Văn bia chữ Nôm Miếu ông Tiền tướng quân Võ Văn Khiêm (nguyên văn viết bằng chữ Kiêm, chúng tôi ghi lại theo cách nguồn đã dẫn)
ở làng An Ninh phường Hương Long - Tp Huế.
Phần Nôm này đã được Gia tộc phiên âm và khắc lại trên bia khác.
Ảnh lấy từ nguồn
Journey in Hue và Facebooker Bùi Đình Thiệp
https://www.facebook.com/huevanhungchuyendi/posts/149023686686733
https://www.facebook.com/media/set/?set=a.125914794980172&type=3
Khải Định Giáp
Tí niên mạnh xuân cát nhật
Hương giang đất nước trong ngần
Song Ninh là hiệu
thế thần bản nguyên
Võ Văn nối nghiệp
Kiêm tuyền
Mừng vui lo nhớ
nghĩ riêng vài lời
Trăm năm trong
cõi ở đời
Phải dò bể thánh
làm người mới hay
Xem lời trong
sách tỏ bày
Nhiều người
nhân nghĩa Thảo ngay ân tình
Những người
Hữu đệ cung huynh
Những người
kết bạn tin mình Thủy Chung
Người
xưa ưa
phải rất Đông
Người
nay cũng thụ hóa công sinh người
Ở sao cho phải đạo
trời
Công cha Nghĩa mẹ
biết đời nào nguôi
Nhớ năm Giáp tý
sinh tôi
12 tháng ngọ giờ
mùi ngày biên
Nhờ ơn
cha Phật mẹ Hiền
Sinh ngoài bọc
trắng trong nên con người
Phòng tư
anh vật khác vời
Mi thanh mục Tú
mặt tươi da Hồng
Nuôi con khi ẵm
khi bồng
Cha mẹ trông lớn
lo lòng cạn sâu
Đêm ngày tâm niệm
khẩn cầu
Nguyện cho trăm
tuổi sống lâu ở đời
Sớm khuya đèn
sách những người
Làm trai nặng
gánh mấy lời Thảo ngay
Tên cha công
nghiệp đã dày
Ơn vua nợ nước
nhiều ngày về sau
Phúc nhà lại gặp
ân sâu
Tuyển phê thị vệ
chầu hầu chân tay
Lịch dịch chung
ngoại những ngày
Đã nhiều lao khổ
lại giày gian nan
Dụ về nhị phẩm
triều ban
Thưởng
thêm Kim Khánh rõ ràng Liên lao
Kim Tiền ba thứ
ban giao
Bội tinh lại thưởng
công lao khen đều
Rắp phê đổng lý
sửa nhiều
Đến năm kỷ vị trực
chầu mừng vui
Lòng son báo đáp
chưa nguôi
Chuẩn Tòng tân
nhị dụ hồi nghỉ An
Châu phê nhất phẩm
thăng quan
Sắc phong tam Đại
ấn đường cả ba
Lại thêm hưu
bổng dưỡng già
Bãi trầu biểu tạ
hồi ra khen dồn
Trăm năm thực lục
ghi còn
6 triều luận nghĩa vuông tròn phân minh
Thảnh thơi
cảnhthú Hưu đình
Cội Tùng vườn
cúc mượn tình xưa
sau
Nhờ ơn
thăng thưởng nay lâu
nặng như
trời bể cao sâu Mấy tầng
Làm tôi danh phận
thành thân
Triều bao xiêm
áo đái khăn mặn mà
Nên tạc Lưu
tích để nhà
muôn đời sau nối
biết là ơn trên
Phận con nhờ
Phúc vững bền
Thảo ngay hai chữ
sao đền Đặng đây
Tấc riêng khôn
xiết tỏ bày
Ơn dày Đức Trọng cũng
tày trời sanh
Ơn trên phụ mẫu sinh thành
thân hình trọn vẹn
dành dành tướng quan
Lo sau mặt khuất
thể An
Nên lưu
chân tượng Cửu Trường
về sau
Nguyện trong trời
đất khẩn cầu
Sau dầu thể thác
hồn hầu báo ân
Thảo ngay là chữ
chung thân
Từ đường
trước sẵn cảm nhân thêm rầy
Nhưng
mà chút Thảo từ ngày
Làm nhà vọng tự
tỏ bày lòng con
Cảnh thờ Trần
thiết vàng son
Cuốn than xây đá
vuông tròn thềm Hoa
Trên thờ cha 1 mẹ
3
Anh em tả hữu ruột
già vọng Trung
Tầng dưới xây án tử Hồng
Xuân Thu nhị mạnh
hội đồng tế văn
Nhà trong để tượng truyền thần
Bốn người hiền phụ thờ gần với tôi
Thờ chung
đông đủ đều vui
Nghìn năm hương lửa không nguôi tấc Thành
Giao cho chi
phái dành dành
Tự điền 5 mẫu đã
dành luân ban
Sắm xanh phẩm vật
sẵn sàng
Tiết nghi nghiêm
chỉnh lệ thường
phân minh
Hương Yên trầm tửu tư sinh
Hương thường kỵ lạp lập thành vườn trong
Nhà từ trước mặt có sông
Bình Phong trụ
biểu bách Tùng sinh Huy
Cảnh này là cục
Kim quy
Xa Hoàn Thủy nhiễu
vậy thì giàu sang
Vườn ấy là đất trong làng
Ở đây là đất Đồng
An ông trường
Còn trời còn ruộng
còn vườn
Hãy còn gia tự
chủ trương hãy còn
Muôn đời không
dám hao mòn
Thảo ngay dám kể
vuông tròn nhờ Biên
Muôn chúc thiên
tử vạn niên
Thái bình thiên
hạ ức Thiên Phú Cường
Vọng từ kỷ niệm
Đặc tiến tráng
Vũ tướng Quân tiền quân đô thống phủ đô thống trưởng phủ sự Võ Văn Kiêm cung
Thuyên.
(Khi phiên âm chúng tôi chưa đối chiếu với bản Quốc ngữ của Gia tộc phía dưới. Nên có thể có những sai khác. Mong độc giả lượng thứ tự đối chiếu)
冬景
晴窗早覺愛朝曦,竹外秋聲濺作威。
命僕安排新暖閣,呼童熨貼舊寒衣。
葉浮嫩綠酒初熟,橙切香黃蟹正肥。
容菊滿圓皆可羨,賞心從此莫相違。
宋·劉克莊1187-1269
Dịch nghĩa
Song sớm tỉnh ra thấy nắng ghê
Rặng trúc
tiếng thu đã rộ uy
Kêu hầu sắp
lại căn gác ấm
Dặn trẻ đun
hồ nếp hàn y
Xanh non đọn lá men hơi rượu
Chanh cắt thơm vàng Cua béo phì
Mặt cúc tròn đầy yêu trọn vẻ
Lòng vui như thế có khác gì
Tống. Lưu Khắc Trang劉克莊1187-1269
杜甫(712-770)
Dịch nghĩa
Tiết trời việc người cứ nối nhau
Đông đã qua
rồi xuân đến sau
Thêu gấm
năm màu thêm sợi nhuyễn
Thổi lau
sáu ống động tro mầu
Ven bờ vào
chạp ra mềm liễu
Ý núi tiết
hàn mai trổ mau
Cảnh trời cảnh
vật quê đâu khác
Rót chén trên
tay gọi trẻ hầu
Đõ Phủ 712-770
太平
兩個黃鸝鳴翠柳 一行白鹭上青天⑺。
窗含西岭千秋雪⑻,门泊东吴万里船⑼。
Dịch nghĩa
Hai cái oanh vàng
hót liễu biếc
Một hàng
cò trắng lướt trời xanh
Song ôm Tây lĩnh
nghìn năm tuyết
Cửa đậu Đông Ngô vạn
dặm thuyền
秋景
閒來無事不從容,睡覺東窗日已紅。
萬物靜觀皆自得,四時佳興與人同。
道通天地有形外,思入風雲變態中。
富貴不淫貧賤樂,男兒到此是豪雄
Trình Hạo程顥 (1032-108)
Thu cảnh
Nhàn lai vô sự bất thung dung,
Thuỵ giác đông song nhật dĩ hồng.
Vạn vật tĩnh quan giai tự đắc,
Tứ thời giai hứng dữ nhân đồng.
Đạo thông thiên địa hữu hình ngoại,
Tứ nhập phong vân biến thái trung.
Phú quý bất dâm bần
tiện lạc,
Nam nhi đáo thử thị hào hùng.
Dịch nghĩa
Nhàn ra
không việc chẳng thong dong
Ngủ dậy cửa đông nắng đã hồng
Muôn vật tĩnh trông đều thửa đắ
Bốn mùa hứng đẹp cảnh người chung
Đạo lan trời đất ngoài vật lý
Gió mây tứ phía biến vô song
Giàu có chả ham, nghèo vui vẻ
Nam nhi đến thế mới anh hùng
上元侍宴
Tô
Thức 蘇軾 (1037-1101)
Thượng nguyên thị yến
Dịch nghĩa
Hầu yến tết thượng nguyên
Kiến Chương trăng nhạt sao thưa
Gió tiên lò ngự hương đưa thoảng nồng
Thông Minh thị vệ hầu trông
Mây hồng một đóa bưng dâng Ngọc Hoàng
夏日
长夏江村风日清,檐牙燕雀已生成。
蝶衣晒粉花枝午,蛛网添丝屋角晴。
落落疏帘邀月影,嘈嘈虚枕纳溪声。
久斑两鬓如霜雪,直欲樵渔过此生。
Trương Lỗi 张耒(1054——1114)文潜
Dịch nghĩa
Sông quê ngày hạ gió trời thanh
Thềm hiên én sẻ đã sinh thành
Bướm khoe áo phấn cành hoa ngọ
Nhện lại tơ giăng góc nắng
hanh
Rủ rủ rèm thưa lay mời nguyệt
Lao xao gối rỗng tiếng khe
quanh
Lâu lâu hai búi màu sương tuyết
Mong được ngư tiều kiếp qua nhanh
Vân đạm phong khinh cận ngọ thiên,
Bạng hoa tuỳ liễu quá tiền xuyên.
Thời nhân bất thức dư tâm lạc,
Tương vị thâu nhàn học thiếu niên.
Dịch nghĩa
Gió đưa mây nhạt gần trưa
Bên đường hoa liễu đu đưa trước dòng
Người đời ai biết ta mừng
Đương
nhân nhàn rảnh học cùng trẻ thơ
春景
詩家清景在新春,綠柳才黃半未勻。
若待上林花似錦,出門俱是看花人。
Thi gia thanh cảnh tại tân xuân,
Lục liễu tài hoàng bán vị quân.
Nhược đãi Thượng Lâm hoa tự cẩm,
Xuất môn câu thị khán hoa nhân.
Dịch nghĩa
Thi
nhân cảnh đẹp buổi xuân tươi
Liễu biếc chuyển vàng đã nửa rồi
Nếu đợi vườn kia hoa trổ gấm
Ra ngoài toàn kẻ ngắm hoa thôi
古歡南塘阮Cổ hoan Nam đường Nguyễn khảo dịch
Đức cuốc xã, Đại dịch Tàu +, tháng 10/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét