm Sơn cảnh thắng(Núi ở xã Man Đà, có
câu: Chim bay ngiêng ngiêng ngờ lông hoá, đâu cần phỏng cõi Bồng, Doanh), tú lệ
non Uy. Động biếc bóng râm (núi ở xã Nội Chiêm, tú lệ đáng khen, xưa có câu:
Cây biếc động Thanh Thường; Non Uy trời lặng tỏ màu lam) năm năm thanh u cảnh
sắc. Bình Phong núi ấy danh lưu(núi ở xã Kỳ Xuyên, bốn mùa thảo mộc thanh u.
Xưa có câu: Bốn mùa cảnh sắc như xuân, Tám tiết hồng danh bất lão) đời đời công
hầu phú quý. Núi Thiên Mã phúc địa đáng tìm(ở xã Phúc Tăng, hình thế đoan
trang, đất Kiềm có câu: Thiên mã ẩn hình, giữ được đời đời công hầu, anh hùng
không dứt). Kê Minh thì thế tựa rồng bay, chạy mỏi chân ngựa chiến(núi ở xã
Thượng Pha, tiếp Giang Ngô xã, thâm u mà cao, xưa tướng nhà Mạc tên Phú thua
trận chạy suốt đêm lên núi này, nghe trong thôn có tiếng gà gáy mới đặt là thôn
Kê Minh, có câu: Đâu hay quân tướng Hán, núi này cũng thoả thú vui). Núi Giảng
Văn hình như báo lượn, lên cao mà khóc áo chinh phu(ở xã Minh luân, Trọng khôn
xưa có câu: Lên cao ướt áo chinh phu). Đẹp thay sông Lũng Định, cá ngôn Não
Hương (cá ở sông Lũng Định, lúc mổ thì có mùi như mùi nếp mới, rất hay) Đáy
sông kỳ quái, giao long ẩn phục(Sông chảy thế hiểm có nhiều giao long thuỷ
quái, lúc lụt thường làm hại dân gian, nên bắc cầu để đi) Hình thế như vậy làm
kinh mắt khách, mà cảnh sắc thiên nhiên như trợ lòng kẻ thi văn. Thành Phúc Hoà
đá trồi lớp lớp, nghe như có chữ niên hiệu Hàm Thông(giống ở trước)Miếu Na lữ
gạch bao ngất ngất, tưởng như vua Lê hạ giá quang lâm. Cố luỹ cựu thành, rêu
xanh ẩm ướt. Đền thiêng chùa quán cây cỏ um tùm. Người xưa vết tích giờ đâu,
ngưỡng cao phong thêm mộ, Trí Cao tuấn mã thêm bay cao, khinh hồn tướng
Tống(Trí Cao họ Nùng người Quảng Uyên, cha là Toàn Phúc tiếm nghịch bị vua Lý
giết, Cao và mẹ là A nùng ở nhờ nhà chú, chăn ngựa ngoài đồng, thường hay thấy
có đám mây đen che phủ trên lưng ngựa, Cao ngầm mừng, con ngựa đó sau đẻ ra một
con ngựa đực, Cao hết sức xin nuôi, lớn lên quả là một tuấn mã, Cao cưỡi đi
chơi hàng ngày như bay vậy, một hôm lên chơi Thống Sơn gặp một dị nhân trao cho
cuốn binh thư. Năm Càn Phù dâng biểu xin đánh Tống lấy được các châu Ung, Hoành
đến khi tướng Tống là Địch Thanh chế ngự được, Cao thua luôn, giết rất nhiều
người, người nước Tống sợ khiếp lắm, há phải như trời đặt giới hạn Nam Bắc, nên
có một tối bị quân Tống vây,Cao liệu thế bức bách quá, mở một đường ở sau doanh
bỏ về đất cũ, chẳng bao lâu cưỡi ngựa mà bay lên trời. Vua Lý tiếc tài dũng
lược phong lập đền Sầm Đại vương ở xã Tượng Lặc). Quan Triều áo thần dẫn lối,
mở mang biên cương (Quan Triều, người Thái Nguyên làm nghề bắt cá, một đêm
buông lưới ở khe Quan Triều, nghe thấy tiếng đàn ca bên bờ, đến nghe trộm, có người
đến mời cởi áo mời đến dự hội, được 1 tuần rượu tiệc tan, thành ra chỉ có một
toà núi không. Quan Triều được áo của thần, ngày mặc thì người không thấy, tối
mặc thì chó không sủa, thế mới vào kho lấy trộm tiền bạc, chia cho người khác
không để lại làm giàu riêng, thế nên trong nhà có nhiều người theo, về sau áo
rách mất 1 lỗ, tự lấy lụa trắng vá lại, Mỗi lần vào kho trông như có cánh bướm
trắng ra vào, mà của trong kho ngày một mất. Người ta lấy lưới để bắt, bắt được
Quan Triều tống vào ngục. Vừa lúc ấy có người phương Bắc sang xâm lấn, Quan
Triều xin đi đánh giặc chuộc tội, Lê Đại Hành hoàng đế đồng ý. Triều tự dẫn
quân, mặc áo của thần vào trận tung hoành giết giặc, thu lại biên cương, được
phong Hộ quốc tướng quân, được cả Hồng Liên công chúa, thực ấp phủ Phú Bình.
Lúc mất cùng với công chúa được phong hiệu thần, đền nay tại xã Xuân Lĩnh, tổng
Tượng An). Diệt ba quái để yên dân, lưỡi kiếm sắc Trần Kiên, Trần Quý(hai vị họ
Trần người Ninh Sóc, nghe lời di chúc của mẹ diệt yêu cứu dân. Một hôm hai anh em
mang kiếm đi đến Sầm Khê, bỗng gặp hai người con gái hốt hoảng chạy lại, hỏi
thăm đáp rằng là dân nữ ở Vị Cừ, vì yêu quái ở Muộn Động, Cù Sơn gọi là Bà Trằn
cùng đứa cháu Cốt Sấu Sắc Xu, lưỡi dài mấy xích, gần khe có 1 huyệt yêu xà ở đó
dài 50 trượng, vẩy như tia điện, mắt tựa sao sáng, xã Xuân Lan có quái điểu
hình như diều hâu, bay kêu như mưa bão, dang cánh che cả mây, ba yêu quái ấy
làm hại dân rất nhiều. Vừa lúc thấy Bà Trằn đến, hai người vung kiếm chém, mỗi
vết chém yêu lại lấy lưỡi liếm vào vết chém liền lại, không làm nó bị thương
được. Đến chiều thì Bà Trằn bỏ về hang, kể truyện lại cho cháu nghe, đứa cháu
nói: từ nay chớ có đi ra ngoài nữa, nó mà dùng đồ hôi tanh bẩn thỉu xoa vào
kiếm thì hết đời. Hai họ Trần nấp ở đó nghe được bèn bôi bẩn vào kiếm liền đêm
ấy xông vào giết chết hết, thừa thế chém yêu xà, quái điểu, ba quái tận trừ,
dân đội ơn lập đền ở xã Mạnh Sơn). Một lòng ngay thẳng, Phù Thắng Phù Thiết can
trường (Hai vị họ Phù người Minh Luân, Hạ Lang, đời đời làm tù trưởng. Khi họ
Mạc chiếm cứ, hai người không chịu ra làm quan, họ Mạc chu di cả tộc, Phù Thiết
miễn cưỡng theo nhưng ngầm tìm đường về chính chẳng lúc nào quên, dẫn quân
chiếm giữ chỗ hiểm, sau vì thuộc hạ hai lòng nên bị bắt, nhảy xuống sông tự
vẫn. Đến khi nhà Lê diệt Mạc sắc phong làm giang châu tiết chế đại vương, đền ở
xã Mạnh Sơn). Bắt họ Mạc nghênh đón vương sư. Ông họ Trần hùng nghị xiết
bao.(Trần Danh Lâm người Cẩm Dã nghe tin vương sư tiễu trừ họ Mạc nguyện dẫn
quân làm tiên phong, đuổi họ Mạc đến tận biên ải, sau tử trận, sắc phong làm
Đại vương đền ở xã Xuân Lĩnh). Lui quân Tống cai trị đất châu, kìa Hoàng Lục
sao mà kiêu dũng (Ông người Thượng Lang, nhân quân Tống đuổi đánh Trí Cao lấn
vào địa giới của ta, dẫn đinh tráng đánh lui, lại dâng lên 8 châu, vua Lý phong
làm An Biên tướng quân. Sau lại dâng biểu xin đánh Ung Châu, bị quân Tống làm
bị thương, truy phong làm Đại vương, đền ở nguyên quán xã Lũng Định). Nhận tên
thần trong núi, Nùng Đắc Thái tài bắn không ai địch (ông người Thái Nguyên, một
lần đi săn, trú mưa trong núi, luận bàn phép bắn với một dị nhân, người ấy cho
một mũi tên Đồng Nô, mũi làm bằng nanh sói, lông làm bằng lông hạc, rồi đi vào
núi mất. Đắc Thái được tên ấy, mỗi lần bắn một mũi thành trăm mũi, trăm phát
trăm trúng lại có thể thu lại được tên, như có thần giúp. Thế nên có ý chống
mệnh, sau bị Khắc Thiệu đầu độc chết). Tung hoả công đánh động nước, chiến tích
Nùng Công Kim thật đáng khen (ông người Thạch An, Kim Pha, nhà ở bên bờ sông
Hiến giang sinh được một người con gái tuổi vừa độ cài châm, nhan sắc diễm
tuyệt. Một hôm vợ chồng đi vắng, người con gái ở nhà một mình dệt cửi, có một
người con trai hoá hình giao long cuốn lấy người mang đi. Người con gái tay vẫn
cầm thoi sợi, sợi lụa còn dính vào khung kéo đến tận mép sông. Chiều vợ chồng
về nhà không thấy con gái đâu, lòng thê thảm khôn xiết, nhân theo đường sợi tơ
đi xuống nước, thấy một cái hang, đi vào thì thấy rộng rãi, nhà cửa lầu các như
cung phủ, nghe thấy tiếng đàn tiếng sáo, lẫn tiếng chúc mừng tân hôn. Bỗng bên
trong có người đi ra, ông cùng tranh biện thị phi, kẻ ấy sai người canh cửa
đuổi di. Ông tức giận trở về, tính không dùng hoả công thì không hả được phẫn
nộ. Bèn chuẩn bị lưu hoàng, diêm tiêu, cùng đồ dẫn lửa xếp đầy ống tre ngầm
xuống nước phóng hoả xung quanh lầu điện cho lên đến tận mặt nước, quả nhiên
núi bị lở sụt, hoả khí bốc cao cây cỏ khô cháy liền ba tháng không hết. Mọi
người tranh nhau xem truyền là việc lạ. Đến nay núi sụt cả ba mặt, phía dưới
hãy còn than đất). Phảng phất còn dư linh, thanh âm như suối thác, rực rỡ bao phong,
lời lời châu ngọc. Thế thế nối nghiệp cơ cừu, làm phiên thần cho vương thất.
Người nhàn việc cung mã, dựng nghiệp nơi biên thuỳ. ấy đều do địa khí mà xuất
hiện lương thần. Chỉ nghe nhiều người nhân phẩm thì biết phong tục dân gian
khái lược. Phần chất phác nhiều hơn văn vẻ, cương cường thì sẵn mà dốt nát. Lúc
thì bạo ngược tranh giành, lúc thì buông thả phóng đãng. Vùng Thượng bạn thì
dân có vẻ thuần hậu mà Hạ bạn có vẻ điêu trá. Thổ âm có những khúc hát dâm dật,
gái dắt tay trai đưa về. Ca hát, ngạn ngữ, tục âm khó phân biệt. Nam hoạ thì nữ
xướng, ngày rỗi thì chơi bời, đeo các đồ trang sức bạc. Khách khứa tiệc rượu,
uống rượu bằng thăng, ăn thịt bằng miếng. Cũng có những người trai hào kiệt
chừ, làm cày cấy. Cũng có những thiếu nữ đẹp chừ, chăm thêu thùa. Trên ruộng
cày ngựa gỗ, nhân nắng hè mà gieo lúa nước, Trên lũng dùng thuyền gỗ nhổ lúa
thu tích trữ. Chủ nghề nông, chăm săn bắn, già giữ nhà, trẻ lên rừng. Ruộng sâu
để nuôi cá, vợ đẩy bè để chồng buông lưới. Buôn bán tiền bạc thì kết dây làm
chứng, nợ bạc thì khắc vào trúc để ghi. Thuần hỗn mang chẳng khác gì thói cổ.
Nhà ở thì làm gác, dùng ống tre múc nước suối. Chất phác sơ lược cũng giống
Thái thượng như thôn xóm, mượn bánh, thờ tổ, tết nguyên đán, đầy đủ cả, mật ong
trộn với củ mài đãi khách ba buổi liền. Hôn lễ thì làm từ lúc còn 5-6 tuổi, con
trai trước nộp tiền để cầu hôn. Tang lễ thì ca chương nhị thập tứ hiếu, nhạc
công thổi kèn để trợ táng, mộ vẽ hình nhà, 2 con gà để cúng tặng người chết,
bên trên thì làm cỗ, bánh ngũ sắc dùng đều trong họ tộc. Đuổi ma quỷ thì lấy
cành dâu vụt thật lực. Cầu đảo vu thuật thì đánh đàn lắc chuông, tập tục nhiễm
quen lâu ngày. Nghìn dặm phong tục không giống, duy sản vật là bốn mùa đều có
thể thưởng thức : Cá Thiết lệnh, Thanh ngư, Anh vũ tươi ngon nhiều sông có,
Bạch nhàn, Tử xạ, Cẩm kê kỳ lạ thường xuất hiện nơi sơn dã. Trang phục để làm
đẹp có vải, bố. Ngon khoái khẩu có Tật lê, quả ngọt, Có trướng gấm để phô
trương, có chiếu trúc để ngồi nằm. Vàng có mỏ sâu, bán buôn đông đúc. Sông nước
có nghề bắt cá, dạy chim. Ngựa hay vượt khe xuyên núi. Đến như mèo đen là loài
gì mà giao phối cùng loài rắn (có nhà nuôi mèo cái, đến kỳ động dục ra ngoài
đồng hoang kêu gào, có con rắn đen tới cuốn lấy quanh mình, chốc lát mới thả
ra. Sau đẻ ra mèo con rất là lanh lợi, các con chuột đều tránh xa là vật báu
giữ nhà) Phượng đất là loài chim gì, mà trộm tình loài vượn (Chim phượng hoàng
đất lớn như con ngỗng, trống mái một đôi. Duy con mái thường trộm giao hợp với
loài vượn, sau đẻ ra con vượn. Mỗi khi đến hè thường làm tổ ở vách đá cheo leo
để dẻ, đẻ thường đẻ hai trứng. Con mái ở nhà ấp trứng, con trống đi ngậm cành
kết tổ lại, bên ngoài dùng keo cây chám gắn chỉ để một lỗ cho con cái thò đầu
ra ăn. Đầy tháng thì nở trứng, nếu là giống loài vượn thì con đực lấp cửa tổ
lại để cho chim mái cùng vượn con chết ở trong). Trời hạn thì có nước ở động Mô
(động ở xã Bồng Thượng huyện Thượng Lang gọi là Ba Mô dưới núi có suối chảy về
ruộng, rất lợi cho dân. Đời Cảnh Hưng có người chăn nuôi Nùng văn Bồng nhân cửa
động nước cạn lội vào bên trong, thấy một con trâu lớn nằm ngang bên trong, lấy
tay vỗ vào trâu mà hát, trâu trở dậy chạy vào sâu bên trong, không thấy nữa.
Bỗng chốc lát nước trong núi chảy ào ra. Từ đó về sau có nghe thấy tiếng trâu
rống ở trong vách đá, năm đó nước chảy đáng sợ) Được mùa, mất mùa thì lửa núi
Đà (núi ở xã Bình Giản huyện Thạnh An, trên núi cây cỏ um tùm, đến tháng 6 tự
nhiên có lửa bốc lên đốt, năm đó thế nào cũng được mùa). Có loại lúa lạ mọc
được 4 mùa, chẳng biết từ đâu đến (ở làng Đông Kiêu, châu An Bình, tỉnh Quảng
Tây có núi đá đỉnh rộng đến hơn trượng, sâu mấy thước, rất lầy nước không bao
giờ cạn. Vào khoảng tháng giêng tự lúa mọc rất tốt, tháng 2 ra hoa, tháng 3 thì
chín, các mùa hè thu đông đều thế. Không cấy mà được thu hoạch lợi vô phương),
Chuông thần bát bảo chẳng biết từ đâu chảy qua (Chuông nguyên ở đền Quan Triều,
cao 4 xích 5 thốn, rộng 3 xích, mỗi lần đánh tiếng kêu xa trăm dặm, bỗng có đêm
đền ngiêng về phía đầm sông, các sư nhìn thấy có đàn rắn cuốn lấy thân chuông
đi lúc nổi lúc chìm, nước sông trấn động, chốc lát lại trở về nguyên chỗ ấy,
đêm nào cũng như thế, đêm thứ tám thì không thấy quay trở lại, cũng không thấy
âm ảnh gì, từ đó cũng không còn hoạ rắn nữa, nên gọi là đầm Chuông, việc vào
thời Lê Vĩnh Tộ. Đến khoảng năm Chính Hoà có người ở phủ Thái Bình lên tỉnh
buôn bán nói có một quả chuông lớn từ sông Long Châu ngược dòng trôi đến châu
Thái Bình, quan trị Tân Châu của Hắc Hà từng sai thợ nấu chảy chuông, thì toàn
thân chuông toát mồ hôi chảy như mưa, tiếng kêu giận dữ như sấm động. Châu quan
sợ hãi sai làm điện, thờ bằng lễ Thái lao. Sai người đến xem thì quả là chuông
đền Quan Triều). Tiên nữ cùng phối duyên, chẳng bàn duyên lành Trần Triệu. Thân
hươu biến hình, lại bàn ác quả của Trần công ( Trần công người Ninh Sóc, vợ họ
Hoàng, lúc mang thai rất thích ăn thịt hươu, ông vào rừng săn về cho ăn, sinh
được một trai tên là Trần Triệu. Ông vì ham săn bắn giết thú nhiều quá sau đầu
mọc sừng, thân mọc đuôi chân tay biến thành hình hươu chạy vào núi ở cùng với
bầy hươu. Đến khi Triệu lớn hỏi mẹ mới biết, cảm động đi vào núi tìm tin tức
của cha, gặp liền dắt về làng, về làng hươu lại bị chó săn sủa sợ mà bỏ chạy,
bẻ sừng lại dặn con lấy lụa buộc sừng kéo đi, móc vào chỗ nào thì ở chỗ ấy mà
khai khẩn có thể sống được. Triệu về làm theo gặp được vườn dâu của một quả
phụ, bèn xin được trồng lúa, sinh lợi nhiều. Một hôm đang thu hoạch trên đồng,
thấy một đoàn thiếu nữ xinh đẹp mang giỏ đến hái dâu. Triệu nói: Ai gặt được
hết lúa giúp tôi thì tôi xin hái dâu giúp. Trong ấy có người con gái nhận lời.
Đến chiều các cô khác đều bỏ về hết duy còn người con gái ấy, Triệu nhìn thấy
hái chưa đầy giỏ, bồi hồi tỏ lòng, người ấy chẳng biết làm sao đành chịu ở lại.
Lúc ấy trăng đang tròn in bóng hai người dưới đất, cùng dắt tay nhau về, ý hợp
tâm đầu một đêm kết thành vợ chồng sinh được hai con trai là Trần Kiên, Trần
Quý. Một hôm mẹ dặn hai con phải trừ yêu quái giúp dân, nói rồi bay lên trời đi
mất. Trần Triệu buồn thương cũng bỏ vào núi cầu đạo, không biết đi đâu). Đô
Dũng được rắn tiễn, chuyện thật hoang đường (ông người Tiên Giao, An Thạch, đầu
quân cho nhà Mạc. Được nghỉ trước, về nhà đi thuyền trên sông Xuân Lân, đêm gặp
mưa tránh lên bờ hong áo, bỗng chui vào một hang đá, nghe thấy tiếng người điểm
quân hô đến tên Đô Dũng, ông đùa cất tiếng đáp, đáp rồi bước ra, chơt thấy 2
con giao long lớn lưng gấm, vẩy hồng, ở dưới là những giao long nhỏ xếp thành
đội ngũ, kế nhau bò xuống nước, lúc ra thì ngừng. Lại thấy có hai người vocs
rùa hình tôm đến kéo vào trong hang, đến đại đường có một người mặc áo xanh, mũ
triều mạo trách là làm nhục quân pháp định làm tội. Đô Dũng đáp là nghe thấy
gọi tên thì đáp có coi thường gì đâu. Người kia bảo lôi đi, trên đường đi người
đưa tiễn nói đêm qua điểm binh là để đi trừ thảo khấu ở Long Châu. Về đến nơi
Đô Dũng thuật lại truyện như thế, việc xem trong Phong thổ lục) Thiên Hoà lúc
chết hoá thành chim kêu, việc còn đáng ngờ (Thiên Hoà người Thời Hoà, Thạch An,
tức là Nùng Quý Hổ, giận họ Mạc tiếm nghịch đem dân binh đánh, không thắng,
nhảy xuống núi mà chết hoá làm chim vô thường, thác mộng cho người nhà, đến chỗ
chết quả thấy chim kêu. ấy là oán họ Mạc mà kêu lên như thế).
Phàm
hơn trăm truyện, miêu tả không hết. Người sĩ quân tử bỏ qua những chuyện quái
đản mà giữ đạo thường. Bậc đại thánh nhân xem phong tục mà giáo hoá bên dưới. Ôi
núi sông tự tại, phong khí còn đây. Một đời lại có anh tài của một đời, cái nào
trước cái nào sau. Một châu lại có tập tục của một châu, đáng răn đáng xem. Cảm
công đức người trước không quên thì lập bia ghi lại việc thực, luôn lo báo đáp
(chú như trên) Giận nghịch đảng gian bạo mà không theo thì tích lương đeo giáp,
đâu ngại gian lao (chú như trên). Biết biến Man di thành Hoa hạ, theo trung hậu
mà bỏ thói ngoan ngạnh.
Ta tài tạm làm thành
che, chức phận nơi phên dậu, ngắm bốn phía giang sơn, may phong trần tĩnh lặng,
một phương con đỏ dân đen, may nhờ xếp áo được yên. Xét khảo lời ghi lại sự
việc, khỏi phí mất thời gian rảnh rỗi, bèn tự đề làm bài phú, gửi cái còn vụng
dại nơi đầu bút.
Nguyễn Đức Toàn
phiên âm và dịch nghĩa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét