Cao Bằng thực lục, A. 1129
Dịch nghĩa: Nguyễn Đức Toàn- Viện Hán Nôm
Bài
tựa sách Cao Bằng thực lục.
Ôi cái việc ghi chép, là những việc có thực mà rõ ràng thì ghi lại. Việc ghi chép lại ấy, là để tỏ tường gần xa, phân biệt việc giống khác đó. Từ đời xưa, cái gọi là cốt yếu của vương đạo là gốc ở nhân tình, thích nghi ở phong tục. Cái lớn thì sáng tỏ ra trong lời văn cuả Thi Thư, còn sự tường tận thì thấy rõ tản mát ở những sự ghi chép nơi biên ấp. Đó chính là cái các bậc vua thánh, tướng hiền có thể chẳng cần bước xuống bệ mà biết khắp hết các chỗ yếu chỗ mạnh trong thiên hạ, làm khuôn thước để trị nước bảo bang. Vả như một phủ Cao Bằng, là phủ lớn ở một phương, đầu mối đứng đầu các phiên thuộc. Châu thuộc có 4, ải khẩu có 13, là nơi nước ta quan tâm gửi gắm khích lệ lớn, để khai thác miền biên viễn xa xôi, tính bề ích lợi cho việc đại trị. Ngưỡng xét quy mô vết tích, giáo hoá lê dân, thì cửa mở cũng chẳng kinh động chó sủa, chốn rượu chè chẳng cấm được người say. Khí vận đã xoay vần thời thế hanh thông, núi sông rộng mở ngày càng thêm rực rỡ. Lấy vẻ đẹp của núi sông ấy ắt sẽ nổi bậc anh hào, sinh người tuấn tú, nhân vật lưu danh.
Ôi
như vậy thì đất nào đất chẳng sinh nhân tài, nhân tài nào nhân tài chẳng lưu tiếng
ở đời đây. Như Trí Cao cướp đất Tống, anh dũng vô song; Trí Kiên bền gan, trung
thành chẳng đổi; Trần Kiên,Trần Quý trừ hại để yên dân, đức trạch mãi ghi lưu bất
hủ. Phù Thắng, Phù Thiết giữ lòng theo đường chính, anh hùng khí đởm phi thường.
Trần công dũng cảm càng đáng khen, Hoàng Lục chí hùng thêm lẫm liệt. Khoái Trạch
hầu liêm minh làm chính sự, không một kẻ tư hiềm, tiếng tăm lưu thế, dân bốn châu cùng đội ơn đức. Lại ôi ! Quan
Triều nơi khe cá gặp kỳ duyên, thần cởi áo ban tặng. Trộm kho tàng để phát lòng
hào hiệp, đuổi quân Tống để chuộc lỗi lầm, cuối cùng kiến dựng đại công, cưỡi rồng
cùng phối duyên Hồng Liên công chúa. Đó là các thần thiêng mà đảnh sinh kỳ tú,
đều là tinh anh chung dục, giúp nước yên vững như bàn đá. Nay dân được mãi yên
bình, việc hưởng tế tự, ấy cũng là đúng.
Ta
đây lúc nhỏ theo thầy, rỗi xem chương cú đã sơ lược biết được cái tinh vi. Đến
lúc mũ đội tròn đầu, hài đi đã chật, thực hổ thẹn khó bổ sung những chỗ còn thiếu
sót. Tuổi kịp đến trưởng thành, ơn kế tập chức trước, đoán rằng đất này từ lâu
chưa có ghi chép gì, bèn trích lấy những việc có thực trước mà thêm bớt đính
chính nó, hội tập giấy tờ còn sót lại, tham khảo những điều nghe biết. Sửa ngọc
cho mới, những cái diên cách thêm bớt,
khác biệt. Như mà không sưu tầm được hết thì danh tích ngày một mất đi, người cầm
sách đời sau thu nhặt lại càng khó.
Nay
mừng gặp triều ta hưng thịnh, nhân sưu tập Thực lục, biên soạn thành sách. Vả
như đặt từ chưa được công phu, ấy cũng là cái quyền chim hồng được lưu vết, dám
rửa bút để đợi bậc quân tử đời sau, hay để cho một hai người đồng chí có thể
dùng làm tham khảo vậy thôi.
Ngày
tốt tháng đầu xuân, năm Canh Ngọ niên hiệu Gia Long thứ 9(1810) .
Nguyễn
Hựu Cung, người Ninh Sóc, Lâm Khê viết ở bên trái Sơn Miêu đường.
Cao Bằng Thực Lục.
Thứ nhất, ghi
chép về các thần.
Truyện
Bà Hoàng ở Khâu Sầm
Xưa
Nùng Trí Cao, người châu Quảng Uyên (nay là phủ Cao Bằng), nhà nối đời làm thủ
lĩnh, có nhiều binh quyền, ở nước Việt từ đời Đường trở về đây, hùng cứ đất Quảng
Nguyên, cùng với họ Hoàng, họ Chu thống lĩnh đến tám phần mười, mà họ Nùng lại
hùng mạnh, cứ như tằm ăn rỗi, thôn tính dần dần hết.
Cuối
đời Đường vùng Giao Chỉ hùng mạnh lên, châu Quảng Nguyên thần phục, thuộc vào đạo
Lâm Tây. Các châu Giáp Động, Lạng Châu, Tô Mậu, Quảng Nguyên, Ba Bình, Đô Kim,
Thường Tân đều thường khởi binh đánh ba châu Châu Ung, Tư Lăng, Tây Bình của đất
Tống cướp của cải trâu ngựa đem về. Lúc bấy giờ vua nhà Tống suy vi, giặc ở
phương Bắc xâm lấn ở bên trong nên chẳng rỗi rãi để trông coi mặt Nam. Năm
Thông Thuỵ thứ 5 (1038) đời Lý, cha của Nùng Trí Cao là Nùng Toàn Phúc, trước
là thủ lĩnh châu Đảng Do, chú ruột là Nùng Toàn Lộc, là thủ lĩnh châu Vạn Nhai,
mẹ là A Nùng Chi, em là Đương Đạo, là thủ lĩnh châu Vũ Lặc, đều lệ thuộc châu
Quảng Nguyên, hàng năm đều vận chuyển đồ cống phẩm. Sau Nùng Toàn Phúc giết em
là Toàn Lộc, cùng Đương Đạo thôn tính đất đai rồi làm phản triều Lý, tự xưng là
Chiêu Thánh hoàng đế, vợ là A Nùng là Minh Đức hoàng hậu, phong con trưởng Nùng
Trí Thông làm Nam Diễn vương, đổi tên châu làm nước Trường Sinh (Trường Sinh quốc),
may giáp luyện binh, đắp thành để chống lại.
Ngày
Tân Hợi tháng giêng năm Kỷ Mão, Càn Phù Hữu Đạo thứ nhất (1039) triều Lý, thủ
lĩnh châu Tây Nùng là Hà Văn Trinh đem việc Toàn Phúc làm phản tâu lên. Tháng
hai (năm ấy) vua Lý tự thân cầm quân đi dẹp. Toàn Phúc đem quân đóng trong
thành chống giữ, nhưng thế không kháng cự lại được, bèn dẫn liêu thuộc dắt vợ
con bỏ thành chạy vào vùng núi, vùng khe. Vua Lý thả quân truy đuổi bắt được
cùng với con trưởng Trí Thông, bị đóng cũi giải về kinh sư, rồi đều bị chém cả.
Duy chỉ có A Nùng và con thứ là Nùng Trí Cao tuổi còn thơ bé, mẹ dắt đến ở nhà
chú. Chú là Nùng Trí Viễn có một con ngựa cái, sai Cao đi chăn ngoài đồng, thường
hay thấy có đám mây đen giáng xuống, xoay chuyển từ trên không xuống phủ lên
lưng ngựa cái, trong chốc lát lại tan, chỉ mình Cao trông thấy. Trong lòng Cao
ngầm có chí khôi phục sự nghiệp nhưng không để lộ ra. Đến khi ngựa ấy có mang,
hơn một năm thì sinh ra một con ngựa đực non, toàn thân không có lông. Người
chú thấy quái dị thì vứt đi, Cao nhân đấy khẩn thiết xin nuôi, chú liền đồng ý
cho. Cao dắt ngựa ra ngoài thung lũng, làm chuồng nuôi dưỡng, chỉ trong có ba
ngày toàn thân lông mọc ra trông rất dĩnh ngộ, đứng dậy phi chạy như gió. Chăm
sóc hơn một năm, ngựa béo tốt hùng tráng, hai tai như lá trúc, bốn móng nhanh
như gió lùa. Cao thường cưỡi mỗi ngày, dong chơi ở trong thung lũng, kiêu dũng
như bay.
Có một hôm, Cao thả cương cho chạy, vó nện đất
như vỡ băng, nhanh như bay vút cao lên không, chốc lát đã lên đến đỉnh Thống
sơn (Nay núi An Lại là nó vậy). Cao ngồi trên lưng ngựa, xa thấy bàn đá có một
ông lão ngồi ngay ngắn, Cao nghĩ đây ắt là một bậc dị nhân, bèn xuống ngựa,
khom mình đi đến quì trước dị nhân nói:
“May
mắn gặp được tiên nhân, xin được nghe lời dạy bảo”.
Dị nhân ấy bèn truyền cho một quyển sách, Trí
Cao quì dơ hai tay đỡ lấy, khấu đầu lạy tạ, cáo từ ra về, ra roi phi ngựa từ
trên không trung xuống.
Trí
Cao vóc dáng cao lớn khoẻ mạnh, có trí dũng hơn người, hay tiếp thu những bọn
phản loạn, lưu vong mưu đồ việc lớn. Năm Tân Tị niên hiệu Càn Phù Hữu Đạo thứ
ba(1041) triều Lý, Trí Cao nối thừa chức cha, dâng biểu xin được vào chầu. Vua
Lý thương là cha và anh đều bị giết, ra chiếu tha tội, cho được trông coi châu
Quảng Nguyên như trước để giữ gìn đất nơi phên dậu. Cao lấy vợ tên là Cầm cho
làm phi, cho về phủ thự ở châu. Tháng 9 năm Quý Sửu, vua Lý sai Nguỵ Trưng đến
châu Quảng Nguyên ban cho Nùng Trí Cao Đô ấn, bái chức Thái Bảo.
Năm
Nhâm Ngọ niên hiệu Minh Đạo nguyên niên 1042(tức năm đầu niên hiệu Khánh Lịch
nhà Tống), Nùng Trí Cao cùng mẹ A Nùng chiếm cứ ba châu Do Lôi, Hoả Động, Thảng
Do đổi châu làm nước Đại Lịch (Đại Lịch quốc). Nhà Lý lấy 4 động Lôi Bình, An
Bà và châu Tư Lang cho thêm. Tháng 9 Trí Cao dâng biểu xin vua Lý sai tướng dẫn
binh sang đánh đất Ung Châu của Tống (Nay là phủ Nam Ninh), thế là lại có được
cả đất Lĩnh Tây. Năm Mậu Tí niên hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ thứ 6 (1048), Trí Cao
chiếm giữ châu An Đức, tiếm xưng là nước Nam Thiên (Nam Thiên quốc), cải nguyên
là Cảnh Thuỵ năm đầu, lại sai Chỉ huy sứ là Biện Vân giữ châu, sai Kiến Nùng hầu,
Chí Ân hầu dẫn quân đi tuần biên, chia liêu thuộc đi kén binh gọi là đội Thập vạn
hùng sư, đều giữ cho làm thuộc hạ, thao luyện trận pháp, đóng ở Lôi Châu, thế
quân rất mạnh. Lại khiến tướng chuyển tàu, điều quân.
Đến
năm Sùng Hưng Đại Bảo nguyên niên (1049)triều Lý (Năm Tống Hoàng Hựu nguyên
niên), Trí Cao dẫn quân từ châu Uất Lâm đến đánh trại Hoành Sơn, phá được (trại),
sai quan chia giữ.
Mùa
hè tháng tư năm Nhâm Thìn niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ 4 (1052)(năm Tống
Hoàng Hựu thứ 4), Trí Cao đã chiếm được Ung Châu xưng là Nhân Huệ hoàng đế, dựng
quốc hiệu là Đại Nam, cải nguyên là Khải Lịch năm đầu, lập vợ là Thẩm làm hoàng
hậu (người xã Hàm An châu Thạch Lâm), lấy vợ là Kim Anh cho làm phi (người Quảng
Tây). Từ khi đem quân đánh vào đất Tống, phá trại Hoành Sơn, vây hãm Ung,
Hoành, Quý, Đằng, Ngô, Khang (nay là phủ Đức Khánh), Đoan (nay là phủ Triệu
Khánh), Củng, Tầm chín châu, thế như chẻ tre, quân đóng ở Quảng Thành, Việt
Đông.
Tháng 7 mùa thu, Trí Cao từ Quảng Thành công
hãm Chiêu Châu (nay là phủ Bình án), chia quan tể cai trị, ở được một tháng lại
dẫn quân về. Năm ấy nghe tin vua Tống sửa sang quân ngũ, Trí Cao lại dẫn đại
quân đến Ung Châu, giết tướng sĩ quân Tống hơn 3000 người, bắt sống kể đến hàng
vạn, những chỗ đi qua thì cướp đốt chẳng bỏ sót. Vua Tống sai Dương Điền, Từ
Tĩnh đi cự chiến, Trí Cao ra sức đánh bại được. Vua tôi Đại Tống rất lấy làm
lo, lập tức đề bạt Khu Mật phó sứ Địch Thanh làm Khu Mật sứ đô đại, đề cử nắm Tổng
tiết việt đem quân đi chế ngự Trí Cao. Quân Địch Thanh chưa đi tới hạt Kiềm của
Quảng Tây thì Trần Thự (chắc là một bộ tướng của Cao)trộm đem bộ tốt tám nghìn
tên theo kế “dĩ dật đãi lao” ra nghênh chiến. Quân của Trí Cao bại hoại, thua ở
Kim Thành dịch, lại vỡ ở Côn Luân quan
(nay là phủ Nam Ninh).
Năm
Quý Tị niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ 5 triều Lý (Năm Tống Hoàng Hựu thứ
5(1053) Địch Thanh đem quân đến phố Quy Nhân ở Ung Châu. Trí Cao lại sửa sang
sĩ tốt nghênh chiến, Cao một mình cưỡi thần mã từ trên không xuống tung hoành
xông xáo, lấy đầu thượng tướng như lấy đồ trong túi, thế quân mạnh lên. Địch
Thanh lo ngại không dám giáp công, chỉ đắp thành vững để cố thủ. Địch Thanh
đoán là Trí Cao cậy có thần mã bay từ trên không xuống, nên không có cơ chế phục,
mà các tướng bị giết nhiều. Hơn một tháng Địch Thanh trù tính, mới lệnh cho
quân doanh làm cái mông xung nối vào nhau đóng trên mộc sách, quân sĩ chạy đi lại
phía dưới, vừa đánh vừa giữ, dời doanh trại đến đánh. Cao cưỡi ngựa ở bên trên,
rút cục cũng không xuyên nhập được vào doanh trại quân Tống. Hai bên chống nhau
mấy tháng chưa phân thắng phụ, Địch Thanh hạ lệnh cho quân sĩ ăn no, chẳng kể
ngày đêm chia giữ Côn Luân quan, Quy Nhân phố. Sáng hôm sau, Địch Thanh dẫn
quân ra khiêu chiến, quân của Cao đóng ở trên núi, chia làm hai thành thế ỷ giốc
tương trợ lẫn nhau. Tướng Tống là Tôn Tiết Kích chết dưới chân núi, quân của
Cao thế mạnh, bọn tướng Tống là Tôn Miện thấy đều thất sắc cả. Tướng bên Tống
là Giả Đạt đem tả quân lên tranh lập sơn trại, Trương Ngọc đem quân tiền phong
xông lên trước trận, Địch Thanh cầm cờ trắng vẫy đội kỵ binh ở vùng biên viễn
xuất chiến đánh vào sau lưng Trí Cao. Hai bên dùng dao ngắn hỗn chiến một trận,
tướng sĩ của Cao ra sức đánh chém quân Tống hơn 9000 người, riêng một mình Cao
cưỡi ngựa giết quân Tống hơn mấy trăm. Quân của Cao cũng bị hại đến hàng vạn,
ngựa Cao sức mỏi, Cao thấy thế bất lợi cũng gõ chiêng thu quân về doanh, kiên cố
hào luỹ tự thủ. Quân Tống cũng tháo vây về trại. Đêm ấy quân Tống bao vây ba bề,
đánh rất gấp, Trí Cao liệu địch không lại liền mở cửa sau mà chạy. Chạy đến Đại
Lý (nay là phủ Đại Lý tỉnh Vân Nam), Địch
Thanh truy kích phá được nhưng không biết Trí Cao chạy hướng nào, người Tống
tìm khắp trong thành thấy trong đống tro tàn có thi hài cao lớn, mặc giáp vàng
cho đó là Trí Cao rồi đem đốt xác đi. Địch Thanh liền cấp tốc chỉnh đốn quân
ngũ khải hoàn để lo chống giặc Kim. Trí Cao từ Đại Lý cưỡi ngựa bay 5 ngày trời,
lại về đất cũ châu Quảng Nguyên (ngựa bay 5 ngày, Cao thường cho ngựa hạ xuống,
ăn cỏ uống nước xong lại nhảy lên ngựa bay đi). Người trong châu thấy Cao trở về
phủ thự, ngày ngày buồn bã, ở chẳng bao lâu lại cưỡi ngựa đi, không biết đi
đâu.
Mẹ
Cao là A Nùng vào chiếm cứ động Đặc Ma, nuôi hơn vạn quân lại xâm phạm bờ cõi
nước Tống, hoành hành Ung Châu, thế quân trấn động. Nhưng phụ nữ chỉ có thể làm
tướng, không thể giữ được phong cương, sau thua chạy về châu Quảng Nguyên, chết
già.
Mùa
thu năm trước, lúc Trí Cao cùng Địch Thanh giao chiến ở Côn Luân quan, có hôm
sai Lương Châu về kinh xin xuất quân. Vua Lý xuống chiếu mệnh Đô chỉ huy sứ Vũ
Nhĩ đem một vạn quân đi giúp, nhưng vừa đến địa giới Ung Châu nghe tin Trí Cao
đã thua nên lại đem quân về triều, đem uy thế chiến công của Trí Cao cùng việc
bại quân ở Đại Lý, về đất cũ cưỡi ngựa bay đi mất. Nghe tâu, vua Lý cảm khái
than, tiếc tài dũng lược cái thế. Vả Trí Cao vốn căn bản ở đất Quảng Nguyên,
sau khi bay đi mất, dân trong châu hàm ơn đức của Trí Cao lập miếu phụng thờ.
Nhà Lý đặc chiếu bao phong Trí Cao làm Khâu Sầm đại vương, đền ở thôn Bán Ngân,
xã Tượng Lặc châu Thạch Lâm, phong mẹ là A Nùng làm Bà Hoàng đại vương, đền tại
thôn Phù Vạn, xã Kim Pha châu Thạch Lâm, hai đền ấy đều được phong thượng đẳng
thần, xuân thu quốc tế, các triều đều gia phong mỹ tự:
-
Khâu Sầm tế thế, an dân hãn ngoại, ninh thuỳ trấn địch, anh nghị quả đoán hiển ứng
thuỳ hưu, hộ quốc an dân đại vương.
-
Bà Hoàng phổ ứng, hiển linh diệu cảm, hồng hưu tĩnh trấn, hiển phù linh thông,
phục viễn ninh cảnh, vũ di hiển hưu, cảm ứng hộ quốc, ninh dân dương vũ đinh
công đại vương.
Ôi một mình Trí Cao
cùng nước Tống ghanh đua hơn mười năm, vua tôi nhà Tống rất lấy làm lo ngại. (Tống)
Có thiên hạ rộng lớn như thế mà sức chẳng thể chế ngự được thì thấy cái anh
hùng kiêu dũng của Trí Cao hơn hẳn người khác vậy. Mạnh
mẽ thay mạnh mẽ thay, là cái mạnh của Trí Cao ư ? hay là cái mạnh của người
phương nam ư ?. Nhưng Trí Cao có đất của hơn 50 châu, thống lĩnh hơn 10
vạn quân thiết đột mà sau lại bị Địch Thanh đánh bại, chắc trời còn giúp nhà Tống
mà giới hạn chia Nam Bắc nên mới như vậy,
vận số ắt còn đợi bậc vua tài chăng?
Truyện
hai vị Đại vương họ Trần ở Đống Lân, Cai Cộng
Lời
truyền lại của người già, chuyện hay kể
của trẻ nhỏ, đều đáng tin là chuyện kỳ lạ của đất này. Sách vở như không tu sửa
để chép lại thì đời sau biết vào đâu mà khảo sát. Thứ đến gia thế họ Trần có
công với vùng này, giúp rập dân ở đây, lo là về sau lâu ngày mai một đi mất, thế
không thể không ghi chép thành văn để làm điều bổ trợ chốc lát cho nghìn năm vậy.
Xưa
thời Ngũ đại, đất Nam đều lệ thuộc Trung Hoa. Cuối đời Chu, mười hai sứ quân ở
nứơc Nam cùng nổi dậy, nhà Trần công nối đời ở đất Ninh Sóc (nay thuộc Cao Bằng),
có người vợ họ Hoàng có mang rất thèm ăn thịt hươu. Trần công vào núi săn, hàng
ngày bắt được đem về cho. Đủ tháng sinh ra được một trai, đặt tên là Trần Triệu.
Lúc ấy Trần công chuyên việc săn bắt, ngày tháng trôi qua làm hại sinh linh
không ít. Đến một hôm, đầu bỗng mọc sừng, thân mọc lông hươu, chân tay đều biến
thành chân tay hươu, nhảy nhót chạy vào núi hợp làm bầy với hươu nai. Hoàng thị
một mình nuôi con, thấm thoát đến năm Nhược quan, một hôm con hỏi mẹ:
“Cha
con ở đâu”.
Hoàng thị nói rõ sự thể. Triệu nghe truyện bất
giác cảm động, khóc nói :
“Phụ
tử tình thâm, dù mang hình hươu, sao nhẫn tâm mà nhìn chia lìa”.
Sớm hôm sau ra ngoại ô, trèo núi vượt khe,
qua mùa trúc biếc tới tiết tùng xanh, lên thác xuống ghềnh, măt trời
đã trưa mà chân đã muốn mỏi, ngồi nghỉ ở đám cỏ bên ruộng. Trong chốc lát nghe
thấy tiếng hươu từ trong núi vọng ra, Trần Triệu nhìn kĩ thấy rất khác loài
hươu, đoán chắc là đúng đây rồi, lập tức chạy đến quỳ, tha thiết xin cha trở về.
Há tình cha con là tính trời vậy, tuy thay hình đổi dạng cũng không thể không
có cảm xúc. Hươu chạy lại gần rơi lệ nói:
“Ai mà không hoài nhớ vợ con, chỉ hận hình thể
ta không dấu đi được, sợ tai mắt loài chó phát hiện ra”.
Triệu nói: “Con xin lấy sức chịu việc ấy, lo
gì loài chó ngăn trở”.
Thế
rồi dắt về. Về đến cổng làng, chó trong xóm sủa cắn ầm lên, Triệu một mình giữ
không được, hươu kinh loạn, bẻ sừng bỏ chạy vào núi. Triệu bất đắc dĩ nuốt nước
mắt lần theo dấu chân ra xa tận ngoài rừng gặp được, hươu bèn tặng sừng cho dặn
rằng:
“Con mà về lấy giây buộc sừng này mà kéo lê
đi. Như sừng mắc vào chỗ nào thì làm ruộng ở chỗ ấy có thể nuôi thân được”.
Về làm như thế, đến vườn dâu nhà La qủa phụ,
bèn xin đất ấy làm ruộng, trồng lúa. Đến mùa thu thì lúa chín, Triệu ra sức thu
hái nhưng đến tối lại thấy lúa mọc bông bông như cũ. Lúa tích trữ cao bằng mái,
bằng xà không kho nào nhiều bằng, Triệu sức ít kham không nổi. Bỗng đâu có đám
thiếu nữ tươi trẻ cười nói đi tới, người mang làn, người mang giỏ xin được vào
hái dâu. Triệu nhân nói với các cô gái rằng:
“Ai
có thể cắt hết lúa hộ tôi thì tôi nguyện hái dâu cho”.
Trong
các cô có người nguyện được cắt lúa, Triệu thay hái dâu. Nhưng đúng là tiên
duyên sớm kết, ý trời khiến cho gặp gỡ như thế. Triệu mỗi lần nhìn trộm cô gái
trong lòng bồi hồi, tâm trí mê mẩn quên cả hái dâu. Đến chiều các cô gái dần
tan về, duy chỉ còn cô gái nguyện cắt lúa thay, cô trách Triệu hái dâu thay
mình mà giỏ không đầy lá. Mỗi lần nhìn lại thêm bồi hồi, tức thẹn không biết chốn
vào đâu. Lúc bấy giờ ngọc thỏ đã nhô trên đỉnh non đông, về không được nữa cô
trách Triệu nguỵ biện, trái lời không hết sức hái dâu đến nỗi khiến cô bỏ mất bạn
bè. Triệu đáp:
“Ngày
hôm nay sức đã mệt rồi, để mai xin hái cho 10 giỏ để đền cái nợ hôm nay. Nhưng
giờ đã tối xin tạm mời về nhà nghỉ đêm”.
Lúc
ấy người con gái đẹp ngóng bạn đi cùng đã về hết, gãi đầu trần trừ. Ngó mặt
trăng đã ở lưng trời, sương móc ướt áo, bất đắc dĩ theo Triệu về. Nhưng rồi
tiên cách cũng hoá trần, gần son rồi sẽ nhuộm thắm, niềm tục khó chằng, hai bên
cùng hoà hợp nên duyên đôi lứa. ở cùng nhau được mấy năm, nuôi lớn được hai
con, đứa lớn tên là Trần Kiên, đứa nhỏ tên là Trần Quý. Khi con đến tuổi trưởng
thành, người con gái đẹp ấy nói với Triệu rằng:
“Thiếp
là tiên nữ, cùng chàng chưa hết trần duyên, nay hạn kỳ khiển trách đã mãn, thiếp
không dám lưu lại chút nào”, nàng lại vỗ về hai con nói:
“Trong
vùng này có khí yêu quái, anh em các con nên hết lòng trừ diệt để cứu sinh
dân”, nói xong thì bay lên không đi mất. Triệu cảm duyên kỳ ngộ cũng bỏ vào núi
cầu học đạo tiên, không biết là đi đâu. Hai con kêu gào mà không được.
Thế
là hai anh em ghi lời dặn, mang kiếm đi khắp trong vùng, đến Sầm Khê thấy hai
người con gái hốt hoảng chạy lại. Kiên bảo Quý rằng:
“Ta
xem hai người con gái này có vẻ hốt hoảng, tất có việc chi đây, thử hỏi xem”.
Quý nói:
“Hai
người con gái ấy chẳng qua thấy chúng ta thì khiếp sợ đó thôi làm gì có duyên cớ
gì khác để em hỏi xem”. Hai người con gái đến trước mặt, Quý mời hỏi:
“Hai
người đi đâu đây, sao lại có dáng điệu kinh hoàng làm vậy”.
Hai
người con gái đến trước nói:
“Thiếp
là dân nữ vùng này, vì ở động Nham Muộn núi Cù Sơn có con yêu tên là Bà Trằn,
hình sắc như tro, vóc gầy như củi, lưỡi dài mấy xích lại có đứa cháu gái giữ cửa
động. Cùng ở huyệt Lộng Kiến gần đó có con yêu xà, vẩy sáng như điện, mắt rực
như sao, thân dài 50 xích, lại ở xã Xuân Lan (nay đổi tên là xã Xuân An), núi
Nham Châm có con quái điểu, hình như diều hâu, lúc bay tiếng kêu như mưa bão,
rang cánh rộng như mây che. Ba con quái ấy luôn gây hại, lúc đầu thì ăn vật, hết
vật lại ăn tiếp đến người. Đất vùng này
tiêu điều, dân cư li tán là do ba con quái ấy. Hôm nay Bà Trằn đến làng bọn thiếp,
vì thế bọn thiếp hoảng hốt mà trốn đi, xin hai chàng đừng đi tiếp phía trước, e
sẽ bị nó hại”. Kiên nói:
“Mối
lo của các nàng là việc hai anh em chúng tôi đến đây vì dân trừ hại”, rồi bảo
hai người con gái ấy chỉ dẫn, tiến đi phía trước . Đến giới phận Cù Sơn thấy Bà
Trằn ve vẩy phải trái từ trước thôn đi ra, hai người con gái kinh sợ chỉ bảo rằng:
“Đó
là Bà Trằn đấy”.
Trần
Quý liền múa kiếm đón chặn đường. Bà Trằn trông thấy liền cười ha hả nói:
“Ta
đang đói đây, nhà ngươi là người thôn nào đưa thức ăn đến đây vậy?”.
Lưỡi
Bà Trằn thè ra định liếm, Trần Quý tay cầm kiếm vung lên chém trúng vai phải.
Bà Trằn duỗi lưỡi ra liếm máu, vết đao
liền lại. Trần Kiên liên tiếp xông đến giết, chỉ hận là quái vật mỗi lần thè lưỡi
ra liếm máu trên vết đao thì lại không có thương tích gì. Lúc ấy đang giờ Canh,
Bà Trằn liệu trời sắp tối, khí thế suy kiệt, bèn ẩn lui vào trong động. Hai người
sức mệt không đuổi theo chống kiếm nghỉ một chút, rồi nối đuôi đến cửa động, ẩn trong đám cỏ rậm ở bên. Bỗng
nghe thấy tiếng trong động vẳng ra, là Bà Trằn và đứa cháu gái đang nói truyện:
“Hôm
nay gặp một kình địch, suýt bị nó đánh bại”.
Đứa
cháu nói:
“Hôm
nay không được đi nữa, nó mà biết lấy đồ ô uế bôi lên kiếm thì thôi đời”.
Hai
người nghe biết được, y theo lời mà làm, liền đêm ấy vào thẳng động Nham Muộn
giết hết cả. Nhân đà sang luôn huyệt Lộng Kiến, thấy quái xà uốn lượn trong ấy,
hai người liến rút kiếm chặt luôn đầu. Lại đến núi Nham Châm. Con quái điểu thấy
có người đến, giơ cánh như muốn quật ngã, hai ngưòi múa kiếm chém thẳng đầu. Ba
yêu quái đã diệt, nhân dân trong địa phận ấy lại được sống yên như cũ. Từ đó
dân nhớ đức, lập miếu xuân thu phụng tự, nơi động huyệt của ba yêu quái ấy đều
khắc hình để ghi lại di tích. Hai vị ấy, trải các đời đều có sắc phong tặng, tiến
thêm mỹ tự. Đến triều Lê phong Trần Kiên làm Cai Cộng đại vương hạ đẳng thần,
phong Trần Quý làm Đống Lân đại vương trung đẳng thần, quốc tế hai mùa xuân
thu. Duy ở thôn Đốc Hoằng (nay thuộc địa phận xã Cù Sơn) lập đền thờ Trần Triệu,
để bảo hựu nhân dân, hộ quốc tộ mãi yên,
nghìn năm hưởng tế.
Hai
đền Đống Lân, Cai Cộng đều ở địa phận xã Vu Tuyền, các triều đều có cúng tế,
phong tặng mỹ tự:
Đống
Lân diệu linh thông cảm, trợ quốc hiệu linh, phấn dũng ninh biên, thuỳ khánh tứ
hỗ, dương liệt hiển linh đại vương.
Cai
Cộng linh diệu hiển ứng trợ vũ, anh quả hùng đoán đại vương.
Ôi ! Việc hình người
biến hươu, việc kéo sừng mà cùng tiên kết duyên nghe tựa như những lời hoang đường
ngoa truyền, nhưng trải xét điển tịch thì việc Tử Cao thành tiên cũng giống như
chuyện nhà họ Trần, cũng thể lượng cho không phải là chuyện vu khoát vậy.
Chuyện
về đền Quan Triều
Vào
triều Lê Đại Hành, năm Tân tỵ niên hiệu Thiên Phúc thứ 2(981) , có người xứ
Thaí Nguyên họ Quan tên Triều, nhà nghèo làm nghề đánh cá. Có đêm đi buông lưới
ở khe Quán Triều (nay là xã Quán Triều, xứ Thái Nguyên, gần Quang Vinh, Đồng Mụ)
lúc ấy đương là đêm rằm, trăng sáng như ban ngày. Bỗng vẳng nghe bên bờ có tiếng
đàn sáo, bèn buộc bè leo lên, trộm bò đến nơi, thấy giữa cỏ có tiệc rượu, một
người ngồi ngay ngắn ở trên, dưới có mấy người đang ca múa. Một lát có người
trong tiệc ra mời vào. Người đánh cá nói:
“Tôi
là người đánh cá nơi thôn xóm, đâu dám nhận thịnh tình này, lại thêm áo quần
lam lũ, thiếu vẻ cung kính lễ độ, xin hãy để tôi tránh đi”.
Người
kia liền cởi áo đưa cho, người đánh cá còn từ chối ba lần rồi mới lấy áo mặc,
cùng vào tiệc. Người đánh cá mới thi lễ
xong, chuyển chén được một lượt thì xướng ca liền nghỉ, những người trên
tiệc loá mắt cái đã biến thành ảo ảnh, không thấy tông tích. Lúc ấy mới hay là
người cõi thần tiên. Người đánh cá mặc áo ấy về nhà, đi qua thôn xóm, chó không
sủa, về đến trong nhà vợ con cũng không biết là về, đến lúc cởi áo ra mới biết
là về. Người đánh cá mừng thầm là áo thần. Từ đó về sau mặc áo ấy đi ăn trộm mà
không hề lộ, phàm những thứ tiền bạc vàng lụa lấy được trong kho đều đem cho những
người khốn khó, hào hiệp mà trong nhà không để một chút dư, cũng chẳng để làm
giàu cho vợ con. Thế nên những người hào hiệp hàm ơn rất nhiều mà ngóng về theo
kể đến hàng vạn.
Từ
lúc ấy áo thần mặc thường xuyên, chẳng may sơ ý để rách một lỗ nhỏ, người đánh
cá lấy lụa trắng vá vào. Sau, lúc vào kho ăn trộm, lính giữ kho cứ trông thấy một
cánh bướm trắng bay vào trong kho rồi lại bay ra là của trong kho bị mất. Người
giữ kho đem việc trình bày với quan hữu ti, bèn truyền lệnh cho lính coi kho từ
nay về sau thấy bướm ấy bay đến thì giăng lưới bốn bên mà bắt. Quả nhiên bắt được,
hoá ra là người đánh cá. Quan hữu ti đem việc tâu lên, trên lệnh chỉ sai đình
thần nghị tội. Lúc ấy đúng lúc người nước Tống xâm lấn biên giới nước Nam ta,
thế quân cực mạnh, mà các tướng chống giặc lần lượt chẳng có công gì tâu báo,
trên dưới đều sợ hãi. Người đánh cá liền tâu xin đi đánh giặc lập công để chuộc
tội của mình, vua chuẩn theo lời xin, phong làm Hộ quốc tướng quân. Người đánh
cá trở về quê cũ, chiêu mộ những kẻ hào hiệp được chu cấp thửa trước. Tất cả đến
ứng mộ kể đến hàng vạn. Người đánh cá mặc thần y xông vào trong trận như vào chỗ
không người, tung hoành giết giặc như cắt bụi cỏ. Những người theo cảm nghĩa, đều
nguyện lòng chết báo đáp, không ai là không một mình mà đương được cả trăm người.
Trong khoảng một tháng, quân Tống lui hết cả, không còn dám nhòm ngó hy vọng gì
ở đất Nam.
Thu
lại bờ cõi, người đánh cá lập được đại công. Vua Đại Hành ban cho được lấy công
chúa Hồng Liên, phong Phò mã Hộ quốc công, được ăn lộc từ phủ Phú Bình xứ Thái
Nguyên (xưa là đạo Ninh Sóc) đến tận phủ Bắc Bình (nay là phủ Cao Bằng). Sau
khi mất, cùng Công chúa được truy phong Đại vương, có đền ở xã Quán Triều xứ
Thái Nguyên, cũng có đền ở cả xã Xuân Lĩnh xứ Cao Bằng, trải nhiều năm rất là
linh ứng giúp dân. Các triều đều gia phong mỹ tự, cùng lấy duệ hiệu Quan Triều
Hồng Liên, quốc tế xuân thu, phong trung đẳng thần (lúc đầu là xã Xuân Lĩnh,
sau là dân xã Tân Trại phụng thờ):
Quan
Triều Hồng Liên công chúa, thông diệu linh cảm, trợ quốc trấn biên, hoài phục
tuy tĩnh, dương hưu trợ thắng, phong công vĩ liệt đại vương.
Chuông
đền Quan Triều cao 4 xích 5 thốn 6 phân, chu vi 8 xích 9 thốn(nguyên đền có hai
quả hồng chung, nay chỉ còn một, lại một quả tự chuyển xuống sông, sự thể xem ở
Thần Chung Lục).
Ôi trời ban cho nước
là vì có đức với muôn dân, thế nên hưng phế thịnh suy, trị loạn, tai tường
không gì không theo thời thế mà xảy đến. Vậy nên đức của vua nhà Đinh ngày một suy mà mệnh sáng của vua nhà Lê thì
lại còn. Đó là điều có vua mở vận, ứng sao sinh người hiền trợ giúp, khiến trừ
hết thói phỉ bạc mà vun đắp cái đẹp nhân hậu, ắt khiến người nơi thôn vắng được
yên ổn, kẻ sĩ trung cần được nhờ đức đến vô cùng. Tuy là người đánh cá ở nơi
hoang sơ cũng đủ để lên được bậc hiền mà hưởng cúng tế muôn đời, há chẳng phải
trời giúp người hiền đến thế ư ?
Chuyện
đền Thanh Trung
Năm
Giáp dần niên hiệu Long Đức thứ 3 (1734) triều Lê, chỉ chuẩn cho Khoái Trạch bá
Nguyễn Đình Bá, người Bình Dân phủ Khoái châu làm Đốc đồng Cao Bằng, chính thể
rất liêm bình. Lúc ấy trong hạt đồ giặc nổi lên bốn bề, ông được lệnh chỉ thăng
tước hầu cho làm Đốc trấn. Năm Quý hợi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 4(1743), giặc
Hoàng Xỉ ở phủ Thông Hoá, xứ Thái Nguyên nổi lên, lệnh chỉ mệnh quan binh đốc
tướng của bản xứ cùng Tuần Quận công tiến thảo, dẹp giặc Thái Nguyên Hoàng Xỉ ở
Khâu Dậu.
Mùa
hè tháng 5, quân của Đốc trấn Khoái Trạch hầu đóng tại Vi Hoa, thì mất ở trong
quân. Quan quân đem linh cữu về trấn,
dân trong châu cảm đức chính nhân hoá, đều xin lên triều đình sắc phong Đại
vương, dựng miếu Thanh Trung ở bên phải trấn sở. Các triều đều gia phong mỹ tự,
quốc tế xuân thu, phong trung đẳng thần (nguyên bản xứ cùng thờ phụng, đến khi
con của Đốc trấn là Nguyễn Lạc Thiện trúng tiến sĩ làm Đốc đồng ở Cao Bằng, trấn
ấy cho dân xã Kim Giáp phụng sự ).
Sắc
tứ Đinh mùi khoa (1727) Tiến sĩ, phụng sai Cao Bằng đốc trấn, Hàn lâm viện thừa
chỉ Khoái Trạch Hầu, tặng ngự sử đài kiêm đô ngự sử. Sắc phong Thanh Trung Hoằng
Nghị Thông Minh Chính Trực Khoan Dụ đại vương.[1]
Ôi, Trời sinh ra muôn
dân, dựng lên một bậc vua, sở dĩ là để lập người có trách nhiệm đứng giữa trời
đất, để thể đức chính ở trên mà chăn nuôi muôn dân, có thể tạo cảnh phồn hoa
nơi khô hoang, nuôi no đủ kẻ đói gầy. Liêm minh được như sự liêm minh của Khoái
Trạch hầu, đáng khen là theo được kẻ lại tốt đời cổ, ngóng mây hợp mà ngẩng cao
đầu, vượt dòng sâu mà có thể lập tiếng tăm hiếm thấy, lừng lẫy ở đời. Như Khoái
Trạch hầu lâm trận lui giặc, lấy thân báo quốc, thế nên hưởng cúng tế đến vô
cùng. Có đáng chăng?
Ôi, cái đức kẻ làm
quan không gì lớn bằng liêm minh. Khoái Trạch hầu thi chính nơi trấn sở, bọn hối
hoá tranh tụng mắt chẳng dám trông thẳng. Nghiêm phép dẹp gian tà, trừ giặc
ngoài cho dân chẳng phải là như ý nhổ cỏ giết cầm, mà là việc tất phải làm nên
dân đội ơn. Đến lúc dẫn quân dẹp giặc ở Thái Nguyên, mất ở trong quân doanh,
dân lấy đấy mà cảm huệ cùng tấu đến triều đình, xuân thu hưởng tế. Làm quan nơi
trấn nhậm duy có Khoái Trạch hầu là bậc hiền.
Chuyện
đền ở Giang Châu
Năm
Đinh mùi niên hiệu Lê Cảnh Trị thứ 5 (1667) (Hãy còn nhà Mạc niên hiệu Thuận Đức
năm thứ 14- 1667), có người ở xã Đồng Kiêu, châu Hạ Lang là Phù Thắng, Phù Thiết
đời đời làm tù trưởng ở châu này. Đến khi họ Mạc chiếm cứ Cao Bằng, nghe tiếng
tăm muốn dùng làm tướng, cùng từ chối không chịu ra. Họ Mạc thấy Phù Thắng
không chịu nhận chức, liền giết cả tộc. Phù Thiết miễn cưỡng phải theo, nhà Mạc
cho giữ chức Tiết chế thống lĩnh binh đồn ở đất ngự biên. Phù Thiết tên gọi là
Đồn Nhuệ, cư xử với dân hoà mục, tuy làm tôi nhà Mạc mà lòng vẫn theo về đường
chính, chán ghét bè đảng họ Mạc, thương có lòng phẫn uất. Được hai năm thì hợp
quân giữ chỗ hiểm không theo họ Mạc nữa lòng rất sắt đá. Sau do đứa hầu hai
lòng, dẫn giặc vào đồn, bị quân Mạc bắt giải về thành Cao Bằng mà chí vẫn không
khuất, giả vờ xin lính canh cho đi cầu ở bến sông rồi nhảy xuống sông tự vẫn
(nay là Vực Mây xã Vu Tuyền), anh linh còn mãi không mất, hiển ứng hộ quốc
khang dân.
Khoảng
năm Giáp thìn(1724), vua Lê mệnh sai quân tiễu trừ giặc Mạc, họ Mạc chốn chạy.
Quân vua đóng ở thành Cao Bằng, ông hiển hiện để giúp quân, trông thấy rõ ràng,
tên thần ứng nghiệm. Lúc ấy nhân dân chép lại sự việc tâu lên, sắc phong làm
Giang Châu tiết chế đại vương, đền ở địa phận xã Vu Tuyền, quốc tế hai mùa xuân
thu, phong hạ đẳng thần, các triều gia phong mỹ tự (lấy dân xã Vu Tuyền làm dân
coi thờ tự).
Sắc
phong Giang Châu tiết chế, linh ứng địch nghị, tĩnh biên linh thông hiển ứng đại
vương.
Phù Thiết tức tên Đồn
Nhuệ, giữ lòng theo chính như sắt đá không dời, như trụ thạch giữa sông bị sóng
lay mà không động, có thể gọi là trí lượng tuyệt luân. Kinh Dịch nói: “Đi trên sương mỏng như dẫm lên băng cứng”, làm tướng
phải phòng việc từ lúc chưa xảy ra, có thể không cẩn thận từ lúc mới bắt đầu
hay sao? Nhưng sơ suất việc kiềm chế kẻ dưới, rốt cục bị bại bởi tay đứa hầu.
Tiếc thay!
Nhưng chết rồi vẫn không tan, anh linh như còn, trợ giúp chúng dân. Đến khi quân vua trừ
họ Mạc lại ứng hiện hiển linh, nổi uy phong cho thế quân thêm mạnh, hướng tiến
không gì cản trước được, hùng nghị như thấy rõ, thế nên hưởng cúng tế đến vô cùng,
thực đủ để nối anh khí dài mãi .
Chuyện đền Kỳ Lạch
Năm
Mậu ngọ niên hiệu Chính Hoà thứ 3 (1682) triều Lê, có người xã Miên Dã châu Thạch
Lâm, họ Trần (khuyết danh), tính tình khẳng khái, mưu lược. Lúc họ Mạc chiếm cứ
Cao Bằng, thì ẩn danh không ra làm quan. Đến khi nghe quân vua lên tiễu trừ họ
Mạc, Trần công đến trước quân xin chịu sai khiến, nguyện làm tiên phong đánh giặc.
Trên khen là có khí dũng, chuẩn cho làm tiên phong. Trần công dẫn mấy trăm
quân, xông lên trước các tướng sĩ, hướng tiến không gì cản trước được. Đuổi họ
Mạc đến tận biên ải, bắt đảng họ Mạc, lại còn truy vết những nơi theo giặc. Tuy
nhiên giặc cùng đường quay lại phản kích, trong trận ông hy sinh. Sắc thưởng
phong Đại vương, đền ở xã Xuân Lĩnh do dân phụng sự, quốc tế hai mùa Xuân thu,
trải các triều đều phong mỹ tự, làm hạ đẳng thần.
Sắc
phong Kỳ Lạch hùng nghị phấn lực, hiệu linh dương vũ, hiển công đại vương.
Ôi, Trần công tiết liệt
chống lại không theo họ Mạc, vốn cái chí ấy không nhỏ. Đến khi đến trước quân
chịu sai khiến, dẫn quân lên trước phá họ Mạc, hướng tiến không ai cản được,
nhưng biết được phương hướng mà tiến mới xứng là kẻ sĩ mưu trí. Nhưng ôm lòng
vì nước, tấc trung thành trấn động cả vầng nhật tôn nghiêm, mà được quốc gia
ban thịnh điển, há chẳng hùng vĩ sao?
Chuyện
đền Sóc Hồng
Năm
Quý tỵ niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ 5 triều Lý (1053), có người châu Quảng
Nguyên họ Nùng tên là Trí Viễn, tính người cương nghị chính trực, là chú của
Nùng Trí Cao. Khi Nùng Trí Cao xưng đế, đánh vào nước Tống, Trí Viễn cũng dẫn
quân theo chinh phạt, hành quân tiết độ, tiến lui có phép. Lúc Trí Cao thua ở Đại
Lý (nay là đất Vân Nam), quân của Viễn đang ở phía sau, nhưng quân Tống thế lớn,
quân tan tác cả, ông theo đường nhỏ chạy qua tỉnh Quý Châu đến Sái Thành vào
chiếm cứ đất Sóc Hồng ( đất Sóc Hồng phủ Tứ Thành Quảng Tây là địa phận phủ Cao
Bằng) . Quân Vân Nam đuổi kịp bao vây, tình thế rất bức, ông phấn sức phá vây
cưỡi ngựa lên ngọn Ba Đăng sơn, thế rất hiểm, ngựa sa chân, rơi xuống chết. Về
sau ở chỗ ấy rất là linh ứng, người vật đều được nhờ. Dân cư nơi ây đem việc
tâu lên, triều Lý sắc phong làm Đại vương, đền ở xã Sóc Hồng, quốc tế hai mùa
Xuân thu, các triều gia phông mỹ tự, phong thượng đẳng thần.
Sắc
phong Sóc Hồng linh thánh cương nghị, hùng lược anh đoán, hiển linh thủ vũ, hiển
thông linh ứng đại vương.
Ôi, Trí Viễn theo viễn
chinh đất Tống, lúc thu quân về đóng ở Sóc Hồng, sức xông vây phá trận thực
phong khí kiêu hùng rõ ràng như là nhìn thấy được, thực một bậc tướng tài can
thành. Nhưng khi ở trên trời cũng hiển linh, lại có thể hộ quốc yên dân, báo điềm
cho biết trước thì hưởng điển cúng tế là rõ ràng vậy.
Chuyện
đền Lũng Định
Năm
Giáp ngọ niên hiệu Long Thuỵ Thái Bình năm đầu triều Lý(1054), có người xã Lũng
Định châu Thượng Lang, họ Hoàng tên Lục, sức khoẻ hơn người, đối đãi với mọi
người khoan hoà nhân hậu, nhiều người theo quy thuận. Ông cũng có chí hướng,
theo làm lớn như Trí Cao. Khi quân Tống truy đuổi Trí Cao, làm càn sang biên giới
nước ta, ông ngầm nuôi chí mở rộng biên cương, nắm thời cơ giặc từ xa đến có thể
thừa thế dĩ dật đãi lao. Ông bèn đôn đốc đinh tráng hơn ngìn người, đặt phục
binh ở Khiếu Thang, đánh bại quân Tống, lúc trở về lại được đất của tám châu
ven biên theo giá hoá xin hàng phục, bền đem hết sổ sách về quy phụ bản đồ nhà
Lý, được phong làm An Biên tướng quân, dẫn quân phòng thủ vùng biên giới để làm
kế tằm ăn rỗi dần đất Tống. Quy phụ triều Lý, được nhà Lý ban cho tước vị cao hậu
mà lòng ông không tự mãn, chỉ chăm luyện sĩ tốt, dâng biểu xin nhà Lý cử đại
binh. Lúc công phá Ung châu, không có viện binh trước sau đều thụ địch, ông
xông xáo đánh phá trong trận, bị quân Tống làm hại, quân Tống thu lại đất cũ.
Triều Lý truy phong làm Đại vương, đền ở xã Lũng Định, quốc tế hai mùa xuân
thu, trải các triều đều gia phong mỹ tự làm Hạ đẳng thần.
Sắc
phong An biên tướng quân, linh ứng uy liệt, ngự biên tứ huống phu hưu Hoàng Lục
đại vương.
Ôi, Hoàng Lục dũng lược
hơn người, có chí khai thác mở rộng cương thổ, đánh Tống thu lại đất cũ mà cùng
quy phục nhà Lý, có thể thấy ông lòng trung rạng cùng vầng nhật. Được đặc ban
thịnh điển là để biểu tỏ công lao đó vậy.
Cao Bằng thực lục
Thứ hai, các
truyện kỳ lạ
Truyện
về sông Hiến Giang
Năm
Giáp ngọ niên hiệu Quang Hưng thời Lê (1594), có người xã trưởng thôn Phù Vạn
xã Kim Pha châu Thạch Lâm tên Nùng Công Kim, có người con gái tên là Thị Quyền.
Tuổi vừa cập kê, dựng nhà bên bờ sông Hiến Giang, nhà sát mép nước, bờ bên kia
là núi Hiến Sơn, đá núi khấp khểnh, ở quãng giữa nghe nói có Giao long ở đó. Có
một hôm vợ chồng Công Kim đi sang nhà chú bên Phù Vạn, duy chỉ có Thị Quyền
trông nhà, một mình ngồi dệt cửi. Chính lúc vừa buông tay thoi, là lúc mặt trời
đã muộn, bỗng thấy một chàng trai mặt mũi khôi ngô, thong thả từ ngoài đi vào,
đến trước khung cửi ôm lấy lưng người con gái, người con gái kinh hãi hét to
lên, người con trai đột nhiên hoá ra hình giao long cuốn lấy thân cô gái kéo xuống
nước đi mất. Lúc bấy giờ ngưòi con gái hôn mê, tay hãy còn nắm lấy thoi có sợi
liền với mảnh lụa trên khung. Đến chiều cha mẹ về nhà, cửa hãy còn mở, chẳng thấy
con gái đâu khóc lóc kêu gọi, gục xuống đất, được một lát tỉnh lại, nhìn khắp
trong nhà thấy sợi tơ trên khung dẫn thẳng ra ngoài bờ sông. Công Kim cởi áo
nín thở lặn xuống nước theo sợi dây mà xuống, thấy một lỗ đá, trên có một cái
hang, nghĩ có thể mang được cả đao, bèn men đá mà lên, đi vào miệng hang. Thấy
ánh sáng từ trong thấu ra, lâu đài điện gác, có cả quân lính đứng giữ cửa. Công
Kim đến trước cửa hỏi
“Đây
là phủ đệ của quan viên nào ?”, lính canh đáp:
“Là
Thuỷ phủ Lĩnh Nam, ngươi là ai dám đường đột đến đây?”
Công
Kim nói: “có một việc xin thưa, nhờ quan chuyền đạt dùm”. Tên quân ấy nói:
“Ngươi
đứng đây chờ ta vào tấu lên”. Công Kim đáp: “Vâng”
Tên
quân ấy đi vào, chốc lát thấy một viên quan mặc áo hồng bào, đội mũ sa đi ra hỏi:
“Nhà
ngươi ở xứ nào, đến đây làm gì, họ tên gì ?”
Công
Kim đáp: “Thân là người trên dương thế, họ Nùng tên Công Kim, có người con gái ở
nhà dệt lụa, bỗng đâu thấy tiểu quan đột nhập vào nhà, cưỡng ép kéo đi xuống
thuỷ cung. Thân người mang theo cả sợi lụa đến thẳng chỗ này, xin người soi xét
cho”
Viên
quan ấy ngạc nhiên, tức tối đáp:
“Nhà
ngươi là kẻ ngu si trên dương thế, điêu toa giá hoạ, chủ ta đường đường ở ngôi
lớn trấn giữ phương bắc, há lại vô cớ mà đoạt con gái người khác hay sao. Giới
hạn hau bên tuy khác nhau nhưng lý lẽ chỉ duy có một, ngươi không được nói càn
mà tự mắc vào lưới pháp. Ta thương cho ngươi tiểu dân không biết gì, ra ơn mà
chỉ bảo cho, mau rời khỏ đây chớ có chậm trễ”. Công Kim tức giận, không giải được
khúc mắc kêu ầm lên:
“Cưỡng
đoạt con gái nhà người, lại gian dối che dấu!”.
Tên
quan kia liền sai 5 tên lính canh cửa trói đưa ra khỏi động. Công Kim quay lại
thấy cửa động đã đóng, liền lên khỏi mặt nước, về nhà buồn rầu, tự liệu rằng
không dùng hoả công làm sao giải toả được mối giận này. Tức thì chuẩn bị lưu
hoàng, đồ hoả khí đặt đầy ống trúc, lấy sáp ong bọc chung quanh. Lại ngầm lặn
xuống, đến ngoài cửa động đánh lửa phun vào cửa nghi môn đốt đến tận lâu đài.
Công Kim lập tức chuyển lên khỏi mặt nước, trở về nhìn đoạn cắt mặt sông Hiến
Giang lửa bốc, khí bay lên trên cả mặt đất,
cây cỏ khô cháy, chỗ ấy khí nóng bức, người không thể đến gần, lửa cháy liền ba
tháng mới dứt, núi sụt sâu xuống 5 trượng mà khí lửa hãy còn mạnh. Trai gái
trong vùng truyền nhau cùng đến xem, quan trấn sở cùng các quan liêu thuộc cũng
thân hành đến điều tra nguyên do, truyền tụng đi xa coi là chuyện lạ. Người thời
bấy giờ nói: Cỏ sinh trên đất mà lửa ở dưới ấy là điềm tốt.
Ôi, người là loài
khác, giao long là loài trùng khác, không phải là cùng khí tương cầu há có thể
cùng kết đôi giao cấu. Xét loài rắn có thói dâm tà là do bản tính khiến cho như
thế, nhưng sào huyệt của nó chỉ trong nháy mắt thiêu hết sạch thì loài giao
long mắc phải hoạ bị thui đầu cháy vảy, thương thay không biết hối cải, nên kẻ
chịu oan khuất muốn đốt sừng tê mà đến
long cung xin mệnh, hận không mượn được lưỡi gươm Xích Đế để diệt loài quỷ, sửa
cái tội cưỡng đoạt, thì loài giao trùng kia chẳng thoát được tội.
Chuyện
Tiên Giao
Năm
Tân Sửu niên hiệu Hoằng Định thứ 2 triều Lê (1601)(năm Mạc nguỵ tiếm hiệu là
Càn Thống năm đầu-1601). Họ Mạc dựng đô ở đất Vu Tuyền, Cao Bằng, xây dựng cung
điện. Có người ở xã Tiên Giao châu Thạch Lâm, tên là Đô Dũng làm thị vệ cho nhà
Mạc giữ Du binh, xin nghỉ phép về nhà chịu tang. Rằm
tháng 5 ngày Canh tí, cùng 2 tuỳ tòng lên thuyền độc mộc đi đến chỗ hoang vắng,
địa phận xã Xuân Quang, ngày muộn buộc thuyền bên vách đá, nấu cơm ăn, lúc ấy mới
đầu canh. Theo lối đi vào trong hang, sâu khoảng hai trượng, bên vách đá có một
lỗ lớn, nước biếc lăn tăn, Đô Dũng thích cảnh nước trong khiết, ngồi bên mép, bỗng
đâu nghe thấy tiếng người bên ngoài vọng vào nghe như tiếng điểm quân. Lại nghe
thấy tiếng vọng vào nói:
“Lăng Khâu ở Tiên Giao thiếu mất 3 người (ở địa phận xã Tiên Giao,
bên núi Thạch Lĩnh có mạch nước phun ra thành giếng lớn rất sâu, tục gọi là
Lăng Khâu), sai tróc nã để trị tội”
Lại nghe tuyên đọc tên Hoàng Quỳnh, có tiếng người đáp “có”, tiếp
vài lần lại có người đáp “có”. Đến lần thứ 5 hô đúng tên Đô Dũng, phía dưới có
người hô “có”. Đấy là do Đô Dũng ở trong hang nghe gọi đến tên mình thì tủm tỉm
cười cất lời đáp “có”. Từ đó tiếng điểm quân từ trong động phát ra, thứ tự lần
lượt đáp không dứt, đến lúc hơi gần sáng, nước trong lỗ trấn động, Đô Dũng hốt
hoảng lui ra chỗ nấu cơm. Lúc ấy mặt trăng sáng như ban ngày, lúc đầu thấy hai
con giao lớn, đầu to mấy xích, trên đỉnh đều có mào sợi hồng, ngóc đầu trườn
đi, từ cổ trở xuống dưới đều có vảy hồng nhạt, lưng như phủ gấm xanh, to khoảng
ba xích, dài hơn hai trượng từ lỗ trong hang bò ra mép nước, kế sau có những
con giao nhỏ cứ xếp thành hàng 5 mà đi, to khoảng một vòng, giữa thỉnh thoảng
có con giao lớn đi xen nối đuôi nhau đi không dứt, nhiều vô kể. Từ lúc tờ mờ đến
khi mặt trời lên đã ba sào mới thôi. Đô Dũng và hai người đi theo nấp ở bên
nhìn trộm thấy hết, ở gần chỗ giao long đi qua khoảng một trượng mà sắc mặt sợ
sệt không dám động đậy. Bỗng thấy hai đại hán cầm kiếm sắc, một người lưng mang
mai rùa, một người mang hình tôm, còn mắt mũi hình trạng thì như người không
khác, đi thẳng đến chỗ Đô Dũng nấp. Người lưng rùa tay trái cầm kiếm, tay phải
túm tóc Đô Dũng kéo đi, người hình tôm đi đằng sau kèm Đô Dũng đi thẳng xuống hố
ấy. Đến bên ngoài cửa Đại nghi môn, hai người trình báo lính canh cửa:
“Nay vâng lệnh trên đã bắt được dương phạm về đây hầu chỉ”.
Lính canh một người bước nhanh vào bẩm. Chờ không lâu, ở bên trong
có một người đi ra truyền:
“Ai bắt được dương phạm mau dẫn lên đại đường”. Hai người nghe liền
dạ, dắt Đô Dũng đến quỳ ở dưới đường. Có người mặc thanh bào, đội triều mạo đã
ngồi ở bên nói:
“Ta vâng chỉ thẩm vấn, ngươi có phải là Đô Dũng chăng ?”
Đô Dũng đáp: “Phải”. Viên quan ấy hỏi:
“Ngươi ở dương thế làm việc gì ?”
Đô Dũng khấu đáp:
“Thân tôi được sung chức thị vệ, coi Du binh”.
Viên quan ấy hỏi:
“Ngươi đã theo nghiệp binh, sao không biết lễ số điểm binh, làm việc
trái phép, lên giọng đùa cợt đáp bừa là có, đáng khép trọng tội”
Đô Dũng dập đầu nói:
“Thân này theo trong quân ngũ cũng thô thiển biết chút điển chế chẳng
dám trái. Đêm qua nghe nhầm tiếng điểm quân đến cái tên hèn mọn này, như nếu
không đáp có, lại sợ trái với phép quân. Chẳng ngờ tên họ trùng nhau, nay trách
tội đáp bừa, lỗi này của mình khiển trách không dám trốn tránh, nhưng ngưỡng
xin thương cho kẻ ngu, khoan thứ tội lỗi thì đội ơn đức vô cùng”.
Vị quan ấy ngồi trầm ngâm hồi lâu rồi nói:
“Nay tha cho nhà ngươi dân mọn ngu tối, từ sau chớ có được khinh
nhờn, vả dương gian và thuỷ phủ giới hạn tuy sai biệt nhưng lý lẽ thì cũng là một,
không được hài hước đùa bỡn mà mắc vào lưới pháp”
Đô Dũng khấu đầu tạ rằng:
“ Đội ơn sóng cả đức dày, khiến cho có vẩy lại được bơi nhảy, thực
không dám traí nữa”.
Vị quan ấy bảo: “Tha cho ngươi về, để ta làm tấu tâu lên tự cứu được
ngươi khỏi cái nạn cá mắc trong ao này”. Nhân đó kêu hai tên tốt đưa Đô Dũng ra
khỏi mặt nước. Trên đường đi Đô Dũng hỏi hai tên tốt:
“Đó là vị quan nào vậy ?”
Tên rùa đáp: “Đó là Phán quan bộ Binh”
Lại hỏi: “Đêm trước hành quân vì việc gì vậy”
Tên tôm đáp: “Là đi tiễu trừ giặc cỏ ở Long Châu” (thuộc phủ Thái
Bình tỉnh Quảng Tây. Nước ở đây chảy tự trấn thành Cao Bằng qua Nham Dã đến thuỷ
quan ở Long Châu chảy xuống).
Trong chốc lát đã đến cửa hang, Đô Dũng bái tạ, hai tên tốt quay về
thuỷ cung. Đô Dũng về chỗ đốt lửa lúc trước, thấy hai kẻ đi theo vẫn ở đấy hốt
hoảng biến sắc, Đô Dũng lần lượt kể hết đầu đuôi sự việc, rồi nhổ thuyền lên thẳng
Cao Bằng cho kịp việc. Nhân chép lại việc này để làm tích kể lại.
Ôi, một lời
nói ra mà đúng chỗ như vẽ chó non mới mọc lông mà thành hình tượng như hổ bay, một lời nói ra không đúng chỗ thì như
khắc gỗ hình thiên nga mà ra hình loài vịt. Đô Dũng một buổi gặp lúc thuỷ cung
điểm binh, nghe gọi tên người trùng tên mình, phát lời đáp có, rút cục bị bắt
đi thẩm tra. May mà thuỷ phủ dương sóng đức cao cả mà Đô Dũng được gội ơn,
không thì gặp hoạ rồng đói, hổ ăn, uổng thân trầm luân nơi bụng biển, sao biết
được ánh sáng của cầu vồng nữa, cũng không phải có thể dùng lời nói xảo trá để
cầu thoát tai nạn mà tự bảo vệ mình được, chẳng qua chỉ là may mắn và không may
mắn mà thôi.
Chuyện cũ về Khắc Thiệu.
Năm Tân hợi niên hiệu Thuận Thiên thứ 5 thời Lê Thái Tổ (1014), có
người châu Thái Nguyên phủ Bắc Bình (nay thuộc phủ Cao Bằng) họ Bế tên Khắc Thiệu,
theo Thái tổ có công bình giặc Minh, được tứ phong Quản lĩnh châu Thái Nguyên
được làm thực ấp. Lúc ấy trong châu có người tên là Nùng Đắc Thái, đeo cung nỏ
theo nghề săn bắn. Một hôm đi ở trong núi gặp mưa, chạy vội vào trong hang để
tránh, chốc lát mưa tạnh mới lại đi, đương phía trước bỗng gặp một người đi lại
Đắc Thái đón hỏi từ nơi nào đến. Người ấy đáp: “Đi săn”, Đắc Thái mừng lắm bèn
cùng đi đến dưới gốc cây bái chào chia ngôi thứ ngồi nói chuyện. Cả hai cùng
bàn về phép bắn, Đắc Thái nói: “Nỏ của đệ đã yếu mất rồi bắn không được xa”.
Người kia nói: “Ta tặng cho người tương tri cái nỏ bắn này”, rồi truyền cho Đắc
Thái một cái nỏ đồng, một cái tên đồng, đầu tên làm bằng răng sói, đuôi tên làm
bằng lông hạc trắng. Đắc Thái được nỏ và tên, khấu tạ nói: “Đội ơn ban tặng,
công đức thật thâm sâu”. Người kia đáp: “Cùng ngươi giải cấu tương phùng, trong
lòng yêu mến tặng cho, vật ấy nhỏ mọn đâu đáng để bái tạ như thế”. Đắc Thái xin
hỏi họ tên cùng nơi ở tại chốn nào, người ấy bảo: “ở đây cũng không xa, về sau ắt
có kỳ gặp mặt chẳng cần hỏi nhiều”, rồi đứng dậy nhẹ nhàng mà đi, Đắc Thái đi
theo tiễn, người ấy chuyển mình đi vào góc núi, chẳng thấy đâu nữa, lúc ấy mới
biết là thần tiên. Khi đó mặt trời đã về tây, Đắc Thái quay về nhà, sáng hôm
sau dương nỏ ra bắn thử thì một mũi biến thành trăm mũi, lúc bắn ra sai lại có
thể thu lại tên thần, từ đó về sau trăm phát trúng cả trăm. Khắc Thiệu nghe tiếng
Đắc Thái có thần nỏ, đem lễ vật đến cầu, phong làm Vũ Kình tướng quân, âm mưu
làm phản, trao binh quyền cho Vũ Kình. Được hơn một năm, Vũ Kình cậy có nỏ thần
lại sinh lòng gian khác, mưu đồ chiếm đoạt. Khắc Thiệu trộm biết được ý ấy, ngầm
sai em đầu độc giết đi, lấy được nỏ đồng cùng tên, lấy bắn nhưng tên chỉ bay
ngang mà không trúng.
Năm Nhâm tí niên hiệu Thuận Thiên thứ 6 (1015), Lê Cao hoàng đế tự
đem quân đi dẹp, bắt được Khắc Thiệu đem về. Nay vết cũ phủ điện của Khắc Thiệu
hãy còn ở địa phận xã Cối Khê châu Thạch Lâm, nhân đó đặt tên núi ở đó là Khắc
Thiệu sơn.
Lê hoàng đế có một bài thơ ngự chế khắc vào đá trên núi Ba Điềm để
ghi công (nay nét hãy còn rõ, chữ khắc núi ở tại địa phận xã Phúc Sơn). Thơ rằng
(bên cạnh thơ khắc có khắc chữ: Phiên Thần Thái Nguyên là Bồi Quyết phụng
giám):
Chẳng từ muôn dặm
chỉnh cơ đồ,
Chỉ mong biên
viễn dân đủ no.
Trời đất không
dung quân gian ở,
Xưa nay phản tặc
chỉ diệt chu.
Hiếu trung tự
khắc thêm nhiều phúc,
Bạo nghịch thân
kia khó thoát cho.
Mài dũa chẳng
mòn thần tử tiết,
Cô sơn muôn thủa
với danh lưu.
Ôi, một chút không đụng (đến búa rìu)
mà (phải có lúc) dùng đến búa rìu thì không chỗ nào là (chỗ) không phải dùng. Đến
như việc giúp mưu cho người khác, có chỗ còn không được hết lòng để tròn đạo trời
là sao ?. Lúc ấy Nam Bắc do quan lại nhà Minh chiếm đóng, nhưng mệnh trời còn
cho có nước Nam nên Lê Cao hoàng đế mới phất kiếm dẹp giặc Minh, mở mang đất nước.
Bế Khắc Thiệu theo xa giá có công lao, sắc phong quản lĩnh châu Thái Nguyên làm
đất thực ấp, công lao được ghi vào trúc lụa, như thế là tước vị thăng, ơn huệ
nhiều rồi. Như còn có chí dắt trâu vàng, lấy cái vinh bắn chim sẻ nữa, thế chẳng
phải tốt đẹp lắm sao ?, nhưng lại sính dùng nỏ thần của Đắc Thái làm thế mạnh
mà tự kiêu, vội biến hình da báo mà bỏ mệnh bề tôi, chẳng lượng rõ cái đức của
mình. Thế thì sao gọi là người khoát đạt, sao gọi là bậc thần vũ, chỉ là cái lượng
hẹp hòi của con ếch ngồi trong giếng mà ôm cái lòng muốn dời đỉnh đó thôi. Cuối
cùng cũng là điềm tiếng sấm vang động chốn bùn lầy, làm ô danh cả nghìn năm.
Kinh Thi có câu:
Người mà vô lương,
Không chết còn đợi gì
?
Là nói chuyện
này đây chăng ? .
Chuyện
chuông thần.
Xưa ở thôn Đà
Quận, xã Xuân Lĩnh, châu Thạch Lâm có đền thờ Quan Triều- Hồng Liên Công chúa,
sừng sững cùng chùa Viên Minh (dựng thời Mạc). Trong đền có hai quả hồng chung,
đặt ở trên gác hai bên phải trái. Chuông cao 4 xích, 5 thốn, 6 phân, chu vi 8
xích, 9 thốn, nặng hơn nghìn. Mỗi lần vào ngày tế hai mùa xuân thu thì đánh, tiếng
như sấm gầm vang cả trăm dặm. Phí bên phải chùa tiếp sông lớn, giữa dòng có mạch
sâu, tương truyền là huyệt của loài giao long ở đó. Sư chùa Viên Minh sớm tối
coi giữ, thường dâng hương ở đền. Hôm canh 5 ngày rằm, vị tăng trưởng dậy, thắp
hương ở chùa xong lại sang dâng hương bên đền, đi bộ qua chỗ gác chuông, bỗng
thấy gác chuông bên phải chùa chuông còn bán rong xanh, thân chuông ướt nước.
Thấy việc lạ liền ngầm phục để xem. Lúc mọi vật đã yên, chuông ở gác bên phải tự
di dời xuống khỏi giá, miệng chuông úp đất, tự chạy xuống nước, vị sư liền ngầm
đi theo đến bên bờ sông. Lúc ấy mặt trăng rõ như ban ngày, thấy giao trùng cuốn
lấy thân chuông lúc chìm lúc nổi, nước sông trào lên như cái đỉnh, lại nghe thấy
tiếng trùng rít, khoảng hai giờ sau
chuông động kêu âm âm tự lên, như có ý khoe mạnh tự lên gác. Đêm nào cũng như
thế, từ đó vị tăng trưởng thiết hương án, ngày ngày lễ bái, tăng đồ chẳng biết
duyên cớ làm sao. Đến hôm thứ 8 thì thấy vết hoa kình nát cả (hoa kình tức là
con bồ lao), vị sư liền quỳ khấu đầu bái chúc rằng:
“Chuông thần,
chuông thần, chiến đấu chưa được, xin nuôi nhuệ khí, đợi dựng công cao”.
Được vài hôm, đến hôm thứ 3 thì lại bỏ đi, đêm
ấy tiếng chuông âm âm không dứt, nước sông cuộn trào, sóng cao như núi. Đến lúc
sớm không thấy chuông quay về gác. Vị sư men theo bờ khấu đầu lạy, lặng lẽ quay
về gác, rồi cũng lặng lẽ bỏ đi không chút dấu vết. Từ đó dân vùng phụ cận gọi
đó là Đầm Chuông, lúc đi thuyền vượt qua cũng không còn lo giao long làm hại nữa.
Việc xảy ra vào khoảng năm Giáp tí niên hiệu Vĩnh Tộ triều Lê (1624). Đến năm
Tân dậu niên hiệu Chính Hoà (1681), tháng 2 có người châu Thái Bình trong nội địa
đến thành Mục Mã buôn bán đồ đồng khí, nói rõ là có một quả chuông lớn từ sông
Long Châu ngược dòng đi lên, đến bến sông Hắc Hà châu Thái Bình (nguyên dòng từ
xã Lũng Định, châu Thượng Lang chảy về, chỗ sâu đến ải Củng Xương châu Hạ Lang,
chảy vào châu An Bình trong nội địa rồi lại đến châu Thái Bình, giáp sông phủ
Thái Bình xuôi dòng về sông ở Nam Ninh), lúc ấy nước sông nổi sóng, chuông thần
sé nước đè sóng đâm thẳng lên đê. Có người bẩm cáo, quan châu cùng đến xem, cho
người lay chuyển không thấy động tĩnh, chỉ thấy vết hoa kình nát. Thợ đúc xin nấu
nó đi, thì thấy toát nước ra như mưa, tiếng chuông kêu giận dữ giết chết người
thợ đó, vì thế châu quan run sợ, kẻ làm giá tham lợi bán luôn giá treo đi, châu
quan liền khắc mộc tu tạo điện vũ, dùng cỗ Thái lao để thờ. Cầu mưa cầu tạnh
giúp cho dân địa phương, cứ nghiệm ở vết hoa kình là rõ lúc nào mưa. Trời sắp tạnh
thì hoa kình sắc thái sáng rõ, còn sắc thái thảm đạm thì ắt là trời âm u mưa,
như thế không hề sai, đó là cái lạ của thần chung.
Nhân đó sai người tới nhận dạng cẩn thận
thì hoa văn đúng như chuông đền Quan Triều, đến nay hãy còn, nên chép lại việc
này.
Ôi,
vật gì lâu ngày cũng hoá ra thần thiêng mà hiển ứng, khảo xét trong sách Trang
Tử, thể lượng ra thì cũng có. Tuy nhiên, việc có chỗ nhầm lẫn xúc phạm, bỉ tục
hỗn hào, hoặc có chỗ nghi tín, suy đoán lên xuống, vốn cũng cắt xén bớt để cho trở nên chất phác, giảm nguỵ để
thêm chân. Còn như việc chuông thần rỗng bên trong mà tự di động, tự kêu trên
sóng, ghét loài giao trùng tác quái ẩn cư ở đầm sâu, ra uy linh trừ hoạ cho
dân. Đến khi loài giao bị diệt mà thần chung cũng đi mất. Ôi ! công lao của
chuông thần đáng được dân đây thờ phụng mà lại rút cục không hưởng hương thơm
cùng đồ tế là cớ làm sao ? Hay là vì thiên cơ đã bị tiết lộ, không muốn bán
danh tiếng để được hưởng cúng tế, nếu như không phải thế thì cũng có liên quan
gì đến việc thịnh suy của vùng này chăng ?
Sự tích Thiên Hoà
Năm Giáp ngọ niên hiệu Thịnh Đức thứ 2
(1654), Mạc Thuận Đức chiếm cứ Cao Bằng, có người xã Thời Hoà châu Thạch Lâm
tên là Nùng Quý Hổ, giận nhà Mạc soán quyền, làm điều trái, ôm lòng muốn về với
đường chính, bèn tự xưng là Thiên Hoà vương, dẫn người ở 2 tổng Thượng Pha,
Phúc Hoà tiến đánh họ Mạc. Thuận Đức sai tướng đi dẹp, Thiên Hoà sức địch không
lại, thua trận nhảy xuống núi chết, tướng Mạc dẫn quân về. Đêm hôm ấy, người
dân ở hai tổng mộng thấy Thiên Hoà dặn rằng: “Thi thể ta còn ở ngoài đồng, chim
Vô thường chính là linh hồn ta”. Sớm hôm sau, nhân dân hai tổng hội họp đều nói
ra giấc mộng giống nhau, bèn cùng nhau đi tìm thi thể của Thiên Hoà, quả nhiên
thấy thi thể ngoài đồng, mà chim Vô thường đậu. Chim liền kêu: Hồn ta! hồn ta!
Biến thành chim kêu oán, nhà Mạc tiêu vong.
Ôi
con người ta, khí là phần hồn, huyết là phần phách, thế nên chết rồi khí không
tan, huyết ngưng đọng, ấy là chung đúc như Doanh Vệ mà phát ra thiêng như thế.
Thường từ cái lớn mà suy ra cái nhỏ, xem xét đấy, ôi như chuyện hiển thánh núi
Ngọc Tuyền, đó là ngôi lớn phát linh
thiêng, khăng khăng một tấm lòng trung thành, hiển ứng bao la. Đến như Thiên
Hoà, một hồn phách bình thường mà có thể so sánh được, thật vĩ liệt thay, thế
thì Thiên Hoà quả là linh thiêng hiển ứng thành chim, nghiệm cũng thấy có, chẳng
phải là thuyết bàn hoang đường vậy.
Sự tích Bồng sơn
Núi Ba Mô ở địa phận xã Bồng Sơn, châu
Thượng Lang, dưới núi có huyệt sâu, nước từ đây chảy dần ra các ruộng, nhân dân
nhân đó mà cày cấy canh tác.
Năm Bính dần niên hiệu Cảnh Hưng thứ 7
(1746), tháng 5 ít mưa, ruộng đồng đều khô cạn. Người trong thôn tên Nùng Văn Bồng
chăn trâu ngoài đồng, nhân đi qua cửa hang, thấy nước cạn, thuận chân đi vào.
Đi được khoảng 4 trượng, thấy một con trâu lớn nằm ngang trong động, nghĩ là
trâu trong thôn, Văn Bông lại gần vỗ vào lưng trâu nói: Dậy đi ! Dậy đi ! đừng
có nằm đây làm cái khối thịt ngăn nước làm khô cả ruộng của ta. Trâu bỗng nhiên
đứng dậy, tay của Văn Bồng dính chặt vào lưng trâu như có dính keo không dời ra
được. Trâu chạy vào trong động, chân Văn Bồng cũng phải rảo theo như sắp hết
hơi, tay mấy lần như muốn đứt rời ra. Chạy được nửa dặm tay mới dời ra được,
trâu bỗng không nhìn thấy đâu nữa, nước trong động từ từ chảy ra, chảy ra ruộng,
các bờ đều được tưới nhuần. Từ đó về sau, mỗi năm đến mùa hè, cứ nghe thấy tiếng
trâu rống trong hang tức là có nước đều khắp ruộng. Năm nào nước cạn thì người
và vật phương ấy ít được yên ổn.
Ôi,
nước trong động núi chảy ra, ấy là long mạch. Hiện hình trâu để ngăn nước ruộng
tức là phương ấy có điềm may, điềm vạ gì, hiện ra hình để dẫn dắt Văn Bồng, khiến
cho biết thần đất này là tối linh. Nước chảy đều bờ ruộng khiến chúng dân được
ơn nhuần, chứ
lấy thân hèn mọn, nhỏ bé sao đủ nói chuyện nuôi ngựa tốt tiêu khiển cho hết
ngày trường được đây ?
Chuyện Đà Sơn
Đà sơn hệ thuộc xã Bình Giản châu Thạch
Lâm, tục gọi là Ba Đà sơn, vách đá dựng đứng, cao chót vót vút xanh như bình
phong, ngọn nào cũng cỏ cây xanh tốt. Có một năm nọ, vào khoảng tháng 6, tháng
7, cỏ trên núi tự nhiên bốc lửa cháy rụi hết cả, dân cư ở gần đó lại lúa tốt bời
bời. Trải lâu xem xét thấy rất nghiệm.
Ôi
! cỏ cây trên núi tự nhiên bốc cháy, ứng điềm quẻ Li
toả sáng báo vận hội thái bình. Hoả vượng thì sinh gió, gió là gió Huân
phong, có thể cởi được những nhọc nhằn vất vả, khắp trời cùng vui vẻ. Nhưng cỏ
tự cháy là ứng vào thôn cư gần đó được mùa phú thịnh, trải qua đều thấy nghiệm
mà không ứng vào dân vùng sở tại, ấy là biệt long mạch mà hiện điềm, là điều ấy
chưa từng nghe thấy bao giờ. Thế nên ứng ở gần bên cạnh mà không ứng triệu ở
nơi ấy.
Sự
tích Tung Cao
Thugn lũng Ba
Mộ ở địa phận xã Tung Cao, châu Thạch Lâm. Trong thung ấy mọc lên một ngọn núi
đá cao, gọi là núi Ba Lâm, dưới núi có một động huyệt thông ra 4 bên. Năm nào
mà nghe thấy tiếng chiêng tiếng trống thì y rằng năm ấy có việc binh đao, hay
dân chúng cùng gia súc bị dịch bệnh.
Ôi ! trong núi có động huyệt hư không, lại
có tiếng chiêng trống, ấy là có cái cơ về việc chiến tranh, nên đất địa linh hiện
điềm cảnh giới cho, cùng gia súc bệnh dịch,
ấy là việc lưu hành của tạo hoá, giềng mối chỉ tại một người. Như việc người
trái lại thì lẽ trời ứng hiện cho biết mà giáng tai ương. Như thế nên phải tu đức
để giữ mệnh trời, để thêm điềm lành vậy.
Chép về giao
phối khác loài.
Có con mèo
nhà, là con cái, sắc đen, đến thời giao phối kêu gào ở nơi vườn hoang. Bỗng đâu
có con rắn đen trườn đến, cuốn lấy trên lưng mèo. Rắn giao phối bằng bụng,
phóng ra phía sau mèo, chốc lát giao phối xong, rắn buông thân mèo bỏ đi. Mèo
chạy vào nhà, toàn thân đều ướt. Đến khi có mang đủ tháng, cũng sinh ra mèo
con, sắc đen mà lanh lợi, bắt chuột tài (việc là có thấy thực chứ không phải
hoang đường).
Ôi, việc rắn dâm với mèo ấy, rắn là
loài trùng, mèo là loài thú, là khác loài nhau mà giao hợp, về lý thì không
đúng. Vả rắn có thói dâm, lưỡi nghe được tiếng mèo kêu (Tai rắn tủng, nghe bằng lưỡi) ở thời kỳ động dâm, rắn vượt qua
ngòi rãnh, qua ao lầy mà đến. Mèo tương ngộ với rắn đực, giao hợp cùng, mèo
không phải là lần nào cũng giao hợp cùng rắn, chỉ là việc ngẫu ý, ngẫu ý gặp
thì cùng giao hợp mà thôi.
Loài
phượng đất
Phượng hoàng
đất là tên loài chim lớn, thuộc loại thiên nga, mùa hè ở trên vách núi treo leo
nguy hiểm làm tổ sinh sản. Đẻ được hai trứng, con cái ấp, con đực thì nhặt cành
cây chằng chịt lại, chu vi cao hơn hai xích, làm bên ngoài tổ, ngậm keo chám
dính các cành cây lại. Tổ rất kín, chỉ chừa một lỗ cho con cái thò cổ ra mà
thôi. Con đực mỗi lần đến mang mồi cho con cái ăn. Đến lúc đủ tháng, trứng nở,
con đực ngó đúng là con của nó thì phá cây mở tổ để con cái ra, thấy là con
loài vượn thì lấy cành cây bịt tắc miệng tổ, khiến con cái cùng con loài vượn
cùng chết trong tổ. Đại để là loài ấy thường vụng trộm cùng giao hợp với loài
vượn. Việc này cũng khó tin, đến khi người Man có nghề ở trên núi lâu đời đem
chim cái cùng con loài vượn đã chết đến trình, thì quả là có xác chứng.
Ôi ! loài vượn đất con chim cái cùng
giao hợp với vượn đực là việc rất khó tin. Nhưng nghiệm loài trĩ với loài rắn
giao hợp mà sinh ra con Thẩn. Thì loài do con Biết cùng loài rắn giao hợp mà
sinh ra, thế cũng đủ là việc thật, không lấy làm quái lạ lắm.
Chuyện
cây lúa lạ
Nguyên ở châu
An Bình tỉnh Quảng Tây, tiếp giáp với ải Đống Long, tổng Điều Lang châu Hạ Lang
của nước Nam ta. Khi xưa châu An Bình còn thuộc nước Nam ta, có hương Đông Kiều
thuộc châu An Bình, từ Đống Long ải đến hương ấy đi mất nửa ngày. Trong hương
có núi đá to như một dãy nhà, đứng một mình giữa đồng. Trong núi ấy một lỗ sâu
mấy xích, trong ấy có bùn đất, chỗ ấy rộng có thể vừa một chiếc chiếu, nước
luôn đầy không bao giờ khô. Mùa xuân lúa mọc tốt tươi, đến khoảng tháng 3 thì
lúa chín, dân trong hương thu hoạch về, trồng loại
thóc ấy thì được loại tiểu lữ. Đến các tháng hè thu đông, lúa ấy lại mọc tốt,
trong vòng ba tháng lúa lại chín như cũ. Nhưng dân đem loại lúa ấy đi trồng ở
nơi khác thì bốn mùa không được tươi tốt như thế.
Ôi, trong 9 loại cốc, các loài rất nhiều,
phàm cày sâu chăm bón thì chỉ trong 100 ngày là lúa chín mà loài này chỉ trong
ba tháng, cũng 90 ngày đã chín sớm thì suy ra loài lúa sinh trưởng ở trên cao,
đắc được khí nóng nên chín sớm, đến lúc gieo trồng ở ruộng, đất thấp khí lạnh
nên chậm chín. Đại khái là lúa chín sớm, chín muộn, khi đã một lúc gieo xuống
ruộng, có loại 8 tháng thì chín, có loại 10 tháng thì chín. Từ đó nghiệm mà xét
thì cũng không phải do khí đá nóng mà chín sớm, ở dưới đất khí lạnh mà chín muộn,
do có loài chín sớm, có loài chín muộn đó thôi.
Thứ 3, Ghi chép về núi sông.
Tứ trụ sơn ở Trấn thành.
Núi Cao Sầm cách thành 20 dặm, đỉnh núi cao vượt nghìn tầm, cây cỏ
tuyệt đẹp. Trên đỉnh núi nguy nga muôn trùng như múa, uốn lượn tầng tầng như
sen ngậm hương khít cánh, như nhạn đàn dương cánh tung bay, hình múi chuông lõm
xuống như lưng ong, vươn ra như hạc múa. Phía tây là đỉnh Tham Lang nổi cao như
rồng đá dương vuốt, Đông là núi Tam Thai hình thấp như chó nằm nhe nanh, thế
núi như giăng màn, đền Cao Sầm là ở đây.
Núi ấy ở địa phận xã Tượng Lặc, xưa có
đền Nùng Trí Cao ở dưới chân núi nên gọi núi ấy là núi Cao Sầm.
Núi
Bà Hoàng, cách thành 15 dặm, lưng núi tầng phân cao vút, vắt ngang sừng sững
như đầu voi. Núi Canh Lĩnh liên tiếp như phượng múa, đỉnh Mã Phi như tượng ngao
vờn. Ruộng dưới chân núi là nơi dựng đền Bà Hoàng ở dưới đấy.
Núi này thuộc địa phận xã Kim Pha, bên phải
liền Canh Thang, bên trái tiếp Mã Phi, đền thờ mẹ của vua Nùng (Trí Cao) dựng ở
chỗ ruộng ấy nên gọi núi ấy là núi Bà Hoàng.
Núi
Khâu Luân ở phía Nam cách thành hơn 30 dặm là điểm
then chốt trấn giữ, đỉnh cao dựng muôn
ngọn chầu về, suối khe uốn khúc liên hoàn.
Núi này ở địa phận xã Phú Thứ, đất sản ra đá
sắt, nấu chảy đá thành sắt, thành gang.
Núi
Khẩu Sơn ở phía Tây, cách thành hơn 50 dặm, là nơi trấn giữ trọng yếu của phía
Tây. Núi đá độc tôn, lớp lớp trùng điệp lên xuống, sừng sững chia đỉnh giáp, ngợp
ngợp trăm khúc ngoảnh đầu.
Núi này ở địa phận Triều Vũ.
Các
núi ở trong địa phận.
Ngưu sơn (tục gọi là đèo Trâu), đường theo lên tận đỉnh, uốn lượn
như rắn trườn, mỏm núi dâng cao, chia ra như phượng múa tầng tầng. Lớp lớp gò
cao thấp, đều quy về địa phận xã Xuân Hoảng, dòng nước chia đôi bên phải trái,
cùng đổi dòng chảy về khe Kim Mã.
Núi này tính từ xã Vân Du đến Xuân Hoảng,
tiếp giáp xã Kim Mã xứ Thái Nguyên, nơi có núi Ngân Xưởng, thương khách thường
qua lại chỗ này.
Liêu
Sơn, trên đỉnh có đường uốn lượn dẫn lên, bên núi có khe chảy dưới thấp. Đối ngọn
với núi Biều Ngân, đường đi qua động Lân Chỉ. Các ti tuần chinh xét việc thuế đặt
ở thôn Phúc Tăng.
Núi này ở địa phận xã Phúc Tăng, tiếp giáp động
Lân Chỉ.
Núi
Mô sơn, núi này cao vững, nước chảy sàn sàn, đường vòng qua phía sau lưng núi,
là nơi liên quan trọng yếu của người buôn bán. Từ Mang Động mà theo dòng Hiến
Giang qua Vân Tùng đến núi Ngân Xưởng.
Núi này từ địa phận xã Mang Động châu Thạch
Lâm giáp với Ngân Xưởng, Phúc Sơn, Vân Tùng xứ Thái Nguyên.
Núi
Thống Sơn nguy nga vòi vọi, mở ra một dãy lởm chởm xanh biếc, cạnh núi vách đá
nghìn trùng nguy ngập như cao lên mãi, dải mây để thu vụ, cây cối tốt tươi,
phun dòng nước mà mọc phát rêu thần. Xưa kể lại đây là chỗ vua Nùng (Trí Cao)
nuôi ngựa, kì ngộ với tiên nhân truyền cho sách mang về.
Núi này ở địa phận xã An Lại châu Thạch Lâm.
Núi
đất Khâu Doanh, có nước chảy uốn khúc, chia mạch chia dòng, núi đột cao vắt
ngang chia phải trái phát triển như sinh con, sinh cháu. Từ phía bắc Đường Âm
3000 dặm, từ phía nam Hoa Môn hơn 10 dặm có núi Bình Dương nhấp nhô như măng mọc,
uốn như rồng trườn triển thế, cảnh trí thanh thuý bày thế hổ nhảy đón nghênh,
khe suối bao quanh, chẳng đâu không phải là đất của vùng biên cương cổ.
ẩn
chứa nhiều đá, đều là đá nam châm. Có dòng suối từ bên trái chảy lại gọi là Nẫm
Thông, nước chảy nguồn từ Hà Quảng, đều thuộc núi Bình Dương, là nơi thành cũ của
công chúa nhà Mạc, thật là thắng địa của thời trước.
Núi ấy thuộc địa phận xã Linh Hoàng.
Núi
Man Đà, cũng gọi là Khâu Liêu, vòng vèo toàn đường như ruột dê, nhỏ hẹp đều là
nơi ẩn của hổ báo, đất là nơi sinh sống của các loài mao trùng, thương khách ngại
qua đường này. Cảnh sắc núi sông thì rất đẹp, cây cỏ tốt tươi, chỉ có thể kể địa
khái thế. Có thơ rằng:
Trời quang quất ngựa non cao,
Sau lưng rộng thoáng tình dào áng mây.
Đường chim liệng liệng cánh bay,
Cảnh tiên đắc đạo khoả khuây lòng người.
Non cao cảnh thú tình hoài,
Bể Đông đâu phải Bồng Lai tìm cầu.
Núi này thuộc địa phận xã Man Đà, nơi
đây hổ báo thường ẩn nấp là một mối lo ngại.
Núi
Điều Thiên, tục gọi là Đèo Thiên, thế núi rất cao, mạch núi kéo dài, có loài
trúc điểm sắc đỏ như mây, màu non xa mây núi xanh thắm.
Núi này từ địa phận Đoài Côn châu Thượng
Lang đến địa phận xã Dương ải châu Hạ Lang, có sản loài ban trúc, dùng làm đồ
dùng trông rất đáng yêu, nhưng đến mùa hè thì trúc nứt ra.
Núi
Bế Sơn là núi đất, vẻ đẹp phô bày, dáng như cánh phượng, sườn non uốn như lưng
ong. Có câu: Chốn khuất khe lưu bày măng ngọc, Tùng lâm hoang vắng sẵn Sa nhân.
Trong núi có nhiều củ mài, cây leo củ như dây (Cắt lấy nhân ăn vị rất thơm).
Núi ấy ở địa phận 2 xã Suất Tính, Tượng An.
Núi
Kê Minh, hang núi hiện điểm xuyết, dáng vụt lên, núi như thế rồng, trông như đường
đàn kiến bò. Đâu biết rằng tướng lính xưa cũng vui thú với cảnh núi này, chứ đừng
nói gì đến kẻ tiều phu nón lá làm ruộng thì khác. Có thơ phú rằng:
Muôn
ngọn núi xanh nổi vẻ kỳ,
Rủ
tầng phượng múa với rồng phi.
Giữa
rừng anh vũ chim kêu nữa,
Đường
xa đâu biết ngựa chậm rì.
Núi Kê Minh tục gọi là Gáy Cắn, từ xã
Thượng Pha châu Thạch Lâm đến xã Yến Dương gần địa phận xã Giang Ngô. Xưa tướng
nhà Mạc là Thái Bảo Phú Quận công thua binh chạy về núi này, nghỉ ở trên núi
lúc ấy là canh tư, nghe gà trong thôn gáy, nhân đó đặt núi này là núi Kê Minh.
Núi
Khâu Uy, từng khúc từng khúc nổi cao thấp, leo lên thì cao vượt lên. Suối ở dưới
chảy chầm chậm, đá mọc nhấp nhô. Trong núi hươu kêu u u, chim hót chích chích,
đường đi liên tiếp, trúc tre mọc tốt, đường núi tạp nhạp. Có thông thương nên đặt
đồn thu chưng, là nơi núi sông tú lệ, địa mạch kỳ quan. Có thơ rằng:
Cây
xanh bày dãy vẻ tươi nhuần,
Non
Uy trời tĩnh vắng mây vần.
Mưa
qua dóng trúc mơn mởn phấn,
Màu
dương lúc tạnh nhạt nhạt xanh.
Người
muốn đạp bằng đâu chỉ mệt,
Ngựa
còn chùn bước chớ cầu xin.
Non
thiêng ắt hẳn sinh nhân kiệt,
Còn
chuộng ơn Nghiêu tước mấy lần.
Núi Khâu Uy nổi từ đồn Bắc Cung, Nội
Chiêm châu Thạch Lâm, theo suối chảy đến xã Bình Khấu huyện Cảm Hoá xứ Thái
Nguyên. Đường dẫn vào Phúc Sơn Xưởng, khách phương Bắc thường mang tạp hoá đến
buôn bán, đi qua đường này.
Núi
Hoàng Sơn, núi này to tròn, đỉnh núi chia ra như con dấu, sườn nuí tạp sinh
loài hoa dại, dưới đất dân sống quần cư
thành thôn xóm. Tương truyền dưới núi có ngọc thạch.
Núi này từ địa phận xã Cổ Nông châu Quảng Uyên đến địa phận xã Trà
Lĩnh châu Thạch Lâm.
Núi Thiên Mã, ở chỗ nổi lên
có thế voi chạy, quay đầu lại thành hình hổ nằm, hai bên phải trái ngay ngắn,
cao thấp hợp cách. Gần thì có An Bình Sa chầu về, nguyên thần vượng thuỷ hoàn
nghênh, giữ được huyệt này thì đời đời công hầu khanh tướng.
Sách Di Cảo có nói: Giữ
được huyệt này thì đời đời công hầu khanh tướng, anh hùng bất tuyệt. Núi ở địa
phận xã Phúc Tăng nổi lên chạy đến địa phận xã An Ninh, đầu của Thiên mã bị cắt
đứt ngang hơn 20 trượng, ở nơi huyệt đất có dựng chùa. Người ta truyền rằng thời
Cao Vương cưỡi diều giấy bay đến ném bút chặt đứt đi là vì thế, nhưng chẳng biết
là có hay không.
Núi Bình Phong là núi đá
cao, khe suối uốn quanh. Mù tắt thì bay ngang cánh nhạn, mới sớm vượn hót đầu
non, đường đi gập ghềnh, thương khách mỏi gối. Đường núi lên xuống, xuyên qua cỏ
cây rậm rạp, bát tiết không mòn danh lớn, tứ
thời sắc xanh còn mãi. Thơ rằng:
Trùng cao như kéo cắt hoa,
Nửa hòn như ngậm chút hương
ba.
Mạch núi ngắn dài theo thế
xuất,
Lần lượt non khai dưới ánh
tà.
Trời tây khắp chiếu cảnh gần
xa,
Xa trông như thể vân hà áng
mây.
Núi ở xã Cà Xuyên châu Thạch Lâm, phía dưới
có đường lớn đi qua.
Núi
Giảng Văn, hình núi biến báo, đường như ruột dê, qua suối sóng vỗ khiến cả ngựa
nhảy kinh, leo lên núi cũng mướt mồ hôi. Men theo dòng uốn lượn có trúc mọc cây
cao cây thấp đường núi râm mát, ở đấy chỉ trồng được loại mạch đen.
Núi
này từ địa phận xã Minh Luân châu Thạch Lâm giáp với địa phận xã Trùng Khôn có
đường lớn đi qua ải Nùng.
Các
dòng sông trong địa phận Cao Bằng.
Đại
Giang (tục gọi là sông Cả), nước sông chảy xiết sóng trong, lúc trời mưa thì nước
đục. Giáp sông Hiến, chảy phía trước trấn thành Mục Mã, từ Phù Vạn cho đến dưới
phía trái Phúc Hoà, hai bên là núi đá có nhiều hang hốc đá lỗ như tổ ong, là
nơi hang ổ của loài giao long.
Nguồn từ xã Khang Lạc châu Bảo Lạc xứ
Tuyên Quang, từ Thông Nùng châu Thạch Lâm cho đến Trùng Khôn. Lại có một dòng nữa
từ Thần đỉnh xưởng Bạc ở Tống Lí xứ Thái Nguyên phun ra, chảy đến xưởng Thiếc ở
Thôn Khẩu thuận dòng sông Đà chảy ra hướng khác, ngang qua Trùng Khôn đều giáp
lưu đến tận chợ Nước Hai xã Nhượng Bạn. Lại một dòng nữa từ Phù Tang, Sóc Hồng
chảy đến Nước Hai hợp dòng thành Đại Giang, cùng sông Hiến chảy xuống dưới bao
thành Mục Mã đến tận ải Bác Nẫm hợp với Thuỷ Khẩu Quan của Nội địa đến tận Long
Châu.
Sông
Hiến, vào mùa hè thì nước sâu mùa đông thì nước cạn, dùng để chở bè tre, sông
nhiều đá sắc nhọn. Nước sông trong nhưng không sạch, vị hơi tanh mà ngọt, lấy một
ít mà trữ chỉ hai ngày là tự sinh loài trùng. Nguyên do là đầu nguồn ở xa, có
nhiều loại lá tạp, lại thêm các loại dây củ hoang dại, lá già mục rụng xuống,
nước chảy qua gặp phải thì bị nhiễm độc.
Nguồn từ xưởng Bạc ở Tống Tinh xứ Thái
Nguyên, non Thần cao lớn đỉnh phun ra nước, một dòng chảy xuống xưởng Thiếc, một
dòng chảy qua bãi Bạc, một dòng chảy xuống Linh Mai, Kim Mã hợp với Mang Động
xã Xuân Hoảng châu Thạch Lâm, lại một dòng nữa ở Thượng Ân Châu Khê huyện Cảm Hoá xứ Thái
Nguyên chảy về Mang Động, đều đến xã Cổ Vũ hợp với dòng Kim Xuyên. Lại một dòng
khác từ Tĩnh Đà châu Thạch Lâm chảy về Kim Xuyên, đều nhập vào dòng sông Hiến
chảy về bên phải thành Mục Mã.
Sông
Cổn giang, sông này nhỏ hẹp, nước chảy chậm, nước trong mà ngọt hơn các sông
khác, dùng để pha trà thì vị ngon, dùng để giải nhiệt trừ phiền thì rất tốt.
Nguồn nó từ địa phận xã Tráng Biên
châu Thạch Lâm, trong núi đá chảy ra đến thôn Quang thì xuôi xuống dưới, núi đá
nhô cao, trên có dòng nước chảy ra đến tận đất Hàm An thành sông Cổn Giang. Chảy
đến sông Đại Giang trước trấn thành. Nước sông Cổn nếu tự nhiên cạn thì năm ấy ứng
điềm mất mùa, đói kém nghiệm xét xưa nay đều có như thế.
Sông
Lũng Định nước thì trong mà cá thì béo (Cá thì ở đâu đâu cũng có, nhưng duy ở
sông này là cá trắng, tục gọi là Cá Lõi, não đầu cá này có hương vị thơm xộc
lên tận mũi, ta từng thưởng thức qua, thật không phải là nói không mà chép vào
đây).
Đầu của nguồn sông này từ châu Quy Thuận
trong Nội địa chảy vào, chảy đến Mai Lĩnh xã Kim Côn châu Thượng Lang, lại một
dòng nữa từ Đăng Nẫm chảy qua Mai Lĩnh cùng hoà dòng Lũng Định, chuyển dòng đến
Bồng Sơn, qua núi đá đi hơn hai trăm trượng đến Địa Vọng thế cao như thác, lại
chảy đến xã Trác Nhi châu Hạ Lang chảy vào châu An Bình trong Nội địa.
Sông
Thông Huề, sông này hẹp nhất, nước trong, giữa sông đá nổi nhấp nhô, thế nước vần
chuyển từ từ, sắc vàng, phân khúc chảy xuống dưới, nghịch lưu, dòng cuộn chảy
mênh mang. Nguồn sâu nước ngập có thể dùng bè vượt qua, do có giao long ẩn nấp
nên dựng cầu nổi, đi lại lâu thành đường.
Nước sông này chảy khẩn cấp, đáy nước
có hang đá loài giao trùng ở đấy. Lúc nước lên người buôn bán qua lại thường bị
thương hại bởi giao long, thế nên người trong châu làm cầu nổi để qua sông cho
tiện. Đầu nguồn từ địa phận xã Ngưỡng Đồng chảy đến Thông Huề qua 2 xã Cảm Hảo,
Đoài Côn lại bọc lấy ải Na Thông giáp với Đại Giang đều chảy về Thuỷ Khẩu Quan.
Khe
Sầu chảy róc rách, trong trẻo, non xanh ve kêu trên cây, đá trắng rêu phủ. Bên
bờ nước lội qua chỉ ướt chân, thương khách thích qua đường này, kẻ sĩ lại càng
vui thích buông cương cho ngựa chạy rong ruổi.
Khe này từ địa phận xã Nhã Nam châu Thạch
Lâm chảy ngược qua thôn Bình Lũng, đến chợ Nẫm Nương xã Phúc ứng chảy ngang qua
góc núi đến thôn Chu Lăng hợp với Đại Giang.
Nhật
trình đến các đồn Tuần trong địa giới.
Tuần
Mục Mã dựng vào triều Lê ở phía Tây phố.
Tuần
Lương Mã ở phía Đông phố, dựng thời Tây Sơn, hai nơi này đều ở trong trấn sở
thành Mục Mã.
Tuần
Đèo Liêu ở địa phận xã Phúc Tăng, từ trấn sở đến đồn Tuần này nhật trình đi hết
một ngày.
Đèo
Trâu có Tuần Nẫm Lộng ở địa phận xã Mang Động từ trấn sở đi dến chỗ này đi hết
một ngày.
Xứ
Đèo Hiên ở địa phận xã Minh Luân từ trấn sở đi hết một ngày.
Đồn
Tuần ải Sóc Hồng ở địa phận xã Sóc Hồng, giáp với ải Bình Mạnh phủ Trấn An
trong Nội địa.
Tuần
Phù Tang, đồn tuần ải Hà Trừng ở địa phận xã Trừng Hà giáp với ải Na Lẫm châu
Quy Thuận trong Nội địa. Từ trấn sở đến đây đi hết một ngày.
Tuần
đồn ải Trà Lĩnh ở địa phận xã Trà Sơn, địa giới giáp ải Tứ Bang châu Quy Thuận
trong Nội địa, từ trấn sở đi đến đồn này hết một ngày.
Tuần
đồn ải Bác Nẫm ở địa phận xã Nghi Phán, địa giới tiếp giáp Thuỷ Khẩu Quan, Long
Châu trong nội địa từ trấn sở đến tuần đồn này hết hai ngày
Tuần
đồn ải Na Lan ở địa phận xã Khâu Ngô, địa giới giáp ải Bố Cục châu Hạ Đống của
Nội địa.
Tuần
Bác Khê ở địa phận xã Bác Khê, địa giới tiếp xã Bình Quân xứ Lạng Sơn, lại tiếp
cả địa giới xã Lương Hạ xứ Thái Nguyên, từ trấn sở đi hết 4 ngày.
Tuần
Bắc Cung ở địa phận xã Nội Chiêm, tiếp địa giới xã Bình Khấu xứ Thái Nguyên từ
trấn sở đi đến đây hết ngày rưỡi.
Tuần
Nẫm Nương ở địa phận xã Phúc ứng, từ trấn sở đến đi hết một ngày.
Tuần
Na Cát ở địa phận xã Đường Âm, từ trấn đi hết một ngày.
Tuần
đồn ải Quả Thoát ở địa phận xã Quả Thoát, địa giới giáp ải Mã Tốc An, từ trấn sở
đi hết hai ngày.
Tuần
đồn Na Thông ở địa phận xã Phất Mê, tiếp với ải Khiếu Lâm, Long Châu của nội địa
nhật trình từ trấn sở hết 1 ngày.
Tuần
đồn ải Cổ Chu ở xã Hiếu Lễ, giáp hai thôn Ngọc Luật, Bình Nê, gần ải Quy Liễu của
Nội địa, đi từ trấn sở hết ba ngày.
Tuần
đồn ải Nga ổ ở xã Nga ổ, gần ải Na Tịnh châu Hồ Nhuận của Nội địa, từ trấn sở
đi hết 4 ngày.
Tuần
đồn Củng Xương ở xã Trác Nhi gần ải Câu châu An Bình của Nội địa. Đi từ trấn sở
hết 5 ngày.
Tuần
đồn ải Đống Long ở địa phận xã Điều Lương, tiếp giáp ải Mai Yết châu An Bình của
Nội địa, từ trấn sở đi đến đồn này hết 5 ngày.
Tuần
đồn aỉ Bí Hà ở địa phận xã Bí Hà, tiếp giáp ải của châu Hạ Đống trong Nội địa,
từ trấn sở đến đây hết 4 ngày.
Đồn
Đèo Mô ở địa phận Cẩm Dã, giáp với xã Thượng Ân xứ Thái Nguyên, từ trấn sở đến
đây đi hết 1 ngày.
Đồn
Gia Bình ở xã Gia Bình, giáp địa phận xã Linh Mai xứ Thái Nguyên, từ trấn sở đi
hết 1 ngày.
Đồn
tuần An Lại ở xã An Lại, từ trấn sở đến hết nửa ngày.
Tuần
Phiên Dương ở xã Phiên Dương, từ trấn sở đến chỗ này hết một ngày.
Đồn
tuần ải Thông Nùng ở địa phận xã Thông Nùng, giáp địa giới phủ Trấn An trong nội
địa, từ trấn sở đến đây hết một ngày rưỡi.
Các thành, chùa trong phủ.
Thành
Mục Mã
Thành
này nằm trên địa phận xã Gia Cung, xưa họ Mạc chiếm cứ Cao Bằng, từ khi Quỳ quận
công lên tiễu trừ, họ Mạc thua chạy vào trong Nội địa. Lệnh chuẩn cho Quỳ quận
công trấn giữ thành Mục Mã, con trưởng Quỳ quận công là Trụ quận công trấn giữ
thành Hoà Mục, thành Sóc Hồng (đều là thành do Mạc Thuận Đức dời đến xây ở
đây), con thứ là Đằng Lân hầu giữ thành Phúc Hoà. Sau Thiên triều sai quan Tổng
binh đem 1000 quân đưa họ Mạc trở về. Họ Mạc khôi phục được Cao Bằng, quân ta lại
phải đi chinh phạt. Tướng trấn thủ là Bái quận công đặt trấn tại cung điện của nhà Mạc ở Cao Bằng, nhưng
chỗ ấy nhiều khí bệnh tật nên lại dời về thành Mục Mã. Lệnh ban cho Quỳ quận
công làm Đốc đồng trấn cùng Đốc trấn là Ngô Sách Tuân đốc suất một vạn binh xây
thành, đầu thành có cái thành đất liên hoàn với thành đất Mục Mã, dựng Văn miếu
ở đấy. Từ đó mới đặt các doanh trại, đến năm Canh thân thời Cảnh Hưng (1740),
nguỵ Mạc ba bốn lần điên cuồng ngóc đầu nổi dậy, bức đến tận trấn thành. Tuân
quận công vâng chức Đại lý trấn vụ đắp thành đất bao Mục Mã thành, bên ngoài
làm rào gỗ kết lại để chống giặc. Đến năm Tân dậu niên hiệu Cảnh Thịnh thời Tây
Sơn(1801), trấn thủ là Hội Vũ hầu dựng đồn ở trên cái gò phía trước thành, đến
năm Quý hợi niên hiệu Gia Long thứ 2 (1803)của triều ta, trấn thủ là Tiến Ngọc
hầu lệnh cho dân trong phủ xây thành đất Mục Mã lên tam cấp, bên ngoài trồng
lúa, phố Mục Mã có từ khi đặt trấn. Phố ở phía Tây trấn, nay là ở phía đông phố
Lương Mã, phố ấy trước do Đốc trấn Nguyễn Duy Nhị thời Lê Cảnh Hưng đặt, gọi là
phố Đông Tân. Đến năm Giáp dần thời Tây Sơn(1794), trấn thủ Hào Quang hầu lập
phố gọi là phố Lương Mã bắt đầu từ đấy.
Hai
thành Na Lữ, Phúc Hoà.
Thành
Na Lữ, từ thời Cao hoàng đế nhà Lê chinh phạt Bế Khắc Thiệu đã đóng quân ở đây,
sau dựng đền thờ giao cho dân trong phường quét dọn. Cho hai thành Na Lữ, Phúc
Hoà mở đầu từ thời Đường ý Tông năm Giáp thân niên hiệu Hàm Thông thứ 5(864).
Nhà Đường mệnh cho Kiêu vệ tướng quân Cao Biền làm Đô hộ An Nam kiêm chức Tổng
quản Kinh lược chiêu thảo sứ, năm Bính tuất niên hiệu Hàm Thông thứ 7(866), nhà
Đường ban cho Biền chức Tĩnh hải quân Tiết trấn, kiêm Chư đạo hành doanh Chiêu
thảo sứ. Tháng 11 cho xây thành Đại La (nay là Bắc Thành), lại lệnh cho xây hai
thành Na Lữ, Phúc Hoà. Dựa vào ghi chép của các phụ lão, lại điều tra núi đất gần
thành Phúc Hoà có nhiều mộ cổ, có gạch xây, có đá làm bi minh ghi quê quán địa
chỉ, tên họ có ghi hiệu Hàm Thông đặt trên mộ. Mộ cổ ấy là của những người phu
dịch xây thành chết ổ đây, thế nên hai thành ấy là xây từ thời Đường.
Danh Lam trong phủ.
Chùa
Đống Lân
Chùa này ở trên đất xã Vu Tuyền. Từ năm Tân hợi niên hiệu Mạc Càn
Thống thứ 19(1611), hoàng hậu nhà Mạc cho xây chùa theo hình chữ Đinh, có hai
bên hành lang và hậu đường, tăng phòng. Đến khi Mạc Long Thái thua, quân nhà Lê
chiếm được đất này, chùa bị đốt cháy hết, kịp khi Mạc Thuận Đức hàng Thiên triều,
xin được dâng đất, quân của Thiên triều lại đưa họ Mạc về Cao Bằng. Sau Quỳ quận
công tiễu trừ họ Mạc thu phục lại Cao Bằng, lúc ấy trưng thu các thức còn nhẹ
nên nhà nhà đầy đủ, chùa lại mộ tiền của tu sửa. Đến năm Canh thân niên hiệu Cảnh
hưng năm đầu (1740), đảng giặc nổi lên bốn bề, tự xưng là Mạc Tam vào chiếm cứ
trong chùa chống nhau với quan quân. Lúc ấu Tuân quận công làm Đốc tướng hiệu lệnh
quan quân công phá, chùa bị huỷ hoại. Từ năm Bính dần trở về sau lại được thanh
bình, nên tu sửa lại chùa này. Khi Tây Sơn xâm chiếm, thời Cảnh Thịnh núi bị
cháy, gió thổi lửa bắt lên cháy chùa, dân chung quanh lại hưng công sửa, đúc
chuông. Thời Tây Sơn trấn thủ huỷ chuông ấy lầm đồ đồng khí.
Chùa Viên
Minh.
Chùa
này ở trên đất xã Xuân Lĩnh, phía trước đối diện cùng đền Quan Triều Hồng Liên
công chúa. Khoảng năm Tân hợi thời Mạc Càn Thống(1611), nhà Mạc sau khi thua,
chùa bị bỏ hoang phế. Đến khi nhà Lê khôi phục được Cao Bằng, lại tu tạo chùa. Năm Giáp tí thời Cảnh
Hưng(1744), đảng giặc nổi lên như ong, nhân dân chốn tránh đao tên, chùa lại bị
hoang tàn, tường ngói đều sụt lở. Đến khi thanh bình lại tu sửa lại. Bài tán
trên chuông chùa Viên Minh rằng:
Trời
mở Nam Việt,
Khai
thác Cao Bằng.
Vương
phủ ở giữa,
Bắc
trấn đế thành.
Thạch
Lâm thế mạnh,
Đà
quận đất linh.
Núi
xanh ôm bọc,
Nước
biếc bao quanh.
Vết
danh lam cũ,
Chùa
gọi Viên Minh.
Tạo
đồng nấu đúc,
Ngày
đem thi hành.
Treo
lên ở gác,
Bên
trái sảnh đường.
Núi
cao chót vót,
Vàng
ngọc lanh khanh.
Bồ
lao lay nguyệt,
Kình
động gió gào.
Đền
thần đối diện,
Điện
phật chênh vênh.
Thời
thế biến chuyển,
Âm
lặng chuông thanh.
Tình
đời vọng cảm,
Lòng
riêng nảy sinh.
Nhân
vì thiếu bỏ,
Nên
đợi kinh doanh.
Giúp
thánh chúa Mạc,
Lê
có hiền khanh.
Đồng
quý thi phát,
Công
đức thuận thành.
Thuê
công vẽ tượng,
Khuôn
mẫu nên hình.
Việc mới bàn bạc,
Mấy
chốc đã thành.
Tròn
đầy như cũ,
Xa
gần nghe danh.
Ngày
tốt tháng Tân hợi năm Càn Thống thứ 19 (1611).
Chuông
chùa Viên Minh cao ba xích chín thốn, chu vi bảy xích năm thốn. Năm Kỷ dậu thời
Tây Sơn niên hiệu Quang Trung thứ hai (1789) Đại đô đốc trấn thủ là Uyển Vũ hầu
sai khiêng chuông chùa ra sân ném vào lửa đốt, chuông ấy hốt nhiên phát tiếng
kêu âm âm. Người đốt chuông đầu váng mắt hôn không dám đốt, bỏ về trấn sở được
mấy hôm thì chết.
Chùa
Giang Đống.
Chùa
này lúc xưa là chốn danh lam, ở địa phận xã An Ninh châu Thạch Lâm. Khi nhà Mạc
thua, quân vương sư kéo đến, chùa đều bị thiêu phá. Về sau thanh bình lại nhân
dân mới tu tập lại thành thảo xá.
Chùa
Thanh Long.
Chùa
này xây ở bờ sông Hiến, địa phận xã Gia Cung châu Thạch Lâm, rất gần trấn
thành, qua sông Hiến một lát thì đến chùa. Nguyên là chốn danh lam xưa, đến năm
Cảnh Trị sùng tu, năm Canh thân niên hiệu Cảnh Hưng nguyên niên (1740) bị đảng
giặc thiêu phá. Năm Bính thân niên hiệu Cảnh Hưng thứ 37 (1776) , khoảng đầu
thu, Tính Trung hầu (ông họ ?) sáng lập tự xá, chùa gọi là Thanh Long trước
chùa Trường An, có cầu Vọng Kinh, cầu Tuyết Lô đối nhau, có núi hình phượng
hoàng uống nước, có bãi như cá kình vẫy đuôi đều từ xa trông về. Năm Mậu thân
niên hiệu Chiêu Thống thứ 2 (1788) triều Lê, Tây Sơn chiếm Cao Bằng chùa bị
thiêu sạch.
Miếu
Quan Đế.
Miếu
có từ năm Mậu ngọ niên hiệu Vĩnh Trị thứ 3(1678), trấn sở dời sang thành Mục Mã
mới dựng miếu này, linh ứng không hết.
Quân
chính dưới triều Lê.
Phụng
mệnh mở mang, đặt các chức, phiên thần có tám gồm: Chính tiền, Chính hậu, Chính
tả, Chính hữu, Trung tiền, Trung tả, Trung hữu, Trung hậu. Người tái cán có
năng lực thì cử làm Thủ hiệu, thứ hơn làm Phó hiệu, Thuộc hiệu đều quản lý binh
dân. Về sau thứ tự quân hiệu, thường cải đổi luôn, không có nhất định. Cai quản
binh dân thì đặt quân số 400 làm một hiệu, hoặc giả quân của Trưởng hiệu không
đủ số thì cắt thêm phần của Phó hiệu và Thuộc hiệu, quản quân lệ thuộc vào cho
đủ số hiệu. Hoặc 22, 23 suất trở lên, hoặc ít 24, 25 suất trở xuống cũng xếp
thành quân hiệu, không câu nệ. Chọn lấy trong dân châu 5 kẻ trai tráng khoẻ mạnh
làm một suất binh, đều phải đến Quản quan để nhận việc, ở trấn một năm lại đổi
một lần. Mới đầu cũng không phải luân phiên mỗi tháng, quân ấy đều do dân xã
nuôi, đem tiền lương trữ tại công sảnh của Quan quản, đến tháng Phó hiệu quan mở
quỹ cấp phát, mỗi suất gạo trắng 30 thăng, canh tiền 3 quan, còn như quân nhu
khác thì quản lĩnh vùng ấy thu của dân để phụ cho quân, lượng xem một suất hai
suất để bổ sung cho đủ số. Trong lệnh còn cho lúc đến hạng vị quản binh dân ở đấy
ban tiền Ngụ lộc, mỗi binh một suất. Lấy ở trong dân tiền cổ 6 mạch làm bổng
hàng tháng cho quan quản, lại cho quan ấy liệu lễ tết, mỗi suất tiền cổ 3 mạch,
gạo nếp 5 thăng. Hàng năm có hai kỳ lễ kỵ, dân mỗi xã đóng lợn 1 con, gạo 30
cân (lượng xem dân đông hay ít, không làm chung chung), như ai làm quá thu bừa,
bị phát giác thì bị đình chỉ chức quản, cho về làm dân, thu hồi cấp thưởng cho
người có năng lực.
Các
hiệu quan theo thời gian đem quân thao luyện trận pháp, có thưởng phạt để khích
lệ.
Lấy
30 suất binh để theo hầu Đốc trấn, 20 suất theo hầu Đốc đồng, lại lấy 10 suất
theo hầu quan Giám hộ. Về sau phụng chỉ bãi chức Giám hộ, 13 ải khẩu ven biên
giới sai các viên ở các hiệu thay nhau đến các ải, giữ đồn 1 năm lại đổi lại.
Công đường có treo trống lớn, chỉ khi làm lễ Kỳ Độc hay xảy việc binh hoả, nghe
tiếng trống luyện quân đánh 3 hồi liên tục thì quan binh các hiệu đều tề tựu tại
công đường, chọn hai viên làm Tả chấp hiệu, Hữu chấp hiệu, Đốc trấn có việc phải
xuất binh thì theo tiếng trống thao luyện này làm hiệu lệnh quân.
Tròn
một năm, ngày 30 làm lễ Trừ tịch cắt 3 viên thuộc hiệu đem 4 khẩu súng trụ đặt
tại trước cửa công đường, một viên thuộc hiệu giữ đồng hồ. Trong công đường đặt
hương án, làm bài vị màu hồng đề Hoàng Thượng Vạn Vạn Tuế đặt ở trên án. Đốc trấn
các quan đều mặc triều phục, Đốc trấn ngồi ở trên giường bên phải, Đốc đồng ngồi
ở bên trái, thứ tự ngồi bên phải là Trưởng
hiệu, Phó hiệu, ngồi bên trái là Thuộc hiệu, Thuộc sai, Thư tả cùng ngồi thị xướng.
Đêm đúng giờ Tí bắn 3 phát súng, làm lễ xong ai, về phủ nấy. Bốn châu hồi xưa
nhân dân chù mật, lấy hơn ba nghìn suất binh. Đến năm Nhâm dần niên hiệu Bảo
Thái năm thứ 3 phụng mệnh ghép làm hộ tịch, bổ sung lấy quân 1798 suất, phụng cấp
phiên thần quản 1685 suất, phân thành các hàng các hiệu, còn lại 113 suất cho
tuỳ Đốc trấn, Đốc đồng làm Trung quân hiệu.
Binh
số các tổng của bốn châu.
Châu
Thạch Lâm 14 tổng, quân số 582 suất.
Tổng
Kim Pha 12 xã.
Tổng
Hà Đàm 9 xã.
Tổng
Phúc Hoà 10 xã.
Tổng
Triều Vũ 12 xã.
Tổng
Hoa Phô 10 xã.
Tổng
Phù Gián 11 xã.
Tổng Thương Pha 5 xã.
Tổng Tượng An 13 xã.
Tổng Lại Sơn 9 xã.
Tổng Hà Quảng 9 xã.
Tổng Nhượng Bạn 13 xã.
Tổng Tĩnh Oa 10 xã.
Tổng Thông Nùng 9 xã.
Tổng Suất Tính 10 xã.
Châu
Quảng Uyên 5 tổng, quân số 456 suất.
Tổng
Ngưỡng Đồng 9 xã.
Tổng
Vũ Lăng 10 xã.
Tổng
Lực Nông 6 xã.
Tổng
Lạc Giao 8 xã.
Tổng
Cách Linh 9 xã.
Châu
Thượng Lang 4 tổng, quân số 509 suất.
Tổng
Kỳ Cống 8 xã.
Tổng
Nga ổ 10 xã.
Tổng
Đương Châu 6 xã.
Tổng
Lăng Yên 10 xã.
Châu
Hạ Lang 4 tổng quân số 251 suất.
Tổng
Vĩnh Thọ 7 xã.
Tổng
Hợp Khâm 6 xã.
Tổng
Điều Lương 5 xã.
Tổng
Kim Đằng 5 xã.
ở
trên tổng cộng 240 xã thôn.
Phần 4, Cương giới
phong tục.
Nguyên
một phủ Cao Bằng từ xưa lệ thuộc xứ Thái Nguyên, cùng tính vào Bắc Đạo. Đến triều
Lý đặt tên các châu Thái Nguyên, Quảng Uyên. Đời Lê Quang Thuận đổi gọi là phủ
Bắc Bình, bốn châu là: Châu Thái Nguyên, châu Lộng Nguyên, châu Thượng Lang,
châu Hạ Lang. Sau lại đổi ra là đạo Ninh Sóc gồm 3 phủ Phú Bình, Thông Hoá, Cao
Bằng. Phủ Cao Bằng có 4 châu. Châu Thạch Lâm (mé hữu châu Thái Nguyên là phủ
Cao Bằng), châu Quảng Uyên (xưa là châu Lộng Nguyên), châu Thượng Lang, châu Hạ
Lang. Lại lấy đạo Ninh Sóc đổi làm xứ Thái Nguyên, phủ Cao Bằng cũng thuộc vào
đấy. Năm Giáp thân đời Lê Cảnh Trị thứ 6, vương sư tiễu trừ họ Mạc khôi phục lại
đất Cao Bằng lúc ấy mới đặt quan trấn nhậm, tách biệt Cao Bằng ra làm một xứ,
không lệ vào xứ Thái Nguyên nữa. Cao Bằng có 4 châu ven biên 13 ải khẩu. Châu
Thạch Lâm thì có Thông Nông, Sóc Hồng, Trừng Hà, Trà Lĩnh, Bác Nẫm, Na Lan 6 ải.
Châu Quảng Uyên thì có Qủa Thoát, Na Thông hai ải. Châu Thượng Lang thì Cổ Chu,
Nga ổ 2 ải . Châu Hạ Lang thì Củng Xương, Đống Long, Bí Hà 3 ải. Vùng đông bắc
giáp Nội địa các vùng châu Thượng Gián, châu Hạ Gián, châu An Bình, châu Hạ
Lôi, châu Hồ Nhuận. Vùng đông nam giáp Thuỷ Khẩu quan của Long Châu và châu
Thoát Lãng xứ Lạng Sơn. Vùng tây nam giáp huyện Cảm Hoá xứ Thái Nguyên. Vùng
tây bắc giáp châu Bảo Lạc xứ Tuyên Quang và địa giới phủ Trấn An của Nội địa.
Phủ
Cao Bằng đất sẵn nhiều vàng, sắt, ???? , chiếu, mạch, tuyết lê, thị. Thuỷ sản thì có cá Anh vũ, cá Hương
não thanh ngư, trong núi có chim Bạch nhàn, gà Kim tiền, xạ hương, hồ li. Dân ở
Thượng Bạn châu Thạch Lâm phong tục chất
phác, có nghĩa khí. Người Điền Quảng thì cần cù, việc tang việc hôn đều dùng thầy
cúng (dịch từ Văn công). Việc nông hết thì bắt cá, chồng quăng lưới vợ đẩy chèo, người
khoẻ mạnh thì đi săn bắn trong rừng. Dân tục vùng Hạ Bạn châu Thạch Lâm thì nhiều
người xảo trá, chăm việc canh cửi. Châu Quảng Uyên là châu có nhiều vùng núi
đá, ruộng nương có cao có thấp, thói dân chuộng vu thuật, có bệnh thì cầu cúng
xin quỷ thần, miệng lưỡi lanh lẹ mà lòng khó tin (dịch từ Hồ tín), thường
người dũng cảm. Châu Thương Lang núi đá trải suốt châu, ruộng bằng, dân trọng
vu thuật mà không trọng thuốc, đều tin những điều quỷ mị. Đàn bà có bệnh thì giết
lợn gà để cầu đảo, giọng nói thì líu lo, trong đầu chứa điều gian. Tục tang lễ
thì mời mười người nhạc công ở đấy thổi sáo, gõ trống đánh bạt, một người đứng ở
giữa ca Thập nhị tứ hiếu, uốn chân vẫy tay nhảy múa trước án. Người tù trưởng
trong làng (dịch từ Hương tù) ngồi định vị xong, có 4-5 người đánh thanh la hô thưởng, có thể
ném vào chỗ ấy 8-9 trù, mỗi trù 3 văn tiền. Táng xong thì tính toán thu tiền ấy,
chôn không chọn đất, cứ theo chỗ mộ cũ của tổ tiên ông bà mà táng vào đấy, đất
chỗ ấy, đến ngày thì đưa linh cữa vào núi, lấy ván gỗ làm nhà nhỏ che lên chỗ mộ,
xung quanh vẽ xanh vàng trắng đỏ, phía dưới đào một cái lỗ ném vào đấy mấy cân
gạo, một đôi gà, ở nhà mộ ấy, nói là lưu vật cho theo người chết, như thế con
cháu trong nhà sẽ được tốt lành. Châu Hạ Lang tục dân chuộng quỷ thần, bênh tật
thì hỏi thầy mo, tâm thì biển lận trá nguỵ, thích tranh tụng. Nhà có con trai đến
5-6 tuổi thì chuẩn bị cho đi làm rể ở nhà gái, trẻ 4-5 tuổi làm đính hôn. Định
gặp ngày bảy tiết Đoan Dương thì dựng nhà. Ngày giỗ kị nhà trai đem gà béo,
bánh trưng, rượu ngon đưa lễ sang nhà gái, năm nào cũng có không được thiếu, đợi
đén khi trưởng thành mới định lễ nghênh hôn. Hoặc có khi con trai lớn lên thấy
con gái xấu xí, người trai không muốn lấy, hoặc người con gái thấy chàng trai
không phải là trang hảo hán, cũng không muốn kết duyên cùng, thế nên nhà trai
đem việc ấy ra để sinh việc kiện tụng,
tính lễ vật đem đến đã 7-8 năm để truy vấn đến cùng. Đến như việc tang, báo trước
cho thân tộc hàng xóm, hẹn ngày mỗ trâu treo thịt ở dưới nhà, người thân đến điếu
lễ thì đem 500 bánh tròn, lấy gạo nếp nấu lên làm bánh, dùng các màu xanh vàng
đỏ trắng, to như cái bát con dạng đáy đặt trước linh cữu, tự đến cắt thịt trâu ấy
đem sang nhà bên cạnh uống rượu, say tít cả đất trời. Ngày tế thì hiếu tử mặc
áo trắng, đầu đội khăn trắng, lưng đeo một cây đao sắc quỳ trước linh cữu, tay
cầm đao làm lễ mời thầy, chúc xin người chết ăn. Người thầy tay cầm đũa gắp thịt,
mỗi bát một miếng ném vào trong giỏ, lễ xong, trước linh cữu lễ xong thì đem
chôn, hiếu tử cùng người thân thuộc tống tiễn đến huyệt, chôn xong quay về vừa
đi vừa khóc, hiểu tử tay cầm đao chém không vào phía sau, người thân cũng cầm
cành dâu phất không ra phía sau, không để cho hồn quỷ theo đuôi về nhà, làm các
lễ ây đều là tục cổ từ xưa, đến nay dần đổi. Châu Thach Lâm có 6 khu dân, hai
bên địa phận Khu Lũng có núi đa, thôn dân cư ở giữa mà không có sông suối, chỉ
có gác ống mấy trượng sâu xuống dùng ống trúc đưa nước lên, người và gia súc
cùng uống. Có nghề làm chiều, mỗi năm ngày 1 tháng giêng đàn ông trong khu 8-9
người sang xã khác gần đấy xin ăn, lấy mỗi người 1 cái bánh tết (dịch từ Niên
bính) đem về đặt trên chỗ thờ thờ tiên tổ. Đến này mồng giết trâu cũng mời dân xã đến, cả người cho
bánh đến nhà uống rượu đến say. Hoặc có lúc bạn bè nướng khoai núi, điều mật
ong, mở tiệc. Trồng cây miến, tre xanh để sinh lợi, dưới núi sinh nhiều loài thảo
lan hoa với bạch ngư tử hoa. Mùa hè ít có nước, mùa thu mùa đông thì có mưa. Ăn
uống thì không được sạch sẽ, mặt mũi nhiễm than bụi đen, duy chân tay thì cũng
không khác gì người Ai Lao. Phong tục không có văn tự, có nợ tiền thì làm dấu
buộc nút dây, một mạch thì kết nhỏ, một quan thì kết lớn, nợ bạc thì dùng một
phiến trúc, nợ một dật thì khắc sâu, nợ một lạng thì khắc nông, dùng tay để điểm
chỉ khắc lên phiến trúc, đều là ký hiệu quy định, khắc bên trái, bên phải là
sinh lãi, cắt đôi phiến trúc mỗi người cầm một nửa, trả bạc thì thu lại phiến
trúc huỷ đi.
Quan trấn nhậm các triều.
Xưa
nước Nam mở đầu từ Kinh Dương vương, trải các đời đều có vua, biên cương ngang
dọc hơn mấy nghìn dặm. Đông giáp biển lớn và vùng Việt Đông, tây giáp Vân Nam lấy
huyện Mông Tự làm biên giới phía nam, phía bắc đến tận Việt Tây, phủ Tư Nghĩa,
phía nam đến tận nước Chiêm Thành, đó là phần nước Nam. Từ Hán Vũ đế trải các
thời Tây Hán, Đông Hán, Tam Quốc, Tấn, Ngũ đại, Tuỳ, Đường đều thuộc vào Trung
Hoa. Đến năm Giáp dần đời Tống Càn Đức năm thứ 4(966)[2],
ở nước Nam có 12 Sứ quân đuổi người Tống về nước, cát cứ đất đai, xưng hùng
tranh phạt lẫn nhau. Kịp khi Đinh, Lê, Lý, Trần kế nhau chiếm vị, cuối đời Trần
bị Hồ Quý Li soán ngôi. Năm Bính Tuất đời Minh Vĩnh Lạc thứ 4, vua Minh mệnh
cho Tân Thành hầu Hoàng Phúc, Tây Bình hầu Trương Phụ đem 50 vạn quân xuất quan
đánh bắt Quý Li, lập Trần Nhật Cảo làm Giao Chỉ quận vương nhưng để Tân Thành hầu
Hoàng Phúc ở lại Nam giúp họ Trần làm Giám quốc, ý ấy là có lòng chiếm đoạt,
người nước Nam bị cảnh lầm than quá lâu. Lúc ấy có Cao Hoàng đế nhà Lê ta cầm
thần kiếm bình giặc Minh, mở mang đất nước, thống nhất sơn hà. Trải các đời
thánh chúa tương kế, đến năm Bính tuất hiệu Thống Nguyên thứ 5 (1526), Mạc Đăng
Dung chiếm vị lên ngôi đế tại kinh thành đặt hiệu là Minh Đức nguyên niên năm
Đinh hợi(1527). Trải các đời kế nhau trị vì, đến năm Đinh mùi niên hiệu Mạc
Vĩnh Định nguyên niên(1547), Thái Bảo Hưng quốc công khôi phục hoàng đế nhà Lê,
chinh phạt họ Mạc. Tiết chế Lượng quốc công kế tiếp khuông phù nhà Lê khởi binh
đánh Mạc, hơn 20 năm khôi phục lại được Kinh thành, Lê Hoàng đế lên ngôi. Vào
năm Quý tị niên hiệu Lê Quang Hưng thứ 18(1595)[3],
vương sư công phá, Mạc Kính Cung thua chạy, theo đường Lạng Sơn đến Cao Bằng dựng
đô lấy hiệu là Càn Thống, trải các niên hiệu Long Thái, Thuận Đức cộng được 63
năm, vương sư tiễu trừ đi được, khôi phục lại Cao Bằng, sai quan vỗ trị. Một phủ
Cao Bằng trải thời loạn đã đến cực lại gặp thời đại trị, lúa tốt gạo nhiều, người
vui nhà đủ, đi đường không phải lo lương ăn, có cái cảnh tượng của buổi thái
bình. Đến năm Canh dần niên hiệu Cảnh Hưng nguyên niên (1740)[4], giặc Cừ
nguỵ xưng là Mạc Tam bốn bề nổi dậy như chòm ong, vây bức trấn thành, quân
phiên trấn đánh đuổi quét sạch. Đến năm Đinh mùi niên hiệu Chiêu Thống năm đầu
(1787), vua Lê lên ngôi, chưa được bao lâu lại phải chịu cảnh bụi trần nơi Kinh
Bắc, Lê hoàng hậu cùng con đầu về được trấn Cao Bằng.
Ngày
1 tháng 5 năm Mậu thân (1788) chỉ huy quân Tây Sơn là Hoán đem vệ binh Thiên Phụ
đến châu Thất Tuyền Lạng Sơn. Cùng lúc tại xứ ấy họp bàn sai Địch Vũ hầu bảo vệ
xa giá hoàng hậu, sai Tính Trung hầu đóng đồn giữ mặt Bắc Khê, Quán quận công
đóng đồn giữ mặt Nhã Nam, Đèo Chung. Quán quận công lệnh du binh đánh quân Tây
Sơn ở núi Mai Trật, quân Tây Sơn lui về Thất Tuyền. Lại sai Tiến Thọ hầu đóng
quân giữ mặt Thượng Pha, nhưng Tiến Thọ hầu có đứa gia nhân là Văn Soái dẫn đường
cho quân Tây Sơn, chỉ huy Hoán từ Thượng Pha nhân đêm tối đến trấn Cao Bằng. Địch
Vũ hầu nghe tin nên trước đã bảo vệ Lê hậu lên thuyền thuận dòng đến Phất Mê,
quân Tây Sơn đuổi theo, Lê hậu cùng Địch Vũ hầu từ ải Na Thông chạy vào Nội địa,
bẩm nhờ Lưỡng Quảng Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị tấu lên Hoàng đế Thiên triều. Hoàng đế
thiên triều chiếu mệnh cho Tôn Sĩ Nghị đem quân ở Lưỡng Quảng 10 vạn qua cửa
Nam Quan tiến thẳng đến bến Bồ Đề, chỉ mất có 3 ngày. Đại Tư mã Tây Sơn Ngô Văn
Sở đem hết tiền, lụa, khí giới cùng voi ngựa lui về Nghệ An. Tổng đốc Tôn Sĩ
Nghị qua sông đóng quân ở Tây Long, Sầm gia ở Điền Châu đem 2000 quân Điền Châu
đóng đồn ở hội trường Đống Đa, hoàng đệ Lê Duy Chỉ đem quân Cao Bằng về kinh hộ
giá. Năm Quý tị (?)[5] Lê hoàng
là Chiêu Thống về kinh yết kiến Tôn Tổng đốc, được phong làm An Nam quốc vương, được ban sắc ấn. Ngày 28, Lê hậu
về kinh, vua Lê lệnh cho đúc tiền Càn Long, bề mặt dùng 4 chữ Càn Long Thông Bảo,
mặt sau dùng hai chữ An Nam, niên hiệu thì dùng là Càn Long(lúc ấy hoàng đệ đem
quân phiên binh ở Cao Bằng về, cho rằng quân ấy khiếp sợ chinh chiến nên đều
thu lấy vũ khí súng ống đạn dược giao cho quân ở kinh, đem lũ tàn tốt ấy mà chống
giặc. Mệnh cho Tiến Vũ hầu tức tên là Ba Trường làm Đốc lĩnh. Ngày mồng 5 nghe
tin quân Tây Sơn đến, quân của Đốc lĩnh mới ra đến cửa nam, tàn binh ấy đã chốn
mất một nửa, quan Đốc lĩnh cũng chạy mất).
Ngày
1 tháng giêng năm Kỉ dậu (1789), Quang Bình đem quân Tây Sơn từ Nghệ An, Thanh
Hoa đến sông Tương Trúc, Sơn Nam giao chiến cùng quân Thiên triều. Ngày mồng 5
Đề đốc Thiên triều Dương Thế Hanh bại trận, phi ngựa về báo. Tổng đốc Tôn nghe
thua lập tức qua cầu sang bến Bồ Đề, ở đầu này cầu phía kinh thành hốt nghe tiếng
súng nổ vọng từ phía sau, Tổng đốc nghi quân giặc đã đến gần liền sai chặt cầu
đứt ra một đoạn dài 5 xích, lên kiệu mà chạy. Vả do đầu này cầu, viên Bả tổng (chức quan võ của
Thiên triều) giữ hòm thuốc súng ở đó, quân đóng đồn ngay bến sông, viên ấy bất
cẩn lúc hút thuốc, lại thấy kiệu của đại nhân bỏ chạy hốt hoảng cuống cuồng, ý
cũng muốn chạy theo, để rơi tàn lửa vào hòm thuốc, tức thì thuốc bén lửa cháy
bùng lên, nổ vang như tiếng súng, thế nên đại nhân sai chặt cầu phao. Kịp khi Đề
đốc Dương Thế Hanh, Du kích Trương Hoá Long, các quân thủ bị, thiên tổng cùng
các người khách thua chạy về qua cầu phao đến chỗ bị cắt, người người đều nhảy
xuống nước, nhưng nước sông đang chảy gấp, đều bị chết đuối dưới sông. Lê Chiêu
Thống cùng hoàng thái hậu theo đuôi Tôn tổng đốc chạy suốt đêm đến Lạng Sơn,
qua cửa Nam Quan. Đồn quân Điền Châu của họ Sầm cùng quân Tây Sơn giao chiến từ
ngày mùng 5 đến tận giờ Mùi ngày mùng 7 mới thua, họ Sầm Điền Châu chết trong
trận (thi hài chôn bên miếu nhỏ cạnh gò Đống Đa). Tháng 2 Tây Sơn sai Đô đốc Uyển
Vũ hầu làm Trấn thủ Cao Bằng. Tháng 3 đến nhậm chức, tháng 5 Trấn thủ đem quân
đi đánh Bảo Lạc nhưng không được, lại quay về trấn. Từ năm Tân hợi (1791) trở về
sau lần lượt sai quan đến trấn nhậm, lấy giết chóc để ra oai, sách nhiễu tiền bạc,
dân Cao Bằng máu mỡ đã kiệt.
Kính cẩn ghi rằng: Ôi, cái đạo thịnh rồi
suy là việc thường của các triều đại. Triều Lê ta thừa hưởng ngày thái bình đã
lâu, Trịnh vương nắm quyền chính cũng ví như tô vẽ vàng ngọc, lại phóng túng việc
thanh sắc. Bên ngoài tuy chưa có vẻ suy mà bên trong thì sắp hư ruỗng rồi, để đến
như binh lính trong kinh kiêu căng. Nghe Quang Bình tung tin giả là quân Nguyễn
vương ta đến mà bọn kiêu binh lại ngỡ là thật, vứt bỏ cả qua giáp. Kịp khi
Quang Bình tiến vào kinh mới biết là dối, hối mà chịu bó tay, tuy có múa can
múa thuẫn, há có thể chế ngự lại được. Ôi, học cái phép dưỡng sinh như gấu trèo
cây, như chim duỗi cẳng, tuy là cái thuật để kéo dài tuổi thọ, là cao để nối liền
xương cốt cũng chẳng thể trị được bệnh tật, ấy là do đã gặp phải cái vận ách
nên ra như thế. Vậy nên Quang Bình mới tiến quân như vào chỗ không người, giật
cương ngựa trên đường hoàng lộ, quan trấn thủ toàn bọn lính chiến, lấy lũ cáo cầy
làm hàng sĩ phu, dùng chém giết để ra oai, dùng hà khắc làm chính vụ, sai quân
tróc nã tiền dân, treo ngược chân người để thu của cải, bắt dân phu nộp tiền
thay thế, bổ nhà nông để tính thuế. Lại còn bọn tiẻu nhân theo đuôi cấu kết rút
ruột dân, trăm mối thu cầu mà máu mỡ dân Cao Bằng đã kiệt. Thế là muốn cứu một
cái cây khô héo mà lại chặt cái gốc của nó, lại còn dựa vào đâu mà cứu được ?
Ôi, hiệu quả của việc đại trị, là cái ta sao có thể lượng được, biết được chăng
? . Cứu được dân sầu khốn, hồn phách oan uổng có thể cảm động được trời đất mà
biến ra hình báo. Địa trấn không ngớt, ấy là trời răn quở điều sai trái, như
cây to sắp đổ, không thể một sợi dây mà dằng lại được, sao có thể trơ trơ như
thế ru ? Ta xem tượng trời, xét việc người, thì trời đã muốn bỏ nhà Tây Sơn, thế
thì Tây Sơn sao có thể lâu dài được mà hợp với hàng vương giả trong thiên hạ
đây ?
Tháng
11, Tây Sơn công phá châu Bảo Lạc bắt được Khoan Triều hầu (người Bảo Lạc) và
hoàng đệ Lê Duy Chỉ, cùng giải về Thăng Long xử chết. Duy Sảng quận công bị
giam ở thành Thăng Long, suốt ngày chửi giặc không ngớt mồm, cũng bị hại (chép
bài thơ tán rằng):
Lòng
trung tự hứa không hàng giặc,
Một
thân dám nói điều người khác khó dám.
Vì
nước hy sinh nhẹ tựa lá,
Danh
cao thiên cổ nặng như non.
Tháng
2 năm Mậu ngọ(1798), Huân Liệt hầu nhà Tây Sơn làm Hiệp trấn Cao Bằng, về Bắc
Thành, lấy 100 binh phu, mỗi binh phu phải nộp một dật bạc.
Ngày
1 tháng 9, Cao Bằng có động đất.
Năm
Kỉ mùi (1799), Trấn thủ Tây Sơn lấy 100 suất binh ở bản xứ, mỗi người nộp 3 lạng
bạc, sang tháng cho về làm dân.
Giờ
Tí ngày 27 tháng 7 Cao Bằng có động đất.
Ngày
Canh thìn tháng 5 năm Tân dậu (1801), Nguyễn Quang Toản nhà Tây Sơn nghe tin
quân đến vây thành đã trốn trước ra Nghệ An. Đến Thăng Long đổi niên hiệu Cảnh
Thịnh thứ 9(1801) ra làm năm Bảo Hưng thứ nhất(1801).
Tháng
3 năm Nhâm tuất(1802), Trấn thủ Tây Sơn là Hội Vũ hầu thúc dân xây đồn ở đầu
thành, vừa hay quân từ Bảo Lạc đến đánh thành Mục Mã. Quan án trấn nhà Tây Sơn
là Bật Vũ hầu phản lại, cùng Liêm Trung hầu ở châu Bảo Lạc hợp với quân ba châu
Thượng Lang, Hạ Lang, Quảng Uyên vây bức trấn thủ Hội ở đầu thành Mục Mã. Bỗng
có Trấn thủ Lạng Sơn và trấn thủ Thái
Nguyên là Long Vũ hầu đem quân đến tiếp viện, vì thế quân Bảo Lạc phải lui,
quân ba châu cung rút về. Lúc ấy trấn thủ Hội sai Tham đốc là Sản thả quân đốt
phá ba châu, bắt trâu bò của cải, dân cư tản chạy vào rừng núi. Khi nghe tin
nhà Tây Sơn thất thủ ở kinh thành, khắp nơi vui mừng như hạn lâu gặp mưa ngọt.
Sách Thực Lục dẫn rằng: án Mạnh Tử nói: “Phàm thiên hạ đã có từ lâu
rồi, một thịnh trị, một suy loạn”.
Suy loạn đến cực thì trời tất chán ghét mà cho sinh ra thịnh trị, cái thịnh trị
sinh ra ắt phải có người khu trừ cái suy loạn đi, để quét sạch cái tàn dư của
hoạ loạn. Ôi, bậc vua có thể làm việc quy về đạo chính, khiến trong khoảng ấy mở
ra mối đại trị, thì hưởng cảnh toàn thịnh muôn năm, các đời trước không ai
không như thế. Từ Thái tổ hoàng đế nhà Lê chỉ thần kiếm bình giặc Minh, khai
thác biên cương cho đến đời Chiêu Thống là cái thịnh trị chuyển sang thế cùng cực
rồi, như ghét cái áo bẩn mà đốt đi, ghét sâu đục cây mà chặt đi. Khổng tử nói: “Người mà không có lòng nhân, ghét nó quá,
thì loạn rồi”, là nói chỗ này vậy. Đại
khái việc định số vận, tiêu nhiễu nhương há có thể chỉ nệ vào trí dũng đại lược
mà nên việc được. Nhưng lẽ thành bại, việc lợi việc ngu, quan hệ ở nhất thời, ở
việc đạo lý được hay mất. Bỗng đâu nổi lên giặc Quang Bình nhà Tây Sơn, anh giặc
là Thái Đức, đốt cháu, diệt thành, gây mâu thuẫn với nhau, gươm giáo đầy đồng,
làm tàn hại thành Quy Nhơn, sao lại nhẫn tâm cắt tình máu mủ như thế ? Há chẳng
bạc ác sao ? Thế chẳng phải cái lượng của bậc vương giả. Ví như giới hạn của trời
tuy rộng, một ngọn lau cũng còn có thể làm thuyền vượt qua thì lông cánh đã đầy
đủ, lo gì không bay cao. Chỉ giữ một lòng hẹp hòi, hiềm khích nghi kỵ nhau mà
làm điều tàn nhẫn, theo cái thuyết úp úp mở mở của bọn du thuyết để mưu đồ ngôi
báu. Thấy con lợn lấm bùn mà dậy lòng thương, thăng thưởng không theo thứ tự, dùng thủ đoạn
tàn độc làm chính sách với dân. Sau lại khuyến khích đảng cướp, xua lũ côn đồ
vào thành Thăng Long, như thả chó dữ ra bắt thỏ què, tự cho rằng không ai là địch
thủ, tấc lòng kiêu hãnh dùng lời lẽ khoe khoang của kẻ dụng võ, coi đất Bắc Hà
như miếng thịt để trên máy vậy. Vả lại bậc vương giả không nỡ thấy dân mình đồ
thán, dùng đại nghĩa hết sức cứu vớt, không dám một chút trái điều nhân. Giết một
người vô tội thì dù đem cả dân tịch hải nội mà theo về, bậc minh quân cũng
không thèm nhìn đến. Tấm lòng ấy hiện rõ trong trời đất, như Quang Bình tuy biết
là bạo ngược nhưng từng chưa có mưu mô
thâm sâu vững chắc, lông cánh đã bị cắt đi rồi, sao có thể bay xã được nữa. Thế
nên trời chán ghét khiến cho thời vận biến cải, xe cữu rồng lại phải rơi lệ nơi
gò mộ xanh. Vua Cảnh Thịnh kế thừa, lúc đầu nói là: Hoàn thành cái còn lại của
đời trước. Nhưng là kẻ nhu nhược, lại thêm ức chế bởi quyền thần, thế há có thể
sánh được như cái trí trá xảo quyệt của Hán Chiêu đế. Việc triều chính chẳng biết
hay dở mà lại muốn có tài trừ cỏ dại giết dã thú, có thể không loạn được chăng
? . Sai Đại tư mã Ngô Văn Sở nắm mọi việc ở kinh, trưng dụng cả 4 trấn, tìm
cách nhiễu dân, dấy động không ngớt dùng binh, thuế má bức bách, việc quân ngày
một nhiều, xương thịt đầy đồng, tiếng cửi canh ngừng bặt nơi thôn xóm. Thế nên
lòng người lắm ca thán, trong nước lay động không yên, nơi qua lại thường có đảng
cướp ẩn nấp, hay bắt được luôn, nhưng ra uy tàn nhẫn nên nạn không dứt. Lại làm
những chuyện sai trái, nhưng há có thể chôn vùi được hết lý lẽ sao ?. Đại để việc
đại trị có chỗ còn chưa đạt đến được, tìm không thấy, nhưng cho rằng Quản thị
không giết người mà được gia tề quốc trị thì cũng không phải. Lấy loại cỏ rác
vô năng, dùng sức lực lũ chó má, sai trấn thủ Cao Bằng thu tiền đồng, nồi đồng,
các đồ bằng đồng của dân, cùng huỷ tiền Càn Long để đúc đồng tiền Quang Trung tệ
bạc, cũng tựa như việc in tiền giấy của Hồ Hán Thương, há có thể được thịnh trị
lâu dài ư ?. Lấy mảnh đất Cao Bằng đơn lẻ tầm thường đã trải qua những năm chiến
tranh, vá víu thay đổi, khiến đến loài chim nhạn cũng hiện vẻ nháo nhác, cỏ rác tắc cả cửa nhà, trộm cắp đầy nơi thôn
xóm như loài rắn rết nhòm ngó ngay bên, con sâu con chim không dám ngoái lại
phía sau. Lũ Trấn thủ, Hiệp trấn của Tây Sơn đều có cái lượng ham của, ham gái,
không phải là bậc văn tài mưu trí, sao mà biết được việc chính trị để vỗ về dân
đen. Ngồi làm bù nhìn, hưởng danh tiếng hư hão, trên thì lừa vua, dưới thì mọt
dân, thế là do Cảnh Thịnh dùng người không có năng lực nên mới đến như thế. Kinh Thư nói: “Trụ là kẻ chúa có tội phải
chốn tránh trong thiên hạ, là nói như loài cá trốn ở vực sâu, như loài thú trốn
trong rừng thẳm” .
Tháng
6 năm ấy, Nguyễn Quang Toản nhà Tây Sơn thấy đại quân đến gần kinh thành, liền
từ Thăng Long vượt sông Nhĩ Hà mà trốn sang vùng Kinh Bắc. Kịp khi Hoàng thượng
ta dẫn đại quân tiến đến kinh thành thì dân chúng vùng Kinh Bắc dùng dây buộc cổ
Quang Toản giải đến trước ngự tiền. Trấn thủ Cao Bằng nghe tin biến thì bỏ cả
trấn thành trốn chạy, đi theo lối Vũ Nhai xứ Thái Nguyên đến hàng. Thế là khắp
cõi cùng về, triều ta nhất thống dư đồ, vĩnh trị đến vạn năm.
[1]
Khoa Đinh Mùi 1727 đời Bảo Thái có Nguyễn Quốc Ích (1686-1739)
người xó Vịnh Cầu huyện Đông Ngàn (nay thuộc xó Đồng Nguyên huyện Từ Sơn tỉnh Bắc
Ninh)đỗ Tiến sĩ . Ông là anh của Nguyễn Đức Đôn, Nguyễn Công Viên và
làm quan Đông các Hiệu thư, Đốc trấn Cao Bằng.
[2]
Đúng là năm Bính Dần đời Tống Thái Tổ
Triệu khuông Dẫn niên hiệu Càn Đức thứ 4(966).
[3]
Đúng năm Quang Hưng thứ 18 là năm Ất Mùi 1595; năm Quí Tỵ là năm 1593.
[4] Cảnh
Hưng nguyên niên là năm Canh Thân chứ không phải Canh Dần là năm Cảnh Hưng thứ
31 (1770)
[5]
Đúng là phải năm Mậu Thân 1788.
Nguyên bản:
(Nguyên bản chúng tôi chụp lại từ Luận văn của Phạm Thùy Dương - Bản này thiếu, chưa đầy đủ. Chúng tôi xin bổ sung Nguyên bản chụp của ông Hoàng Giáp năm 2002 trong bài http://yeuhannom.blogspot.de/2017/09/a1129.html)
Còn tiếp ... (Nguyên bản chúng tôi chụp lại từ Luận văn của Phạm Thùy Dương - Bản này thiếu, chưa đầy đủ. Chúng tôi xin bổ sung trong bài khác)
Nguyên bản:
(Nguyên bản chúng tôi chụp lại từ Luận văn của Phạm Thùy Dương - Bản này thiếu, chưa đầy đủ. Chúng tôi xin bổ sung Nguyên bản chụp của ông Hoàng Giáp năm 2002 trong bài http://yeuhannom.blogspot.de/2017/09/a1129.html)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét