Thứ Tư, 7 tháng 6, 2017

Cao Bằng thực lục, A. 1129

Cao Bằng thực lục, A. 1129
Dịch nghĩa: Nguyễn Đức Toàn- Viện Hán Nôm
Bài tựa sách Cao Bằng thực lục.

Ôi cái việc ghi chép, là những việc có thực mà rõ ràng thì ghi lại. Việc ghi chép lại ấy, là để tỏ tường gần xa, phân biệt việc giống khác đó. Từ đời xưa, cái gọi là cốt yếu của vương đạo là gốc ở nhân tình, thích nghi ở phong tục. Cái lớn thì sáng tỏ ra trong lời văn cuả Thi Thư, còn sự tường tận thì thấy rõ tản mát ở những sự ghi chép nơi biên ấp. Đó chính là cái các bậc vua thánh, tướng hiền có thể chẳng cần bước xuống bệ mà biết khắp hết các chỗ yếu chỗ mạnh trong thiên hạ, làm khuôn thước để trị nước bảo bang. Vả như một phủ Cao Bằng, là phủ lớn ở một phương, đầu mối đứng đầu các phiên thuộc. Châu thuộc có 4, ải khẩu có 13, là nơi nước ta quan tâm gửi gắm khích lệ lớn, để khai thác miền biên viễn xa xôi, tính bề ích lợi cho việc đại trị. Ngưỡng xét quy mô vết tích, giáo hoá lê dân, thì cửa mở cũng chẳng kinh động chó sủa, chốn rượu chè chẳng cấm được người say. Khí vận đã xoay vần thời thế hanh thông, núi sông rộng mở ngày càng thêm rực rỡ. Lấy vẻ đẹp của núi sông ấy ắt sẽ nổi bậc anh hào, sinh người tuấn tú, nhân vật lưu danh.

Ôi như vậy thì đất nào đất chẳng sinh nhân tài, nhân tài nào nhân tài chẳng lưu tiếng ở đời đây. Như Trí Cao cướp đất Tống, anh dũng vô song; Trí Kiên bền gan, trung thành chẳng đổi; Trần Kiên,Trần Quý trừ hại để yên dân, đức trạch mãi ghi lưu bất hủ. Phù Thắng, Phù Thiết giữ lòng theo đường chính, anh hùng khí đởm phi thường. Trần công dũng cảm càng đáng khen, Hoàng Lục chí hùng thêm lẫm liệt. Khoái Trạch hầu liêm minh làm chính sự, không một kẻ tư hiềm, tiếng tăm lưu thế,  dân bốn châu cùng đội ơn đức. Lại ôi ! Quan Triều nơi khe cá gặp kỳ duyên, thần cởi áo ban tặng. Trộm kho tàng để phát lòng hào hiệp, đuổi quân Tống để chuộc lỗi lầm, cuối cùng kiến dựng đại công, cưỡi rồng cùng phối duyên Hồng Liên công chúa. Đó là các thần thiêng mà đảnh sinh kỳ tú, đều là tinh anh chung dục, giúp nước yên vững như bàn đá. Nay dân được mãi yên bình, việc hưởng tế tự, ấy cũng là đúng.
Ta đây lúc nhỏ theo thầy, rỗi xem chương cú đã sơ lược biết được cái tinh vi. Đến lúc mũ đội tròn đầu, hài đi đã chật, thực hổ thẹn khó bổ sung những chỗ còn thiếu sót. Tuổi kịp đến trưởng thành, ơn kế tập chức trước, đoán rằng đất này từ lâu chưa có ghi chép gì, bèn trích lấy những việc có thực trước mà thêm bớt đính chính nó, hội tập giấy tờ còn sót lại, tham khảo những điều nghe biết. Sửa ngọc cho mới, những cái  diên cách thêm bớt, khác biệt. Như mà không sưu tầm được hết thì danh tích ngày một mất đi, người cầm sách đời sau thu nhặt lại càng khó.
Nay mừng gặp triều ta hưng thịnh, nhân sưu tập Thực lục, biên soạn thành sách. Vả như đặt từ chưa được công phu, ấy cũng là cái quyền chim hồng được lưu vết, dám rửa bút để đợi bậc quân tử đời sau, hay để cho một hai người đồng chí có thể dùng làm tham khảo vậy thôi.
Ngày tốt tháng đầu xuân, năm Canh Ngọ niên hiệu Gia Long thứ 9(1810) .
Nguyễn Hựu Cung, người Ninh Sóc, Lâm Khê viết ở bên trái Sơn Miêu đường.

_________________  

Cao Bằng Thực Lục.
Thứ nhất, ghi chép về các thần.
          Truyện Bà Hoàng ở Khâu Sầm
          Xưa Nùng Trí Cao, người châu Quảng Uyên (nay là phủ Cao Bằng), nhà nối đời làm thủ lĩnh, có nhiều binh quyền, ở nước Việt từ đời Đường trở về đây, hùng cứ đất Quảng Nguyên, cùng với họ Hoàng, họ Chu thống lĩnh đến tám phần mười, mà họ Nùng lại hùng mạnh, cứ như tằm ăn rỗi, thôn tính dần dần hết.
Cuối đời Đường vùng Giao Chỉ hùng mạnh lên, châu Quảng Nguyên thần phục, thuộc vào đạo Lâm Tây. Các châu Giáp Động, Lạng Châu, Tô Mậu, Quảng Nguyên, Ba Bình, Đô Kim, Thường Tân đều thường khởi binh đánh ba châu Châu Ung, Tư Lăng, Tây Bình của đất Tống cướp của cải trâu ngựa đem về. Lúc bấy giờ vua nhà Tống suy vi, giặc ở phương Bắc xâm lấn ở bên trong nên chẳng rỗi rãi để trông coi mặt Nam. Năm Thông Thuỵ thứ 5 (1038) đời Lý, cha của Nùng Trí Cao là Nùng Toàn Phúc, trước là thủ lĩnh châu Đảng Do, chú ruột là Nùng Toàn Lộc, là thủ lĩnh châu Vạn Nhai, mẹ là A Nùng Chi, em là Đương Đạo, là thủ lĩnh châu Vũ Lặc, đều lệ thuộc châu Quảng Nguyên, hàng năm đều vận chuyển đồ cống phẩm. Sau Nùng Toàn Phúc giết em là Toàn Lộc, cùng Đương Đạo thôn tính đất đai rồi làm phản triều Lý, tự xưng là Chiêu Thánh hoàng đế, vợ là A Nùng là Minh Đức hoàng hậu, phong con trưởng Nùng Trí Thông làm Nam Diễn vương, đổi tên châu làm nước Trường Sinh (Trường Sinh quốc), may giáp luyện binh, đắp thành để chống lại.
Ngày Tân Hợi tháng giêng năm Kỷ Mão, Càn Phù Hữu Đạo thứ nhất (1039) triều Lý, thủ lĩnh châu Tây Nùng là Hà Văn Trinh đem việc Toàn Phúc làm phản tâu lên. Tháng hai (năm ấy) vua Lý tự thân cầm quân đi dẹp. Toàn Phúc đem quân đóng trong thành chống giữ, nhưng thế không kháng cự lại được, bèn dẫn liêu thuộc dắt vợ con bỏ thành chạy vào vùng núi, vùng khe. Vua Lý thả quân truy đuổi bắt được cùng với con trưởng Trí Thông, bị đóng cũi giải về kinh sư, rồi đều bị chém cả. Duy chỉ có A Nùng và con thứ là Nùng Trí Cao tuổi còn thơ bé, mẹ dắt đến ở nhà chú. Chú là Nùng Trí Viễn có một con ngựa cái, sai Cao đi chăn ngoài đồng, thường hay thấy có đám mây đen giáng xuống, xoay chuyển từ trên không xuống phủ lên lưng ngựa cái, trong chốc lát lại tan, chỉ mình Cao trông thấy. Trong lòng Cao ngầm có chí khôi phục sự nghiệp nhưng không để lộ ra. Đến khi ngựa ấy có mang, hơn một năm thì sinh ra một con ngựa đực non, toàn thân không có lông. Người chú thấy quái dị thì vứt đi, Cao nhân đấy khẩn thiết xin nuôi, chú liền đồng ý cho. Cao dắt ngựa ra ngoài thung lũng, làm chuồng nuôi dưỡng, chỉ trong có ba ngày toàn thân lông mọc ra trông rất dĩnh ngộ, đứng dậy phi chạy như gió. Chăm sóc hơn một năm, ngựa béo tốt hùng tráng, hai tai như lá trúc, bốn móng nhanh như gió lùa. Cao thường cưỡi mỗi ngày, dong chơi ở trong thung lũng, kiêu dũng như bay.
 Có một hôm, Cao thả cương cho chạy, vó nện đất như vỡ băng, nhanh như bay vút cao lên không, chốc lát đã lên đến đỉnh Thống sơn (Nay núi An Lại là nó vậy). Cao ngồi trên lưng ngựa, xa thấy bàn đá có một ông lão ngồi ngay ngắn, Cao nghĩ đây ắt là một bậc dị nhân, bèn xuống ngựa, khom mình đi  đến quì trước dị nhân nói:
“May mắn gặp được tiên nhân, xin được nghe lời dạy bảo”.
 Dị nhân ấy bèn truyền cho một quyển sách, Trí Cao quì dơ hai tay đỡ lấy, khấu đầu lạy tạ, cáo từ ra về, ra roi phi ngựa từ trên không trung xuống.
Trí Cao vóc dáng cao lớn khoẻ mạnh, có trí dũng hơn người, hay tiếp thu những bọn phản loạn, lưu vong mưu đồ việc lớn. Năm Tân Tị niên hiệu Càn Phù Hữu Đạo thứ ba(1041) triều Lý, Trí Cao nối thừa chức cha, dâng biểu xin được vào chầu. Vua Lý thương là cha và anh đều bị giết, ra chiếu tha tội, cho được trông coi châu Quảng Nguyên như trước để giữ gìn đất nơi phên dậu. Cao lấy vợ tên là Cầm cho làm phi, cho về phủ thự ở châu. Tháng 9 năm Quý Sửu, vua Lý sai Nguỵ Trưng đến châu Quảng Nguyên ban cho Nùng Trí Cao Đô ấn, bái chức Thái Bảo.
Năm Nhâm Ngọ niên hiệu Minh Đạo nguyên niên 1042(tức năm đầu niên hiệu Khánh Lịch nhà Tống), Nùng Trí Cao cùng mẹ A Nùng chiếm cứ ba châu Do Lôi, Hoả Động, Thảng Do đổi châu làm nước Đại Lịch (Đại Lịch quốc). Nhà Lý lấy 4 động Lôi Bình, An Bà và châu Tư Lang cho thêm. Tháng 9 Trí Cao dâng biểu xin vua Lý sai tướng dẫn binh sang đánh đất Ung Châu của Tống (Nay là phủ Nam Ninh), thế là lại có được cả đất Lĩnh Tây. Năm Mậu Tí niên hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ thứ 6 (1048), Trí Cao chiếm giữ châu An Đức, tiếm xưng là nước Nam Thiên (Nam Thiên quốc), cải nguyên là Cảnh Thuỵ năm đầu, lại sai Chỉ huy sứ là Biện Vân giữ châu, sai Kiến Nùng hầu, Chí Ân hầu dẫn quân đi tuần biên, chia liêu thuộc đi kén binh gọi là đội Thập vạn hùng sư, đều giữ cho làm thuộc hạ, thao luyện trận pháp, đóng ở Lôi Châu, thế quân rất mạnh. Lại khiến tướng chuyển tàu, điều quân.
Đến năm Sùng Hưng Đại Bảo nguyên niên (1049)triều Lý (Năm Tống Hoàng Hựu nguyên niên), Trí Cao dẫn quân từ châu Uất Lâm đến đánh trại Hoành Sơn, phá được (trại), sai quan chia giữ.
Mùa hè tháng tư năm Nhâm Thìn niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ 4 (1052)(năm Tống Hoàng Hựu thứ 4), Trí Cao đã chiếm được Ung Châu xưng là Nhân Huệ hoàng đế, dựng quốc hiệu là Đại Nam, cải nguyên là Khải Lịch năm đầu, lập vợ là Thẩm làm hoàng hậu (người xã Hàm An châu Thạch Lâm), lấy vợ là Kim Anh cho làm phi (người Quảng Tây). Từ khi đem quân đánh vào đất Tống, phá trại Hoành Sơn, vây hãm Ung, Hoành, Quý, Đằng, Ngô, Khang (nay là phủ Đức Khánh), Đoan (nay là phủ Triệu Khánh), Củng, Tầm chín châu, thế như chẻ tre, quân đóng ở Quảng Thành, Việt Đông.
 Tháng 7 mùa thu, Trí Cao từ Quảng Thành công hãm Chiêu Châu (nay là phủ Bình án), chia quan tể cai trị, ở được một tháng lại dẫn quân về. Năm ấy nghe tin vua Tống sửa sang quân ngũ, Trí Cao lại dẫn đại quân đến Ung Châu, giết tướng sĩ quân Tống hơn 3000 người, bắt sống kể đến hàng vạn, những chỗ đi qua thì cướp đốt chẳng bỏ sót. Vua Tống sai Dương Điền, Từ Tĩnh đi cự chiến, Trí Cao ra sức đánh bại được. Vua tôi Đại Tống rất lấy làm lo, lập tức đề bạt Khu Mật phó sứ Địch Thanh làm Khu Mật sứ đô đại, đề cử nắm Tổng tiết việt đem quân đi chế ngự Trí Cao. Quân Địch Thanh chưa đi tới hạt Kiềm của Quảng Tây thì Trần Thự (chắc là một bộ tướng của Cao)trộm đem bộ tốt tám nghìn tên theo kế “dĩ dật đãi lao” ra nghênh chiến. Quân của Trí Cao bại hoại, thua ở Kim Thành dịch,  lại vỡ ở Côn Luân quan (nay là phủ Nam Ninh).
Năm Quý Tị niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ 5 triều Lý (Năm Tống Hoàng Hựu thứ 5(1053) Địch Thanh đem quân đến phố Quy Nhân ở Ung Châu. Trí Cao lại sửa sang sĩ tốt nghênh chiến, Cao một mình cưỡi thần mã từ trên không xuống tung hoành xông xáo, lấy đầu thượng tướng như lấy đồ trong túi, thế quân mạnh lên. Địch Thanh lo ngại không dám giáp công, chỉ đắp thành vững để cố thủ. Địch Thanh đoán là Trí Cao cậy có thần mã bay từ trên không xuống, nên không có cơ chế phục, mà các tướng bị giết nhiều. Hơn một tháng Địch Thanh trù tính, mới lệnh cho quân doanh làm cái mông xung nối vào nhau đóng trên mộc sách, quân sĩ chạy đi lại phía dưới, vừa đánh vừa giữ, dời doanh trại đến đánh. Cao cưỡi ngựa ở bên trên, rút cục cũng không xuyên nhập được vào doanh trại quân Tống. Hai bên chống nhau mấy tháng chưa phân thắng phụ, Địch Thanh hạ lệnh cho quân sĩ ăn no, chẳng kể ngày đêm chia giữ Côn Luân quan, Quy Nhân phố. Sáng hôm sau, Địch Thanh dẫn quân ra khiêu chiến, quân của Cao đóng ở trên núi, chia làm hai thành thế ỷ giốc tương trợ lẫn nhau. Tướng Tống là Tôn Tiết Kích chết dưới chân núi, quân của Cao thế mạnh, bọn tướng Tống là Tôn Miện thấy đều thất sắc cả. Tướng bên Tống là Giả Đạt đem tả quân lên tranh lập sơn trại, Trương Ngọc đem quân tiền phong xông lên trước trận, Địch Thanh cầm cờ trắng vẫy đội kỵ binh ở vùng biên viễn xuất chiến đánh vào sau lưng Trí Cao. Hai bên dùng dao ngắn hỗn chiến một trận, tướng sĩ của Cao ra sức đánh chém quân Tống hơn 9000 người, riêng một mình Cao cưỡi ngựa giết quân Tống hơn mấy trăm. Quân của Cao cũng bị hại đến hàng vạn, ngựa Cao sức mỏi, Cao thấy thế bất lợi cũng gõ chiêng thu quân về doanh, kiên cố hào luỹ tự thủ. Quân Tống cũng tháo vây về trại. Đêm ấy quân Tống bao vây ba bề, đánh rất gấp, Trí Cao liệu địch không lại liền mở cửa sau mà chạy. Chạy đến Đại Lý (nay là phủ Đại Lý  tỉnh Vân Nam), Địch Thanh truy kích phá được nhưng không biết Trí Cao chạy hướng nào, người Tống tìm khắp trong thành thấy trong đống tro tàn có thi hài cao lớn, mặc giáp vàng cho đó là Trí Cao rồi đem đốt xác đi. Địch Thanh liền cấp tốc chỉnh đốn quân ngũ khải hoàn để lo chống giặc Kim. Trí Cao từ Đại Lý cưỡi ngựa bay 5 ngày trời, lại về đất cũ châu Quảng Nguyên (ngựa bay 5 ngày, Cao thường cho ngựa hạ xuống, ăn cỏ uống nước xong lại nhảy lên ngựa bay đi). Người trong châu thấy Cao trở về phủ thự, ngày ngày buồn bã, ở chẳng bao lâu lại cưỡi ngựa đi, không biết đi đâu.
Mẹ Cao là A Nùng vào chiếm cứ động Đặc Ma, nuôi hơn vạn quân lại xâm phạm bờ cõi nước Tống, hoành hành Ung Châu, thế quân trấn động. Nhưng phụ nữ chỉ có thể làm tướng, không thể giữ được phong cương, sau thua chạy về châu Quảng Nguyên, chết già.
Mùa thu năm trước, lúc Trí Cao cùng Địch Thanh giao chiến ở Côn Luân quan, có hôm sai Lương Châu về kinh xin xuất quân. Vua Lý xuống chiếu mệnh Đô chỉ huy sứ Vũ Nhĩ đem một vạn quân đi giúp, nhưng vừa đến địa giới Ung Châu nghe tin Trí Cao đã thua nên lại đem quân về triều, đem uy thế chiến công của Trí Cao cùng việc bại quân ở Đại Lý, về đất cũ cưỡi ngựa bay đi mất. Nghe tâu, vua Lý cảm khái than, tiếc tài dũng lược cái thế. Vả Trí Cao vốn căn bản ở đất Quảng Nguyên, sau khi bay đi mất, dân trong châu hàm ơn đức của Trí Cao lập miếu phụng thờ. Nhà Lý đặc chiếu bao phong Trí Cao làm Khâu Sầm đại vương, đền ở thôn Bán Ngân, xã Tượng Lặc châu Thạch Lâm, phong mẹ là A Nùng làm Bà Hoàng đại vương, đền tại thôn Phù Vạn, xã Kim Pha châu Thạch Lâm, hai đền ấy đều được phong thượng đẳng thần, xuân thu quốc tế, các triều đều gia phong mỹ tự:
- Khâu Sầm tế thế, an dân hãn ngoại, ninh thuỳ trấn địch, anh nghị quả đoán hiển ứng thuỳ hưu, hộ quốc an dân đại vương.
- Bà Hoàng phổ ứng, hiển linh diệu cảm, hồng hưu tĩnh trấn, hiển phù linh thông, phục viễn ninh cảnh, vũ di hiển hưu, cảm ứng hộ quốc, ninh dân dương vũ đinh công đại vương.
Ôi một mình Trí Cao cùng nước Tống ghanh đua hơn mười năm, vua tôi nhà Tống rất lấy làm lo ngại. (Tống) Có thiên hạ rộng lớn như thế mà sức chẳng thể chế ngự được thì thấy cái anh hùng kiêu dũng của Trí Cao hơn hẳn người khác vậy. Mạnh mẽ thay mạnh mẽ thay, là cái mạnh của Trí Cao ư ? hay là cái mạnh của người phương nam ư ?. Nhưng Trí Cao có đất của hơn 50 châu, thống lĩnh hơn 10 vạn quân thiết đột mà sau lại bị Địch Thanh đánh bại, chắc trời còn giúp nhà Tống mà giới hạn chia Nam Bắc  nên mới như vậy, vận số  ắt còn đợi bậc vua tài chăng?





Truyện hai vị Đại vương họ Trần ở Đống Lân, Cai Cộng
Lời truyền lại của người già, chuyện hay  kể của trẻ nhỏ, đều đáng tin là chuyện kỳ lạ của đất này. Sách vở như không tu sửa để chép lại thì đời sau biết vào đâu mà khảo sát. Thứ đến gia thế họ Trần có công với vùng này, giúp rập dân ở đây, lo là về sau lâu ngày mai một đi mất, thế không thể không ghi chép thành văn để làm điều bổ trợ chốc lát cho nghìn năm vậy.
Xưa thời Ngũ đại, đất Nam đều lệ thuộc Trung Hoa. Cuối đời Chu, mười hai sứ quân ở nứơc Nam cùng nổi dậy, nhà Trần công nối đời ở đất Ninh Sóc (nay thuộc Cao Bằng), có người vợ họ Hoàng có mang rất thèm ăn thịt hươu. Trần công vào núi săn, hàng ngày bắt được đem về cho. Đủ tháng sinh ra được một trai, đặt tên là Trần Triệu. Lúc ấy Trần công chuyên việc săn bắt, ngày tháng trôi qua làm hại sinh linh không ít. Đến một hôm, đầu bỗng mọc sừng, thân mọc lông hươu, chân tay đều biến thành chân tay hươu, nhảy nhót chạy vào núi hợp làm bầy với hươu nai. Hoàng thị một mình nuôi con, thấm thoát đến năm Nhược quan, một hôm con hỏi mẹ:
“Cha con ở đâu”.
 Hoàng thị nói rõ sự thể. Triệu nghe truyện bất giác cảm động, khóc nói :
“Phụ tử tình thâm, dù mang hình hươu, sao nhẫn tâm mà nhìn chia lìa”.
 Sớm hôm sau ra ngoại ô, trèo núi vượt khe, qua  mùa trúc biếc tới  tiết tùng xanh, lên thác xuống ghềnh, măt trời đã trưa mà chân đã muốn mỏi, ngồi nghỉ ở đám cỏ bên ruộng. Trong chốc lát nghe thấy tiếng hươu từ trong núi vọng ra, Trần Triệu nhìn kĩ thấy rất khác loài hươu, đoán chắc là đúng đây rồi, lập tức chạy đến quỳ, tha thiết xin cha trở về. Há tình cha con là tính trời vậy, tuy thay hình đổi dạng cũng không thể không có cảm xúc. Hươu chạy lại gần rơi lệ nói:
 “Ai mà không hoài nhớ vợ con, chỉ hận hình thể ta không dấu đi được, sợ tai mắt loài chó phát hiện ra”.
 Triệu nói: “Con xin lấy sức chịu việc ấy, lo gì loài chó ngăn trở”.
Thế rồi dắt về. Về đến cổng làng, chó trong xóm sủa cắn ầm lên, Triệu một mình giữ không được, hươu kinh loạn, bẻ sừng bỏ chạy vào núi. Triệu bất đắc dĩ nuốt nước mắt lần theo dấu chân ra xa tận ngoài rừng gặp được, hươu bèn tặng sừng cho dặn rằng:
 “Con mà về lấy giây buộc sừng này mà kéo lê đi. Như sừng mắc vào chỗ nào thì làm ruộng ở chỗ ấy có thể nuôi thân được”.
 Về làm như thế, đến vườn dâu nhà La qủa phụ, bèn xin đất ấy làm ruộng, trồng lúa. Đến mùa thu thì lúa chín, Triệu ra sức thu hái nhưng đến tối lại thấy lúa mọc bông bông như cũ. Lúa tích trữ cao bằng mái, bằng xà không kho nào nhiều bằng, Triệu sức ít kham không nổi. Bỗng đâu có đám thiếu nữ tươi trẻ cười nói đi tới, người mang làn, người mang giỏ xin được vào hái dâu. Triệu nhân nói với các cô gái rằng:
“Ai có thể cắt hết lúa hộ tôi thì tôi nguyện hái dâu cho”.
Trong các cô có người nguyện được cắt lúa, Triệu thay hái dâu. Nhưng đúng là tiên duyên sớm kết, ý trời khiến cho gặp gỡ như thế. Triệu mỗi lần nhìn trộm cô gái trong lòng bồi hồi, tâm trí mê mẩn quên cả hái dâu. Đến chiều các cô gái dần tan về, duy chỉ còn cô gái nguyện cắt lúa thay, cô trách Triệu hái dâu thay mình mà giỏ không đầy lá. Mỗi lần nhìn lại thêm bồi hồi, tức thẹn không biết chốn vào đâu. Lúc bấy giờ ngọc thỏ đã nhô trên đỉnh non đông, về không được nữa cô trách Triệu nguỵ biện, trái lời không hết sức hái dâu đến nỗi khiến cô bỏ mất bạn bè. Triệu đáp:
“Ngày hôm nay sức đã mệt rồi, để mai xin hái cho 10 giỏ để đền cái nợ hôm nay. Nhưng giờ đã tối xin tạm mời về nhà nghỉ đêm”.
Lúc ấy người con gái đẹp ngóng bạn đi cùng đã về hết, gãi đầu trần trừ. Ngó mặt trăng đã ở lưng trời, sương móc ướt áo, bất đắc dĩ theo Triệu về. Nhưng rồi tiên cách cũng hoá trần, gần son rồi sẽ nhuộm thắm, niềm tục khó chằng, hai bên cùng hoà hợp nên duyên đôi lứa. ở cùng nhau được mấy năm, nuôi lớn được hai con, đứa lớn tên là Trần Kiên, đứa nhỏ tên là Trần Quý. Khi con đến tuổi trưởng thành, người con gái đẹp ấy nói với Triệu rằng:
“Thiếp là tiên nữ, cùng chàng chưa hết trần duyên, nay hạn kỳ khiển trách đã mãn, thiếp không dám lưu lại chút nào”, nàng lại vỗ về hai con nói:
“Trong vùng này có khí yêu quái, anh em các con nên hết lòng trừ diệt để cứu sinh dân”, nói xong thì bay lên không đi mất. Triệu cảm duyên kỳ ngộ cũng bỏ vào núi cầu học đạo tiên, không biết là đi đâu. Hai con kêu gào mà không được.
Thế là hai anh em ghi lời dặn, mang kiếm đi khắp trong vùng, đến Sầm Khê thấy hai người con gái hốt hoảng chạy lại. Kiên bảo Quý rằng:
“Ta xem hai người con gái này có vẻ hốt hoảng, tất có việc chi đây, thử hỏi xem”. Quý nói:
“Hai người con gái ấy chẳng qua thấy chúng ta thì khiếp sợ đó thôi làm gì có duyên cớ gì khác để em hỏi xem”. Hai người con gái đến trước mặt, Quý mời hỏi:
“Hai người đi đâu đây, sao lại có dáng điệu kinh hoàng làm vậy”.
Hai người con gái đến trước nói:
“Thiếp là dân nữ vùng này, vì ở động Nham Muộn núi Cù Sơn có con yêu tên là Bà Trằn, hình sắc như tro, vóc gầy như củi, lưỡi dài mấy xích lại có đứa cháu gái giữ cửa động. Cùng ở huyệt Lộng Kiến gần đó có con yêu xà, vẩy sáng như điện, mắt rực như sao, thân dài 50 xích, lại ở xã Xuân Lan (nay đổi tên là xã Xuân An), núi Nham Châm có con quái điểu, hình như diều hâu, lúc bay tiếng kêu như mưa bão, rang cánh rộng như mây che. Ba con quái ấy luôn gây hại, lúc đầu thì ăn vật, hết vật  lại ăn tiếp đến người. Đất vùng này tiêu điều, dân cư li tán là do ba con quái ấy. Hôm nay Bà Trằn đến làng bọn thiếp, vì thế bọn thiếp hoảng hốt mà trốn đi, xin hai chàng đừng đi tiếp phía trước, e sẽ bị nó hại”. Kiên nói:
“Mối lo của các nàng là việc hai anh em chúng tôi đến đây vì dân trừ hại”, rồi bảo hai người con gái ấy chỉ dẫn, tiến đi phía trước . Đến giới phận Cù Sơn thấy Bà Trằn ve vẩy phải trái từ trước thôn đi ra, hai người con gái kinh sợ chỉ bảo rằng:
“Đó là Bà Trằn đấy”.
Trần Quý liền múa kiếm đón chặn đường. Bà Trằn trông thấy liền cười ha hả nói:
“Ta đang đói đây, nhà ngươi là người thôn nào đưa thức ăn đến đây vậy?”.
Lưỡi Bà Trằn thè ra định liếm, Trần Quý tay cầm kiếm vung lên chém trúng vai phải. Bà Trằn duỗi lưỡi ra liếm  máu, vết đao liền lại. Trần Kiên liên tiếp xông đến giết, chỉ hận là quái vật mỗi lần thè lưỡi ra liếm máu trên vết đao thì lại không có thương tích gì. Lúc ấy đang giờ Canh, Bà Trằn liệu trời sắp tối, khí thế suy kiệt, bèn ẩn lui vào trong động. Hai người sức mệt không đuổi theo chống kiếm nghỉ một chút, rồi nối đuôi  đến cửa động, ẩn trong đám cỏ rậm ở bên. Bỗng nghe thấy tiếng trong động vẳng ra, là Bà Trằn và đứa cháu gái đang nói truyện:
“Hôm nay gặp một kình địch, suýt bị nó đánh bại”.
Đứa cháu nói:
“Hôm nay không được đi nữa, nó mà biết lấy đồ ô uế bôi lên kiếm thì thôi đời”.
Hai người nghe biết được, y theo lời mà làm, liền đêm ấy vào thẳng động Nham Muộn giết hết cả. Nhân đà sang luôn huyệt Lộng Kiến, thấy quái xà uốn lượn trong ấy, hai người liến rút kiếm chặt luôn đầu. Lại đến núi Nham Châm. Con quái điểu thấy có người đến, giơ cánh như muốn quật ngã, hai ngưòi múa kiếm chém thẳng đầu. Ba yêu quái đã diệt, nhân dân trong địa phận ấy lại được sống yên như cũ. Từ đó dân nhớ đức, lập miếu xuân thu phụng tự, nơi động huyệt của ba yêu quái ấy đều khắc hình để ghi lại di tích. Hai vị ấy, trải các đời đều có sắc phong tặng, tiến thêm mỹ tự. Đến triều Lê phong Trần Kiên làm Cai Cộng đại vương hạ đẳng thần, phong Trần Quý làm Đống Lân đại vương trung đẳng thần, quốc tế hai mùa xuân thu. Duy ở thôn Đốc Hoằng (nay thuộc địa phận xã Cù Sơn) lập đền thờ Trần Triệu, để bảo hựu nhân dân, hộ  quốc tộ mãi yên, nghìn năm hưởng tế.
Hai đền Đống Lân, Cai Cộng đều ở địa phận xã Vu Tuyền, các triều đều có cúng tế, phong tặng mỹ tự:
Đống Lân diệu linh thông cảm, trợ quốc hiệu linh, phấn dũng ninh biên, thuỳ khánh tứ hỗ, dương liệt hiển linh đại vương.
Cai Cộng linh diệu hiển ứng trợ vũ, anh quả hùng đoán đại vương.
Ôi ! Việc hình người biến hươu, việc kéo sừng mà cùng tiên kết duyên nghe tựa như những lời hoang đường ngoa truyền, nhưng trải xét điển tịch thì việc Tử Cao thành tiên cũng giống như chuyện nhà họ Trần, cũng thể lượng cho không phải là chuyện vu khoát  vậy.

Chuyện về đền Quan Triều
Vào triều Lê Đại Hành, năm Tân tỵ niên hiệu Thiên Phúc thứ 2(981) , có người xứ Thaí Nguyên họ Quan tên Triều, nhà nghèo làm nghề đánh cá. Có đêm đi buông lưới ở khe Quán Triều (nay là xã Quán Triều, xứ Thái Nguyên, gần Quang Vinh, Đồng Mụ) lúc ấy đương là đêm rằm, trăng sáng như ban ngày. Bỗng vẳng nghe bên bờ có tiếng đàn sáo, bèn buộc bè leo lên, trộm bò đến nơi, thấy giữa cỏ có tiệc rượu, một người ngồi ngay ngắn ở trên, dưới có mấy người đang ca múa. Một lát có người trong tiệc ra mời vào. Người đánh cá nói:
“Tôi là người đánh cá nơi thôn xóm, đâu dám nhận thịnh tình này, lại thêm áo quần lam lũ, thiếu vẻ cung kính lễ độ, xin hãy để tôi tránh đi”.
Người kia liền cởi áo đưa cho, người đánh cá còn từ chối ba lần rồi mới lấy áo mặc, cùng vào tiệc. Người đánh cá mới thi lễ  xong, chuyển chén được một lượt thì xướng ca liền nghỉ, những người trên tiệc loá mắt cái đã biến thành ảo ảnh, không thấy tông tích. Lúc ấy mới hay là người cõi thần tiên. Người đánh cá mặc áo ấy về nhà, đi qua thôn xóm, chó không sủa, về đến trong nhà vợ con cũng không biết là về, đến lúc cởi áo ra mới biết là về. Người đánh cá mừng thầm là áo thần. Từ đó về sau mặc áo ấy đi ăn trộm mà không hề lộ, phàm những thứ tiền bạc vàng lụa lấy được trong kho đều đem cho những người khốn khó, hào hiệp mà trong nhà không để một chút dư, cũng chẳng để làm giàu cho vợ con. Thế nên những người hào hiệp hàm ơn rất nhiều mà ngóng về theo kể đến hàng vạn.
Từ lúc ấy áo thần mặc thường xuyên, chẳng may sơ ý để rách một lỗ nhỏ, người đánh cá lấy lụa trắng vá vào. Sau, lúc vào kho ăn trộm, lính giữ kho cứ trông thấy một cánh bướm trắng bay vào trong kho rồi lại bay ra là của trong kho bị mất. Người giữ kho đem việc trình bày với quan hữu ti, bèn truyền lệnh cho lính coi kho từ nay về sau thấy bướm ấy bay đến thì giăng lưới bốn bên mà bắt. Quả nhiên bắt được, hoá ra là người đánh cá. Quan hữu ti đem việc tâu lên, trên lệnh chỉ sai đình thần nghị tội. Lúc ấy đúng lúc người nước Tống xâm lấn biên giới nước Nam ta, thế quân cực mạnh, mà các tướng chống giặc lần lượt chẳng có công gì tâu báo, trên dưới đều sợ hãi. Người đánh cá liền tâu xin đi đánh giặc lập công để chuộc tội của mình, vua chuẩn theo lời xin, phong làm Hộ quốc tướng quân. Người đánh cá trở về quê cũ, chiêu mộ những kẻ hào hiệp được chu cấp thửa trước. Tất cả đến ứng mộ kể đến hàng vạn. Người đánh cá mặc thần y xông vào trong trận như vào chỗ không người, tung hoành giết giặc như cắt bụi cỏ. Những người theo cảm nghĩa, đều nguyện lòng chết báo đáp, không ai là không một mình mà đương được cả trăm người. Trong khoảng một tháng, quân Tống lui hết cả, không còn dám nhòm ngó hy vọng gì ở đất Nam.
Thu lại bờ cõi, người đánh cá lập được đại công. Vua Đại Hành ban cho được lấy công chúa Hồng Liên, phong Phò mã Hộ quốc công, được ăn lộc từ phủ Phú Bình xứ Thái Nguyên (xưa là đạo Ninh Sóc) đến tận phủ Bắc Bình (nay là phủ Cao Bằng). Sau khi mất, cùng Công chúa được truy phong Đại vương, có đền ở xã Quán Triều xứ Thái Nguyên, cũng có đền ở cả xã Xuân Lĩnh xứ Cao Bằng, trải nhiều năm rất là linh ứng giúp dân. Các triều đều gia phong mỹ tự, cùng lấy duệ hiệu Quan Triều Hồng Liên, quốc tế xuân thu, phong trung đẳng thần (lúc đầu là xã Xuân Lĩnh, sau là dân xã Tân Trại phụng thờ):
Quan Triều Hồng Liên công chúa, thông diệu linh cảm, trợ quốc trấn biên, hoài phục tuy tĩnh, dương hưu trợ thắng, phong công vĩ liệt đại vương.
Chuông đền Quan Triều cao 4 xích 5 thốn 6 phân, chu vi 8 xích 9 thốn(nguyên đền có hai quả hồng chung, nay chỉ còn một, lại một quả tự chuyển xuống sông, sự thể xem ở Thần Chung Lục).
Ôi trời ban cho nước là vì có đức với muôn dân, thế nên hưng phế thịnh suy, trị loạn, tai tường không gì không theo thời thế mà xảy đến. Vậy nên đức của vua nhà Đinh  ngày một suy mà mệnh sáng của vua nhà Lê thì lại còn. Đó là điều có vua mở vận, ứng sao sinh người hiền trợ giúp, khiến trừ hết thói phỉ bạc mà vun đắp cái đẹp nhân hậu, ắt khiến người nơi thôn vắng được yên ổn, kẻ sĩ trung cần được nhờ đức đến vô cùng. Tuy là người đánh cá ở nơi hoang sơ cũng đủ để lên được bậc hiền mà hưởng cúng tế muôn đời, há chẳng phải trời giúp người hiền đến thế ư ?
Chuyện đền Thanh Trung
Năm Giáp dần niên hiệu Long Đức thứ 3 (1734) triều Lê, chỉ chuẩn cho Khoái Trạch bá Nguyễn Đình Bá, người Bình Dân phủ Khoái châu làm Đốc đồng Cao Bằng, chính thể rất liêm bình. Lúc ấy trong hạt đồ giặc nổi lên bốn bề, ông được lệnh chỉ thăng tước hầu cho làm Đốc trấn. Năm Quý hợi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 4(1743), giặc Hoàng Xỉ ở phủ Thông Hoá, xứ Thái Nguyên nổi lên, lệnh chỉ mệnh quan binh đốc tướng của bản xứ cùng Tuần Quận công tiến thảo, dẹp giặc Thái Nguyên Hoàng Xỉ ở Khâu Dậu.
Mùa hè tháng 5, quân của Đốc trấn Khoái Trạch hầu đóng tại Vi Hoa, thì mất ở trong quân.  Quan quân đem linh cữu về trấn, dân trong châu cảm đức chính nhân hoá, đều xin lên triều đình sắc phong Đại vương, dựng miếu Thanh Trung ở bên phải trấn sở. Các triều đều gia phong mỹ tự, quốc tế xuân thu, phong trung đẳng thần (nguyên bản xứ cùng thờ phụng, đến khi con của Đốc trấn là Nguyễn Lạc Thiện trúng tiến sĩ làm Đốc đồng ở Cao Bằng, trấn ấy cho dân xã Kim Giáp phụng sự ).
Sắc tứ Đinh mùi khoa (1727) Tiến sĩ, phụng sai Cao Bằng đốc trấn, Hàn lâm viện thừa chỉ Khoái Trạch Hầu, tặng ngự sử đài kiêm đô ngự sử. Sắc phong Thanh Trung Hoằng Nghị Thông Minh Chính Trực Khoan Dụ đại vương.[1]
Ôi, Trời sinh ra muôn dân, dựng lên một bậc vua, sở dĩ là để lập người có trách nhiệm đứng giữa trời đất, để thể đức chính ở trên mà chăn nuôi muôn dân, có thể tạo cảnh phồn hoa nơi khô hoang, nuôi no đủ kẻ đói gầy. Liêm minh được như sự liêm minh của Khoái Trạch hầu, đáng khen là theo được kẻ lại tốt đời cổ, ngóng mây hợp mà ngẩng cao đầu, vượt dòng sâu mà có thể lập tiếng tăm hiếm thấy, lừng lẫy ở đời. Như Khoái Trạch hầu lâm trận lui giặc, lấy thân báo quốc, thế nên hưởng cúng tế đến vô cùng. Có đáng chăng?
Ôi, cái đức kẻ làm quan không gì lớn bằng liêm minh. Khoái Trạch hầu thi chính nơi trấn sở, bọn hối hoá tranh tụng mắt chẳng dám trông thẳng. Nghiêm phép dẹp gian tà, trừ giặc ngoài cho dân chẳng phải là như ý nhổ cỏ giết cầm, mà là việc tất phải làm nên dân đội ơn. Đến lúc dẫn quân dẹp giặc ở Thái Nguyên, mất ở trong quân doanh, dân lấy đấy mà cảm huệ cùng tấu đến triều đình, xuân thu hưởng tế. Làm quan nơi trấn nhậm duy có Khoái Trạch hầu là bậc hiền.
Chuyện đền ở Giang Châu
Năm Đinh mùi niên hiệu Lê Cảnh Trị thứ 5 (1667) (Hãy còn nhà Mạc niên hiệu Thuận Đức năm thứ 14- 1667), có người ở xã Đồng Kiêu, châu Hạ Lang là Phù Thắng, Phù Thiết đời đời làm tù trưởng ở châu này. Đến khi họ Mạc chiếm cứ Cao Bằng, nghe tiếng tăm muốn dùng làm tướng, cùng từ chối không chịu ra. Họ Mạc thấy Phù Thắng không chịu nhận chức, liền giết cả tộc. Phù Thiết miễn cưỡng phải theo, nhà Mạc cho giữ chức Tiết chế thống lĩnh binh đồn ở đất ngự biên. Phù Thiết tên gọi là Đồn Nhuệ, cư xử với dân hoà mục, tuy làm tôi nhà Mạc mà lòng vẫn theo về đường chính, chán ghét bè đảng họ Mạc, thương có lòng phẫn uất. Được hai năm thì hợp quân giữ chỗ hiểm không theo họ Mạc nữa lòng rất sắt đá. Sau do đứa hầu hai lòng, dẫn giặc vào đồn, bị quân Mạc bắt giải về thành Cao Bằng mà chí vẫn không khuất, giả vờ xin lính canh cho đi cầu ở bến sông rồi nhảy xuống sông tự vẫn (nay là Vực Mây xã Vu Tuyền), anh linh còn mãi không mất, hiển ứng hộ quốc khang dân.
Khoảng năm Giáp thìn(1724), vua Lê mệnh sai quân tiễu trừ giặc Mạc, họ Mạc chốn chạy. Quân vua đóng ở thành Cao Bằng, ông hiển hiện để giúp quân, trông thấy rõ ràng, tên thần ứng nghiệm. Lúc ấy nhân dân chép lại sự việc tâu lên, sắc phong làm Giang Châu tiết chế đại vương, đền ở địa phận xã Vu Tuyền, quốc tế hai mùa xuân thu, phong hạ đẳng thần, các triều gia phong mỹ tự (lấy dân xã Vu Tuyền làm dân coi thờ tự).
Sắc phong Giang Châu tiết chế, linh ứng địch nghị, tĩnh biên linh thông hiển ứng đại vương.
Phù Thiết tức tên Đồn Nhuệ, giữ lòng theo chính như sắt đá không dời, như trụ thạch giữa sông bị sóng lay mà không động, có thể gọi là trí lượng tuyệt luân. Kinh Dịch nói: Đi trên sương mỏng như dẫm lên băng cứng, làm tướng phải phòng việc từ lúc chưa xảy ra, có thể không cẩn thận từ lúc mới bắt đầu hay sao? Nhưng sơ suất việc kiềm chế kẻ dưới, rốt cục bị bại bởi tay đứa hầu. Tiếc thay!
Nhưng chết rồi vẫn không tan, anh linh như còn, trợ giúp chúng dân. Đến khi quân vua trừ họ Mạc lại ứng hiện hiển linh, nổi uy phong cho thế quân thêm mạnh, hướng tiến không gì cản trước được, hùng nghị như thấy rõ, thế nên hưởng cúng tế đến vô cùng, thực đủ để nối anh khí dài mãi .
Chuyện đền Kỳ  Lạch
Năm Mậu ngọ niên hiệu Chính Hoà thứ 3 (1682) triều Lê, có người xã Miên Dã châu Thạch Lâm, họ Trần (khuyết danh), tính tình khẳng khái, mưu lược. Lúc họ Mạc chiếm cứ Cao Bằng, thì ẩn danh không ra làm quan. Đến khi nghe quân vua lên tiễu trừ họ Mạc, Trần công đến trước quân xin chịu sai khiến, nguyện làm tiên phong đánh giặc. Trên khen là có khí dũng, chuẩn cho làm tiên phong. Trần công dẫn mấy trăm quân, xông lên trước các tướng sĩ, hướng tiến không gì cản trước được. Đuổi họ Mạc đến tận biên ải, bắt đảng họ Mạc, lại còn truy vết những nơi theo giặc. Tuy nhiên giặc cùng đường quay lại phản kích, trong trận ông hy sinh. Sắc thưởng phong Đại vương, đền ở xã Xuân Lĩnh do dân phụng sự, quốc tế hai mùa Xuân thu, trải các triều đều phong mỹ tự, làm hạ đẳng thần.
Sắc phong Kỳ Lạch hùng nghị phấn lực, hiệu linh dương vũ, hiển công đại vương.
Ôi, Trần công tiết liệt chống lại không theo họ Mạc, vốn cái chí ấy không nhỏ. Đến khi đến trước quân chịu sai khiến, dẫn quân lên trước phá họ Mạc, hướng tiến không ai cản được, nhưng biết được phương hướng mà tiến mới xứng là kẻ sĩ mưu trí. Nhưng ôm lòng vì nước, tấc trung thành trấn động cả vầng nhật tôn nghiêm, mà được quốc gia ban thịnh điển, há chẳng hùng vĩ sao?  
Chuyện đền Sóc Hồng
Năm Quý tỵ niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ 5 triều Lý (1053), có người châu Quảng Nguyên họ Nùng tên là Trí Viễn, tính người cương nghị chính trực, là chú của Nùng Trí Cao. Khi Nùng Trí Cao xưng đế, đánh vào nước Tống, Trí Viễn cũng dẫn quân theo chinh phạt, hành quân tiết độ, tiến lui có phép. Lúc Trí Cao thua ở Đại Lý (nay là đất Vân Nam), quân của Viễn đang ở phía sau, nhưng quân Tống thế lớn, quân tan tác cả, ông theo đường nhỏ chạy qua tỉnh Quý Châu đến Sái Thành vào chiếm cứ đất Sóc Hồng ( đất Sóc Hồng phủ Tứ Thành Quảng Tây là địa phận phủ Cao Bằng) . Quân Vân Nam đuổi kịp bao vây, tình thế rất bức, ông phấn sức phá vây cưỡi ngựa lên ngọn Ba Đăng sơn, thế rất hiểm, ngựa sa chân, rơi xuống chết. Về sau ở chỗ ấy rất là linh ứng, người vật đều được nhờ. Dân cư nơi ây đem việc tâu lên, triều Lý sắc phong làm Đại vương, đền ở xã Sóc Hồng, quốc tế hai mùa Xuân thu, các triều gia phông mỹ tự, phong thượng đẳng thần.
Sắc phong Sóc Hồng linh thánh cương nghị, hùng lược anh đoán, hiển linh thủ vũ, hiển thông linh ứng đại vương.
Ôi, Trí Viễn theo viễn chinh đất Tống, lúc thu quân về đóng ở Sóc Hồng, sức xông vây phá trận thực phong khí kiêu hùng rõ ràng như là nhìn thấy được, thực một bậc tướng tài can thành. Nhưng khi ở trên trời cũng hiển linh, lại có thể hộ quốc yên dân, báo điềm cho biết trước thì hưởng điển cúng tế là rõ ràng vậy.
Chuyện đền Lũng Định
Năm Giáp ngọ niên hiệu Long Thuỵ Thái Bình năm đầu triều Lý(1054), có người xã Lũng Định châu Thượng Lang, họ Hoàng tên Lục, sức khoẻ hơn người, đối đãi với mọi người khoan hoà nhân hậu, nhiều người theo quy thuận. Ông cũng có chí hướng, theo làm lớn như Trí Cao. Khi quân Tống truy đuổi Trí Cao, làm càn sang biên giới nước ta, ông ngầm nuôi chí mở rộng biên cương, nắm thời cơ giặc từ xa đến có thể thừa thế dĩ dật đãi lao. Ông bèn đôn đốc đinh tráng hơn ngìn người, đặt phục binh ở Khiếu Thang, đánh bại quân Tống, lúc trở về lại được đất của tám châu ven biên theo giá hoá xin hàng phục, bền đem hết sổ sách về quy phụ bản đồ nhà Lý, được phong làm An Biên tướng quân, dẫn quân phòng thủ vùng biên giới để làm kế tằm ăn rỗi dần đất Tống. Quy phụ triều Lý, được nhà Lý ban cho tước vị cao hậu mà lòng ông không tự mãn, chỉ chăm luyện sĩ tốt, dâng biểu xin nhà Lý cử đại binh. Lúc công phá Ung châu, không có viện binh trước sau đều thụ địch, ông xông xáo đánh phá trong trận, bị quân Tống làm hại, quân Tống thu lại đất cũ. Triều Lý truy phong làm Đại vương, đền ở xã Lũng Định, quốc tế hai mùa xuân thu, trải các triều đều gia phong mỹ tự làm Hạ đẳng thần.
Sắc phong An biên tướng quân, linh ứng uy liệt, ngự biên tứ huống phu hưu Hoàng Lục đại vương.
Ôi, Hoàng Lục dũng lược hơn người, có chí khai thác mở rộng cương thổ, đánh Tống thu lại đất cũ mà cùng quy phục nhà Lý, có thể thấy ông lòng trung rạng cùng vầng nhật. Được đặc ban thịnh điển là để biểu tỏ công lao đó vậy.
Cao Bằng thực lục
Thứ hai, các truyện kỳ lạ
Truyện về sông Hiến Giang
Năm Giáp ngọ niên hiệu Quang Hưng thời Lê (1594), có người xã trưởng thôn Phù Vạn xã Kim Pha châu Thạch Lâm tên Nùng Công Kim, có người con gái tên là Thị Quyền. Tuổi vừa cập kê, dựng nhà bên bờ sông Hiến Giang, nhà sát mép nước, bờ bên kia là núi Hiến Sơn, đá núi khấp khểnh, ở quãng giữa nghe nói có Giao long ở đó. Có một hôm vợ chồng Công Kim đi sang nhà chú bên Phù Vạn, duy chỉ có Thị Quyền trông nhà, một mình ngồi dệt cửi. Chính lúc vừa buông tay thoi, là lúc mặt trời đã muộn, bỗng thấy một chàng trai mặt mũi khôi ngô, thong thả từ ngoài đi vào, đến trước khung cửi ôm lấy lưng người con gái, người con gái kinh hãi hét to lên, người con trai đột nhiên hoá ra hình giao long cuốn lấy thân cô gái kéo xuống nước đi mất. Lúc bấy giờ ngưòi con gái hôn mê, tay hãy còn nắm lấy thoi có sợi liền với mảnh lụa trên khung. Đến chiều cha mẹ về nhà, cửa hãy còn mở, chẳng thấy con gái đâu khóc lóc kêu gọi, gục xuống đất, được một lát tỉnh lại, nhìn khắp trong nhà thấy sợi tơ trên khung dẫn thẳng ra ngoài bờ sông. Công Kim cởi áo nín thở lặn xuống nước theo sợi dây mà xuống, thấy một lỗ đá, trên có một cái hang, nghĩ có thể mang được cả đao, bèn men đá mà lên, đi vào miệng hang. Thấy ánh sáng từ trong thấu ra, lâu đài điện gác, có cả quân lính đứng giữ cửa. Công Kim đến trước cửa hỏi
“Đây là phủ đệ của quan viên nào ?”, lính canh đáp:
“Là Thuỷ phủ Lĩnh Nam, ngươi là ai dám đường đột đến đây?”
Công Kim nói: “có một việc xin thưa, nhờ quan chuyền đạt dùm”. Tên quân ấy nói:
“Ngươi đứng đây chờ ta vào tấu lên”. Công Kim đáp: “Vâng”
Tên quân ấy đi vào, chốc lát thấy một viên quan mặc áo hồng bào, đội mũ sa đi ra hỏi:
“Nhà ngươi ở xứ nào, đến đây làm gì, họ tên gì ?”
Công Kim đáp: “Thân là người trên dương thế, họ Nùng tên Công Kim, có người con gái ở nhà dệt lụa, bỗng đâu thấy tiểu quan đột nhập vào nhà, cưỡng ép kéo đi xuống thuỷ cung. Thân người mang theo cả sợi lụa đến thẳng chỗ này, xin người soi xét cho”
Viên quan ấy ngạc nhiên, tức tối đáp:
“Nhà ngươi là kẻ ngu si trên dương thế, điêu toa giá hoạ, chủ ta đường đường ở ngôi lớn trấn giữ phương bắc, há lại vô cớ mà đoạt con gái người khác hay sao. Giới hạn hau bên tuy khác nhau nhưng lý lẽ chỉ duy có một, ngươi không được nói càn mà tự mắc vào lưới pháp. Ta thương cho ngươi tiểu dân không biết gì, ra ơn mà chỉ bảo cho, mau rời khỏ đây chớ có chậm trễ”. Công Kim tức giận, không giải được khúc mắc kêu ầm lên:
“Cưỡng đoạt con gái nhà người, lại gian dối che dấu!”.
Tên quan kia liền sai 5 tên lính canh cửa trói đưa ra khỏi động. Công Kim quay lại thấy cửa động đã đóng, liền lên khỏi mặt nước, về nhà buồn rầu, tự liệu rằng không dùng hoả công làm sao giải toả được mối giận này. Tức thì chuẩn bị lưu hoàng, đồ hoả khí đặt đầy ống trúc, lấy sáp ong bọc chung quanh. Lại ngầm lặn xuống, đến ngoài cửa động đánh lửa phun vào cửa nghi môn đốt đến tận lâu đài. Công Kim lập tức chuyển lên khỏi mặt nước, trở về nhìn đoạn cắt mặt sông Hiến Giang  lửa bốc, khí bay lên trên cả mặt đất, cây cỏ khô cháy, chỗ ấy khí nóng bức, người không thể đến gần, lửa cháy liền ba tháng mới dứt, núi sụt sâu xuống 5 trượng mà khí lửa hãy còn mạnh. Trai gái trong vùng truyền nhau cùng đến xem, quan trấn sở cùng các quan liêu thuộc cũng thân hành đến điều tra nguyên do, truyền tụng đi xa coi là chuyện lạ. Người thời bấy giờ nói: Cỏ sinh trên đất mà lửa ở dưới ấy là điềm tốt.
Ôi, người là loài khác, giao long là loài trùng khác, không phải là cùng khí tương cầu há có thể cùng kết đôi giao cấu. Xét loài rắn có thói dâm tà là do bản tính khiến cho như thế, nhưng sào huyệt của nó chỉ trong nháy mắt thiêu hết sạch thì loài giao long mắc phải hoạ bị thui đầu cháy vảy, thương thay không biết hối cải, nên kẻ chịu oan khuất  muốn đốt sừng tê mà đến long cung xin mệnh, hận không mượn được lưỡi gươm Xích Đế để diệt loài quỷ, sửa cái tội cưỡng đoạt, thì loài giao trùng kia chẳng thoát được tội.
Chuyện Tiên Giao
Năm Tân Sửu niên hiệu Hoằng Định thứ 2 triều Lê (1601)(năm Mạc nguỵ tiếm hiệu là Càn Thống năm đầu-1601). Họ Mạc dựng đô ở đất Vu Tuyền, Cao Bằng, xây dựng cung điện. Có người ở xã Tiên Giao châu Thạch Lâm, tên là Đô Dũng làm thị vệ cho nhà Mạc giữ Du binh, xin nghỉ phép về nhà chịu tang. Rằm tháng 5 ngày Canh tí, cùng 2 tuỳ tòng lên thuyền độc mộc đi đến chỗ hoang vắng, địa phận xã Xuân Quang, ngày muộn buộc thuyền bên vách đá, nấu cơm ăn, lúc ấy mới đầu canh. Theo lối đi vào trong hang, sâu khoảng hai trượng, bên vách đá có một lỗ lớn, nước biếc lăn tăn, Đô Dũng thích cảnh nước trong khiết, ngồi bên mép, bỗng đâu nghe thấy tiếng người bên ngoài vọng vào nghe như tiếng điểm quân. Lại nghe thấy tiếng vọng vào nói:
“Lăng Khâu ở Tiên Giao thiếu mất 3 người (ở địa phận xã Tiên Giao, bên núi Thạch Lĩnh có mạch nước phun ra thành giếng lớn rất sâu, tục gọi là Lăng Khâu), sai tróc nã để trị tội”
Lại nghe tuyên đọc tên Hoàng Quỳnh, có tiếng người đáp “có”, tiếp vài lần lại có người đáp “có”. Đến lần thứ 5 hô đúng tên Đô Dũng, phía dưới có người hô “có”. Đấy là do Đô Dũng ở trong hang nghe gọi đến tên mình thì tủm tỉm cười cất lời đáp “có”. Từ đó tiếng điểm quân từ trong động phát ra, thứ tự lần lượt đáp không dứt, đến lúc hơi gần sáng, nước trong lỗ trấn động, Đô Dũng hốt hoảng lui ra chỗ nấu cơm. Lúc ấy mặt trăng sáng như ban ngày, lúc đầu thấy hai con giao lớn, đầu to mấy xích, trên đỉnh đều có mào sợi hồng, ngóc đầu trườn đi, từ cổ trở xuống dưới đều có vảy hồng nhạt, lưng như phủ gấm xanh, to khoảng ba xích, dài hơn hai trượng từ lỗ trong hang bò ra mép nước, kế sau có những con giao nhỏ cứ xếp thành hàng 5 mà đi, to khoảng một vòng, giữa thỉnh thoảng có con giao lớn đi xen nối đuôi nhau đi không dứt, nhiều vô kể. Từ lúc tờ mờ đến khi mặt trời lên đã ba sào mới thôi. Đô Dũng và hai người đi theo nấp ở bên nhìn trộm thấy hết, ở gần chỗ giao long đi qua khoảng một trượng mà sắc mặt sợ sệt không dám động đậy. Bỗng thấy hai đại hán cầm kiếm sắc, một người lưng mang mai rùa, một người mang hình tôm, còn mắt mũi hình trạng thì như người không khác, đi thẳng đến chỗ Đô Dũng nấp. Người lưng rùa tay trái cầm kiếm, tay phải túm tóc Đô Dũng kéo đi, người hình tôm đi đằng sau kèm Đô Dũng đi thẳng xuống hố ấy. Đến bên ngoài cửa Đại nghi môn, hai người trình báo lính canh cửa:
“Nay vâng lệnh trên đã bắt được dương phạm về đây hầu chỉ”.
Lính canh một người bước nhanh vào bẩm. Chờ không lâu, ở bên trong có một người đi ra truyền:
“Ai bắt được dương phạm mau dẫn lên đại đường”. Hai người nghe liền dạ, dắt Đô Dũng đến quỳ ở dưới đường. Có người mặc thanh bào, đội triều mạo đã ngồi ở bên nói:
“Ta vâng chỉ thẩm vấn, ngươi có phải là Đô Dũng chăng ?”
Đô Dũng đáp: “Phải”. Viên quan ấy hỏi:
“Ngươi ở dương thế làm việc gì ?”
Đô Dũng khấu đáp:
“Thân tôi được sung chức thị vệ, coi Du binh”.
Viên quan ấy hỏi:
“Ngươi đã theo nghiệp binh, sao không biết lễ số điểm binh, làm việc trái phép, lên giọng đùa cợt đáp bừa là có, đáng khép trọng tội”
Đô Dũng dập đầu nói:
“Thân này theo trong quân ngũ cũng thô thiển biết chút điển chế chẳng dám trái. Đêm qua nghe nhầm tiếng điểm quân đến cái tên hèn mọn này, như nếu không đáp có, lại sợ trái với phép quân. Chẳng ngờ tên họ trùng nhau, nay trách tội đáp bừa, lỗi này của mình khiển trách không dám trốn tránh, nhưng ngưỡng xin thương cho kẻ ngu, khoan thứ tội lỗi thì đội ơn đức vô cùng”.
Vị quan ấy ngồi trầm ngâm hồi lâu rồi nói:
“Nay tha cho nhà ngươi dân mọn ngu tối, từ sau chớ có được khinh nhờn, vả dương gian và thuỷ phủ giới hạn tuy sai biệt nhưng lý lẽ thì cũng là một, không được hài hước đùa bỡn mà mắc vào lưới pháp”
Đô Dũng khấu đầu tạ rằng:
“ Đội ơn sóng cả đức dày, khiến cho có vẩy lại được bơi nhảy, thực không dám traí nữa”.
Vị quan ấy bảo: “Tha cho ngươi về, để ta làm tấu tâu lên tự cứu được ngươi khỏi cái nạn cá mắc trong ao này”. Nhân đó kêu hai tên tốt đưa Đô Dũng ra khỏi mặt nước. Trên đường đi Đô Dũng hỏi hai tên tốt:
“Đó là vị quan nào vậy ?”
Tên rùa đáp: “Đó là Phán quan bộ Binh”
Lại hỏi: “Đêm trước hành quân vì việc gì vậy”
Tên tôm đáp: “Là đi tiễu trừ giặc cỏ ở Long Châu” (thuộc phủ Thái Bình tỉnh Quảng Tây. Nước ở đây chảy tự trấn thành Cao Bằng qua Nham Dã đến thuỷ quan ở Long Châu chảy xuống).
Trong chốc lát đã đến cửa hang, Đô Dũng bái tạ, hai tên tốt quay về thuỷ cung. Đô Dũng về chỗ đốt lửa lúc trước, thấy hai kẻ đi theo vẫn ở đấy hốt hoảng biến sắc, Đô Dũng lần lượt kể hết đầu đuôi sự việc, rồi nhổ thuyền lên thẳng Cao Bằng cho kịp việc. Nhân chép lại việc này để làm tích kể lại.
Ôi, một lời nói ra mà đúng chỗ như vẽ chó non mới mọc lông mà thành hình tượng như  hổ bay, một lời nói ra không đúng chỗ thì như khắc gỗ hình thiên nga mà ra hình loài vịt. Đô Dũng một buổi gặp lúc thuỷ cung điểm binh, nghe gọi tên người trùng tên mình, phát lời đáp có, rút cục bị bắt đi thẩm tra. May mà thuỷ phủ dương sóng đức cao cả mà Đô Dũng được gội ơn, không thì gặp hoạ rồng đói, hổ ăn, uổng thân trầm luân nơi bụng biển, sao biết được ánh sáng của cầu vồng nữa, cũng không phải có thể dùng lời nói xảo trá để cầu thoát tai nạn mà tự bảo vệ mình được, chẳng qua chỉ là may mắn và không may mắn mà thôi.
Chuyện cũ về Khắc Thiệu.
Năm Tân hợi niên hiệu Thuận Thiên thứ 5 thời Lê Thái Tổ (1014), có người châu Thái Nguyên phủ Bắc Bình (nay thuộc phủ Cao Bằng) họ Bế tên Khắc Thiệu, theo Thái tổ có công bình giặc Minh, được tứ phong Quản lĩnh châu Thái Nguyên được làm thực ấp. Lúc ấy trong châu có người tên là Nùng Đắc Thái, đeo cung nỏ theo nghề săn bắn. Một hôm đi ở trong núi gặp mưa, chạy vội vào trong hang để tránh, chốc lát mưa tạnh mới lại đi, đương phía trước bỗng gặp một người đi lại Đắc Thái đón hỏi từ nơi nào đến. Người ấy đáp: “Đi săn”, Đắc Thái mừng lắm bèn cùng đi đến dưới gốc cây bái chào chia ngôi thứ ngồi nói chuyện. Cả hai cùng bàn về phép bắn, Đắc Thái nói: “Nỏ của đệ đã yếu mất rồi bắn không được xa”. Người kia nói: “Ta tặng cho người tương tri cái nỏ bắn này”, rồi truyền cho Đắc Thái một cái nỏ đồng, một cái tên đồng, đầu tên làm bằng răng sói, đuôi tên làm bằng lông hạc trắng. Đắc Thái được nỏ và tên, khấu tạ nói: “Đội ơn ban tặng, công đức thật thâm sâu”. Người kia đáp: “Cùng ngươi giải cấu tương phùng, trong lòng yêu mến tặng cho, vật ấy nhỏ mọn đâu đáng để bái tạ như thế”. Đắc Thái xin hỏi họ tên cùng nơi ở tại chốn nào, người ấy bảo: “ở đây cũng không xa, về sau ắt có kỳ gặp mặt chẳng cần hỏi nhiều”, rồi đứng dậy nhẹ nhàng mà đi, Đắc Thái đi theo tiễn, người ấy chuyển mình đi vào góc núi, chẳng thấy đâu nữa, lúc ấy mới biết là thần tiên. Khi đó mặt trời đã về tây, Đắc Thái quay về nhà, sáng hôm sau dương nỏ ra bắn thử thì một mũi biến thành trăm mũi, lúc bắn ra sai lại có thể thu lại tên thần, từ đó về sau trăm phát trúng cả trăm. Khắc Thiệu nghe tiếng Đắc Thái có thần nỏ, đem lễ vật đến cầu, phong làm Vũ Kình tướng quân, âm mưu làm phản, trao binh quyền cho Vũ Kình. Được hơn một năm, Vũ Kình cậy có nỏ thần lại sinh lòng gian khác, mưu đồ chiếm đoạt. Khắc Thiệu trộm biết được ý ấy, ngầm sai em đầu độc giết đi, lấy được nỏ đồng cùng tên, lấy bắn nhưng tên chỉ bay ngang mà không trúng.
Năm Nhâm tí niên hiệu Thuận Thiên thứ 6 (1015), Lê Cao hoàng đế tự đem quân đi dẹp, bắt được Khắc Thiệu đem về. Nay vết cũ phủ điện của Khắc Thiệu hãy còn ở địa phận xã Cối Khê châu Thạch Lâm, nhân đó đặt tên núi ở đó là Khắc Thiệu sơn.
Lê hoàng đế có một bài thơ ngự chế khắc vào đá trên núi Ba Điềm để ghi công (nay nét hãy còn rõ, chữ khắc núi ở tại địa phận xã Phúc Sơn). Thơ rằng (bên cạnh thơ khắc có khắc chữ: Phiên Thần Thái Nguyên là Bồi Quyết phụng giám):
Chẳng từ muôn dặm chỉnh cơ đồ,
Chỉ mong biên viễn dân đủ no.
Trời đất không dung quân gian ở,
Xưa nay phản tặc chỉ diệt chu.
Hiếu trung tự khắc thêm nhiều phúc,
Bạo nghịch thân kia khó thoát cho.
Mài dũa chẳng mòn thần tử tiết,
Cô sơn muôn thủa với danh lưu.
          Ôi, một chút không đụng (đến búa rìu) mà (phải có lúc) dùng đến búa rìu thì không chỗ nào là (chỗ) không phải dùng. Đến như việc giúp mưu cho người khác, có chỗ còn không được hết lòng để tròn đạo trời là sao ?. Lúc ấy Nam Bắc do quan lại nhà Minh chiếm đóng, nhưng mệnh trời còn cho có nước Nam nên Lê Cao hoàng đế mới phất kiếm dẹp giặc Minh, mở mang đất nước. Bế Khắc Thiệu theo xa giá có công lao, sắc phong quản lĩnh châu Thái Nguyên làm đất thực ấp, công lao được ghi vào trúc lụa, như thế là tước vị thăng, ơn huệ nhiều rồi. Như còn có chí dắt trâu vàng, lấy cái vinh bắn chim sẻ nữa, thế chẳng phải tốt đẹp lắm sao ?, nhưng lại sính dùng nỏ thần của Đắc Thái làm thế mạnh mà tự kiêu, vội biến hình da báo mà bỏ mệnh bề tôi, chẳng lượng rõ cái đức của mình. Thế thì sao gọi là người khoát đạt, sao gọi là bậc thần vũ, chỉ là cái lượng hẹp hòi của con ếch ngồi trong giếng mà ôm cái lòng muốn dời đỉnh đó thôi. Cuối cùng cũng là điềm tiếng sấm vang động chốn bùn lầy, làm ô danh cả nghìn năm. Kinh Thi có câu:
Người mà vô lương,
Không chết còn đợi gì ?
Là nói chuyện này đây chăng ? .
          Chuyện chuông thần.
          Xưa ở thôn Đà Quận, xã Xuân Lĩnh, châu Thạch Lâm có đền thờ Quan Triều- Hồng Liên Công chúa, sừng sững cùng chùa Viên Minh (dựng thời Mạc). Trong đền có hai quả hồng chung, đặt ở trên gác hai bên phải trái. Chuông cao 4 xích, 5 thốn, 6 phân, chu vi 8 xích, 9 thốn, nặng hơn nghìn. Mỗi lần vào ngày tế hai mùa xuân thu thì đánh, tiếng như sấm gầm vang cả trăm dặm. Phí bên phải chùa tiếp sông lớn, giữa dòng có mạch sâu, tương truyền là huyệt của loài giao long ở đó. Sư chùa Viên Minh sớm tối coi giữ, thường dâng hương ở đền. Hôm canh 5 ngày rằm, vị tăng trưởng dậy, thắp hương ở chùa xong lại sang dâng hương bên đền, đi bộ qua chỗ gác chuông, bỗng thấy gác chuông bên phải chùa chuông còn bán rong xanh, thân chuông ướt nước. Thấy việc lạ liền ngầm phục để xem. Lúc mọi vật đã yên, chuông ở gác bên phải tự di dời xuống khỏi giá, miệng chuông úp đất, tự chạy xuống nước, vị sư liền ngầm đi theo đến bên bờ sông. Lúc ấy mặt trăng rõ như ban ngày, thấy giao trùng cuốn lấy thân chuông lúc chìm lúc nổi, nước sông trào lên như cái đỉnh, lại nghe thấy tiếng trùng rít, khoảng  hai giờ sau chuông động kêu âm âm tự lên, như có ý khoe mạnh tự lên gác. Đêm nào cũng như thế, từ đó vị tăng trưởng thiết hương án, ngày ngày lễ bái, tăng đồ chẳng biết duyên cớ làm sao. Đến hôm thứ 8 thì thấy vết hoa kình nát cả (hoa kình tức là con bồ lao), vị sư liền quỳ khấu đầu bái chúc rằng:
         “Chuông thần, chuông thần, chiến đấu chưa được, xin nuôi nhuệ khí, đợi dựng công cao”.
 Được vài hôm, đến hôm thứ 3 thì lại bỏ đi, đêm ấy tiếng chuông âm âm không dứt, nước sông cuộn trào, sóng cao như núi. Đến lúc sớm không thấy chuông quay về gác. Vị sư men theo bờ khấu đầu lạy, lặng lẽ quay về gác, rồi cũng lặng lẽ bỏ đi không chút dấu vết. Từ đó dân vùng phụ cận gọi đó là Đầm Chuông, lúc đi thuyền vượt qua cũng không còn lo giao long làm hại nữa. Việc xảy ra vào khoảng năm Giáp tí niên hiệu Vĩnh Tộ triều Lê (1624). Đến năm Tân dậu niên hiệu Chính Hoà (1681), tháng 2 có người châu Thái Bình trong nội địa đến thành Mục Mã buôn bán đồ đồng khí, nói rõ là có một quả chuông lớn từ sông Long Châu ngược dòng đi lên, đến bến sông Hắc Hà châu Thái Bình (nguyên dòng từ xã Lũng Định, châu Thượng Lang chảy về, chỗ sâu đến ải Củng Xương châu Hạ Lang, chảy vào châu An Bình trong nội địa rồi lại đến châu Thái Bình, giáp sông phủ Thái Bình xuôi dòng về sông ở Nam Ninh), lúc ấy nước sông nổi sóng, chuông thần sé nước đè sóng đâm thẳng lên đê. Có người bẩm cáo, quan châu cùng đến xem, cho người lay chuyển không thấy động tĩnh, chỉ thấy vết hoa kình nát. Thợ đúc xin nấu nó đi, thì thấy toát nước ra như mưa, tiếng chuông kêu giận dữ giết chết người thợ đó, vì thế châu quan run sợ, kẻ làm giá tham lợi bán luôn giá treo đi, châu quan liền khắc mộc tu tạo điện vũ, dùng cỗ Thái lao để thờ. Cầu mưa cầu tạnh giúp cho dân địa phương, cứ nghiệm ở vết hoa kình là rõ lúc nào mưa. Trời sắp tạnh thì hoa kình sắc thái sáng rõ, còn sắc thái thảm đạm thì ắt là trời âm u mưa, như thế không hề sai, đó là cái lạ của thần chung.
Nhân đó sai người tới nhận dạng cẩn thận thì hoa văn đúng như chuông đền Quan Triều, đến nay hãy còn, nên chép lại việc này.
Ôi, vật gì lâu ngày cũng hoá ra thần thiêng mà hiển ứng, khảo xét trong sách Trang Tử, thể lượng ra thì cũng có. Tuy nhiên, việc có chỗ nhầm lẫn xúc phạm, bỉ tục hỗn hào, hoặc có chỗ nghi tín, suy đoán lên xuống, vốn cũng cắt xén  bớt để cho trở nên chất phác, giảm nguỵ để thêm chân. Còn như việc chuông thần rỗng bên trong mà tự di động, tự kêu trên sóng, ghét loài giao trùng tác quái ẩn cư ở đầm sâu, ra uy linh trừ hoạ cho dân. Đến khi loài giao bị diệt mà thần chung cũng đi mất. Ôi ! công lao của chuông thần đáng được dân đây thờ phụng mà lại rút cục không hưởng hương thơm cùng đồ tế là cớ làm sao ? Hay là vì thiên cơ đã bị tiết lộ, không muốn bán danh tiếng để được hưởng cúng tế, nếu như không phải thế thì cũng có liên quan gì đến việc thịnh suy của vùng này chăng ?
Sự tích  Thiên Hoà
Năm Giáp ngọ niên hiệu Thịnh Đức thứ 2 (1654), Mạc Thuận Đức chiếm cứ Cao Bằng, có người xã Thời Hoà châu Thạch Lâm tên là Nùng Quý Hổ, giận nhà Mạc soán quyền, làm điều trái, ôm lòng muốn về với đường chính, bèn tự xưng là Thiên Hoà vương, dẫn người ở 2 tổng Thượng Pha, Phúc Hoà tiến đánh họ Mạc. Thuận Đức sai tướng đi dẹp, Thiên Hoà sức địch không lại, thua trận nhảy xuống núi chết, tướng Mạc dẫn quân về. Đêm hôm ấy, người dân ở hai tổng mộng thấy Thiên Hoà dặn rằng: “Thi thể ta còn ở ngoài đồng, chim Vô thường chính là linh hồn ta”. Sớm hôm sau, nhân dân hai tổng hội họp đều nói ra giấc mộng giống nhau, bèn cùng nhau đi tìm thi thể của Thiên Hoà, quả nhiên thấy thi thể ngoài đồng, mà chim Vô thường đậu. Chim liền kêu: Hồn ta! hồn ta! Biến thành chim kêu oán, nhà Mạc tiêu vong.
Ôi con người ta, khí là phần hồn, huyết là phần phách, thế nên chết rồi khí không tan, huyết ngưng đọng, ấy là chung đúc như Doanh Vệ mà phát ra thiêng như thế. Thường từ cái lớn mà suy ra cái nhỏ, xem xét đấy, ôi như chuyện hiển thánh núi Ngọc Tuyền, đó là ngôi lớn  phát linh thiêng, khăng khăng một tấm lòng trung thành, hiển ứng bao la. Đến như Thiên Hoà, một hồn phách bình thường mà có thể so sánh được, thật vĩ liệt thay, thế thì Thiên Hoà quả là linh thiêng hiển ứng thành chim, nghiệm cũng thấy có, chẳng phải là thuyết bàn hoang đường vậy.
Sự tích Bồng sơn
Núi Ba Mô ở địa phận xã Bồng Sơn, châu Thượng Lang, dưới núi có huyệt sâu, nước từ đây chảy dần ra các ruộng, nhân dân nhân đó mà cày cấy canh tác.
Năm Bính dần niên hiệu Cảnh Hưng thứ 7 (1746), tháng 5 ít mưa, ruộng đồng đều khô cạn. Người trong thôn tên Nùng Văn Bồng chăn trâu ngoài đồng, nhân đi qua cửa hang, thấy nước cạn, thuận chân đi vào. Đi được khoảng 4 trượng, thấy một con trâu lớn nằm ngang trong động, nghĩ là trâu trong thôn, Văn Bông lại gần vỗ vào lưng trâu nói: Dậy đi ! Dậy đi ! đừng có nằm đây làm cái khối thịt ngăn nước làm khô cả ruộng của ta. Trâu bỗng nhiên đứng dậy, tay của Văn Bồng dính chặt vào lưng trâu như có dính keo không dời ra được. Trâu chạy vào trong động, chân Văn Bồng cũng phải rảo theo như sắp hết hơi, tay mấy lần như muốn đứt rời ra. Chạy được nửa dặm tay mới dời ra được, trâu bỗng không nhìn thấy đâu nữa, nước trong động từ từ chảy ra, chảy ra ruộng, các bờ đều được tưới nhuần. Từ đó về sau, mỗi năm đến mùa hè, cứ nghe thấy tiếng trâu rống trong hang tức là có nước đều khắp ruộng. Năm nào nước cạn thì người và vật phương ấy ít được yên ổn.
Ôi, nước trong động núi chảy ra, ấy là long mạch. Hiện hình trâu để ngăn nước ruộng tức là phương ấy có điềm may, điềm vạ gì, hiện ra hình để dẫn dắt Văn Bồng, khiến cho biết thần đất này là tối linh. Nước chảy đều bờ ruộng khiến chúng dân được ơn nhuần,  chứ lấy thân hèn mọn, nhỏ bé sao đủ nói chuyện nuôi ngựa tốt tiêu khiển cho hết ngày trường được đây ?
Chuyện Đà Sơn
Đà sơn hệ thuộc xã Bình Giản châu Thạch Lâm, tục gọi là Ba Đà sơn, vách đá dựng đứng, cao chót vót vút xanh như bình phong, ngọn nào cũng cỏ cây xanh tốt. Có một năm nọ, vào khoảng tháng 6, tháng 7, cỏ trên núi tự nhiên bốc lửa cháy rụi hết cả, dân cư ở gần đó lại lúa tốt bời bời. Trải lâu xem xét thấy rất nghiệm.
Ôi ! cỏ cây trên núi tự nhiên bốc cháy, ứng điềm quẻ Li toả sáng báo vận hội thái bình. Hoả vượng thì sinh gió, gió là gió Huân phong, có thể cởi được những nhọc nhằn vất vả, khắp trời cùng vui vẻ. Nhưng cỏ tự cháy là ứng vào thôn cư gần đó được mùa phú thịnh, trải qua đều thấy nghiệm mà không ứng vào dân vùng sở tại, ấy là biệt long mạch mà hiện điềm, là điều ấy chưa từng nghe thấy bao giờ. Thế nên ứng ở gần bên cạnh mà không ứng triệu ở nơi ấy.
          Sự tích Tung Cao
          Thugn lũng Ba Mộ ở địa phận xã Tung Cao, châu Thạch Lâm. Trong thung ấy mọc lên một ngọn núi đá cao, gọi là núi Ba Lâm, dưới núi có một động huyệt thông ra 4 bên. Năm nào mà nghe thấy tiếng chiêng tiếng trống thì y rằng năm ấy có việc binh đao, hay dân chúng cùng gia súc bị dịch bệnh.
          Ôi ! trong núi có động huyệt hư không, lại có tiếng chiêng trống, ấy là có cái cơ về việc chiến tranh, nên đất địa linh hiện điềm cảnh giới cho, cùng  gia súc bệnh dịch, ấy là việc lưu hành của tạo hoá, giềng mối chỉ tại một người. Như việc người trái lại thì lẽ trời ứng hiện cho biết mà giáng tai ương. Như thế nên phải tu đức để giữ mệnh trời, để thêm điềm lành vậy.
          Chép về giao phối khác loài.
          Có con mèo nhà, là con cái, sắc đen, đến thời giao phối kêu gào ở nơi vườn hoang. Bỗng đâu có con rắn đen trườn đến, cuốn lấy trên lưng mèo. Rắn giao phối bằng bụng, phóng ra phía sau mèo, chốc lát giao phối xong, rắn buông thân mèo bỏ đi. Mèo chạy vào nhà, toàn thân đều ướt. Đến khi có mang đủ tháng, cũng sinh ra mèo con, sắc đen mà lanh lợi, bắt chuột tài (việc là có thấy thực chứ không phải hoang đường).
          Ôi, việc rắn dâm với mèo ấy, rắn là loài trùng, mèo là loài thú, là khác loài nhau mà giao hợp, về lý thì không đúng. Vả rắn có thói dâm, lưỡi nghe được tiếng mèo kêu (Tai rắn tủng, nghe bằng lưỡi) ở thời kỳ động dâm, rắn vượt qua ngòi rãnh, qua ao lầy mà đến. Mèo tương ngộ với rắn đực, giao hợp cùng, mèo không phải là lần nào cũng giao hợp cùng rắn, chỉ là việc ngẫu ý, ngẫu ý gặp thì cùng giao hợp mà thôi.
          Loài phượng đất
          Phượng hoàng đất là tên loài chim lớn, thuộc loại thiên nga, mùa hè ở trên vách núi treo leo nguy hiểm làm tổ sinh sản. Đẻ được hai trứng, con cái ấp, con đực thì nhặt cành cây chằng chịt lại, chu vi cao hơn hai xích, làm bên ngoài tổ, ngậm keo chám dính các cành cây lại. Tổ rất kín, chỉ chừa một lỗ cho con cái thò cổ ra mà thôi. Con đực mỗi lần đến mang mồi cho con cái ăn. Đến lúc đủ tháng, trứng nở, con đực ngó đúng là con của nó thì phá cây mở tổ để con cái ra, thấy là con loài vượn thì lấy cành cây bịt tắc miệng tổ, khiến con cái cùng con loài vượn cùng chết trong tổ. Đại để là loài ấy thường vụng trộm cùng giao hợp với loài vượn. Việc này cũng khó tin, đến khi người Man có nghề ở trên núi lâu đời đem chim cái cùng con loài vượn đã chết đến trình, thì quả là có xác chứng.
          Ôi ! loài vượn đất con chim cái cùng giao hợp với vượn đực là việc rất khó tin. Nhưng nghiệm loài trĩ với loài rắn giao hợp mà sinh ra con Thẩn. Thì loài do con Biết cùng loài rắn giao hợp mà sinh ra, thế cũng đủ là việc thật, không lấy làm quái lạ lắm.
          Chuyện cây lúa lạ
          Nguyên ở châu An Bình tỉnh Quảng Tây, tiếp giáp với ải Đống Long, tổng Điều Lang châu Hạ Lang của nước Nam ta. Khi xưa châu An Bình còn thuộc nước Nam ta, có hương Đông Kiều thuộc châu An Bình, từ Đống Long ải đến hương ấy đi mất nửa ngày. Trong hương có núi đá to như một dãy nhà, đứng một mình giữa đồng. Trong núi ấy một lỗ sâu mấy xích, trong ấy có bùn đất, chỗ ấy rộng có thể vừa một chiếc chiếu, nước luôn đầy không bao giờ khô. Mùa xuân lúa mọc tốt tươi, đến khoảng tháng 3 thì lúa chín, dân trong hương thu hoạch về, trồng loại thóc ấy thì được loại tiểu lữ. Đến các tháng hè thu đông, lúa ấy lại mọc tốt, trong vòng ba tháng lúa lại chín như cũ. Nhưng dân đem loại lúa ấy đi trồng ở nơi khác thì bốn mùa không được tươi tốt như thế.
          Ôi, trong 9 loại cốc, các loài rất nhiều, phàm cày sâu chăm bón thì chỉ trong 100 ngày là lúa chín mà loài này chỉ trong ba tháng, cũng 90 ngày đã chín sớm thì suy ra loài lúa sinh trưởng ở trên cao, đắc được khí nóng nên chín sớm, đến lúc gieo trồng ở ruộng, đất thấp khí lạnh nên chậm chín. Đại khái là lúa chín sớm, chín muộn, khi đã một lúc gieo xuống ruộng, có loại 8 tháng thì chín, có loại 10 tháng thì chín. Từ đó nghiệm mà xét thì cũng không phải do khí đá nóng mà chín sớm, ở dưới đất khí lạnh mà chín muộn, do có loài chín sớm, có loài chín muộn đó thôi.
           Thứ 3, Ghi chép về núi sông.
          Tứ trụ sơn ở Trấn thành.
          Núi Cao Sầm cách thành 20 dặm, đỉnh núi cao vượt nghìn tầm, cây cỏ tuyệt đẹp. Trên đỉnh núi nguy nga muôn trùng như múa, uốn lượn tầng tầng như sen ngậm hương khít cánh, như nhạn đàn dương cánh tung bay, hình múi chuông lõm xuống như lưng ong, vươn ra như hạc múa. Phía tây là đỉnh Tham Lang nổi cao như rồng đá dương vuốt, Đông là núi Tam Thai hình thấp như chó nằm nhe nanh, thế núi như giăng màn, đền Cao Sầm là ở đây.
          Núi ấy ở địa phận xã Tượng Lặc, xưa có đền Nùng Trí Cao ở dưới chân núi nên gọi núi ấy là núi Cao Sầm.
          Núi Bà Hoàng, cách thành 15 dặm, lưng núi tầng phân cao vút, vắt ngang sừng sững như đầu voi. Núi Canh Lĩnh liên tiếp như phượng múa, đỉnh Mã Phi như tượng ngao vờn. Ruộng dưới chân núi là nơi dựng đền Bà Hoàng ở dưới đấy.
          Núi này thuộc địa phận xã Kim Pha, bên phải liền Canh Thang, bên trái tiếp Mã Phi, đền thờ mẹ của vua Nùng (Trí Cao) dựng ở chỗ ruộng ấy nên gọi núi ấy là núi Bà Hoàng.
          Núi Khâu Luân ở phía Nam cách thành hơn 30 dặm là điểm then chốt trấn giữ, đỉnh cao dựng muôn ngọn chầu về, suối khe uốn khúc liên hoàn.
          Núi này ở địa phận xã Phú Thứ, đất sản ra đá sắt, nấu chảy đá thành sắt, thành gang.
          Núi Khẩu Sơn ở phía Tây, cách thành hơn 50 dặm, là nơi trấn giữ trọng yếu của phía Tây. Núi đá độc tôn, lớp lớp trùng điệp lên xuống, sừng sững chia đỉnh giáp, ngợp ngợp trăm khúc ngoảnh đầu.
          Núi này ở địa phận Triều Vũ.
          Các núi ở trong địa phận.
          Ngưu sơn (tục gọi là đèo Trâu), đường theo lên tận đỉnh, uốn lượn như rắn trườn, mỏm núi dâng cao, chia ra như phượng múa tầng tầng. Lớp lớp gò cao thấp, đều quy về địa phận xã Xuân Hoảng, dòng nước chia đôi bên phải trái, cùng đổi dòng chảy về khe Kim Mã.
          Núi này tính từ xã Vân Du đến Xuân Hoảng, tiếp giáp xã Kim Mã xứ Thái Nguyên, nơi có núi Ngân Xưởng, thương khách thường qua lại chỗ này.
          Liêu Sơn, trên đỉnh có đường uốn lượn dẫn lên, bên núi có khe chảy dưới thấp. Đối ngọn với núi Biều Ngân, đường đi qua động Lân Chỉ. Các ti tuần chinh xét việc thuế đặt ở thôn Phúc Tăng.
          Núi này ở địa phận xã Phúc Tăng, tiếp giáp động Lân Chỉ.
          Núi Mô sơn, núi này cao vững, nước chảy sàn sàn, đường vòng qua phía sau lưng núi, là nơi liên quan trọng yếu của người buôn bán. Từ Mang Động mà theo dòng Hiến Giang qua Vân Tùng đến núi Ngân Xưởng.
          Núi này từ địa phận xã Mang Động châu Thạch Lâm giáp với Ngân Xưởng, Phúc Sơn, Vân Tùng xứ Thái Nguyên.
          Núi Thống Sơn nguy nga vòi vọi, mở ra một dãy lởm chởm xanh biếc, cạnh núi vách đá nghìn trùng nguy ngập như cao lên mãi, dải mây để thu vụ, cây cối tốt tươi, phun dòng nước mà mọc phát rêu thần. Xưa kể lại đây là chỗ vua Nùng (Trí Cao) nuôi ngựa, kì ngộ với tiên nhân truyền cho sách mang về.
          Núi này ở địa phận xã An Lại châu Thạch Lâm.
          Núi đất Khâu Doanh, có nước chảy uốn khúc, chia mạch chia dòng, núi đột cao vắt ngang chia phải trái phát triển như sinh con, sinh cháu. Từ phía bắc Đường Âm 3000 dặm, từ phía nam Hoa Môn hơn 10 dặm có núi Bình Dương nhấp nhô như măng mọc, uốn như rồng trườn triển thế, cảnh trí thanh thuý bày thế hổ nhảy đón nghênh, khe suối bao quanh, chẳng đâu không phải là đất của vùng biên cương cổ.
          ẩn chứa nhiều đá, đều là đá nam châm. Có dòng suối từ bên trái chảy lại gọi là Nẫm Thông, nước chảy nguồn từ Hà Quảng, đều thuộc núi Bình Dương, là nơi thành cũ của công chúa nhà Mạc, thật là thắng địa của thời trước.
          Núi ấy thuộc địa phận xã Linh Hoàng.
          Núi Man Đà, cũng gọi là Khâu Liêu, vòng vèo toàn đường như ruột dê, nhỏ hẹp đều là nơi ẩn của hổ báo, đất là nơi sinh sống của các loài mao trùng, thương khách ngại qua đường này. Cảnh sắc núi sông thì rất đẹp, cây cỏ tốt tươi, chỉ có thể kể địa khái thế. Có thơ rằng:
Trời quang quất ngựa non cao,
Sau lưng rộng thoáng tình dào áng mây.
Đường chim liệng liệng cánh bay,
Cảnh tiên đắc đạo khoả khuây lòng người.
Non cao cảnh thú tình hoài,
Bể Đông đâu phải Bồng Lai tìm cầu.
          Núi này thuộc địa phận xã Man Đà, nơi đây hổ báo thường ẩn nấp là một mối lo ngại.         
          Núi Điều Thiên, tục gọi là Đèo Thiên, thế núi rất cao, mạch núi kéo dài, có loài trúc điểm sắc đỏ như mây, màu non xa mây núi xanh thắm.
          Núi này từ địa phận Đoài Côn châu Thượng Lang đến địa phận xã Dương ải châu Hạ Lang, có sản loài ban trúc, dùng làm đồ dùng trông rất đáng yêu, nhưng đến mùa hè thì trúc nứt ra.
          Núi Bế Sơn là núi đất, vẻ đẹp phô bày, dáng như cánh phượng, sườn non uốn như lưng ong. Có câu: Chốn khuất khe lưu bày măng ngọc, Tùng lâm hoang vắng sẵn Sa nhân. Trong núi có nhiều củ mài, cây leo củ như dây (Cắt lấy nhân ăn vị rất thơm).
          Núi ấy ở địa phận 2 xã Suất Tính, Tượng An.
          Núi Kê Minh, hang núi hiện điểm xuyết, dáng vụt lên, núi như thế rồng, trông như đường đàn kiến bò. Đâu biết rằng tướng lính xưa cũng vui thú với cảnh núi này, chứ đừng nói gì đến kẻ tiều phu nón lá làm ruộng thì khác. Có thơ phú rằng:
          Muôn ngọn núi xanh nổi vẻ kỳ,
          Rủ tầng phượng múa với rồng phi.
          Giữa rừng anh vũ chim kêu nữa,
          Đường xa đâu biết ngựa chậm rì.
          Núi Kê Minh tục gọi là Gáy Cắn, từ xã Thượng Pha châu Thạch Lâm đến xã Yến Dương gần địa phận xã Giang Ngô. Xưa tướng nhà Mạc là Thái Bảo Phú Quận công thua binh chạy về núi này, nghỉ ở trên núi lúc ấy là canh tư, nghe gà trong thôn gáy, nhân đó đặt núi này là núi Kê Minh.
          Núi Khâu Uy, từng khúc từng khúc nổi cao thấp, leo lên thì cao vượt lên. Suối ở dưới chảy chầm chậm, đá mọc nhấp nhô. Trong núi hươu kêu u u, chim hót chích chích, đường đi liên tiếp, trúc tre mọc tốt, đường núi tạp nhạp. Có thông thương nên đặt đồn thu chưng, là nơi núi sông tú lệ, địa mạch kỳ quan. Có thơ rằng:
          Cây xanh bày dãy vẻ tươi nhuần,
          Non Uy trời tĩnh vắng mây vần.
          Mưa qua dóng trúc mơn mởn phấn,
          Màu dương lúc tạnh nhạt nhạt xanh.
          Người muốn đạp bằng đâu chỉ mệt,
          Ngựa còn chùn bước chớ cầu xin.
          Non thiêng ắt hẳn sinh nhân kiệt,
          Còn chuộng ơn Nghiêu tước mấy lần.
          Núi Khâu Uy nổi từ đồn Bắc Cung, Nội Chiêm châu Thạch Lâm, theo suối chảy đến xã Bình Khấu huyện Cảm Hoá xứ Thái Nguyên. Đường dẫn vào Phúc Sơn Xưởng, khách phương Bắc thường mang tạp hoá đến buôn bán, đi qua đường này.
          Núi Hoàng Sơn, núi này to tròn, đỉnh núi chia ra như con dấu, sườn nuí tạp sinh loài  hoa dại, dưới đất dân sống quần cư thành thôn xóm. Tương truyền dưới núi có ngọc thạch.
Núi này từ địa phận xã Cổ Nông châu Quảng Uyên đến địa phận xã Trà Lĩnh châu Thạch Lâm.
Núi Thiên Mã, ở chỗ nổi lên có thế voi chạy, quay đầu lại thành hình hổ nằm, hai bên phải trái ngay ngắn, cao thấp hợp cách. Gần thì có An Bình Sa chầu về, nguyên thần vượng thuỷ hoàn nghênh, giữ được huyệt này thì đời đời công hầu khanh tướng.
Sách Di Cảo có nói: Giữ được huyệt này thì đời đời công hầu khanh tướng, anh hùng bất tuyệt. Núi ở địa phận xã Phúc Tăng nổi lên chạy đến địa phận xã An Ninh, đầu của Thiên mã bị cắt đứt ngang hơn 20 trượng, ở nơi huyệt đất có dựng chùa. Người ta truyền rằng thời Cao Vương cưỡi diều giấy bay đến ném bút chặt đứt đi là vì thế, nhưng chẳng biết là có hay không.
Núi Bình Phong là núi đá cao, khe suối uốn quanh. Mù tắt thì bay ngang cánh nhạn, mới sớm vượn hót đầu non, đường đi gập ghềnh, thương khách mỏi gối. Đường núi lên xuống, xuyên qua cỏ cây rậm rạp, bát tiết không mòn danh lớn, tứ  thời sắc xanh còn mãi. Thơ rằng:
Trùng cao như kéo cắt hoa,
Nửa hòn như ngậm chút hương ba.
Mạch núi ngắn dài theo thế xuất,
Lần lượt non khai dưới ánh tà.
Trời tây khắp chiếu cảnh gần xa,
Xa trông như thể vân hà áng mây. 
          Núi ở xã Cà Xuyên châu Thạch Lâm, phía dưới có đường lớn đi qua.
          Núi Giảng Văn, hình núi biến báo, đường như ruột dê, qua suối sóng vỗ khiến cả ngựa nhảy kinh, leo lên núi cũng mướt mồ hôi. Men theo dòng uốn lượn có trúc mọc cây cao cây thấp đường núi râm mát, ở đấy chỉ trồng được loại mạch đen.
          Núi này từ địa phận xã Minh Luân châu Thạch Lâm giáp với địa phận xã Trùng Khôn có đường lớn đi qua ải Nùng.
          Các dòng sông trong địa phận Cao Bằng.
         Đại Giang (tục gọi là sông Cả), nước sông chảy xiết sóng trong, lúc trời mưa thì nước đục. Giáp sông Hiến, chảy phía trước trấn thành Mục Mã, từ Phù Vạn cho đến dưới phía trái Phúc Hoà, hai bên là núi đá có nhiều hang hốc đá lỗ như tổ ong, là nơi hang ổ của loài giao long.
          Nguồn từ xã Khang Lạc châu Bảo Lạc xứ Tuyên Quang, từ Thông Nùng châu Thạch Lâm cho đến Trùng Khôn. Lại có một dòng nữa từ Thần đỉnh xưởng Bạc ở Tống Lí xứ Thái Nguyên phun ra, chảy đến xưởng Thiếc ở Thôn Khẩu thuận dòng sông Đà chảy ra hướng khác, ngang qua Trùng Khôn đều giáp lưu đến tận chợ Nước Hai xã Nhượng Bạn. Lại một dòng nữa từ Phù Tang, Sóc Hồng chảy đến Nước Hai hợp dòng thành Đại Giang, cùng sông Hiến chảy xuống dưới bao thành Mục Mã đến tận ải Bác Nẫm hợp với Thuỷ Khẩu Quan của Nội địa đến tận Long Châu.
          Sông Hiến, vào mùa hè thì nước sâu mùa đông thì nước cạn, dùng để chở bè tre, sông nhiều đá sắc nhọn. Nước sông trong nhưng không sạch, vị hơi tanh mà ngọt, lấy một ít mà trữ chỉ hai ngày là tự sinh loài trùng. Nguyên do là đầu nguồn ở xa, có nhiều loại lá tạp, lại thêm các loại dây củ hoang dại, lá già mục rụng xuống, nước chảy qua gặp phải thì bị nhiễm độc.
          Nguồn từ xưởng Bạc ở Tống Tinh xứ Thái Nguyên, non Thần cao lớn đỉnh phun ra nước, một dòng chảy xuống xưởng Thiếc, một dòng chảy qua bãi Bạc, một dòng chảy xuống Linh Mai, Kim Mã hợp với Mang Động xã Xuân Hoảng châu Thạch Lâm, lại một dòng nữa ở  Thượng Ân Châu Khê huyện Cảm Hoá xứ Thái Nguyên chảy về Mang Động, đều đến xã Cổ Vũ hợp với dòng Kim Xuyên. Lại một dòng khác từ Tĩnh Đà châu Thạch Lâm chảy về Kim Xuyên, đều nhập vào dòng sông Hiến chảy về bên phải thành Mục Mã.
          Sông Cổn giang, sông này nhỏ hẹp, nước chảy chậm, nước trong mà ngọt hơn các sông khác, dùng để pha trà thì vị ngon, dùng để giải nhiệt trừ phiền thì rất tốt.
          Nguồn nó từ địa phận xã Tráng Biên châu Thạch Lâm, trong núi đá chảy ra đến thôn Quang thì xuôi xuống dưới, núi đá nhô cao, trên có dòng nước chảy ra đến tận đất Hàm An thành sông Cổn Giang. Chảy đến sông Đại Giang trước trấn thành. Nước sông Cổn nếu tự nhiên cạn thì năm ấy ứng điềm mất mùa, đói kém nghiệm xét xưa nay đều có như thế.
          Sông Lũng Định nước thì trong mà cá thì béo (Cá thì ở đâu đâu cũng có, nhưng duy ở sông này là cá trắng, tục gọi là Cá Lõi, não đầu cá này có hương vị thơm xộc lên tận mũi, ta từng thưởng thức qua, thật không phải là nói không mà chép vào đây).
          Đầu của nguồn sông này từ châu Quy Thuận trong Nội địa chảy vào, chảy đến Mai Lĩnh xã Kim Côn châu Thượng Lang, lại một dòng nữa từ Đăng Nẫm chảy qua Mai Lĩnh cùng hoà dòng Lũng Định, chuyển dòng đến Bồng Sơn, qua núi đá đi hơn hai trăm trượng đến Địa Vọng thế cao như thác, lại chảy đến xã Trác Nhi châu Hạ Lang chảy vào châu An Bình trong Nội địa.
          Sông Thông Huề, sông này hẹp nhất, nước trong, giữa sông đá nổi nhấp nhô, thế nước vần chuyển từ từ, sắc vàng, phân khúc chảy xuống dưới, nghịch lưu, dòng cuộn chảy mênh mang. Nguồn sâu nước ngập có thể dùng bè vượt qua, do có giao long ẩn nấp nên dựng cầu nổi, đi lại lâu thành đường.
          Nước sông này chảy khẩn cấp, đáy nước có hang đá loài giao trùng ở đấy. Lúc nước lên người buôn bán qua lại thường bị thương hại bởi giao long, thế nên người trong châu làm cầu nổi để qua sông cho tiện. Đầu nguồn từ địa phận xã Ngưỡng Đồng chảy đến Thông Huề qua 2 xã Cảm Hảo, Đoài Côn lại bọc lấy ải Na Thông giáp với Đại Giang đều chảy về Thuỷ Khẩu Quan.
          Khe Sầu chảy róc rách, trong trẻo, non xanh ve kêu trên cây, đá trắng rêu phủ. Bên bờ nước lội qua chỉ ướt chân, thương khách thích qua đường này, kẻ sĩ lại càng vui thích buông cương cho ngựa chạy rong ruổi.
          Khe này từ địa phận xã Nhã Nam châu Thạch Lâm chảy ngược qua thôn Bình Lũng, đến chợ Nẫm Nương xã Phúc ứng chảy ngang qua góc núi đến thôn Chu Lăng hợp với Đại Giang.
          Nhật trình đến các đồn Tuần trong địa giới.
          Tuần Mục Mã dựng vào triều Lê ở phía Tây phố.
          Tuần Lương Mã ở phía Đông phố, dựng thời Tây Sơn, hai nơi này đều ở trong trấn sở thành Mục Mã.
          Tuần Đèo Liêu ở địa phận xã Phúc Tăng, từ trấn sở đến đồn Tuần này nhật trình đi hết một ngày.
          Đèo Trâu có Tuần Nẫm Lộng ở địa phận xã Mang Động từ trấn sở đi dến chỗ này đi hết một ngày.
          Xứ Đèo Hiên ở địa phận xã Minh Luân từ trấn sở đi hết một ngày.
          Đồn Tuần ải Sóc Hồng ở địa phận xã Sóc Hồng, giáp với ải Bình Mạnh phủ Trấn An trong Nội địa.
          Tuần Phù Tang, đồn tuần ải Hà Trừng ở địa phận xã Trừng Hà giáp với ải Na Lẫm châu Quy Thuận trong Nội địa. Từ trấn sở đến đây đi hết một ngày.
          Tuần đồn ải Trà Lĩnh ở địa phận xã Trà Sơn, địa giới giáp ải Tứ Bang châu Quy Thuận trong Nội địa, từ trấn sở đi đến đồn này hết một ngày.
          Tuần đồn ải Bác Nẫm ở địa phận xã Nghi Phán, địa giới tiếp giáp Thuỷ Khẩu Quan, Long Châu trong nội địa từ trấn sở đến tuần đồn này hết hai ngày
          Tuần đồn ải Na Lan ở địa phận xã Khâu Ngô, địa giới giáp ải Bố Cục châu Hạ Đống của Nội địa.
          Tuần Bác Khê ở địa phận xã Bác Khê, địa giới tiếp xã Bình Quân xứ Lạng Sơn, lại tiếp cả địa giới xã Lương Hạ xứ Thái Nguyên, từ trấn sở đi hết 4 ngày.
          Tuần Bắc Cung ở địa phận xã Nội Chiêm, tiếp địa giới xã Bình Khấu xứ Thái Nguyên từ trấn sở đi đến đây hết ngày rưỡi.
          Tuần Nẫm Nương ở địa phận xã Phúc ứng, từ trấn sở đến đi hết một ngày.
          Tuần Na Cát ở địa phận xã Đường Âm, từ trấn đi hết một ngày.
          Tuần đồn ải Quả Thoát ở địa phận xã Quả Thoát, địa giới giáp ải Mã Tốc An, từ trấn sở đi hết hai ngày.
          Tuần đồn Na Thông ở địa phận xã Phất Mê, tiếp với ải Khiếu Lâm, Long Châu của nội địa nhật trình từ trấn sở hết 1 ngày.
          Tuần đồn ải Cổ Chu ở xã Hiếu Lễ, giáp hai thôn Ngọc Luật, Bình Nê, gần ải Quy Liễu của Nội địa, đi từ trấn sở hết ba ngày.
          Tuần đồn ải Nga ổ ở xã Nga ổ, gần ải Na Tịnh châu Hồ Nhuận của Nội địa, từ trấn sở đi hết 4 ngày.
          Tuần đồn Củng Xương ở xã Trác Nhi gần ải Câu châu An Bình của Nội địa. Đi từ trấn sở hết 5 ngày.
          Tuần đồn ải Đống Long ở địa phận xã Điều Lương, tiếp giáp ải Mai Yết châu An Bình của Nội địa, từ trấn sở đi đến đồn này hết 5 ngày.
          Tuần đồn aỉ Bí Hà ở địa phận xã Bí Hà, tiếp giáp ải của châu Hạ Đống trong Nội địa, từ trấn sở đến đây hết 4 ngày.
          Đồn Đèo Mô ở địa phận Cẩm Dã, giáp với xã Thượng Ân xứ Thái Nguyên, từ trấn sở đến đây đi hết 1 ngày.
          Đồn Gia Bình ở xã Gia Bình, giáp địa phận xã Linh Mai xứ Thái Nguyên, từ trấn sở đi hết 1 ngày.
          Đồn tuần An Lại ở xã An Lại, từ trấn sở đến hết nửa ngày.
          Tuần Phiên Dương ở xã Phiên Dương, từ trấn sở đến chỗ này hết một ngày.
          Đồn tuần ải Thông Nùng ở địa phận xã Thông Nùng, giáp địa giới phủ Trấn An trong nội địa, từ trấn sở đến đây hết một ngày rưỡi.
          Các thành, chùa trong phủ.
          Thành Mục Mã
          Thành này nằm trên địa phận xã Gia Cung, xưa họ Mạc chiếm cứ Cao Bằng, từ khi Quỳ quận công lên tiễu trừ, họ Mạc thua chạy vào trong Nội địa. Lệnh chuẩn cho Quỳ quận công trấn giữ thành Mục Mã, con trưởng Quỳ quận công là Trụ quận công trấn giữ thành Hoà Mục, thành Sóc Hồng (đều là thành do Mạc Thuận Đức dời đến xây ở đây), con thứ là Đằng Lân hầu giữ thành Phúc Hoà. Sau Thiên triều sai quan Tổng binh đem 1000 quân đưa họ Mạc trở về. Họ Mạc khôi phục được Cao Bằng, quân ta lại phải đi chinh phạt. Tướng trấn thủ là Bái quận công đặt trấn  tại cung điện của nhà Mạc ở Cao Bằng, nhưng chỗ ấy nhiều khí bệnh tật nên lại dời về thành Mục Mã. Lệnh ban cho Quỳ quận công làm Đốc đồng trấn cùng Đốc trấn là Ngô Sách Tuân đốc suất một vạn binh xây thành, đầu thành có cái thành đất liên hoàn với thành đất Mục Mã, dựng Văn miếu ở đấy. Từ đó mới đặt các doanh trại, đến năm Canh thân thời Cảnh Hưng (1740), nguỵ Mạc ba bốn lần điên cuồng ngóc đầu nổi dậy, bức đến tận trấn thành. Tuân quận công vâng chức Đại lý trấn vụ đắp thành đất bao Mục Mã thành, bên ngoài làm rào gỗ kết lại để chống giặc. Đến năm Tân dậu niên hiệu Cảnh Thịnh thời Tây Sơn(1801), trấn thủ là Hội Vũ hầu dựng đồn ở trên cái gò phía trước thành, đến năm Quý hợi niên hiệu Gia Long thứ 2 (1803)của triều ta, trấn thủ là Tiến Ngọc hầu lệnh cho dân trong phủ xây thành đất Mục Mã lên tam cấp, bên ngoài trồng lúa, phố Mục Mã có từ khi đặt trấn. Phố ở phía Tây trấn, nay là ở phía đông phố Lương Mã, phố ấy trước do Đốc trấn Nguyễn Duy Nhị thời Lê Cảnh Hưng đặt, gọi là phố Đông Tân. Đến năm Giáp dần thời Tây Sơn(1794), trấn thủ Hào Quang hầu lập phố gọi là phố Lương Mã bắt đầu từ đấy.
          Hai thành Na Lữ, Phúc Hoà.
          Thành Na Lữ, từ thời Cao hoàng đế nhà Lê chinh phạt Bế Khắc Thiệu đã đóng quân ở đây, sau dựng đền thờ giao cho dân trong phường quét dọn. Cho hai thành Na Lữ, Phúc Hoà mở đầu từ thời Đường ý Tông năm Giáp thân niên hiệu Hàm Thông thứ 5(864). Nhà Đường mệnh cho Kiêu vệ tướng quân Cao Biền làm Đô hộ An Nam kiêm chức Tổng quản Kinh lược chiêu thảo sứ, năm Bính tuất niên hiệu Hàm Thông thứ 7(866), nhà Đường ban cho Biền chức Tĩnh hải quân Tiết trấn, kiêm Chư đạo hành doanh Chiêu thảo sứ. Tháng 11 cho xây thành Đại La (nay là Bắc Thành), lại lệnh cho xây hai thành Na Lữ, Phúc Hoà. Dựa vào ghi chép của các phụ lão, lại điều tra núi đất gần thành Phúc Hoà có nhiều mộ cổ, có gạch xây, có đá làm bi minh ghi quê quán địa chỉ, tên họ có ghi hiệu Hàm Thông đặt trên mộ. Mộ cổ ấy là của những người phu dịch xây thành chết ổ đây, thế nên hai thành ấy là xây từ thời Đường.
          Danh Lam trong phủ.
          Chùa Đống Lân
          Chùa này ở trên đất xã Vu Tuyền. Từ năm Tân hợi niên hiệu Mạc Càn Thống thứ 19(1611), hoàng hậu nhà Mạc cho xây chùa theo hình chữ Đinh, có hai bên hành lang và hậu đường, tăng phòng. Đến khi Mạc Long Thái thua, quân nhà Lê chiếm được đất này, chùa bị đốt cháy hết, kịp khi Mạc Thuận Đức hàng Thiên triều, xin được dâng đất, quân của Thiên triều lại đưa họ Mạc về Cao Bằng. Sau Quỳ quận công tiễu trừ họ Mạc thu phục lại Cao Bằng, lúc ấy trưng thu các thức còn nhẹ nên nhà nhà đầy đủ, chùa lại mộ tiền của tu sửa. Đến năm Canh thân niên hiệu Cảnh hưng năm đầu (1740), đảng giặc nổi lên bốn bề, tự xưng là Mạc Tam vào chiếm cứ trong chùa chống nhau với quan quân. Lúc ấu Tuân quận công làm Đốc tướng hiệu lệnh quan quân công phá, chùa bị huỷ hoại. Từ năm Bính dần trở về sau lại được thanh bình, nên tu sửa lại chùa này. Khi Tây Sơn xâm chiếm, thời Cảnh Thịnh núi bị cháy, gió thổi lửa bắt lên cháy chùa, dân chung quanh lại hưng công sửa, đúc chuông. Thời Tây Sơn trấn thủ huỷ chuông ấy lầm đồ đồng khí.
          Chùa Viên Minh.
          Chùa này ở trên đất xã Xuân Lĩnh, phía trước đối diện cùng đền Quan Triều Hồng Liên công chúa. Khoảng năm Tân hợi thời Mạc Càn Thống(1611), nhà Mạc sau khi thua, chùa bị bỏ hoang phế. Đến khi nhà Lê khôi phục được Cao Bằng,  lại tu tạo chùa. Năm Giáp tí thời Cảnh Hưng(1744), đảng giặc nổi lên như ong, nhân dân chốn tránh đao tên, chùa lại bị hoang tàn, tường ngói đều sụt lở. Đến khi thanh bình lại tu sửa lại. Bài tán trên chuông chùa Viên Minh rằng:
          Trời mở Nam Việt,
          Khai thác Cao Bằng.
          Vương phủ ở giữa,
          Bắc trấn đế thành.
          Thạch Lâm thế mạnh,
          Đà quận đất linh.
          Núi xanh ôm bọc,
          Nước biếc bao quanh.
          Vết danh lam cũ,
          Chùa gọi Viên Minh.
          Tạo đồng nấu đúc,
          Ngày đem thi hành.
          Treo lên ở gác,
          Bên trái sảnh đường.
          Núi cao chót vót,
          Vàng ngọc lanh khanh.
          Bồ lao lay nguyệt,
          Kình động gió gào.
          Đền thần đối diện,
          Điện phật chênh vênh.
          Thời thế biến chuyển,
          Âm lặng chuông thanh.
          Tình đời vọng cảm,
          Lòng riêng nảy sinh.
          Nhân vì thiếu bỏ,
          Nên đợi kinh doanh.
          Giúp thánh chúa Mạc,
          Lê có hiền khanh.
          Đồng quý thi phát,
          Công đức thuận thành.
          Thuê công vẽ tượng,
          Khuôn mẫu nên hình.
          Việc mới bàn bạc,
          Mấy chốc đã thành.
          Tròn đầy như cũ,
          Xa gần nghe danh.
          Ngày tốt tháng Tân hợi năm Càn Thống thứ 19 (1611).
          Chuông chùa Viên Minh cao ba xích chín thốn, chu vi bảy xích năm thốn. Năm Kỷ dậu thời Tây Sơn niên hiệu Quang Trung thứ hai (1789) Đại đô đốc trấn thủ là Uyển Vũ hầu sai khiêng chuông chùa ra sân ném vào lửa đốt, chuông ấy hốt nhiên phát tiếng kêu âm âm. Người đốt chuông đầu váng mắt hôn không dám đốt, bỏ về trấn sở được mấy hôm thì chết.
          Chùa Giang Đống.
          Chùa này lúc xưa là chốn danh lam, ở địa phận xã An Ninh châu Thạch Lâm. Khi nhà Mạc thua, quân vương sư kéo đến, chùa đều bị thiêu phá. Về sau thanh bình lại nhân dân mới tu tập lại thành thảo xá.
          Chùa Thanh Long.
          Chùa này xây ở bờ sông Hiến, địa phận xã Gia Cung châu Thạch Lâm, rất gần trấn thành, qua sông Hiến một lát thì đến chùa. Nguyên là chốn danh lam xưa, đến năm Cảnh Trị sùng tu, năm Canh thân niên hiệu Cảnh Hưng nguyên niên (1740) bị đảng giặc thiêu phá. Năm Bính thân niên hiệu Cảnh Hưng thứ 37 (1776) , khoảng đầu thu, Tính Trung hầu (ông họ ?) sáng lập tự xá, chùa gọi là Thanh Long trước chùa Trường An, có cầu Vọng Kinh, cầu Tuyết Lô đối nhau, có núi hình phượng hoàng uống nước, có bãi như cá kình vẫy đuôi đều từ xa trông về. Năm Mậu thân niên hiệu Chiêu Thống thứ 2 (1788) triều Lê, Tây Sơn chiếm Cao Bằng chùa bị thiêu sạch.
          Miếu Quan Đế.
          Miếu có từ năm Mậu ngọ niên hiệu Vĩnh Trị thứ 3(1678), trấn sở dời sang thành Mục Mã mới dựng miếu này, linh ứng không hết.
          Quân chính dưới triều Lê.
          Phụng mệnh mở mang, đặt các chức, phiên thần có tám gồm: Chính tiền, Chính hậu, Chính tả, Chính hữu, Trung tiền, Trung tả, Trung hữu, Trung hậu. Người tái cán có năng lực thì cử làm Thủ hiệu, thứ hơn làm Phó hiệu, Thuộc hiệu đều quản lý binh dân. Về sau thứ tự quân hiệu, thường cải đổi luôn, không có nhất định. Cai quản binh dân thì đặt quân số 400 làm một hiệu, hoặc giả quân của Trưởng hiệu không đủ số thì cắt thêm phần của Phó hiệu và Thuộc hiệu, quản quân lệ thuộc vào cho đủ số hiệu. Hoặc 22, 23 suất trở lên, hoặc ít 24, 25 suất trở xuống cũng xếp thành quân hiệu, không câu nệ. Chọn lấy trong dân châu 5 kẻ trai tráng khoẻ mạnh làm một suất binh, đều phải đến Quản quan để nhận việc, ở trấn một năm lại đổi một lần. Mới đầu cũng không phải luân phiên mỗi tháng, quân ấy đều do dân xã nuôi, đem tiền lương trữ tại công sảnh của Quan quản, đến tháng Phó hiệu quan mở quỹ cấp phát, mỗi suất gạo trắng 30 thăng, canh tiền 3 quan, còn như quân nhu khác thì quản lĩnh vùng ấy thu của dân để phụ cho quân, lượng xem một suất hai suất để bổ sung cho đủ số. Trong lệnh còn cho lúc đến hạng vị quản binh dân ở đấy ban tiền Ngụ lộc, mỗi binh một suất. Lấy ở trong dân tiền cổ 6 mạch làm bổng hàng tháng cho quan quản, lại cho quan ấy liệu lễ tết, mỗi suất tiền cổ 3 mạch, gạo nếp 5 thăng. Hàng năm có hai kỳ lễ kỵ, dân mỗi xã đóng lợn 1 con, gạo 30 cân (lượng xem dân đông hay ít, không làm chung chung), như ai làm quá thu bừa, bị phát giác thì bị đình chỉ chức quản, cho về làm dân, thu hồi cấp thưởng cho người có năng lực.
         Các hiệu quan theo thời gian đem quân thao luyện trận pháp, có thưởng phạt để khích lệ.
          Lấy 30 suất binh để theo hầu Đốc trấn, 20 suất theo hầu Đốc đồng, lại lấy 10 suất theo hầu quan Giám hộ. Về sau phụng chỉ bãi chức Giám hộ, 13 ải khẩu ven biên giới sai các viên ở các hiệu thay nhau đến các ải, giữ đồn 1 năm lại đổi lại. Công đường có treo trống lớn, chỉ khi làm lễ Kỳ Độc hay xảy việc binh hoả, nghe tiếng trống luyện quân đánh 3 hồi liên tục thì quan binh các hiệu đều tề tựu tại công đường, chọn hai viên làm Tả chấp hiệu, Hữu chấp hiệu, Đốc trấn có việc phải xuất binh thì theo tiếng trống thao luyện này làm hiệu lệnh quân.
          Tròn một năm, ngày 30 làm lễ Trừ tịch cắt 3 viên thuộc hiệu đem 4 khẩu súng trụ đặt tại trước cửa công đường, một viên thuộc hiệu giữ đồng hồ. Trong công đường đặt hương án, làm bài vị màu hồng đề Hoàng Thượng Vạn Vạn Tuế đặt ở trên án. Đốc trấn các quan đều mặc triều phục, Đốc trấn ngồi ở trên giường bên phải, Đốc đồng ngồi ở bên trái, thứ tự ngồi bên phải là  Trưởng hiệu, Phó hiệu, ngồi bên trái là Thuộc hiệu, Thuộc sai, Thư tả cùng ngồi thị xướng. Đêm đúng giờ Tí bắn 3 phát súng, làm lễ xong ai, về phủ nấy. Bốn châu hồi xưa nhân dân chù mật, lấy hơn ba nghìn suất binh. Đến năm Nhâm dần niên hiệu Bảo Thái năm thứ 3 phụng mệnh ghép làm hộ tịch, bổ sung lấy quân 1798 suất, phụng cấp phiên thần quản 1685 suất, phân thành các hàng các hiệu, còn lại 113 suất cho tuỳ Đốc trấn, Đốc đồng làm Trung quân hiệu.
          Binh số các tổng của bốn châu.
          Châu Thạch Lâm 14 tổng, quân số 582 suất.
                   Tổng Kim Pha 12 xã.
                   Tổng Hà Đàm 9 xã.
                   Tổng Phúc Hoà 10 xã.
                   Tổng Triều Vũ 12 xã.
                   Tổng Hoa Phô 10 xã.
                   Tổng Phù Gián 11 xã.
Tổng Thương Pha 5 xã.
Tổng Tượng An 13 xã.
Tổng Lại Sơn 9 xã.
Tổng Hà Quảng 9 xã.
Tổng Nhượng Bạn 13 xã.
Tổng Tĩnh Oa 10 xã.
Tổng Thông Nùng 9 xã.
Tổng Suất Tính 10 xã.
          Châu Quảng Uyên 5 tổng, quân số 456 suất.
                   Tổng Ngưỡng Đồng 9 xã.
                   Tổng Vũ Lăng 10 xã.
                   Tổng Lực Nông 6 xã.
                   Tổng Lạc Giao 8 xã.
                   Tổng Cách Linh 9 xã.
          Châu Thượng Lang 4 tổng, quân số 509 suất.
                   Tổng Kỳ Cống 8 xã.
                   Tổng Nga ổ 10 xã.
                   Tổng Đương Châu 6 xã.
                   Tổng Lăng Yên 10 xã.
          Châu Hạ Lang 4 tổng quân số 251 suất.
                   Tổng Vĩnh Thọ 7 xã. 
                   Tổng Hợp Khâm 6 xã.
                   Tổng Điều Lương 5 xã.
                   Tổng Kim Đằng 5 xã.
          ở trên tổng cộng 240 xã thôn.
        Phần 4, Cương giới phong tục.
          Nguyên một phủ Cao Bằng từ xưa lệ thuộc xứ Thái Nguyên, cùng tính vào Bắc Đạo. Đến triều Lý đặt tên các châu Thái Nguyên, Quảng Uyên. Đời Lê Quang Thuận đổi gọi là phủ Bắc Bình, bốn châu là: Châu Thái Nguyên, châu Lộng Nguyên, châu Thượng Lang, châu Hạ Lang. Sau lại đổi ra là đạo Ninh Sóc gồm 3 phủ Phú Bình, Thông Hoá, Cao Bằng. Phủ Cao Bằng có 4 châu. Châu Thạch Lâm (mé hữu châu Thái Nguyên là phủ Cao Bằng), châu Quảng Uyên (xưa là châu Lộng Nguyên), châu Thượng Lang, châu Hạ Lang. Lại lấy đạo Ninh Sóc đổi làm xứ Thái Nguyên, phủ Cao Bằng cũng thuộc vào đấy. Năm Giáp thân đời Lê Cảnh Trị thứ 6, vương sư tiễu trừ họ Mạc khôi phục lại đất Cao Bằng lúc ấy mới đặt quan trấn nhậm, tách biệt Cao Bằng ra làm một xứ, không lệ vào xứ Thái Nguyên nữa. Cao Bằng có 4 châu ven biên 13 ải khẩu. Châu Thạch Lâm thì có Thông Nông, Sóc Hồng, Trừng Hà, Trà Lĩnh, Bác Nẫm, Na Lan 6 ải. Châu Quảng Uyên thì có Qủa Thoát, Na Thông hai ải. Châu Thượng Lang thì Cổ Chu, Nga ổ 2 ải . Châu Hạ Lang thì Củng Xương, Đống Long, Bí Hà 3 ải. Vùng đông bắc giáp Nội địa các vùng châu Thượng Gián, châu Hạ Gián, châu An Bình, châu Hạ Lôi, châu Hồ Nhuận. Vùng đông nam giáp Thuỷ Khẩu quan của Long Châu và châu Thoát Lãng xứ Lạng Sơn. Vùng tây nam giáp huyện Cảm Hoá xứ Thái Nguyên. Vùng tây bắc giáp châu Bảo Lạc xứ Tuyên Quang và địa giới phủ Trấn An của Nội địa.
          Phủ Cao Bằng đất sẵn nhiều vàng, sắt, ???? , chiếu, mạch, tuyết lê, thị. Thuỷ sản thì có cá Anh vũ, cá Hương não thanh ngư, trong núi có chim Bạch nhàn, gà Kim tiền, xạ hương, hồ li. Dân ở Thượng Bạn châu Thạch Lâm  phong tục chất phác, có nghĩa khí. Người Điền Quảng thì cần cù, việc tang việc hôn đều dùng thầy cúng (dịch từ Văn công). Việc nông hết thì bắt cá, chồng quăng lưới vợ đẩy chèo, người khoẻ mạnh thì đi săn bắn trong rừng. Dân tục vùng Hạ Bạn châu Thạch Lâm thì nhiều người xảo trá, chăm việc canh cửi. Châu Quảng Uyên là châu có nhiều vùng núi đá, ruộng nương có cao có thấp, thói dân chuộng vu thuật, có bệnh thì cầu cúng xin quỷ thần, miệng lưỡi lanh lẹ mà lòng khó tin (dịch từ Hồ tín), thường người dũng cảm. Châu Thương Lang núi đá trải suốt châu, ruộng bằng, dân trọng vu thuật mà không trọng thuốc, đều tin những điều quỷ mị. Đàn bà có bệnh thì giết lợn gà để cầu đảo, giọng nói thì líu lo, trong đầu chứa điều gian. Tục tang lễ thì mời mười người nhạc công ở đấy thổi sáo, gõ trống đánh bạt, một người đứng ở giữa ca Thập nhị tứ hiếu, uốn chân vẫy tay nhảy múa trước án. Người tù trưởng trong làng (dịch từ Hương tù) ngồi định vị xong, có 4-5 người đánh thanh la hô thưởng, có thể ném vào chỗ ấy 8-9 trù, mỗi trù 3 văn tiền. Táng xong thì tính toán thu tiền ấy, chôn không chọn đất, cứ theo chỗ mộ cũ của tổ tiên ông bà mà táng vào đấy, đất chỗ ấy, đến ngày thì đưa linh cữa vào núi, lấy ván gỗ làm nhà nhỏ che lên chỗ mộ, xung quanh vẽ xanh vàng trắng đỏ, phía dưới đào một cái lỗ ném vào đấy mấy cân gạo, một đôi gà, ở nhà mộ ấy, nói là lưu vật cho theo người chết, như thế con cháu trong nhà sẽ được tốt lành. Châu Hạ Lang tục dân chuộng quỷ thần, bênh tật thì hỏi thầy mo, tâm thì biển lận trá nguỵ, thích tranh tụng. Nhà có con trai đến 5-6 tuổi thì chuẩn bị cho đi làm rể ở nhà gái, trẻ 4-5 tuổi làm đính hôn. Định gặp ngày bảy tiết Đoan Dương thì dựng nhà. Ngày giỗ kị nhà trai đem gà béo, bánh trưng, rượu ngon đưa lễ sang nhà gái, năm nào cũng có không được thiếu, đợi đén khi trưởng thành mới định lễ nghênh hôn. Hoặc có khi con trai lớn lên thấy con gái xấu xí, người trai không muốn lấy, hoặc người con gái thấy chàng trai không phải là trang hảo hán, cũng không muốn kết duyên cùng, thế nên nhà trai đem  việc ấy ra để sinh việc kiện tụng, tính lễ vật đem đến đã 7-8 năm để truy vấn đến cùng. Đến như việc tang, báo trước cho thân tộc hàng xóm, hẹn ngày mỗ trâu treo thịt ở dưới nhà, người thân đến điếu lễ thì đem 500 bánh tròn, lấy gạo nếp nấu lên làm bánh, dùng các màu xanh vàng đỏ trắng, to như cái bát con dạng đáy đặt trước linh cữu, tự đến cắt thịt trâu ấy đem sang nhà bên cạnh uống rượu, say tít cả đất trời. Ngày tế thì hiếu tử mặc áo trắng, đầu đội khăn trắng, lưng đeo một cây đao sắc quỳ trước linh cữu, tay cầm đao làm lễ mời thầy, chúc xin người chết ăn. Người thầy tay cầm đũa gắp thịt, mỗi bát một miếng ném vào trong giỏ, lễ xong, trước linh cữu lễ xong thì đem chôn, hiếu tử cùng người thân thuộc tống tiễn đến huyệt, chôn xong quay về vừa đi vừa khóc, hiểu tử tay cầm đao chém không vào phía sau, người thân cũng cầm cành dâu phất không ra phía sau, không để cho hồn quỷ theo đuôi về nhà, làm các lễ ây đều là tục cổ từ xưa, đến nay dần đổi. Châu Thach Lâm có 6 khu dân, hai bên địa phận Khu Lũng có núi đa, thôn dân cư ở giữa mà không có sông suối, chỉ có gác ống mấy trượng sâu xuống dùng ống trúc đưa nước lên, người và gia súc cùng uống. Có nghề làm chiều, mỗi năm ngày 1 tháng giêng đàn ông trong khu 8-9 người sang xã khác gần đấy xin ăn, lấy mỗi người 1 cái bánh tết (dịch từ Niên bính) đem về đặt trên chỗ thờ thờ tiên tổ. Đến này mồng  giết trâu cũng mời dân xã đến, cả người cho bánh đến nhà uống rượu đến say. Hoặc có lúc bạn bè nướng khoai núi, điều mật ong, mở tiệc. Trồng cây miến, tre xanh để sinh lợi, dưới núi sinh nhiều loài thảo lan hoa với bạch ngư tử hoa. Mùa hè ít có nước, mùa thu mùa đông thì có mưa. Ăn uống thì không được sạch sẽ, mặt mũi nhiễm than bụi đen, duy chân tay thì cũng không khác gì người Ai Lao. Phong tục không có văn tự, có nợ tiền thì làm dấu buộc nút dây, một mạch thì kết nhỏ, một quan thì kết lớn, nợ bạc thì dùng một phiến trúc, nợ một dật thì khắc sâu, nợ một lạng thì khắc nông, dùng tay để điểm chỉ khắc lên phiến trúc, đều là ký hiệu quy định, khắc bên trái, bên phải là sinh lãi, cắt đôi phiến trúc mỗi người cầm một nửa, trả bạc thì thu lại phiến trúc huỷ đi.
          Quan trấn nhậm các triều.
          Xưa nước Nam mở đầu từ Kinh Dương vương, trải các đời đều có vua, biên cương ngang dọc hơn mấy nghìn dặm. Đông giáp biển lớn và vùng Việt Đông, tây giáp Vân Nam lấy huyện Mông Tự làm biên giới phía nam, phía bắc đến tận Việt Tây, phủ Tư Nghĩa, phía nam đến tận nước Chiêm Thành, đó là phần nước Nam. Từ Hán Vũ đế trải các thời Tây Hán, Đông Hán, Tam Quốc, Tấn, Ngũ đại, Tuỳ, Đường đều thuộc vào Trung Hoa. Đến năm Giáp dần đời Tống Càn Đức năm thứ 4(966)[2], ở nước Nam có 12 Sứ quân đuổi người Tống về nước, cát cứ đất đai, xưng hùng tranh phạt lẫn nhau. Kịp khi Đinh, Lê, Lý, Trần kế nhau chiếm vị, cuối đời Trần bị Hồ Quý Li soán ngôi. Năm Bính Tuất đời Minh Vĩnh Lạc thứ 4, vua Minh mệnh cho Tân Thành hầu Hoàng Phúc, Tây Bình hầu Trương Phụ đem 50 vạn quân xuất quan đánh bắt Quý Li, lập Trần Nhật Cảo làm Giao Chỉ quận vương nhưng để Tân Thành hầu Hoàng Phúc ở lại Nam giúp họ Trần làm Giám quốc, ý ấy là có lòng chiếm đoạt, người nước Nam bị cảnh lầm than quá lâu. Lúc ấy có Cao Hoàng đế nhà Lê ta cầm thần kiếm bình giặc Minh, mở mang đất nước, thống nhất sơn hà. Trải các đời thánh chúa tương kế, đến năm Bính tuất hiệu Thống Nguyên thứ 5 (1526), Mạc Đăng Dung chiếm vị lên ngôi đế tại kinh thành đặt hiệu là Minh Đức nguyên niên năm Đinh hợi(1527). Trải các đời kế nhau trị vì, đến năm Đinh mùi niên hiệu Mạc Vĩnh Định nguyên niên(1547), Thái Bảo Hưng quốc công khôi phục hoàng đế nhà Lê, chinh phạt họ Mạc. Tiết chế Lượng quốc công kế tiếp khuông phù nhà Lê khởi binh đánh Mạc, hơn 20 năm khôi phục lại được Kinh thành, Lê Hoàng đế lên ngôi. Vào năm Quý tị niên hiệu Lê Quang Hưng thứ 18(1595)[3], vương sư công phá, Mạc Kính Cung thua chạy, theo đường Lạng Sơn đến Cao Bằng dựng đô lấy hiệu là Càn Thống, trải các niên hiệu Long Thái, Thuận Đức cộng được 63 năm, vương sư tiễu trừ đi được, khôi phục lại Cao Bằng, sai quan vỗ trị. Một phủ Cao Bằng trải thời loạn đã đến cực lại gặp thời đại trị, lúa tốt gạo nhiều, người vui nhà đủ, đi đường không phải lo lương ăn, có cái cảnh tượng của buổi thái bình. Đến năm Canh dần niên hiệu Cảnh Hưng nguyên niên (1740)[4], giặc Cừ nguỵ xưng là Mạc Tam bốn bề nổi dậy như chòm ong, vây bức trấn thành, quân phiên trấn đánh đuổi quét sạch. Đến năm Đinh mùi niên hiệu Chiêu Thống năm đầu (1787), vua Lê lên ngôi, chưa được bao lâu lại phải chịu cảnh bụi trần nơi Kinh Bắc, Lê hoàng hậu cùng con đầu về được trấn Cao Bằng.
          Ngày 1 tháng 5 năm Mậu thân (1788) chỉ huy quân Tây Sơn là Hoán đem vệ binh Thiên Phụ đến châu Thất Tuyền Lạng Sơn. Cùng lúc tại xứ ấy họp bàn sai Địch Vũ hầu bảo vệ xa giá hoàng hậu, sai Tính Trung hầu đóng đồn giữ mặt Bắc Khê, Quán quận công đóng đồn giữ mặt Nhã Nam, Đèo Chung. Quán quận công lệnh du binh đánh quân Tây Sơn ở núi Mai Trật, quân Tây Sơn lui về Thất Tuyền. Lại sai Tiến Thọ hầu đóng quân giữ mặt Thượng Pha, nhưng Tiến Thọ hầu có đứa gia nhân là Văn Soái dẫn đường cho quân Tây Sơn, chỉ huy Hoán từ Thượng Pha nhân đêm tối đến trấn Cao Bằng. Địch Vũ hầu nghe tin nên trước đã bảo vệ Lê hậu lên thuyền thuận dòng đến Phất Mê, quân Tây Sơn đuổi theo, Lê hậu cùng Địch Vũ hầu từ ải Na Thông chạy vào Nội địa, bẩm nhờ Lưỡng Quảng Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị tấu lên Hoàng đế Thiên triều. Hoàng đế thiên triều chiếu mệnh cho Tôn Sĩ Nghị đem quân ở Lưỡng Quảng 10 vạn qua cửa Nam Quan tiến thẳng đến bến Bồ Đề, chỉ mất có 3 ngày. Đại Tư mã Tây Sơn Ngô Văn Sở đem hết tiền, lụa, khí giới cùng voi ngựa lui về Nghệ An. Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị qua sông đóng quân ở Tây Long, Sầm gia ở Điền Châu đem 2000 quân Điền Châu đóng đồn ở hội trường Đống Đa, hoàng đệ Lê Duy Chỉ đem quân Cao Bằng về kinh hộ giá. Năm Quý tị (?)[5] Lê hoàng là Chiêu Thống về kinh yết kiến Tôn Tổng đốc, được phong làm An Nam  quốc vương, được ban sắc ấn. Ngày 28, Lê hậu về kinh, vua Lê lệnh cho đúc tiền Càn Long, bề mặt dùng 4 chữ Càn Long Thông Bảo, mặt sau dùng hai chữ An Nam, niên hiệu thì dùng là Càn Long(lúc ấy hoàng đệ đem quân phiên binh ở Cao Bằng về, cho rằng quân ấy khiếp sợ chinh chiến nên đều thu lấy vũ khí súng ống đạn dược giao cho quân ở kinh, đem lũ tàn tốt ấy mà chống giặc. Mệnh cho Tiến Vũ hầu tức tên là Ba Trường làm Đốc lĩnh. Ngày mồng 5 nghe tin quân Tây Sơn đến, quân của Đốc lĩnh mới ra đến cửa nam, tàn binh ấy đã chốn mất một nửa, quan Đốc lĩnh cũng chạy mất).
          Ngày 1 tháng giêng năm Kỉ dậu (1789), Quang Bình đem quân Tây Sơn từ Nghệ An, Thanh Hoa đến sông Tương Trúc, Sơn Nam giao chiến cùng quân Thiên triều. Ngày mồng 5 Đề đốc Thiên triều Dương Thế Hanh bại trận, phi ngựa về báo. Tổng đốc Tôn nghe thua lập tức qua cầu sang bến Bồ Đề, ở đầu này cầu phía kinh thành hốt nghe tiếng súng nổ vọng từ phía sau, Tổng đốc nghi quân giặc đã đến gần liền sai chặt cầu đứt ra một đoạn dài 5 xích, lên kiệu mà chạy. Vả  do đầu này cầu, viên Bả tổng (chức quan võ của Thiên triều) giữ hòm thuốc súng ở đó, quân đóng đồn ngay bến sông, viên ấy bất cẩn lúc hút thuốc, lại thấy kiệu của đại nhân bỏ chạy hốt hoảng cuống cuồng, ý cũng muốn chạy theo, để rơi tàn lửa vào hòm thuốc, tức thì thuốc bén lửa cháy bùng lên, nổ vang như tiếng súng, thế nên đại nhân sai chặt cầu phao. Kịp khi Đề đốc Dương Thế Hanh, Du kích Trương Hoá Long, các quân thủ bị, thiên tổng cùng các người khách thua chạy về qua cầu phao đến chỗ bị cắt, người người đều nhảy xuống nước, nhưng nước sông đang chảy gấp, đều bị chết đuối dưới sông. Lê Chiêu Thống cùng hoàng thái hậu theo đuôi Tôn tổng đốc chạy suốt đêm đến Lạng Sơn, qua cửa Nam Quan. Đồn quân Điền Châu của họ Sầm cùng quân Tây Sơn giao chiến từ ngày mùng 5 đến tận giờ Mùi ngày mùng 7 mới thua, họ Sầm Điền Châu chết trong trận (thi hài chôn bên miếu nhỏ cạnh gò Đống Đa). Tháng 2 Tây Sơn sai Đô đốc Uyển Vũ hầu làm Trấn thủ Cao Bằng. Tháng 3 đến nhậm chức, tháng 5 Trấn thủ đem quân đi đánh Bảo Lạc nhưng không được, lại quay về trấn. Từ năm Tân hợi (1791) trở về sau lần lượt sai quan đến trấn nhậm, lấy giết chóc để ra oai, sách nhiễu tiền bạc, dân Cao Bằng máu mỡ đã kiệt.
          Kính cẩn ghi rằng: Ôi, cái đạo thịnh rồi suy là việc thường của các triều đại. Triều Lê ta thừa hưởng ngày thái bình đã lâu, Trịnh vương nắm quyền chính cũng ví như tô vẽ vàng ngọc, lại phóng túng việc thanh sắc. Bên ngoài tuy chưa có vẻ suy mà bên trong thì sắp hư ruỗng rồi, để đến như binh lính trong kinh kiêu căng. Nghe Quang Bình tung tin giả là quân Nguyễn vương ta đến mà bọn kiêu binh lại ngỡ là thật, vứt bỏ cả qua giáp. Kịp khi Quang Bình tiến vào kinh mới biết là dối, hối mà chịu bó tay, tuy có múa can múa thuẫn, há có thể chế ngự lại được. Ôi, học cái phép dưỡng sinh như gấu trèo cây, như chim duỗi cẳng, tuy là cái thuật để kéo dài tuổi thọ, là cao để nối liền xương cốt cũng chẳng thể trị được bệnh tật, ấy là do đã gặp phải cái vận ách nên ra như thế. Vậy nên Quang Bình mới tiến quân như vào chỗ không người, giật cương ngựa trên đường hoàng lộ, quan trấn thủ toàn bọn lính chiến, lấy lũ cáo cầy làm hàng sĩ phu, dùng chém giết để ra oai, dùng hà khắc làm chính vụ, sai quân tróc nã tiền dân, treo ngược chân người để thu của cải, bắt dân phu nộp tiền thay thế, bổ nhà nông để tính thuế. Lại còn bọn tiẻu nhân theo đuôi cấu kết rút ruột dân, trăm mối thu cầu mà máu mỡ dân Cao Bằng đã kiệt. Thế là muốn cứu một cái cây khô héo mà lại chặt cái gốc của nó, lại còn dựa vào đâu mà cứu được ? Ôi, hiệu quả của việc đại trị, là cái ta sao có thể lượng được, biết được chăng ? . Cứu được dân sầu khốn, hồn phách oan uổng có thể cảm động được trời đất mà biến ra hình báo. Địa trấn không ngớt, ấy là trời răn quở điều sai trái, như cây to sắp đổ, không thể một sợi dây mà dằng lại được, sao có thể trơ trơ như thế ru ? Ta xem tượng trời, xét việc người, thì trời đã muốn bỏ nhà Tây Sơn, thế thì Tây Sơn sao có thể lâu dài được mà hợp với hàng vương giả trong thiên hạ đây ?
          Tháng 11, Tây Sơn công phá châu Bảo Lạc bắt được Khoan Triều hầu (người Bảo Lạc) và hoàng đệ Lê Duy Chỉ, cùng giải về Thăng Long xử chết. Duy Sảng quận công bị giam ở thành Thăng Long, suốt ngày chửi giặc không ngớt mồm, cũng bị hại (chép bài thơ tán rằng):
          Lòng trung tự hứa không hàng giặc,
          Một thân dám nói điều người khác khó dám.
          Vì nước hy sinh nhẹ tựa lá,
          Danh cao thiên cổ nặng như non.
          Tháng 2 năm Mậu ngọ(1798), Huân Liệt hầu nhà Tây Sơn làm Hiệp trấn Cao Bằng, về Bắc Thành, lấy 100 binh phu, mỗi binh phu phải nộp một dật bạc.
          Ngày 1 tháng 9, Cao Bằng có động đất.
          Năm Kỉ mùi (1799), Trấn thủ Tây Sơn lấy 100 suất binh ở bản xứ, mỗi người nộp 3 lạng bạc, sang tháng cho về làm dân.
          Giờ Tí ngày 27 tháng 7 Cao Bằng có động đất.
          Ngày Canh thìn tháng 5 năm Tân dậu (1801), Nguyễn Quang Toản nhà Tây Sơn nghe tin quân đến vây thành đã trốn trước ra Nghệ An. Đến Thăng Long đổi niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 9(1801) ra làm năm Bảo Hưng thứ nhất(1801).
          Tháng 3 năm Nhâm tuất(1802), Trấn thủ Tây Sơn là Hội Vũ hầu thúc dân xây đồn ở đầu thành, vừa hay quân từ Bảo Lạc đến đánh thành Mục Mã. Quan án trấn nhà Tây Sơn là Bật Vũ hầu phản lại, cùng Liêm Trung hầu ở châu Bảo Lạc hợp với quân ba châu Thượng Lang, Hạ Lang, Quảng Uyên vây bức trấn thủ Hội ở đầu thành Mục Mã. Bỗng có Trấn thủ Lạng  Sơn và trấn thủ Thái Nguyên là Long Vũ hầu đem quân đến tiếp viện, vì thế quân Bảo Lạc phải lui, quân ba châu cung rút về. Lúc ấy trấn thủ Hội sai Tham đốc là Sản thả quân đốt phá ba châu, bắt trâu bò của cải, dân cư tản chạy vào rừng núi. Khi nghe tin nhà Tây Sơn thất thủ ở kinh thành, khắp nơi vui mừng như hạn lâu gặp mưa ngọt.
         Sách Thực Lục dẫn rằng: án Mạnh Tử nói: Phàm thiên hạ đã có từ lâu rồi, một thịnh trị, một suy loạn. Suy loạn đến cực thì trời tất chán ghét mà cho sinh ra thịnh trị, cái thịnh trị sinh ra ắt phải có người khu trừ cái suy loạn đi, để quét sạch cái tàn dư của hoạ loạn. Ôi, bậc vua có thể làm việc quy về đạo chính, khiến trong khoảng ấy mở ra mối đại trị, thì hưởng cảnh toàn thịnh muôn năm, các đời trước không ai không như thế. Từ Thái tổ hoàng đế nhà Lê chỉ thần kiếm bình giặc Minh, khai thác biên cương cho đến đời Chiêu Thống là cái thịnh trị chuyển sang thế cùng cực rồi, như ghét cái áo bẩn mà đốt đi, ghét sâu đục cây mà chặt đi. Khổng tử nói: Người mà không có lòng nhân, ghét nó quá, thì loạn rồi, là nói chỗ này vậy. Đại khái việc định số vận, tiêu nhiễu nhương há có thể chỉ nệ vào trí dũng đại lược mà nên việc được. Nhưng lẽ thành bại, việc lợi việc ngu, quan hệ ở nhất thời, ở việc đạo lý được hay mất. Bỗng đâu nổi lên giặc Quang Bình nhà Tây Sơn, anh giặc là Thái Đức, đốt cháu, diệt thành, gây mâu thuẫn với nhau, gươm giáo đầy đồng, làm tàn hại thành Quy Nhơn, sao lại nhẫn tâm cắt tình máu mủ như thế ? Há chẳng bạc ác sao ? Thế chẳng phải cái lượng của bậc vương giả. Ví như giới hạn của trời tuy rộng, một ngọn lau cũng còn có thể làm thuyền vượt qua thì lông cánh đã đầy đủ, lo gì không bay cao. Chỉ giữ một lòng hẹp hòi, hiềm khích nghi kỵ nhau mà làm điều tàn nhẫn, theo cái thuyết úp úp mở mở của bọn du thuyết để mưu đồ ngôi báu. Thấy con lợn lấm bùn mà dậy lòng thương, thăng thưởng không theo thứ tự, dùng thủ đoạn tàn độc làm chính sách với dân. Sau lại khuyến khích đảng cướp, xua lũ côn đồ vào thành Thăng Long, như thả chó dữ ra bắt thỏ què, tự cho rằng không ai là địch thủ, tấc lòng kiêu hãnh dùng lời lẽ khoe khoang của kẻ dụng võ, coi đất Bắc Hà như miếng thịt để trên máy vậy. Vả lại bậc vương giả không nỡ thấy dân mình đồ thán, dùng đại nghĩa hết sức cứu vớt, không dám một chút trái điều nhân. Giết một người vô tội thì dù đem cả dân tịch hải nội mà theo về, bậc minh quân cũng không thèm nhìn đến. Tấm lòng ấy hiện rõ trong trời đất, như Quang Bình tuy biết là  bạo ngược nhưng từng chưa có mưu mô thâm sâu vững chắc, lông cánh đã bị cắt đi rồi, sao có thể bay xã được nữa. Thế nên trời chán ghét khiến cho thời vận biến cải, xe cữu rồng lại phải rơi lệ nơi gò mộ xanh. Vua Cảnh Thịnh kế thừa, lúc đầu nói là: Hoàn thành cái còn lại của đời trước. Nhưng là kẻ nhu nhược, lại thêm ức chế bởi quyền thần, thế há có thể sánh được như cái trí trá xảo quyệt của Hán Chiêu đế. Việc triều chính chẳng biết hay dở mà lại muốn có tài trừ cỏ dại giết dã thú, có thể không loạn được chăng ? . Sai Đại tư mã Ngô Văn Sở nắm mọi việc ở kinh, trưng dụng cả 4 trấn, tìm cách nhiễu dân, dấy động không ngớt dùng binh, thuế má bức bách, việc quân ngày một nhiều, xương thịt đầy đồng, tiếng cửi canh ngừng bặt nơi thôn xóm. Thế nên lòng người lắm ca thán, trong nước lay động không yên, nơi qua lại thường có đảng cướp ẩn nấp, hay bắt được luôn, nhưng ra uy tàn nhẫn nên nạn không dứt. Lại làm những chuyện sai trái, nhưng há có thể chôn vùi được hết lý lẽ sao ?. Đại để việc đại trị có chỗ còn chưa đạt đến được, tìm không thấy, nhưng cho rằng Quản thị không giết người mà được gia tề quốc trị thì cũng không phải. Lấy loại cỏ rác vô năng, dùng sức lực lũ chó má, sai trấn thủ Cao Bằng thu tiền đồng, nồi đồng, các đồ bằng đồng của dân, cùng huỷ tiền Càn Long để đúc đồng tiền Quang Trung tệ bạc, cũng tựa như việc in tiền giấy của Hồ Hán Thương, há có thể được thịnh trị lâu dài ư ?. Lấy mảnh đất Cao Bằng đơn lẻ tầm thường đã trải qua những năm chiến tranh, vá víu thay đổi, khiến đến loài chim nhạn cũng hiện vẻ nháo nhác,  cỏ rác tắc cả cửa nhà, trộm cắp đầy nơi thôn xóm như loài rắn rết nhòm ngó ngay bên, con sâu con chim không dám ngoái lại phía sau. Lũ Trấn thủ, Hiệp trấn của Tây Sơn đều có cái lượng ham của, ham gái, không phải là bậc văn tài mưu trí, sao mà biết được việc chính trị để vỗ về dân đen. Ngồi làm bù nhìn, hưởng danh tiếng hư hão, trên thì lừa vua, dưới thì mọt dân, thế là do Cảnh Thịnh dùng người không có năng lực nên mới đến như thế. Kinh Thư nói: Trụ là kẻ chúa có tội phải chốn tránh trong thiên hạ, là nói như loài cá trốn ở vực sâu, như loài thú trốn trong rừng thẳm .
          Tháng 6 năm ấy, Nguyễn Quang Toản nhà Tây Sơn thấy đại quân đến gần kinh thành, liền từ Thăng Long vượt sông Nhĩ Hà mà trốn sang vùng Kinh Bắc. Kịp khi Hoàng thượng ta dẫn đại quân tiến đến kinh thành thì dân chúng vùng Kinh Bắc dùng dây buộc cổ Quang Toản giải đến trước ngự tiền. Trấn thủ Cao Bằng nghe tin biến thì bỏ cả trấn thành trốn chạy, đi theo lối Vũ Nhai xứ Thái Nguyên đến hàng. Thế là khắp cõi cùng về, triều ta nhất thống dư đồ, vĩnh trị đến vạn năm.
         
         



         









[1] Khoa Đinh Mùi 1727 đời Bảo Thái có  Nguyễn Quốc Ích (1686-1739) người xó Vịnh Cầu huyện Đông Ngàn (nay thuộc xó Đồng Nguyên huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh)đỗ Tiến sĩ . Ông là anh của Nguyễn Đức Đôn, Nguyễn Công Viên và làm quan Đông các Hiệu thư, Đốc trấn Cao Bằng.
[2] Đúng là năm Bính Dần  đời Tống Thái Tổ Triệu khuông Dẫn niên hiệu Càn Đức thứ 4(966).
[3] Đúng năm Quang Hưng thứ 18 là năm Ất Mùi 1595; năm Quí Tỵ là năm 1593.
[4] Cảnh Hưng nguyên niên là năm Canh Thân chứ không phải Canh Dần là năm Cảnh Hưng thứ 31 (1770)
[5] Đúng là phải năm Mậu Thân 1788.

Nguyên bản:
(Nguyên bản chúng tôi chụp lại từ Luận văn của Phạm Thùy Dương - Bản này thiếu, chưa đầy đủ. Chúng tôi xin bổ sung Nguyên bản chụp của ông Hoàng Giáp năm 2002 trong bài http://yeuhannom.blogspot.de/2017/09/a1129.html)















Còn tiếp ... (Nguyên bản chúng tôi chụp lại từ Luận văn của Phạm Thùy Dương - Bản này thiếu, chưa đầy đủ. Chúng tôi xin bổ sung trong bài khác)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét