Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

Ngô Đức Thọ: Thái tể Tuyền quận công Nguyễn Duy Thì











Nguyên văn bài dạng Text
THÁI TỂ TUYỀN QUẬN CÔNG
NGUYỄN DUY THÌ DUY THÌ
NGUY N DUY THÌ 阮惟時(1572-1651)
Người xã Yên Lãng huyện Yên Lãng – Nay là thôn Hợp Lễ xã Thanh Lãng
huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc. Cha Nguyễn Duy Hiểu.
27 tuổi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Tuất niên hiệu
Quang Hưng 21 (1598) đời Lê Thế Tông.
Ông từng đi sứ sang nhà Minh. Làm quan đến chức Tham tụng, Hộ bộ Thượng
thư kiêm chưởng lục bộ sự, Thái phó, tước Tuyền quận công 泉郡公, vinh phong Tá lý
công thần, được mở phủ Bỉnh Quân 秉鈞府. Thọ 81 tuổi. Sau khi mất được truy tặng
chức tặng Thái tể, thuỵ là Hành Độ 衡度 .
LTĐK(III,2a); LĐĐK, 118a; ĐKSB, 63b;
LHĐK(I,47a); T.Thư (BK 18); N°1339.
0B 􀁒
Sử không ghi thoạt đầu Hoàng giáp được bổ chức gì. Nhưng bản Khai hành trạng
Công thần do dòng họ Nguyên Duy làng Hợp Lễ xã An Lãng soạn, đề ngày 20 tháng
8 năm Cảnh Hưng 37 (DL 2-10-1776) do Công thần tôn Nguyễn Duy Lỗi cùng 7 công
thần tôn khác và toàn họ cùng ký cho biết về những năm đầu trong cuộc đời làm quan
của Thái tể Nguyễn Duy Thì:
Đền thờ Thái tể tướng công NGUYỄN DUY THÌ ở làng Hợp Lễ xã An Lãng
huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc
Sau khi thi đỗ (1598) Hoàng giáp Nguyễn Duy Thì được bổ chức Hàn lâm Hiệu
lý Viện Hàn lâm giúp các việc từ hàn trong triều Lê trung hưng thời Triết vương
Trịnh Tùng.
Năm Canh Tí ( 1600) Nguyeãn Duy Thì theo ngự giá vua Lê chúa Trịnh về trấn
sở Thanh Hoa.
Năm Tân Sửu (1601) giữ chức Hộ khoa Cấp sự trung, tước tử.
Năm Bính ngọ (1606) làm Phó sứ trong sứ bộ sang nhà Minh.
Thời gian này nhà Lê Trung hưng mới thu phục kinh đô Thăng Long (23-2-
1593), nhưng nhà Mạc vẫn còn chiếm Cao Bằng và vùng biên giới Đông bắc.
Nhà Mạc liên tục sai sứ sang kêu cứu và tố cáo ly gián để nhà Minh không thừa
nhận triều Lê Trịnh. Sứ bộ Phùng Khắc Khoan (1596) được đón tiếp trọng thị nhưng
vua Minh vẫn chưa chịu phong vương cho họ Lê. Đến năm này (1606), chúa Trịnh
Tùng sắp xếp hai sứ bộ: một Đoàn do Hoàng giáp Lê Bật Tứ làm chánh sứ sang đáp lễ
cảm ơn; một sứ bộ khác hùng hậu hơn, do hai Hoàng giáp Ngô Trí Hoà, Nguyễn Thực
làm chánhsứ và 5 người khác làm phó sứ mang quốc thư cầu phong cũng lên đường đi
tiếp sau. Trong sứ bộ này có một Phó sứ là hoàng giáp Nguyễn Duy Thì.
Thời trước đi sứ là công việc rất quan trọng,
ì thế chúng ta cũng cần biết về chuyến đi sứ này
của Hoàng giáp Nguyễn Duy Thì. Chỉ mới đăng
khoa khoảng 7 năm, lúc ấy ông Hoàng giáp
Nguyễn Duy Thì còn rất trẻ (34 tuổi) giữ chức
Cấp sự trung (tương đương như Trưởng phòng
cấp Bộ), nhưng ông được sung chức Phó sứ vì
theo thông lệ chánh phó sứ phải là các vị Chánh
Tiến sĩ (tức từ Hoàng giáp trở lên).
Về năm Bính Ngọ niên hiệu Hoằng Định 17
(1606) đời vua Kính Tông Lê Duy Tân, sử nước
ta, Cương mục bỏ trống, còn Toàn thư chỉ có vài
dòng ghi đúng một việc tức là việc đi sứ sang nhà
Minh năm này. Tư liệu quá hiếm đến nỗi sử cũng
không ghi được sứ bộ lên đường ngày nào tháng
nào, chỉ ghi vào đầu năm:
“Bính Ngọ, [Hoằng Định] năm thứ 7 [1606], (Minh Vạn Lịch năm thứ 34) Sai
chánh sứ Lê Bật Tứ, phó sứ Nguyễn Dụng và Ngyễn Khắc Khoan sang nhà Minh
dâng lễ tạ ơn. Lại sai hai sứ bộ
gồm bọn chánh sứ Ngô Trí Hoà, Nguyễn Thực, các phó sứ Phạm Hồng Nho, Nguyễn
Danh Thế, Nguyễn Úc, Nguyễn Duy Thì sang tuế cống nhà Minh”. (Toàn thư, BK18-
7a).
Chuyến đi sứ này Lê Bật Tứ và Nguyễn Thực lầm Chánh sứ, Hoàng giáp
Nguyễn Duy Thì làm Phó sứ - là chuyến thứ hai triều Lê trung hưng phái sứ bộ sang
Yên Kinh.
Minh thực lục không ghi tên tên chánh phó sứ, nhưng có nói về công việc của
sứ bộ An Nam (đối nội, nhà Lê vẫn gọi quốc hiệu Đại Việt, nhưng đối ngoại với nhà
Minh các vua Lê vẫn tự gọi tên nước là An Nam) Chuyến đi này của hai sứ bộ nước ta
diễn ra trong tình hình có phần hơi đặc biệt. Trước đó nửa năm (đầu tháng 7-1605)
Bản khai Hành trạng công thần
Thái tể Nguyễn Duy Thì
thủ lĩnh một bộ tộc người Tày Nùng ở Lộc Châu (Lạng Sơn) là Vi Đạt Lễ đưa quân
sang đánh chiếm trị sở châu Tư Lăng, bắt châu quan là Vi Thiệu Tăng và đoạt lấy
châu ấn - Sử Việt Nam không có thông tin gì về vụ này – sau đó nhà Minh đã dụ Đạt
Lễ ra hàng, trả lại châu ấn, nhưng vẫn gay gắt đòi đích danh “đầu mục Trịnh Tùng”
phải chú ý việc này và nhất là đòi Trịnh Tùng phải bắt cho được người cầm đầu của
quân “phản loan” là Lục Hữu. Chuyến công du này của hai sứ bộ nhà Lê phải đối diện
với vấn đề nan giải này.
Minh thực lục về ngày 5 tháng 2 năm Vạn Lịch thứ 34 (13-3-1606) chép “ Lê
Duy Tân, con Đô thống Sứ An Nam Lê Duy Đàm, cống sản vật địa phương, xin
phong tước”. Tuy chỉ chép việc gọn như thế, nhưng nhân đó Minh thực lục lược thuật
các diễn biến chính ở An Nam khởi từ Lê Lợi đến Lê Huệ (Chiêu Tông) mất ngôi về
nhà Mạc. Rồi Lê Ninh dấy quân ở vùng sông Tất Mã. Xem những đoạn ghi này
chúng ta thấy bọn họ hiểu rất rõ tình hình ở An Nam. Họ nói “ căn cứ lời báo cáo của
điệp viên” do Tuần phủ Quảng Tây điều khiển thường xuyên gửi về. Khi hai sứ
bộđang ở Yên Kinh, trong nước triều đình dẹp được cuộc phản loạn của Lục Hữu, lại
bắt được Vi Đạt Lễ, chém đầu, đựng thủ cấp trong hộp cho người chuyển sang trao
cho nhà Minh. Vì thế nhà Minh đáp ứng cấp cho Lê Duy Tân (Kính Tông) ấn bạc
(trước chỉ được cấp ấn đồng), nhưng tước hiệu thì vẫn chỉ An Nam Đô thống sứ như
cũ.Minh thực lục, Q.418, 3 ab. Hồ Bạch Thảo dịch )
Sứ bộ vừa đi đường, làm việc và nghỉ ở Yên Kinh đến giữa năm 1607. Minh
thực lục ghi ngày 22 tháng 5 Vạn Lịch 35 (tức 16 - 6 -1607) nhà Minh sai Quang lộc
tự thừa Phạm Quang Dụ hộ tống cống sứ An Nam về nước (Minh thực lục, Q.431.
Bản dịch đã dẫn, tr.250.
Năm Giáp Thân (1608) đi sứ trở về, Nguyễn Duy Thì được thăng chức Thiêm
đô ngự sử, tuớc bá (Phương Tuyền bá 芳泉伯 ), được cấp cho hai xã Yên Lãng và
Hợp Lễ (sau đổi là xã Yên Lãng) để phục dịch (Công thần hành trạng)
Chính quyền Lê - Trịnh tuy đã ổn định,
trong nước đã tương đối được yên bình, nhưng
cuộc nội chiến với nhà Mạc suốt mấy chục năm
khiến cho sản xuất nông nghiệp đình đốn, làng
xóm tiêu điều chưa phục hồi, mất mùa liên tiếp
nhiều năm. Làm việc ở Ngự sử đài, Phương Tuyền
bá có điều kiện đi kinh lý các nơi, nhờ đó hiểu
được tình cảnh nghèo đói của dân chúng, cùng là
sự cai trị của bọn quan tham lại nhũng ở nhiều địa
phương. Bức xúc vì thấy bọn quan lại tham nhũng
làm khổ người dân “mọi việc nhiễu dân, không
điều gì không làm”, tháng 8 năm Hoằng Định 13
(9-1612) Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử Nguyễn
Duy Thì (liên danh cùngGiám sát ngự sử Phạm
Trân và mấy đồng liêu khác) dâng lên chúa Trịnh
Tùng một bản Khải văn (Triều Lê Trung hưng
quy định đại thần tấu lên vua thì gọi là “tấu” như
cũ, nhưng tâu việc lên chúa Trịnh thì gọi là “khải”)
Khải văn năm 1612 của Phương Tuyền
bá (Toàn thư, BK18-8ab)
bày tỏ ý kiến trước hiện tình triều chính.có nhiều việc cấp thiết phải tu chỉnh.Khải văn
viết:"Dân là gốc của nước, đạo trị nước chỉ là yên dân mà thôi. Lại nghĩ rằng : rời với
dân cùng một lẽ, lòng dân vui thích tức là được ý trời rồi. Cho nên người giỏi trị
nước, yêu dân như cha mẹ yêu con, thấY họ đói rét thì thương, thấY họ lao khổ thì
xót, cấm hà khắc bạo ngược, ngăn thuế khoá bừa bãi, để cho dân được thoả sống mà
không còn tiếng sầu hận oán than. Thế mới là biết đạo trị nước, biết cách sai dân. Nay
Thánh thượng (chỉ chúa Trịnh) để ý tới dân, thi hành một chính sách cốt để nuôi dân,
ban ra một mệnh lệnh, cũng nghiêm răn nhiễu dân. Lòng yêu dân đó, thực là lượng cả
của trời đất cha mẹ vậy. Nhưng kẻ thừa hành thì chưa biết thể theo đức ý của bề trên,
chỉ chăm làm điều hà khắc bạo ngược, đua nhau xa xỉ, coi một huyện thì làm khổ dân
một huyện, coi một xã thì làm khổ dân một xã, mọi việc nhiễu dân, không điều gì
không làm, khiến dân trong nước, con trai thì không có áo, con gái thì không có váy,
tiệc hát xướng không còn, lễ cưới xin không đủ, sống nuôi chết đưa, không trông cậy
vào đâu, ăn uống chi dùng hàng ngày mọi bề đều thiếu, dân mọn nghèo hèn cho đến
sâu bọ cỏ cây đều không sống nổi.
Vì thế, cảm động đến đất trời, khiến cho lòng trời ở trên không thuận tai hoạ lũ
lụt tràn ngập quá
mứ cthường, chắc là có quan hệ với chính sự hiện nay, há chẳng nên sợ hãi, tu
tỉnh, nghĩ đến tội lỗi gây nên thế sao? Nếu biết thi hành chính sách bảo vệ dân thì
dưới thuận lòng người,trên hợp ý trời, và chuyển tai hoạ thành điềm lành, lúa được
mùa luôn, người người no đủ, trong nước thái bình, cơ nghiệp ức muôn năm của nước
nhà từ nay cũng do đó mà bền vững lâu dài vậy". (Toàn thư, BK18 -8 ab)
Phan Huy Chú cho biết Triết vương Trịnh Tùng “khen và nhận lời” các điều nói
trong bài khải của Nguyễn Duy Thì (LTHCLC, Nhân vật chí). Khoảng cuối năm 1613
triều đình “sai triều thần chia nhau đi các xứ xét hỏi nỗi đau khổ của dân gian. Người
phiêu giạt thì tha tạp dịch ba năm để về yên cư phục nghiệp” (Toàn thư, BK18-10a)
Năm Bính Thìn Hoằng Định 17,tháng 2 (3-1616) Nguyễn Duy Thì được thăng
Phó đô ngự Sử (Hành trạng chép năm Tân Hợi [1611] có thể nhầm).
Tháng 2 năm Hoằng Định 19 (3-1618) Nuyễn Duy Thì làm Đốc thị trong cánh
quân do Xuân quận công Trịnh Xuân chỉ huy phối hợp với quân do Thanh quận công
Trịnh Tráng cùng tiến đánh quân của Khánh vương nhà Mạc. Thế lực quân Lê Trịnh
trong trận này rất lớn, quân Mạc không dám giao chiến.
Quý Hợi (1623), tháng 6 – Hành trạng ghi là “Hữu sự nhật” (ngày xấy ra sự
việc”), chỉ sự việc ngày 18 tháng 6 Triết vương Trịnh Tùng bị ốm, lấy thế tử là Thanh
quận công Trịnh Tráng giữ binh quyền. Con thứ là Vạn quận công Trịnh Xuân gây
nội biến, chúa Trịnh Tùng phải chạy ra Hoàng Mai (Thanh Trì), rồi mất ở quán Thanh
Xuân. Trong cuộc biến này, Phương Tuyền bá Nguyễn Duy Thì bảo vệ chính thống
của thế tử Trịnh Tráng, ông giúp việc quân theo Trịnh Tráng đưa vua Lê Thần Tông
lánh về Thanh Hoa để lo việc dẹp loạn. Nhà Mạc nhân lúc Thăng Long có biến tiến
quân về tận Đông Dư, Thổ Khối (Gia Lâm). Trịnh Tráng tập hợp lực lượng xong tiến
đánh thu phục, lại rước vua Lê về Thăng Long.
Giáp Tí (1624) Phương Tuyền hầu vâng mệnh làm Đốc suất (giám chiến) trong
cánh quân của Thái bảo Luân quận công tiến đánh Cao Bằng, truy đuổi đến tận
“Thiện Thắng quốc 善勝國” của nhà Mạc (tên gọi này chưa thấy tư liệu nào nói
đến),bắt được Mạc Kiền Thống giải về kinh sư.
Thanh vương Trịnh Tráng lên ngôi, xét công phò tá truy tuỳ, thăng Phương
Tuyền bá Nguyễn Duy Thì làm Lại bộ Tả thị lang kiêm Quốc Tử giám Tư nghiệp,
tước Phương Tuyền hầu (Sắc phong 01 ngày 16 tháng 11 Vĩnh Tộ 7 (15-12- 1625 ).
Năm Bính Dần (1626) Phương Tuyền hầu vâng mệnh làm Đốc suất (giám chiến)
trong cánh quân của Thái bảo Lân quận công tái tiến đánh Cao Bằng, giết tại trận Thái
bảo Lâm quận công của nhà Mạc. (Hành trạng ghi: khi thắng trận trở về được thăng
Công bộ thượng thư; Sắc Phong NDT 02 , Vĩnh Tộ 8, ngày 13-5).
Năm Đinh Mão Vĩnh Tộ 9 (1627) Trịnh Tráng lấy danh nghĩa vua Lê viết thư
cho chúa Nguyễn Phúc Nguyên ở Đằng Trong, đại khái nhắc tình nghĩa hai họ Trịnh
Nguyễn cùng ý nguyện tôn phù nhà Lê, chỉ vì kẻ xấu ly gián nên mới thành ra cái thế
đối địch. Nay “nếu ngươi cố giúp triều Lê ta để nhà vua được mạnh thì thân danh của
ngươi cùng nước cùng vinh hiển…. Nếu vẫn chấp mê, đem quân chống mệnh, thì oai
trời đến đâu chỉ trong chớp mắt núi cao cũng thành ra đất bằng…”
Toàn thư chép gần hết bức thư ấy (BK 18- ), và ghi: “ Mùa xuân sai quan mang
sắc dụ Thái bảo Thuỵ quận công Nguyễn Phúc Nguyên”, nhưng không nói rõ phái ai
mang sắc thư đi. Nhưng bản Hành trạng của Tuyền quận công có ghi việc ấy: “Năm
Đinh Mão (1627) Phương Tuyền hầu Nguyễn Duy Thì vâng mệnh mang sắc chỉ của
vua Lê vào Thuận Hoá dụ họ Nguyễn. Ông trình bày các điều lợi hại để khuyên họ
Nguyễn trở về phục mệnh triều đình nhà Lê. Nhưng họ Nguyễn không nghe, lại còn
bắt bẻ làm nhục sứ giả. Nhưng ông vẫn cứng cỏi không chịu chịu khuẤt, khi về được
triều đình rất khen ngợi”
Sử nhà Nguyễn, cả Đại Nam thực lục Tiền biên và Cương mục đều không nói gì
đến việc vua Lê chúa Trịnh gửi thư lần ấy. Bản Hành trạng.... do có tư liệu gia đình
nên khai khớp với sử liệu của Toàn thư là điều dễ hiểu. Nhưng một điều rất đặc biệt
và thú vị là cuốn Nam triều công nghiệp diễn chí do Bảng Trung hầu Nguyễn Khoa
Chiêm (1650-1736 ) một quan chức ở Đàng Trong biên soạn cũng ghi đựoc sự kiện
Phương Tuyền hầu là người đưa sắc dụ ấy của vua Lê vào Đàng Trong. Cuốn sách
này tuy là thể truyện (diễn chí), nhưng thiên về sử và từng được Sử quán triều Nguyền
dùng làm tài liệu tham khảo cơ sở để soạn bộ Đại Nam thực lục tiền biên (tức sử nhà
Nguyễn chép về thời các chúa Nguyễn):
“Năm ấy, các quan triều đình bẩm với Thanh Đô vương rằng: Thuỵ quận công
[Nguyễn Phúc Nguyên] ở Nam trấn giữ hai xứ Thuận Hoá-Quảng Nam đã nhiều năm
không nộp tô thuế. Trịnh Tráng cả giận, bèn sai Thượng thư bộ công kiêm Tư nghiệp
Quốc Tử Giám là Phương Tuyền hầu Nguyễn Duy Thì làm Trung sứ, cùng với bọn
Sắc phong 01, ngày 16 -11 Vĩnh Tộ
7(15-12- 1625 ).
Sắc Phong 02 , Vĩnh Tộ 8, ngày 13-5
Bá Khê hầu Phan Văn Trị vào xứ Nam trách hỏi. Duy Thì, Văn Trị rong ruổi đến
Thuận Hoá, vào công phủ của Thuỵ quận công truyền dụ rằng:
“Hoàng thượng đặc cách sai chúng tôi vào đây để hỏi ông về các khoản thóc
tiền của hai xứ. Vả lại việc to thuế có quan hệ lớn nước nhà, minh công đã mấy năm
không đem ra nộp là do vì sao?”
Sãi vương [tức Nguyễn Phúc Nguyên] đáp:
Nhà nước chứa trữ lương tiền là để dùng vào việc binh. Nhưng mấy năm nay
mùa màng Thất bát, trăm họ thiếu ăn, gần đây đã có người chết đói. Tôi thường nghe
người xưa nói rằng: Dân là gốc lớn của nước. Muốn nuôi dưỡng lòng dân không nỡ
thu tô đòi thuế trong những năm mất mùa. Các năm về sau mùa màng lúa tốt, sẽ xin
thu đem ra giao nộp, há phải là kẻ quay lưng làm phản để chiếm đoạt too thuế của
hoàng thượng đâu!”
Sứ giả của Bắc triều nghe chúa Nam nói có lý, không dám gạn hỏi, bèn cáo từ
về Bắc, trình lên để Thanh Đô vương biết. Trịnh Tráng cũng làm ngơ đi, không hỏi
đến việc ấy nữa.”F
1
Sở dĩ Nguyễn Khoa Chiêm biết việc Nguyễn Duy Thì làm sứ giả vào Thuân
Hoá là vì khi soạn Nam triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn Khoa Chiêm đã làm quan
đến cấp Cai bạ Phó đoán sự thuộc hàng quan chức cao cấp được tham dự chính sụ
trong cung phủ của chúa Nguyễn Phúc Chu đang lưu trữu rất nhiều văn kiện tài liệu từ
thời các chúa trước. Như lời kể của Nguyễn Khoa Chiêm thì Nguyễn Duy Thì thực
hiện sứ mệnh chuyển giao sắc dụ của vua Lê cho chúa Nguyễn Phúc Nguyên không
mấy khó khăn. Thời gian ấy Nguyễn Phúc Nguyên chưa đương diện chống lại mệnh
lệnh của triều Lê -Trịnh, và cái cớ Thuận Hoá chậm nộp tô thuế là vì mấy năm liền
mùa màng Thất bát. Phương Tuyền bá Nguyễn Duy Thì có thể biết là Nguyễn Phúc
Nguyên không nói sự thật, nhưng vì mất mùa, đã có người dân bị chết đói thì lý do
khẤt tô thuế là điều nhà cầm quyền theo đạo lý không thể không xem xét tới. Vì vậy
chúng ta không thấy Nguyễn Duy Thì ỷ thế thừa hành lệnh vua mà có thái độ gì có thể
coi là hống hách gây khó cho Thuỵ quận công. Việc này cho thấy ở Nguyễn Duy Thì
một tấm lòng trung thực nhân ái. Chuyến đi vào Thuận Hoá nếu lấy việc thu thuế làm
mục đích thì không đạt, nhưng với lý do mất mùa dân đói thì triều đình ở Thăng Long
cũng không có cớ gì để phàn nàn về trách vụ của Nguyễn Duy Thì. Về sự việc này,
bản khai Hành trạng có chỗ nói chúa Nguyễn làm nhục sứ giả tại phủ đường v.v...,
theo ý riêng của bút giả, có thề đó là do các vị con cháu công thần theo quan điểm
chính thống của triều Lê Trịnh, khi thụât sự việc có xu hướng làm “trầm trọng hoá”
vấn đề để nhấn mạnh thành tích của cụ Thái tể, đó cũng là hiện tượng tâm lý thông
thường, có thể lý giải được..
Năm Kỷ Tỵ (1629): Phương Tuyền hầu làm Đốc suất (giám chiến) trong cánh
quân do Thái bảo Nhạc quận công tiến đánh giặc “Uy Lãng”, không giao chiến, chỉ
tuyên dụ mà Uy Lãng quy hàng. Về triều được ngợi khen là “nhất ngôn thắng thập
vạn sư” (Một lời thắng mười vạn quân) (Hành trạng ghi sau trận này ông được thăng
tước Quận công. (Chính xác phải đến 1632 Nguyễn Duy Thì mới được phong Tuyền
1 Nguyễn Khoa Chiêm. Nam triều công nghiệp diễn chí. Ngô Đức Thọ- nguyễn Thuý Nga dịch chú.
Ngô Đức Thọ giới thiệu. Trong Tổng tập Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam (Trần Nghĩa chủ biên).
H.,Nxb.Thế giới, 1997. tr. 218. Cũng xem: Tổng tập văn học Việt Nam T.3. H., Nxb. KHXH.,2000.
Tr.208.
quận công với các chức tước đã dẫn trên (x.Sắc phong NDT 03). Hành trạng ghi: cấp
cho hai huyện Đông Ngàn và Ninh Giang “vi chế”[làm chế độ], có lẽ là quy chế ruộng
ngụ lộc như đã nói ở các trang trước)
Năm Đức Long 4, ngày 15 tháng Tư (tức DL 2-6-1632) Nguyễn Duy Thì được
thăng Công bộ thượng thư kiêm Quốc Tử Giám Tư nghiệp Thiếu phó Tuyền quận
công Thượng trụ quốc thượng trật. (Toàn thư, BK 18-31b); Sắc phong NDT 03 [2- 6-
1632)
Tháng 10 năm Đức Long 2 (11-
1630) nhà Minh sai hai sứ bộ sang đòi lễ
cống. Trịnh Tráng phái Nguyễn Duy Thì,
Giang Văn Minh, Lê Khả Trù, Thân
Khuê lên cửa Nam quan đợi đón sứ giả
(BK18-28a ).
Tháng 12 năm Đinh Sửu Dương Hoà
3 (quy ngang là năm 1637, nhưng đầu
tháng Chạp thì đã sang tháng 1-1738)
triều đình một lúc cử hai sứ bộ sang sứ
nhà Minh. Một Đoàn do Hoàng giáp
Nguyễn Duy Hiểu con trưởng của Thiếu phó Nguyễn Duy Thì làm chánh sứ, một
Đoàn Đoàn do Hoàng giáp Giang Văn Minh làm chánh sứ. Về hai sứ bộ này Toàn thư
chỉ ghi có mỗi câu như vậy. Cương mục thì bỏ qua không nói đến. Nhưng Lịch triều
hiến chương loại chí của Phan Huy Chú nói đến hai lần, cho biết rõ hơn.
Sở dĩ có lệ cả hai sứ bộ cùng đi vì lệ cũ 3 năm một kỳ tuế cống, từ năm 1584 đời
Mạc Mậu Hợp định lệ cứ 6 năm cống hai lễ (x. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương
loại chí, Bang giao chí). Toàn thư ghi chung vào một mục, không nói rõ Đoàn nào đi
trước Đoàn nào đi sau, chứng tỏ chi tiết ấy không mấy quan trọng, có thể hiểu cả khi
đi và khi về cả hai Đoàn nhập chung với nhau. Chuyến đi sứ này rất nổi tiếng, nhưng
ngày nay sách báo hầu như chỉ nói về chánh sứ Giang Văn Minh là người đã ứng khẩu
câu “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” để đối đáp với vế xuất ngạo mạn của một viên
quan nhà Minh. Nhưng chuyến đi sứ ấy không kết quả, vua Minh vẫn không chịu
phong vương cho vua An Nam, chánh sứ Giang Văn Minh lại bị chết trên đường về.
Một chuyến đi sứ khi trở về chết cả hai viên chánh sứ, thật là một đau thương động
trời, nhưng đáng tiếc, sử sách không ghi lấy một dòng! Không chỉ Toàn thư, cả Cương
mục cũng không hề ghi về hai Đoàn đi sứ năm ấy! Việc tang của quan đại thần đầu
triều như vậy mà Toàn thư bỏ qua không chép, chỉ ghi khoảng sau tháng 4 Dương
Hoà 5 (5-1639) “ Sai Thiếu phó Nguyễn Duy Thì cùng các ông Nguyễn Thọ Xuân,
Nguyễn Xuân Chính, Nguyễn Quang Nhạc, Phạm Phúc Khánh vâng mệnh lên cửa
Nam quan đợi đón sứ thần về nước (Toàn thư, BK 18 -35b)
Hai cha con làm quan đồng triều,
nhưng đau xót là người con lại phải ra đi
trước cha già! Tuyền quận công Nguyễn
Duy Thì nén lòng chịu nỗi đau ấy để cáng
đáng thêm các trọng trách mới: Từ đầu
năm Canh Thìn Dương Hoà 6 ông đảm
trách thêm chức vụ Tế tửu Quốc Tử Giám
và Chưởng Hàn lâm viện sự - tức đứng Sắc phong 04 ngày 3 tháng 9 Dương
Hoà 6 (29-4-1640).
Sắc phong NDT 03 ngày 15 tháng 4 Đức
L 4(2 6 1632)
đầu Quốc Tử Giám và Viện Hàn lâm (Sắc
phong NDT 04 ngày 3 tháng 9 Dương Hoà 6 ( DL ngày 29-4-1640).
Hai năm sau vua Lê và chúa Trịnh chọn ông giữ chức Thượng thư bộ Binh (Sắc
phong NDT 05 ngày 27 -4 Dương Hoà 8 tức DL ngày 27-5-1642.)
Ba năm sau vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng đổi chức Thượng thư bộ
Lại cho ông (thôi Thượng thư bộ Binh), nhưng lại kiêm nhiệm trọng trách lớn: Lại bộ
thượng thư kiêm Chưởng Lục bộ sự - Tức chức vụ Tể tướng thứ hai sau Thanh vương
Trịnh Tráng (Sắc phong NDT 06 ngày 26 - 4 Phúc Thái 3 (tức DL ngày 21-5-1645).
Lúc này ông đã 73 tuổi. Theo lệ đời Trung hưng, các đại thần 70 tuổi về trí sĩ. Nhưng
Trịnh Tráng đặc cách mời giữ không cho ông về trí sĩ. Chúa Trịnh Tráng đặc cách cho
dựng phủ đệ ở ngay làng Láng quê cụ, đặt tên là phủ Bỉnh Quân 秉鈞府 ( Bỉnh quân
dấu hỏi ở chữ Bỉnh, chứ khong phải dấu huyền, nghĩa là “nắm giữ sự điều hoà, điều
phối”) để quan Chưởng lục bộ làm việc tại gia. Các bộ viện có điều gì khải trình thì
cho người chạy ngựa chuyển đến phủ Bỉnh Quân phê duyệt. Từ phủ Bỉnh Quân về
kinh những khi đẹp trời ông tự mình cưỡi ngựa, chỉ lấy mấy tên lính kỵ theo hầu. Có
khi gặp kỳ bình văn ông đến ngay trường Giám để dự rồi mới vào triều. Ồng vừa làm
việc ở phủ Lục bộ (phủ Tể tướng) tại Thăng Long, vừa làm việc tại phủ Bỉnh Quân
cho đến năm Khánh Đức 3 lâm bệnh nhẹ, ngày 19 tháng 9 Canh Dần (tức DL ngày 1-
11-1651) viên mãn thọ chung tại phủ đệ Bỉnh Quân tại quê nhà, hưởng thọ 81 tuổi.
Vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng truyền lục bộ binh dân tổ chức phục dịch
tang lễ rất mực trọng thể.
Hơn 50 năm giữ trọng trách dưới ba triều vua hai đời chúa, uy danh Thái tể
Nguyễn Duy Thì lừng lẫy một giai đoạn nhiều biến động lịch sử đầu thời Lê Trung
hưng. Đó là những năm tháng cuộc Trung hưng của nhà Lê mới thành công. Tuyền
quận công Nguyễn Duy Thì tuy cũng có tham gia một số trận đánh (giữ chức giám
chiến), nhưng chủ yếu ông thực hiện nhiều trọng trách dân sự, phủ dụ binh dân những
địa phương vốn là chỗ dựa của nhà Mạc, chiêu tập dân xiêu dạt đưa về quê quán khôi
phục sản xuất, ổn định đời sống, sau vài chục năm đã có thể thấy được cảnh thế thăng
bình. Nguyễn Duy Thì là nhà chính trị có tài, biết lắng nghe và thấu hiểu nguyện vọng
của người dân. Ông căm ghét bọn quan lại tham nhũng “chỉ chăm làm điều hà khắc
bạo ngược, đua nhau xa xỉ, coi một huyện thì làm khổ dân một huyện, coi một xã thì
làm khổ dân một xã, mọi việc nhiễu dân, không điều gì không làm”. Bản thân ông làm
Sắc phong 05 ngày 27 -4 Dương Hoà 8
tức DL ngày 27-5-1642.
Sắc phong 06 ngày 26 - 4 Phúc Thái 3
(tức DL ngày 21-5-1645
quan nổi tiếng thanh liêm nên mới có tư cách của bậc trung thần gay gắt lên án bọn
quan lại tham nhũng hại dân. Ông nghiêm khắc thi hành pháp luật, nhưng khi ngờ có
oan sai thì không ngần ngại giảm nhẹ hình án như danh sĩ Phạm Đình Hổ đã chép ở
truyện Nguyễn Duy Thì trong Tang thương ngẫu lục ( x. Phụ lục 2). Tờ Khải năm
1612 của ông không chỉ có tác dụng cảnh tỉnh đối với đương thời mà còn được lưu
trong sử sách để giáo dục cho hậu thế. Ông là tấm gương một nhà Nho có uy vọng,
nhiều năm giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám - trường đại học đào tạo nhân tài Nho học
cho các triều đại Việt Nam. Câu đối khắc cột đình bia trên mộ ông phần nào bao quát
được những cống hiến lớn lao của danh nhân Nguyễn Duy Thì:
八袞外春秋累朝元老(Cột bên trái)
四十年宰輔萬古名家(Cột bên phải )
Bát cổn ngoại xuân thu, luỹ triều nguyên lão,
Tứ thập niên tể phụ, vạn cổ danh gia.
Dịch
Tám chục lẻ xuân thu, bậc nguyên lão mấy triều,
Bốn mươi năm Tể tướng, vị danh nhân muôn đời.
(N.Đ.T)
Một văn bản có giá trị lịch sử trong việc đánh giá danh nhân Nguyễn Duy Thì là
bản sắc chỉ của vua Lê Thần Tông tuyên phong công trạng của quan Tể tướng: Sau
khi trang trọng nhắc lại đầy đủ chức tước của người quá cố, lời văn của sắc chỉ hàm
súc bao quát xứng tầm kính trọng đối với một bậc đại nguyên lão của triều đình:
為為勳臣始終全節多有勳勞於國在職 薨逝
“ Vị vi huân thần, thuỷ chung toàn tiết, đa hữu huân lao ư quốc, tại chức hoăng
thệ
Là bậc huân thần trước sau vẹn toàn phẩm tiết, có nhiều công lao với quốc gia,
qua đời khi đang tại chức.”
Xét công lao đó của Tuyền quận công Nguyễn Duy Thì, vua Lê Thần Tông đã
truy tặng ông chức Thái tể và ban tên thuỵ là Hành Độ 衡度 (nghĩa là: Nắm giữ pháp
độ). Toàn văn bản sắc chỉ truy tặng:
Sắc: Dực vận Tán trị công thần Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, Lại bộ
Thượng thư, kiêm Chưởng Lục bộ sự, kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu, Hàn lâm viện Thị
độc, Chưởng Hàn lâm viện sự ,Thái phó, Tuyền quận công, Thượng trụ quốc thượng
Sắc phong 07 ngày 19 tháng 9 năm
Khánh Đức 3 (tức ngày 1-11-1651)
Sắc phong ngày 19 tháng 9 năm Khánh Đ
ức 3 (tức ngày 1-11-1651)
trật Nguyễn Duy Thì vị vi huân thần, thuỷ chung toàn tiết, đa hữu huân lao ư quốc, tại
chức hoăng thệ, ưng gia tặng tứ thuỵ.
Khả tặng Thái tể, thuỵ Hành Độ. Cố sắc.
KhánhĐức tam niên cửu nguyệt thập cửu nhật.
Dịch:Sắc (truyền lệnh) cho:
Dực vận Tán trị công thần Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, Lại bộ Thượng thư,
kiêm Chưởng Lục bộ sự, kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu, Hàn lâm viện Thị độc, Chưởng
Hàn lâm viện sự ,Thái phó, Tuyền quận công, Thượng trụ quốc thượng trật Nguyễn
Duy Thì
Về việc: Là bậc huân thần thuỷ chung ven toàn phẩm tiết, có nhiều công lao với
quốc gia, qua đời khi đang tại chức, nên được gia tặng và ban tên thuỵ.Nay tặng chức
Thái tể và ban tên thuỵ là Hành Độ (Nắm giữ pháp độ)”Niên hiệ Khánh Đức 3, ngày
19 tháng Chín (DL ngày 1-11-1651)
Bát cổn ngoại xuân thu, luỹ triều nguyên lão,
Tứ thập niên tể phụ, vạn cổ danh gia.
Dịch
Tám chục lẻ xuân thu, bậc nguyên lão
mấy triều,
Bốn mươi năm Tể tướng, vị danh nhân
muôn đời.
(N.Đ.T)
Tác phẩm:
-Thơ chữ Hán: 02 bài Thất ngôn chép trong
TVTL:
􀁺彭城懷古和正使阮朴甫韻Bành Thành
hoài cổ, hoạ Chính sứ Nguyễn Phác Phủ (TVTL,
Q.23 -94b)
􀁺泊舟彭城遇雪次正使阮朴甫韻 Bạc chu
Bành Thành, ngộ tuyết thứ, hoạ Chính sứ Nguyễn
Phác Phủ vận (TVTL,Q.23 -95a)
-VĂN BIA: 02 bài
􀁺興功修造/渡沫寺碑 Hưng công tu tạo Đò
Mát tự bi, № 2569-70
􀁺靜慮禪寺碑/功德信施 Tĩnh Lự thiền tự
bi, № 4484 -85
Chùa Tĩnh Lự thôn An Phong xã Lãng Ngâm
tổng Đông Cứu huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh.là
nơi danh lam cổ tích xưa của bản huyện. Năm
Ất Dậu, Tây Quốc công (Trịnh Tạc) đi tuần du
thấy chùa phong cảnhđẹp đẽ, liền ủy thác cho Đô
đốc Gia Quận công Nguyễn Công Hiệp phụng mệnh cấp mấy trăm lạng bạc cho địa
phương xây dựng tu tạo chùa thêm khang trang mỹ lệ. Hồi đó, nhan sắc phong của
Bắc triều, thuyền ngự cũng đã ghé qua thăm chùa này. Mặt sau kê danh sách các vị
Hội chủ công đức tín thí trong đó có chúa Trịnh Căn, Trịnh Tạc và nhiều vị quan lại,
cung tần ở Vương phủ. Có bài minh ca ngợi.Nguyễn Duy Thì 阮惟時; học vị: Tiến sĩ
khoa Mậu Tuất (1598); chức vị: Lại bộ Thượng thư, kiêm chưởng Lục bộ sự, kiêm
Quốc tử giám Tế tửu, Hàn lâm viện Thị giảng, chưởng Hàn lâm viện Thái phó; tước
hiệu: Tuyền Quận công.
Tĩnh Lự thiền tự bi, № 4484 -85


2 nhận xét:

  1. Em có việc này quan trọng nhờ Hán Nôm giúp. Hiện em đang làm thông tin ở 1 xã, xã có 1 ngôi đình. Đình này xưa có sắc phong, đình bị đốt khoảng 1954, sắc phong mất đã lâu. Em muốn tìm hiểu xem đình đó thờ ai, sắc phong năm nào, loại nào thì phải tra cứu tài liệu nào. Em cũng biết là biết sắc phong là độc bản, nhưng các cụ trong làng muốn khôi phục lại sắc, vậy phải làm thế nào. Có phải Viện NC Hán Nôm chứng thực không, thủ tục như thế nào ạ? Mong bác hỏi giúp. Cảm ơn bác nhiều!

    Trả lờiXóa
  2. Nếu ở gần Hà Nội, anh Quyết có thể đến Viện nghiên cứu Hán Nôm 183 Đặng Tiến Đông hỏi thăm, trình bày địa chỉ làng xã đầy đủ có thể có người giúp được. Nhưng thêm 1 điều quan trọng là phải mất kinh phí.

    Trả lờiXóa