Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2016

Nam Ông mộng lục

Trần Văn Giáp/ Lược truyện các tác gia Việt Nam/ TẬP I/ 
CHƯƠNG I
CÁC SÁCH THAM KHẢO

I-                  SỬ CHÍ
3.     Nam Ông mộng lục
Tác Giả: Lê Trừng
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93_Nguy%C3%AAn_Tr%E1%BB%ABng
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_%C3%94ng_m%E1%BB%99ng_l%E1%BB%A5c

Một quyển (3 +20+ 3= 26 tờ, tờ 2 trang (khổ13x20).Giấy Tuyên Chỉ Trung Quốc, Trang 9 dòng, dòng 19 chữ, trong bộ tùng thư Hàm phân lâu bí kip, tập thứ 9; in ảnh theo kiểu viết tay cũ đời Minh. Ký hiệu: P. 521, 21; 493; 495.
Nội Dung: sách không chia số quyển, trong mục lục sách, đề 31 Thiên mục, nhưng kiểm trong sách như sau đây, chỉ có 28 Thiên mục mà thôi, Thiếu 3 mục, sau mục 23, là Mệnh Thông chi triệu, Thi Chí Công Danh, Tiểu Thi lệ cú. Mỗi một mục nói 1 chuyện noi, toàn là cac truyện xảy ra ở Việt Nam, về đời Lý, Trần.

Mục lục :
1.     Nghệ Vương thủy mạt(đầu đuôi chuyện Trần Nghệ tông), tờ 1-4;
2.     Trúc lâm thị tịch (việc chết của vua Trần Nhân- tông, hiệu Trúc lâm), tờ 4;
3.     Tổ Linh Định Mệnh (linh hồn của ông là Trần Nhân tong quyết định ngôi vua cho cháu là Trần Minh tông), tờ 4;
4.     Đức tất hữu vị (Việc vua Minh Tông lên làm vua), tờ 5;
5.     Phụ đức trinh minh (Việc vợ vua Duệ tông đi tu), tờ 5;
6.     Văn Tang khí Tuyệt (Nghe tin cha là Trần Thái Tông mất, cũng chết theo), tờ 6;
7.     Văn Trinh ngạch trực (chuyện Chu Văn An tính thẳng), tờ 6;
8.     Y Thiện Dụng Tâm (chuyện thày lang khéo dùng thì giờ chữa bệnh), tờ 7;
9.     Dũng Lực thần dị (Chuyện Lê Phụng Hiểu phá giặc), tờ 8;
10.            Phu thê tử tiết (Chuyện hai vợ chồng Ngô Miễn cùng tử tiết, dưới áp lực quân Minh, đời Vĩnh-lạc), tờ 9;
11.             Tăng Đạo thần thông (việc thi tài chống Yêu quái giữa Giác Hải và Thông Huyền), tờ 9;
12.            Tấu chương Minh Nghiệm (tờ tâu Lên Thiên đình có ứng Nghiệm ), tờ 10;
13.            Áp Lãng Chân Nhân (chuyện đạo sĩ họ La đem Pháp Thuật dẹp sóng biển cho vua Lý, con cháu là La Tu), tờ 10;
14.             Minh Không thần dị (Chuyện nhà sư Nguyễn Minh Không ở, Giao Thủy, chữa bệnh cho vua Lý, tức là đức Thánh Chùa Không-lộ, nay là chùa Keo), tờ 11;
15.             Nhập mộng liệu bệnh (Chuyện nhà sư Quán Viên chữa mắt cho Trần Anh tông trong giấc mộng), tờ 12;
16.            Ni sư Đức Hạnh (truyện 3 nhà sư tu đắc đạo), tờ 13;
17.            Cảm kích đồ hành (truyện Trần Đạo Tái đi bộ), tờ 13;
18.             Điệp tự thi cách (nói về bài thơ lối điệp tự của Trần Thánh Tông), tờ 14;
19.             Thi ý thanh tân(phẩm Bình thơ hay của Trần Nhân Tông trong tập Đại hương hải ấn), tờ 14- 15;
20.             Trung thực thiện chung (chuyện Hai Anh Em Phạm Ngộ, Phạm Mại trung trực mà giữ được trọn vẹn. Phạm Mại có sách (Kính khê thi tập), tờ 15 -16;
21.             Thi phúng Trung gián(truyện Trần Nguyên Đán làm thơ can vua. Không được, bỏ đi. Đán giỏi về tính lịch, có sách Bách thế thông kỷ thư), tờ 16 -17;
22.             Thi dụng tiền nhân cảnh cú (làm thơ lại dùng câu cũ của Thi nhân mà khen Thi nhân ấy, truyện Nguyễn Trung Ngạn làm thơ phúng Trần Toại, hiệu Sầm Lâu, có Sầm Lâu tập), tờ 17;
23.            Thi ngôn tự phụ (thơ tự khoe khoang của Nguyễn Trung Ngạn), tờ 17 -18;
24.             Thi Tửu Kinh Nhân (truyện Hồ Tông Thốc uống rượu khỏe, làm thơ nhiều), tờ 18;
25.             Thi triệu Dư Khương (truyện Nguyễn Thánh Huấn là ông ngoại bố Lê Trừng (tức là ông ngoại Hồ Quý Ly) giỏi thơ, gọi là tổ thơ Phương Nam, có bài Điền viên Mạn Hứng thi. Sự nghiệp Thánh Huấn có ảnh hưởng đến gia thế Lê Trừng), tờ 18-19;
26.             Thi xứng tướng chức (thơ của hai anh em Trần nghệ tông tiễn sứ Nguyên), tờ 19;
27.             Thithan chí quân (nói Trần Nguyên Đán làm thơ tự thán để can vua), tờ 19;
28.             Quý khách tương hoan (nói việc tướngMạc Ký, người Đông Triều làm thơ xướng họa khi tiễn đưa sứ Nguyên là Hoàng Thường), tờ 19.

Trên 28 mục kể trên đây, trong sách hiện còn có các bài Tựa của Hồ Huỳnh, một quan thượng thư đồng Triều với Lê Trừng, viết Năm Chính Thống thứ 5 (1440); thứ đến bài tưạ của tác giả đề Năm Chính Thống thứ 3 (1438); đề rõ “Giao Nam Lê Trừng, Mạnh nguyên tự”. Cuối sách các bài tựa của Tống Chương người Việt Nam, làm quan triều Minh, viết Năm Chính Thống thứ 7 (1442), cũng Đề rõ Giao Nam Tống Chương Thư.
Theo trong sách và các bài Tựa, tác giả Lê Trừng tự là Mạnh Nguyên, biệt hiệu Nam Ông, là người Việt Nam, làm quan triều Minh, làm Đến Công bộ tả Thị Lang. Nhưng thực ra Lê Trừng tức là Hồ Nguyên Trừng, con lớn của Hồ Quý Ly
Trong sách này Nam Ông thuật lại một số sự kiện có tính chất lịch sử các thời Lý Trần là thời gần gũi ông. Kiểm lại 28 mục còn lại, trong đó cũng có một số thần thoại, hoang đường có vẻ mê tín (số 3, 11, 12, 13, 14, 15, 16, v.v …). Một số (số 1, 2, 9) có tính chất đặc biệt lịch sử, nhất là lịch sử Trần Nghệ tông. Còn 1 số (số 4-8, 10, 17) nói về sinh hoạt xã hội, hoặc về đức tính cá nhân, hoặc về trạng thái xã hội. Một số (số 18, 19, 22, 23, 24) nói về thơ và thi nhân đời Trần; một số khác (số 20, 21, 25, 26, 27) cũng nói về thơ, nhưng có liên quan mật thiết đến lịch sử đời Trần; những sự việc này không kém quan trọng cho sự học.
Sách Nam Ông Mộng lục chép theo lối cũ, tuy đầy tư tưởng phong kiến đời Trần, và đứng về phe thất bại Hồ Quý Ly và triều Minh, cũng có một vài thiên lệch, nhưng đối với thời đó là tiến bộ. Dùng làm tài liệu lịch sử, ta có thể khảo sát được nhiều về sinh hoạt xã hội của thời đại đó ở nước ta.


https://truyentau.wordpress.com/2015/02/02/nam-ong-mong-luc-%E5%8D%97%E7%BF%81%E5%A4%A2%E9%8C%84/
Nam Ông mộng lục tự
南翁夢錄序(胡濙) Nam Ông mộng lục tự (Hồ Huỳnh)
夫日星昭布,雲霞絢麗,天之文也;川嶽流峙,草木華實,地之文也;名物典章,禮樂教化,人之文也。普天率土,星羅碁布之國,莫不咸有是文焉。今工部 左侍郎交南黎公澄孟源,性資明敏,才學優長,與予有同朝之好。間以南翁夢錄一帙見示,且徵言以弁其端。
Phù nhật tinh chiêu bố, vân hà huyến lệ : thiên chi văn dã ; xuyên nhạc lưu trì, thảo mộc hoa thực : địa chi văn dã ; danh vật điển chương, lễ nhạc giáo hóa : nhân chi văn dã. Phổ thiên suất thổ, tinh la kỳ bố chi quốc, mạc bất hàm hữu thị văn yên. Kim Công bô Tả Thị lang Giao Nam Lê công Trừng Mạnh Nguyên, tính tư minh mẫn, tài học ưu trưởng, dữ dư hữu đồng triều chi hiếu. Gian dĩ Nam Ông mộng lục nhất pho kiến thị, thả trưng ngôn dĩ biện kì đoan.
徧閱之,南翁乃孟源自號,其所著之文,簡約而 謹嚴,豐瞻而愽洽,緣情指事,陳義措辭,痛快切實,無非叙君臣之等,明彝倫之懿,闡性命道術之奧,紀家國起廢之由。以至褒賛節義,則感慨激烈,可以厲風 俗,稱揚述作,則清新俊逸,可以怡性情,與夫孟源自叙餘慶所鍾云:出自幽谷,遷于喬木;生逢聖世,深沐堯仁,而有此奇遇之說,予有以知孟源之心, 以為偏方之異跡,今得敷張於中夏,徧聞於郡邑,抑且播聲光於後世,苟非叨聖朝亞卿之寵任,則帙中所錄者,將泯滅於遐荒而無聞矣。今茲遭際,遂獲流傳於不 朽,豈不為存沒之大幸也歟?因嘉其能旌善而篤於仁厚,故不辭其請而書此,以冠于篇端云。
正統五年歲庚申,十月望日,資德大夫正治上卿禮部尚書毘陵胡濙書。
Dư biến duyệt chi, Nam Ông nãi Mạnh Nguyên tự hiệu, kì sở trứ chi văn, giản ước nhi cẩn nghiêm, phong chiêm nhi bác hợp, duyên tình chỉ sự, trần nghĩa thố từ, thống khoái thiết thực, vô phi quân thần chi đẳng, minh di luân chi ý, xiển tính mệnh đạo thuật chi áo, kỷ gia quốc khởi phế chi do. Dĩ chí bao tán tiết nghĩa, tắc cảm khái khích liệt, khả dĩ lệ phong tục, xứng dương thuật tác, tắc thanh tân tuấn dật, khả dĩ di tính tình, dữ phù Mạnh Nguyên tự tự dư khánh sở chung vân “xuất tự u cốc, thiên vu kiều mộc, sinh phùng thánh thế, thâm mộc Nghiêu nhân, nhi hữu thử kỳ ngộ” chi thuyết, dư hữu dĩ tri Mạnh Nguyên chi tâm, dĩ vi thiên phương chi dị tích, kim đắc phu trương ư trung hạ, biến văn ư quận ấp, ức thả bá thanh quang ư hậu thế, cẩu phi thao thánh triều Á khanh chi sủng nhiệm, tắc pho trung sở lục giả, tương dẫn diệt ư hà hoang nhi vô văn hĩ. Kim tư tao tế, toại hoạch lưu truyền ư bất hủ, khởi bất vi tồn một chi đại hạnh dã dư ? Nhân gia kì năng tinh thiên nhi đốc ư nhân hậu, cố bất từ kì thỉnh nhi thư thử, dĩ quán vu thiên đoan vân.
Chính Thống ngũ niên tuế Canh Thân, thập nguyệt vọng nhật. Tư đức Đại phu Chính trị Thượng khanh Lễ bộ Thượng thư Tì Lăng Hồ Huỳnh tự.
Dịch nghĩa
Bài tựa sách “Nam Ông mộng lục”(Hồ Huỳnh)
Kìa trời sao tỏa sáng, mây ráng phô màu, văn của trời đó ; núi non bủa vây, cỏ cây hoa trái, văn của đất đó ; danh vật điển chương, lễ nhạc giáo hóa, văn của người đó. Khắp trong trời đất, có biết bao nhiêu nước, không đâu không có nền văn minh. Nay Công bộ Tả Thị lang Giao Nam Lê công Trừng tự Mạnh Nguyên, tư tính thông minh, tài học hơn người, với tôi có giao hiếu đồng triều. Mới rồi đem Nam Ông mộng lục một cuốn cho xem, lại nhờ dùng lời viết tựa.
Tôi xem một lượt, biết Nam Ông là tự hiệu của Mạnh Nguyên, dùng đó để viết văn, ngắn gọn mà nghiêm cẩn, cao nhã mà hòa hợp, theo tình kể việc, lấy ý đặt lời, thú vị thiết thực, lại không quên thứ bậc vua tôi, làm rõ được ý tứ luân thường, nêu lên chỗ sâu sa của tính mệnh đạo thuật, ghi chép con đường hưng phế của nhà nước. Đến như ca ngợi tiết nghĩa thì cảm khái bừng bừng, có thể lấy đó mà uốn nắn phong tục ; biểu dương thuật tác thì siêu thoát thanh tân, có thể lấy đó mà nuôi dưỡng tính tình. Với câu sau, Mạnh Nguyên kể lại phúc trạch của tổ tiên ông hun đúc cho hậu duệ “ra tự hang núi, dời đến cây cao[1], sinh cùng thời thánh, tắm gội nhân Nghiêu nên có chuyện kì ngộ này”, tôi hiểu được tâm ấy của Mạnh Nguyên, đó là dấu tích lạ của một phương, nay được phô trương ở trung hạ, nổi danh khắp quận ấp, hoặc giả thanh danh còn để lại tới hạu thế. Nếu không được thánh triều sủng nhiệm, cho làm Á khanh thì những ghi chép trong sách này sẽ mai một ở chốn hoang xa, không ai nghe đến. Nay nhờ tri ngộ, sách sẽ được lưu truyền bất hủ, há chẳng phải là dịp may lớn trước nguy cơ mai một đó sao ? Nhân vì đánh giá cao việc biểu dương cái thiện, dốc lòng vào nhân hậu của ông nên tôi đã không chối từ, viết vài lời vào đầu thiên sách vậy.
Ngày rằm tháng mười, năm Canh Thân, niên hiệu Chính Thống thứ năm (1440).
Tư đức Đại phu, Chính trị Thượng khanh, Lễ bộ Thượng thư, Hồ Huỳnh người ở Tì Lăng, đề tựa.
南翁夢錄序(胡元澄) Nam Ông mộng lục tự (Hồ Nguyên Trừng)
語稱:十室之邑,必有忠信。如丘者焉,况交南人物,自昔蕃盛,豈可以偏方而遽謂無人乎哉!前人言行才調,多有可取者,至于兵火之間,書籍灰 燼,遂令泯滅無聞,可不惜歟?興思及此,尋繹舊事,遣亡殆盡,猶得百中之一二,集以為書,名之曰南翁夢錄,以備觀覽,一以揚前人之片善,一以資君子之 異聞。雖則區區于小說,亦將少助于燕談。
Ngữ xưng “Thập nhất chi ấp, tất hữu trung tín như Khâu giả yên”, huống Giao Nam nhân vật tự tích phồn thịnh, khởi khả dĩ thiên phương nhi cừ vị vô nhân hồ tai. Tiền nhân ngôn hành, tài liệu, đa hữu khả thủ giả, chí ư binh, hỏa chi gian, thư tịch hôi tận, toại linh dẫn diệt vô văn, khả bất tích dư ? Hưng tư cập thử, tầm dịch cựu sự, di vong đãi tận, do đắc bách trung chi nhất nhị; tập dĩ vi thư, danh chi viết Nam Ông mộng lục dĩ bị quan lãm, nhất dĩ dương tiền nhân chi phiến thiện, nhất dĩ tư quân tử chi dị văn, tuy tắc khu khu ư tiểu thuyết, diệc tương thiểu trợ ư yến đàm.
或問予曰:君所書者,皆是善人,平生聞見,無不善乎?予應之曰:善者我所樂聞,故能記之。不善者非無,吾不 記耳。曰:錄以夢名,其義安在?曰:彼中人物,昔甚繁華,時遷事變,畧無遺迹,惟我一人,知而道之。非夢而何?達人君子,其知之乎?南翁澄自謂 也。
正統三年戊午,重九日,正議大夫資治尹工部左侍郎交南黎澄孟源序
Hoặc vấn dư viết: “Quân sở thư giả, giai thị thiện nhân, bình sinh văn kiến vô bất thiện hồ ?” Dư ứng chi viết: “Thiện giả, ngã sở lạc văn, cố năng ký chi, bất thiện giả phi vô, ngô bất ký nhĩ “. Viết: “Lục dĩ mộng danh, kỳ nghĩa an tại ?” Viết “Bỉ trung nhân vật, tích thậm phồn hoa, thời thiên sự biến, lược vô di tích, duy ngã nhất nhân tri nhi đạo chi, phi mộng nhi hà? Đạt nhân quân tử kỳ tri chi hồ? Nam Ông, Trừng tự vị dã”.
Chính Thống tam niên, Mậu Ngọ, Trùng Cửu nhật. Chính nghị Đại phu, Tư Trị doãn, Công bộ Tả Thị lang, Giao Nam Lê Trừng Mạnh Nguyên tự.
Dịch nghĩa
Bài tựa sách “Nam Ông mộng lục”(Hồ Nguyên Trừng)
Luận ngữ có câu “Trong một cái ấp mười nhà, tất có người trung tín như Khâu này vậy”, huống gì Giao Nam nhân vật phồn thịnh, chẳng lẽ vì là nơi xa xôi mà vội cho rằng không có nhân tài ? Người xưa, lời nói , việc làm, ghi chép, có nhiều điều khả thủ, nhưng qua cơn binh lửa, sách vở cháy sạch, thành ra bị mất mát không được nghe lại, chẳng đáng tiếc lắm sao ? Nghĩ tới điều này, [tôi bèn] tìm ghi việc cũ, thất lạc gần hết, trong trăm phần chỉ còn được một hai ; góp lại thành sách, tên là Nam Ông mộng lục, phòng khi có người xem tới ; một là để biểu dương việc thiện nhỏ của tiền nhân, một là để cung cấp chuyện quái dị cho quân tử , tuy chỉ là tầm thường trong tiểu thuyết, nhưng cũng để góp vui lúc yến đàm.
Hoặc hỏi tôi rằng “Những người ngài ghi, đều là kẻ thiện, vậy thì bình sinh nghe thấy lại không có chuyện bất thiện ư ?” Tôi trả lời rằng “Chuyện thiện, tôi vốn thích nghe, nên mới ghi được, bất thiện không phải không có, chẳng qua không nhớ được thôi”. Lại hỏi “Lấy tên là mộng, ý nghĩa ở đâu ?” Trả lời “Nhân vật trong này, trước rất phồn hoa, đời thay việc đổi, dấu xưa không còn, còn mỗi một người biết chuyện mà thôi, không phải mộng là gì ? Đạt nhân quân tử có hiểu cho không ? Nam Ông, tên tự của Trừng vậy”,
Ngày Trùng Cửu, năm Mậu Ngọ, niên hiệu Chính Thống thứ ba (1438).
Chính nghị Đại phu, Tư Trị doãn, Công bộ Tả Thị lang, Giao Nam Lê Trừng Mạnh Nguyên đề tựa.
Chú thích
▲ Đây là thơ trong bài Phạt mộc, phần Tiểu nhã của Kinh Thi. Hồ Nguyên Trừng trích câu này trong thiên Thi triệu dư khương, kể về tổ tiên bên ngoại của Hồ Quý Ly là Nguyễn Thánh Huấn
藝王始末
Nghệ Vương thủy mạt
安南陳家第八代王諱叔明,明王第三子,次妃黎氏所生也。為王子時,號曰恭定,性淳厚孝友,恭儉明斷,博學經史,不喜浮華。陳家舊例,有子既長,即使承正位,而父退居北宮,以王父尊稱,而同聽政,其實但傳名器以定後事,備倉卒爾,事皆取決於父,嗣王無異於世子也。
An Nam Trần gia đệ bát đại vương húy Thúc Minh, Minh Vương đệ tam tử, thứ phi Lê thị sở sinh dã. Vi Vương tử thời, hiệu viết Cung Định, tính thuần hậu hiếu hữu, cung kiệm minh đoán, bác học kinh sử, bất hỉ thù hoa. Trần gia cựu lệ, hữu tử ký trưởng, tức sử thừa chính vị, nhi phụ thoái cư Bắc cung, dĩ Vương phụ tôn xưng, nhi đồng thinh chính, kỳ thực đãn truyền danh khí dĩ định hậu sự, bị thảng tốt nhĩ, sự giai thủ quyết ư phụ, tự vương vô dị ư Thế tử dã.
初,明王庶長子既立,是為憲王,而嫡子始生,長曰恭肅,痴昧不任人事。次曰祿星,年未出幼而憲王歿。且無嗣,祿星承父命繼立,是為裕王。庶兄恭靖拜太尉,恭定拜左相。恭定忠信誠確,事君與親,謹慎毫髪,人無間言。接物不親不疎,臨政無咎無譽。明王棄世,居喪三年,淚不干睫,服除,衣無彩色,食不重味,庵蘿果海,豚魚是南方珍味,自此絕不到口。事裕王十有餘年,裕王夭,而無嗣。大臣議曰:左相甚賢,然兄無嗣弟之義。乃以國母令,召立恭肅子忘名為王。是時,恭肅亦巳早世,子既立,以眾議進拜大尉為太宰,左相為太師,左相弟恭宣為右相。恭肅子少不學,好遊俠,人言妾母私通外人楊氏所生,故為宗族素所輕賤。既嗣位,居喪無戚容,舉動多失禮,擢用親暱小人,蔑視祖父,卿士不滿。期年,宗族無狀者,相與作亂。既捕獲,誅戮連累,枉殺甚眾。又潛謀盡去陳氏之有名目者,乃殺太宰於家。
Sơ, Minh Vương thứ trưởng tử ký lập, thị vị Hiến Vương, nhi đích tử thủy sinh, trưởng viết Cung Túc, si muội bất nhiệm nhân sự. Thứ viết Lộc Tinh, niên vị xuất ấu nhi Hiến Vương một, thả vô tự, Lộc Tinh thừa phụ mệnh kế lập, thị vi Dụ Vương. Thứ huynh Cung Tĩnh bái Thái úy, Cung Định bái Tả tướng. Cung Định trung tín thành xác, sự quân dữ thân, cẩn thận hào phát, nhân vô gián ngôn. Tiếp vật bất thân bất sơ, lâm chính vô cữu vô dự. Minh Vương khí thế, cư tang tam niên, lệ bất can tiệp, phục trừ, y vô thái sắc, thực bất trọng vị, am la quả hải đồn ngư thị Nam phương trân vị, tự thử tuyệt bất đáo khẩu. Sự Dụ Vương thập hữu dư niên, Dụ Vương yểu nhi vô tự. Đại thần nghị viết “Tả tướng thậm hiền, nhiên khuynh vô tự đệ chi nghĩa”, nãi dĩ Quốc mẫu lệnh triệu lập Cung Túc tử Vong Danh vi vương. Thị thời, Cung Túc diệc dĩ tảo thế. Tử ký lập, dĩ chúng nghị, tiến bái Thái úy vi Thái tể, Tả tướng vi Thái sư, Tả tướng đệ Cung Tuyên vi Hữu tướng. Cung Túc tử thiếu bất học, hiếu du hiệp. Nhân ngôn thiếp mẫu tư thông ngoại nhân Dương thị sở sinh, cố vi tông tộc tố sở khinh tiện. Ký tự vị, cư tang vô thích dung, cử động thất đa lễ, trạc đụng thân nặc tiểu nhân, miệt thị tổ phụ, khanh sĩ bất mãn. Cơ niên tông tộc vô trạng giả tương dữ tác loạn, ký bổ hoạch tru lục, liên lụy uổng sát thậm chúng. Hựu tiềm mưu tận khử Trần thị chi hữu danh mục giả, nãi sát Thái tể vu gia.
太師夜遁,迄旦,宗族官寮盡挈家奔,都城為之蕭索。太師間道得至竆邊蠻峒,意欲自盡,左右持之,峒人留寓,旬月,人頗知之。宗族官寮相繼尋至,恭肅子遣軍追捕者,亦盡歸投。右相唱率群寮,勸請還都,以清君側。太師鳴咽謝曰:諸君早返城邑,善護明君,易亂致治,尊安社稷。某死,亦受賜。某得罪於主,脫身逃竄,待斃山林幸矣,豈敢有他。諸君幸勿相迫。眾皆喧嘩不巳,再三懇切上書,誓死無易,逼請就途,肩轝出山,遠近雲集,歡聲震天。將至都三百裡,老將阮吾郎教恭肅子,出手書罪巳辭位,巳而擁出迎謝。恭肅子伏地請罪,太師亦僕地,相抱慟哭,盡哀曰:主上何至如此?臣之不幸,豈意有今日也。右相拔劒,厲聲曰:天命討罪,罪人安得多言。相王豈可以煦煦之仁,失於大義。乃叱將軍掖去,促有司備禮,奉太師即王位,廢恭肅子為昏德公。王入城,謁廟涕泣,告曰:今日之事,非臣意所及,以社稷故,不得辭免。有乖忠孝,慙懼在懷。願自黜尊榮,以少酬素志。乃下令:勿用王車轝,衣服器物黑漆,無以金寶丹朱,其餘飲食服用,依前節儉,終身之喪,歿世無改。乃革亂政,率舊章,明賞罰,用賢良,以巳子不才,難堪大事,期年,使弟右相嗣位,而同聽政,是為睿王。
Thái sư dạ độn, hất đán, tông tộc quan liêu tận khiết gia bôn, đô thành vị chi tiêu sách. Thái sư gián đạo đắc chí cùng biên Man động, ý dục tự tận, tả hữu tri chi, động nhân lưu ngụ tuần nguyệt, nhân phả tri chi. Tông tộc quan liêu tương kế tầm chí. Cung Túc tử khiển quân truy bổ giả diệc tận quy đầu. Hữu tướng xướng suất quần liêu khuyến thỉnh hoàn đô, dĩ thanh quân trắc. Thái sư ố yến tạ viết “Chư quân tảo phản thành ấp, thiện hộ minh quân, dịch loạn trí trị, tôn an xã tắc, mỗ tử diệc thụ tứ. Mỗ đắc tội vu chúa, thoát thân đào thoán, đãi tễ sơn lâm hạnh hĩ, khởi cảm hữu tha. Chư quân hạnh vật tương bức”. Chúng giai huyên hoa bất dĩ, tái tam khẩn thiết thướng thư thệ tử vô dịch, bức thỉnh tựu đồ, kiên dư xuất sơn. Viễn cận vân tập, hoan thanh chấn thiên. Tương chí đô tam bách lý, lão tướng Nguyễn Ngô Lang giáo Cung Túc tử xuất thủ thư tội kỷ từ vị, dĩ nhi ủng xuất nghênh tạ. Cung Túc tử phục địa thỉnh tội. Thái sư diệc phó địa, tương bão đỗng khốc tận ai, viết “Chúa thượng hà chí như thử ? Thần chi bất hạnh, khởi ý hữu kim nhật dã”. Hữu tướng bạt kiếm lệ thanh viết “Thiên mệnh thảo tội, tội nhân an đắc đa ngôn ? Tướng vương khởi khả dĩ hú hú chi nhân thất ư đại nghĩa ?” Nãi sất tướng quân dịch khứ, xúc hữu tư bị lễ phụng Thái sư tức vương vị, phế Cung Túc tử vi Hôn Đức Công. Vương nhập thành yết miếu, thế khấp cáo viết “Kim nhật chi sự phi thần ý sở cập. Dĩ xã tắc cố, bất đắc từ miễn. Hữu quai trung hiếu, tàm cụ tại hoài. Nguyện tự truất tôn vinh dĩ thiểu thù tố chí”. Nãi hạ lệnh vật dụng vương xa dư, y phục khí vật hắc tất, vô dĩ kim bảo đan chu. Kỳ dư ẩm thực phục dụng y tiền tiết kiệm, chung thân chi tang một thế vô cải. Nãi cách loạn chính, suất cựu chương, minh thưởng phạt, dụng hiền lương. Dĩ kỷ tử bất tài nan kham đại sự, cơ niên sử đệ Hữu tướng tự vị, nhi đồng thính chính, thị vi Duệ Vương.
先是,占城乘國釁,數來寇,睿王即位三年,乃親伐占城,敗績,不返。王以睿王之子晛嗣位。久之,覘聽奸臣,行不道,王憂社稷傾覆,涕泣而廢之,號曰靈德公。以王小子顒入嗣位,是為順王。歷七載,父王薨,時洪武二十七年甲戌,塟於安生山,諡曰藝。
Tiên thị, Chiêm Thành thừa quốc hán sác lai khấu. Duệ Vương tức vị tam niên, nãi thân phạt Chiêm Thành, bại tích bất phản, Vương dĩ Duệ Vương chi tử Hiện tự vị. Cửu chi, chiêm thính gian thần, hành bất đạo, Vương ưu xã tắc khuynh phúc, thế khấp nhi phế chi, hiệu viết Linh Đức Công. Dĩ vương tiểu tử Ngung nhập tự vị, thị vi Thuận Vương. Lịch thất tải, phụ vương hoăng. Thời Hồng Vũ nhị thập thất niên, Giáp Tuất, táng vu An Sinh Sơn, thụy viết Nghệ.
初,藝王為兒時,八九歲,侍明王。適床上有竹奴,試命詠之。乃佔口應曰
有偉此君
中空外勁
削汝為奴
恐傷天性。
明王異之,佯叱曰:此不成語,勿記錄。乃戒師傅,毋令作詩。君子謂天命有兆,誰能禦之?後果然矣。即位之後,盡取兄弟姊妹子女孫侄之孤幼者,鞠飬宮中,視同巳出,宗族遠近,咸被恩憐。有遭亂後,貧窶不能婚嫁者,婚嫁之;未葬者,葬之。末泒支流,莫不收錄,翕然戚裡,盎若春和,國人化之,俗漸淳厚。此土之君,斯其賢者歟。
Sơ Nghệ Vương vi nhi thời, bát cửu tuế thị Minh Vương, thích sàng thượng hữu trúc nô, thí mệnh vịnh chi, nãi chiêm khẩu ứng viết
Hữu vĩ thử quân
Trung không ngoại kính
Tước nhữ vi nô
Khủng thương nhân tính
Minh Vương dị chi, dương sát viết “Thử bất thành ngữ, vật ký lục”. Nãi giới sư phó vật linh tác thi. Quân tử vị thiên mệnh hữu triệu, thùy năng ngự chi, hậu quả nhiên hĩ. Tức vị chi hậu, tận thủ huynh đệ tỉ muội tử nữ tôn diệt chi cô ấu giả cúc dưỡng cung trung, thị đồng kỷ xuất. Tông tộc viễn cận hàm bị ân liên. Hữu tao loạn hậu, bần lũ bất năng hôn giá giả, hôn giá chi; vị táng giả, táng chi; mạt phái chi lưu, mạc bất thu lục. Hấp nhiên thích lý áng nhược xuân hòa. Quốc nhân hóa chi, tục tiệm thuần hậu. Thử thổ chi quân tư kỳ hiền giả dư ?
Dịch nghĩa
Truyện vua Nghệ Vương[1]
Vua thứ tám nhà Trần ở nước An Nam húy Thúc Minh[2], con thứ ba của Minh Vương, do thứ phi họ Lê sinh ra. Lúc còn làm Vương tử, hiệu Cung Định Vương, tính thuần hậu hiếu hữu, cung kiệm sáng suốt, học khắp kinh sử, không thích phù hoa. Lệ cũ nhà Trần, khi con đã lớn, bèn cho kế vị, còn vua cha thì lui về ở Bắc cung, xưng làm Vương phụ[3], cùng coi chính sự, kì thực là truyền ngôi danh nghĩa để ổn định chuyện sau, phòng khi vội vã, chứ mọi việc đều do vua cha quyết định, tự vương không khác gì Thế tử vậy.
Vốn là, lúc thứ trưởng tử của Minh Vương là Hiến Vương lên ngôi, thì đích tử[4] mới sinh, trưởng là Cung Túc Vương[5], ngu dốt chuyện đời ; thứ là Lộc Tinh[6], tuổi còn thơ ấu thì Hiến Vương mất, lại vô tự, nên Lộc Tinh đã vâng mệnh lên ngôi, ấy là Dụ Vương. Thứ huynh Cung Tĩnh Vương[7]làm Thái úy, Cung Định Vương làm Tả Tướng quốc. Cung Định Vương trung tín thành thực, thờ vua thờ cha, chu đáo đến từng chân tơ sợi tóc, không ai chê trách. Giao tiếp không thân không sơ ; chính sự không chê không khen. Minh Vương qua đời, để tang ba năm, mắt không ráo lệ, trừ phục, quần áo không màu mè, ăn uống không cầu ngon ; quả muỗm cá heo[8] là trân vị phương Nam, từ đấy tuyệt nhiên không tới miệng. Thờ Dụ Vương hơn mười năm. Khi Dụ Vương mất sớm, vô tự, đại thần bàn rằng “Tả tướng rất hiền, nhưng không lẽ anh lại kế ngôi em”, bèn theo lệnh Quốc mẫu đón con của Cung Túc Vương là Vong Danh[9] làm vua. Bấy giờ, Cung Túc cũng đã sớm mất. Sau khi con Cung Túc làm vua, theo triều nghị, phong Thái úy lên làm Thái tể, Tả tướng làm Thái sư, và em của Tả tướng là Cung Tuyên Vương[10] làm Hữu tướng. Con Cung Túc nhỏ không chịu học, chỉ thích lêu lổng[11]. Người ta đồn bà mẹ tư thông với kẻ ngoại nhân họ Dương rồi đẻ con, nên Vong Danh thường bị người tôn thất khinh rẻ. Kế vị rồi, lúc cư tang không tỏ vẻ đau buồn, cử chỉ phần nhiều thất lễ, cất nhắc bọn tiểu nhân thân cận, miệt thị tổ phụ, khanh sĩ bất mãn. Năm sau, những người tôn thất bướng bỉnh cùng nhau làm loạn, bị bắt đem chém phanh thây, người liên lụy bị giết oan rất đông. Lại ngầm mưu khử sạch người họ Trần có danh vọng, bèn giết Thái tể ngay tại nhà[12].
Thái sư đang đêm lẻn trốn, sáng sớm, tông tộc quan liêu mang gia quyến chạy hết, đô thành vì vậy vắng tanh. Thái sư đi đường tắt đến tận vùng Man động, ý muốn tự tận, tả hữu ngăn lại. Người động giữ ở lại hàng tháng, ai cũng biết tiếng. Tông tộc quan liêu nối nhau tìm đến. Con Cung Túc sai quân đi bắt cũng lại quay đầu theo về. Hữu tướng đốc thúc các quan khuyên mời về kinh để dẹp yên cung cấm. Thái sư sụt sùi từ tạ “Chư quân sớm về thành ấp, khéo giúp minh quân, chuyển loạn thành trị, tôn an xã tắc, mỗ chết vẫn chịu ơn. Mỗ có tội với Chúa thượng, thoát thân chạy trốn, chờ chết ở chốn núi rừng này đã là may, dám có lòng dạ khác. Chư quân chớ gò ép”. Mọi người xôn xao, ba lần khẩn thiết dâng thư thề chết không đổi, cố ép lên đường, dùng vai làm kiệu đưa xuống núi. Gần xa mây tụ, hò reo vang trời. Về cách đô thành ba trăm dặm, lão tướng Nguyễn Ngô Lang bảo con Cung Túc tự tay viết thư nhận tội thoái vị, mang ra nghênh tạ. Con Cung Túc phục xuống chịu tội. Thái sư cũng quì xuống đất, ôm lấy, khóc lóc ai oán, nói “Chúa thượng phải đến thế này sao ? Thần bất hạnh, không ngờ có ngày hôm nay”. Hữu tướng tuốt kiếm thét lớn, nói “Trời sai trị tội, tội nhân sao được lắm lời? Tướng vương[13] lẽ nào vì chút nhân cỏn con mà bỏ đại nghĩa ?”. Bèn quát quân tướng lôi con Cung Túc đi, giục Hữu tư chuẩn bị lễ rước Thái sư lên ngôi vua, phế con Cung Túc làm Hôn Đức Công. Vua vào thành yết miếu, khóc mà cáo rằng “Ngày này thật ngoài ý muốn của thần. Vì xã tắc bền vững, không thể nào từ chối. Lỗi đạo hiếu trung, thẹn sợ trong lòng. Nguyện tự bỏ tôn vinh để thỏa phần nào chí cũ”. Bèn hạ lệnh không dùng vương xa, quần áo đồ vật sơn đen, không dùng châu báu vàng son. Các thức ăn mặc tiêu dùng tiết kiệm như trước, suốt đời mang tang trở không thay đổi. Bèn dứt loạn chính, noi theo nếp cũ, thưởng phạt công minh, dùng kẻ hiền lương. Thấy con mình bất tài khó đương đại sự, được một năm cho em là Hữu tướng kế vị, cùng coi triều chính, đó là Duệ Vương.
Trước đó, Chiêm Thành thừa lúc trong nước có việc, đến cướp. Duệ Vương lên ngôi được ba năm, thân chinh phạt tội Chiêm Thành, thua to không về. Vương cho con Duệ Vương là Hiện kế vị. Ít lâu sau, nghe lời gian thần, làm việc vô đạo, Vương lo xã tắc nghiêng đổ, than khóc mà phế đi, gọi là Linh Đức Công[14]. Lấy con út là Ngung kế vị, đó là Thuận Vương. Được bảy năm, vua cha mất. Bấy giờ là năm Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Vũ thứ hai mươi bảy[15]. Táng ở núi Yên Sinh, thụy là Nghệ.
Xưa kia, Nghệ Vương còn nhỏ, tám chín tuổi theo hầu Minh Vương, trên giường có chiếc chiếu trúc, bảo vịnh thử, ứng khẩu đọc rằng
Có người quân tử cao lớn
Trong thì rỗng mà ngoài thì cứng
Bắt nó dùng làm đày tớ
Sợ gây tổn thương nhân tính[16]
Minh Vương ấy làm lạ, vờ mắng rằng “Chẳng ra lời lẽ, đừng ghi chép lại”[17]. Bèn dặn Sư phó không dạy làm thơ nữa. Người quân tử nói “Mệnh trời đã hiện, không ai cản nổi”, sau quả nhiên thế. Sau khi lên ngôi, [Nghệ Vương] nhặt hết con cái cháu chắt côi cút trong anh chị em đưa vào cung nuôi nấng, coi như con đẻ. Tông tộc xa gần đều yêu thương đùm bọc. Sau cơn loạn lạc, kẻ nào nghèo khổ không thể cưới xin được, thì lấy vợ gả chồng cho họ ; người nào chưa được chôn cất, thì chôn cất cho họ ; cả điều vặt vãnh chi tiết, không có gì là không thu nhặt chép lại. Xóm giềng hòa hợp, đầm ấm như tiết xuân. Người trong nước được cảm hóa, phong tục dần dần trở nên thuần hậu. Vua ở đất này cũng có người tốt đến thế ư ?
Chú thích
▲ Vì Hồ Nguyên Trừng trước tác tác phẩm này lúc làm quan ở Trung Quốc, nên chỉ gọi miếu hiệu các vua Việt Nam bằng vương tước, là tước của Trung Quốc phong cho.
▲ Sử sách Việt Nam ghi rằng ông húy là Phủ

▲ Thực ra xưng là Thái Thượng hoàng
▲ Đích tử là con của vợ đích (vợ cả, thường là Hoàng hậu), còn thứ trưởng tử là con vợ thứ (như các phi tần).
▲ Cung Túc Vương Trần Nguyên Dục (? – 1364), con trai của Trần Minh Tông và Hiển Từ Hoàng hậu
▲ Sử sách Việt Nam ghi rằng ông húy là Hạo

▲ Trần Nguyên Trác (1319 – 1370), con trai của Trần Minh Tông, làm Thái tể, sau bị Dương Nhật Lễ giết vì âm mưu đảo chính
▲ Nguyên văn :hải đồn ngư với chữ đồn là con heo (lợn), nên đây có thể dịch là cá heo. Không nên lầm sang hải điều ngư tức cá hồng
▲ Sử sách Việt Nam chép tên là Nhật Lễ
日禮
▲ Tức Trần Duệ Tông
▲ Dịch chữ du hiệp, chỉ những người hiệp khách đi lại đó đây thời xưa. Nhà nho thường bài bác họ
▲ Sự kiện xảy ra vào ngày 20 tháng 9 âm lịch năm 1370, Thái tể Nguyên Trác cùng con là Nguyên Tiết, hai người con của công chúa Thiên Ninh cùng người tôn thất, tất cả 18 người, ngầm mưu ám sát Nhật Lễ. Chuyện bị bại lộ, cả đám đều chết
▲ Chỉ Nghệ Tông
▲ Năm Xương Phù thứ mười hai đời Trần Phế Đế (1388), vua cùng Thái úy Trần Ngạc ngầm mưu giết Hồ Quý Ly và phe cánh, việc bại lộ, Quý Ly xui Nghệ Tông phế vua rồi giết đi, cùng giết phe cánh của vua.
▲ 1394
▲ Chiếu chúc trong Hán tự là trúc nô
竹奴. Ý nói trúc là giống cây quân tử, trong lòng rỗng mà ngoài thì cứng cáp, lấy nó làm chiếu trúc thì sợ rằng sẽ gây tổn thương tự trọng. Bài thơ khuyên vua phải biết dùng người, không nên làm nhục kẻ sĩ
▲ Theo phép chép sử ngày xưa, triều đình đặt sử quan, dùng để ghi lại việc làm và hành động của vua cũng như triều đình, quốc gia, biên chép thành thực lục để làm căn cứ soạn quốc sử. Ở đây Minh Tông ra lệnh cho sử quan đừng ghi lại bài thơ này vậy
Trúc Lâm thị tịch
竹林示寂
Trúc Lâm thị tịch
陳氏第三代王曰仁王,既傳位世子,乃出家脩行,刻苦精進,慧解超脫,為一方祖師。庵居安子山紫霄峰,自號竹林大士。其姊號曰天瑞,多失婦道,大士在紫霄聞姊病亟,乃下山往視,謂天瑞曰:姊若時至,自去見冥間,問事則應曰:願少待,我弟竹林大士且至。言訖,還山數日,至庵,分付弟子後事,奄然坐化。天瑞亦以是日卒。
Trần thị đệ tam đại viết Nhân Vương, ký truyền vị Thế tử, nãi xuất gia tu hành, khắc khổ tinh tiến, tuệ giải siêu thoát, vi nhất phương tổ sư. Am cư Yên Tử sơn Tử Tiêu phong, tự hiệu Trúc Lâm Đại sĩ. Kỳ tỉ hiệu viết Thiên Thụy đa thất phụ đạo. Đại sĩ tại Tử Tiêu, văn tỉ bệnh cức, nãi hạ sơn vãng thị, vị Thiên Thụy viết “Tỉ nhược thời chí, tự khứ, kiến Minh gian vấn sự tắc ứng viết : Nguyện thiếu đãi, ngã đệ Trúc Lâm Đại sĩ thả chí”. Ngôn bất hoàn sơn. Sổ nhật chí am, phân phó đệ tử hậu sự, yểm nhiên tọa hóa. Thiên Thụy diệc dĩ thị nhật tốt.
Dịch nghĩa
Chuyện Trúc Lâm Đại sĩ viên tịch
Vua thứ ba của họ Trần là Nhân Vương, sau khi truyền ngôi cho Thế tử, bèn xuất gia tu hành, khắc khổ tinh tiến, tuệ giải siêu thoát, là tổ sư một phương. Làm am sống ở ngọn Tử Tiêu núi Yên Tử, tự hiệu là Trúc Lâm Đại sĩ. Chị ngài hiệu là Thiên Thụy[1], nhiều điều trái đạo đàn bà. Đại sĩ ở Tử Tiêu, nghe tin chị hấp hối, bèn xuống núi lại thăm, nói với Thiên Thụy “Nếu chị đến lúc rồi thì cứ đi, thấy Minh gian[2] hỏi chuyện thì trả lời là : Xin đợi một chút, em ta là Trúc Lâm Đại sĩ sẽ đến sau”. Nói xong về núi. Đi mấy ngày đến am, dặn dò đồ đệ hậu sự, bỗng nhiên ngồi hóa. Thiên Thụy cũng ngày hôm đó chết.
Chú thích
▲ Công chúa Thiên Thụy (? – 1308), con gái của Trần Thánh Tông, lấy chồng là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo Đại Vương, nhưng lại thông dâm với Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Có lẽ vì vậy mà Hồ Nguyên Trừng chê bà là trái đạo đàn bà. Chết cùng ngày với Trần Nhân Tông
▲ Âm phủ còn được gọi là Minh ti, Minh gian
Tổ linh định mệnh
祖靈定命
Tổ linh định mệnh
仁王示寂時,其子英王未有嫡嗣,止有庶子意,且待嫡子而後定嗣位。至茶毘後,封骨時,子孫環拜,舍利飛入庶孫袖裏而放光,既收,又入。英王拜曰:敢不奉命?收之,乃定。尋以庶子為世子。既久,嫡母生男,不育,庶子終嗣王位,是為明王。
Nhân Vương thị tịch thời, kỳ tử Anh Vương vị hữu đích tự, chỉ hữu thứ tử, ý thả đãi đích tử nhi hậu định tự vị. Chí trà tỉ hậu phong cốt thời, tử tôn hoàn bái, xá lị phi nhập thứ tôn tụ lý, nhi phóng quang, ký thu hựu nhập. Anh Vương bái viết “Cảnh bất phụng mệnh”. Thu chi, nãi định. Tầm dĩ thứ tử vi Thế tử. Ký cửu, đích mẫu sinh nam, bất dục, thứ tử chung tự vương vị, thị vi Minh Vương.
Dịch nghĩa
Linh hồn người ông định ngôi vị cho cháu
Lúc Nhân Vương viên tịch, con là Anh Vương chưa có con đích kế tự, chỉ có con thứ, có ý chờ sau khi sinh con đích sẽ quyết định người nối ngôi. Đến sau khi hỏa táng, lúc bọc cốt, tử tôn chung quanh bái lạy, xá lị bay vào ống tay áo của người cháu thứ, phát ra hào quang, lấy ra lại bay vào. Anh Vương vái rằng “Đâu dám không phụng mệnh”. Lấy ra, bèn yên. Lấy con thứ làm Thế tử. Về sau, đích mẫu sinh con trai, không nuôi được, cuối cùng người con thứ nối ngôi vua, đó là Minh Vương.
德必有位
Đức tất hữu vị
明王既嗣王位,久之,嫡母生男。至週晬時,英王巡邊在外,家事先決於嗣王。有司以周晬禮請,乃命以世子例行之。有司以王故,難之。王曰:何疑乎?初以嫡嗣未生故,我權在此位。今既生矣,待長,復闢何難?曰:此事前古多危,請慎思之。王曰:順義行之,安危何足慮也!卒以世子例行之。朞年而嫡嗣歿,王甚哀之,君子謂:明王誠心不顧於安危,讓德克光於今古,傳曰有德者,必有其位,其斯之謂歟。
Minh Vương ký tự vương vị, cửu chi, đích mẫu sinh nam. Chí chu tối thời, Anh Vương tuần biên tại ngoại, gia sự tiên quyết vu tự vương. Hữu tư dĩ chu tối lễ thỉnh, nãi mệnh dĩ Thế tử lễ hành chi. Hữu tư dĩ vương cố nan chi, vương viết “Hà nghi hồ ? Sơ dĩ đích tự vị sinh, cố ngã quyền tại thử vị ; kim ký sinh hĩ, đãi trưởng phục tích, hà nan ?”. Viết “Thử sự, tiền cổ đa nguy, thỉnh thận tư chi” Vương viết “Thuận nghĩa hành chi, an nguy hà túc lự dã”. Tốt dĩ Thế tử lễ hành chi. Cơ niên nhi đích tự một, vương thậm ai chi. Quân tử vị Minh Vương thành tâm, bất cố ư an nguy, nhượng đức khắc quang vu kim cổ. Truyện viết “Hữu đức giả tất hữu kỳ vị”, kỳ tư chi vị dư?
Dịch nghĩa
Khi Minh Vương được lên làm vua, ít lâu sau, đích mẫu sinh con trai. Đến ngày đầy tuổi tôi, Anh Vương đi tuần ngoài biên, việc nhà đều do tự vương quyết định. Hữu tư đến thỉnh về lễ đầy tuổi tôi, mệnh rằng tiến hành theo lễ Thế tử[1]. Hữu tư thấy có vương rồi, khó xử. Vương bảo “Ngại cái gì ? Trước đây đích tử chưa sinh, nên ta tạm ở ngôi này ; nay đã sinh rồi, đến khi lớn lên thì trao lại ngôi vua, khó gì ?”. Người kia nói “Việc này, trước đây thường sinh nhiều chuyện nguy hiểm, xin nghĩ cho kỹ”. Vương nói “Cứ thuận nghĩa mà làm, hơi đâu lo an nguy”. Rốt cuộc, dùng lễ Thế tử mà cử hành. Được một năm đích tử mất, vương thương xót lắm. Quân tử cho rằng Minh Vương thành tâm, bất chấp an nguy, đức nhường nhịn sáng soi kim cổ. Truyện[2] nói “Có đức thì tất có địa vị”, để chỉ chuyện này chăng ?
Chú thích
▲ Tức làm lễ đầy tuổi tôi theo nghi thức cho Thế tử, người sẽ nối ngôi vua
▲ Tả truyện
婦德貞明
Phụ đức trinh minh
陳睿王正妃黎氏,靈德之母也。初,睿王出師,不返,妃乃披剃為尼。會藝王以靈德嗣位,妃為之辭讓,不得,乃涕泣,謂親人曰:吾兒薄福,難堪大位,足以取禍爾。故主棄世,未亡人惟欲速死,不欲見世事,況兒子之將危乎。乃精脩苦行,朝夕經懺,以報主恩。不五六年,燃臂煉頂,無不備至,遂以入定示寂。後至靈德見廢,人皆服其藻鑑先知,且感事君之誠,貞婦之節,一歸佛氏,便造門庭,如此之深也,誰不哀傷而嘉獎乎。雖陳家先世妃嬪多有賢者,而此妃出於其後,又欲過之,何其偉歟。
Trần Duệ Vương Chính phi Lê thị, Linh Đức chi mẫu dã. Sơ, Duệ Vương xuất sư bất phản, Phi nãi phi thế vi ni. Hội Nghệ Vương dĩ Linh Đức tự vị, Phi vị chi từ nhượng, bất đắc, nãi thế khấp vị thân nhân viết “Ngô nhi bạc phúc, nan kham đại vị, túc dĩ thủ họa nhĩ. Cố chủ khi thế, vị vong nhân duy dục tốc tử, bất dục kiến thế sự, huống nhi tử chi tương nguy hồ ?”. Nãi tinh tu khổ hạnh, triêu tịch kinh sám dĩ báo chúa ân, bất ngũ lục niên nhiên tí luyện đỉnh vô bất bị chí, toại dĩ nhập định thị tịch. Hậu chí Linh Đức kiến phế, nhân giai phục kỳ tảo giám tiên tri. Cụ cảm sự quân chi thành, trinh phụ chi tiết, nhất quy Phật thị tiện tháo môn đình như thử chi thâm dã, thùy bất ai thương nhi gia tưởng hồ? Tuy Trần gia tiên thế phi tấn đa hữu hiền giả, nhi thử phi xuất vu kỳ hậu hựu dục quá chi, hà kỳ vĩ dư ?
Dịch nghĩa
Đức kiên trinh và sáng suốt của người đàn bà
Chính phi của Trần Duệ Vương, họ Lê, là mẹ của Linh Đức Công. Trước kia, Duệ Vương xuất quân không về, Phi bèn gọt tóc làm ni. Gặp lúc Nghệ Vương lấy Linh Đức nối ngôi, Phi đã cố từ chối, không được, mới khóc lóc nói với người thân rằng “Con ta phúc bạc, khó đương ngôi to, chỉ mắc tai vạ thôi. Cố chúa lìa đời, kẻ vong nhân chỉ muốn chết cho chóng, không muốn thấy việc đời, huống gì là thấy con mình sắp nguy khốn ư ?”. Rồi dốc chí tu hành, sớm chiều tụng niệm để báo ơn chúa, chưa đầy năm sáu năm mà chân tay đốt trán làm đủ mọi phép, rồi viên tịch trong khi nhập định. Về sau Linh Đức bị phế, ai cũng phục là người sáng suốt thấy trước sự việc. Và lại, cảm sự chân thành thờ vua, cũng như tiết tháo kiên trinh, vừa nhập cửa Phật thì đi giác ngộ đến sâu thẳm, ai mà chẳng thương xót ngợi khen ? Tuy phi tần đời trước của nhà Trần cũng có lắm người hiền, nhưng người Phi này sinh sau lại gần hơn hẳn, sao mà vĩ đại thế ?
聞喪氣絕
Văn tang khí tuyệt
陳太王女,號曰韶陽。方坐蓐時,王巳旬月不豫,數遣人起居,左右紿曰:王巳平復無事。至棄世日,忽聞鍾聲連響,曰:得非不諱事耶 ?左右紿之,不聽,乃慟哭長號,氣絕瞑目而逝。
Trần Thái Vương nữ hiệu viết Thiều Dương. Phương tọa thục thời, Vương dĩ tuần nguyệt bất dự. Sác khiểu nhân khởi cư, tả hữu đãi viết “Vương dĩ binh phục vô sự”. Chí khí thế nhật, hốt văn chung thanh liên hưởng, viết “Đắc phi bất húy sự da ?” Tả hữu đãi chi, bất thính, nãi đỗng khốc trường hào, khí tuyệt, minh mục nhi thệ.
Dịch nghĩa
Nghe tang tắt thở
Con gái Trần Thái Vương hiệu là Thiều Dương[1]. Khi đang ở cữ, vương không khỏe đã một tháng. Nhiều lần sai người đến thăm hỏi nhưng tả hữu nói dối rằng “Vua đã bình phục vô sự”. Đến ngày lìa đời, bỗng nghe tiếng chuông đánh liên hồi, nói “Có phải việc chẳng lành chăng ?”. Tả hữu nói dối, không nghe, cứ khóc lóc kêu gào, tắt thở, mắt mờ đi mà mất.
文貞鯁直
Văn Trinh ngạnh trực
朱安,號樵隱,交趾上福人也。性廉直剛介,居家,篤好讀書,學業精醇,名聞遠近,弟子盈門,相繼躡青雲,登政府者往往有之。安恬澹寡欲,不赴應舉。至元 間,陳氏明王徵拜國子司業,授世子經,尋遷太學祭酒。明王歿,其子裕王逸豫,怠于聽政,權臣稍多不法。安數諫,不聽;又上疏乞斬姦臣七人,皆權幸者,時人 號為 七斬疏,既入,不報。安乃掛冠,歸田里。後裕王歿,國頗亂,羣臣迎立藝王。安聞之,大喜,杖策上謁,旋乞還鄉,以老病辭,不受封拜,乃賜號文貞先 生,厚禮送回。久之,壽終于家。都城人士景仰高風,莫不嗟悼。
Chu An hiệu Tiều Ẩn, Giao chỉ Thượng Phúc nhân dã. Tính liêm trực cương giới. Cư gia đốc hiếu độc thư, học nghiệp tinh thuần, danh văn viễn cận. Đệ tử doanh môn, tương kế nhiếp thanh vân, đăng chính phủ giả, vãng vãng hữu chi. An điềm đạm quả dục, bất phó ứng cử. Chí Nguyên gian, Trần Thị Minh Vương trưng bái Quốc tử Tư nghiệp, thụ Thế tử kinh, tầm thiên Thái học Tế tửu. Minh Vương một, kỳ tử Dụ Vương dật dự, đãi vu thính chính, quyền thần sảo đa bất pháp, An sác gián bất thính, hựu thướng sớ khất trảm gian thần thất nhân, giai quyền giả, thời nhân hiệu vi Thất trảm sớ. Ký nhập bất bao, An nãi quải quan quy điền lý. Hậu Dụ Vương một, quốc phả loạn. Quần thần nghênh lập Nghệ Vương, An văn chi đại hỉ, trượng sách thượng yết, toàn khất hoàn hương, dĩ lão bệnh từ, bất thụ phong bái. Nãi tứ hiệu Văn Trinh tiên sinh, hậu lễ tống hồi. Cửu chi, thọ chung vu gia. Đô thành nhân sĩ cảnh ngưỡng cao phong, mạc bất ta điệu.
昔安弟子為執政者,時來問候,拜床下,得與談話片言而去者,甚以為喜。有不善者,切責唾罵, 甚至呵叱不納。其清直嚴正,名聞一時,凜然可畏。吁。其善哉。
Tích An đệ tử vi chấp chính giả, thời lai vấn hậu,bái sàng hạ, đắc dữ đàm thoại phiến ngôn nhi khứ giả thậm dĩ vi hỉ, hữu bất thiện giả, thiết trách thóa mạ, thậm chí a sất bất nạp. Kỳ thanh nghi nghiêm chính danh văn nhất thời, lẫm nhiên khả úy. Hu kỳ thiện tai
.
Dịch nghĩa
Văn Trinh cứng cỏi, ngay thẳng
Chu An, hiệu Tiều Ẩn, người Thượng Phúc[1] đất Giao Chỉ. Tính ông liêm khiết cương trực. Ở nhà thường thích đọc sách, học vấn tinh thuần, tiếng vọng xa gần. Học trò đầy cửa, gặp được hội thanh vân[2], vào trong chính phủ, thường thường vẫn có. An điềm đạm, ít ham muốn, không đi thi. Khoảng năm Chí Nguyên, Trần Minh Vương bái mời làm Quốc tử Tư nghiệp, dạy Thế tử học, chuyển làm Tế tửu Thái học. Minh Vương mất, con là Dụ Vương chơi bời, bỏ nghe chính sự, quyền thần làm nhiều điều trái phép, An nhiều lần can ngăn không nghe, lại dâng sớ xin chém bảy tên gian thần đều hạng quyền thế, người đương thời gọi là Thất trảm sớ. Dâng lên không trả lời, An treo mũ từ quan, về với vườn ruộng. Sau Dụ Vương mất, nước có loạn. Quần thần đón lập Nghệ Vương. An nghe rất mừng, chống gậy yết kiến, rồi lại về làng, già ốm từ chối, không nhận chức tước. Ban cho hiệu Văn Trinh tiên sinh, hậu lễ tiễn đưa. Chẳng bao lâu, An mất ở nhà. Nhân sĩ đô thành cảnh ngưỡng cao phong[3], không ai là không thở than thương tiếc.
Trước, học trò An có người ra chấp chính, thường đến thăm viếng, lạy dưới giường, được trò chuyện đôi câu thì ra về lấy làm mừng lắm. Ai là người bất thiện, bị quở trách thóa mạ, thậm chí quát không cho vào. Thanh cao, nghiêm chính nổi tiếng một thời, lẫm liệt đến thế. Ôi ! Thiện làm sao !
Chú thích
▲ Châu Thượng Phúc đời Trần, đời Lê là huyện Thượng Phúc trấn Sơn Nam, nay bao gồm nhiều huyện thuộc phía Nam Hà Nội. Làng Thanh Liệt quê Chu Văn An cũng nằm trong đất châu này
▲ Chỉ sự đỗ đạt, có công danh
▲ Ngưỡng mộ phong thái
醫善用心
Y thiện dụng tâm
澄先人之外祖曰范公,諱彬家,世業醫,事陳英王,為判太醫令。常竭家資,以蓄良藥,積米穀,人有孤苦疾病者,寓之于家,以給饘粥救療,雖膿血淋漓,不少嫌 避如此。來者待徤而去,床不絕人。忽連年饑饉,疫癘大作,乃築房屋,宿困竆、饑者、病者,活千餘人,名重當世。
Trừng tiên nhân chi ngoại tổ viết Phạm công, húy Bân, gia thế nghiệp y, sự Trần Anh Vương, vi phán Thái y lệnh, thường kiệt gia tư dĩ súc lương dược, tích mễ cốc. Nhân hữu cô khổ tật bệnh giả, ngụ chi ư gia dĩ cấp chiên chúc cứu liệu, tuy nùng huyết lâm ly, bất thiếu hiềm tị. Như thử, lai giả đãi kiện nhi khứ, sàng bất tuyệt nhân. Hốt liên niên cơ cận, dịch lệ đại tác, nãi trúc phòng ốc, túc khốn cùng, cơ giả bệnh giả hoạt thiên dư nhân, danh trọng đương thế.
後嘗有人扣門,急請曰:家有婦人,卒暴血 崩如注,面色稍青。公聞之,遽往,出門,而王使人至,曰:宮中貴人有發寒熱者,召公看之。曰:此病不急,今人家命在頃刻,我且救彼,不久便來。 中使怒曰:人臣之禮,安得如此!君欲救他命,不救爾命耶?公曰:我固有罪,亦無奈何。人若不救,死在頃刻,無所望也。小臣之命,望在主上,幸得免 死,餘罪甘當。遂去,救治其人,果活。少頃,來見,王責之,免冠謝罪,敷析真心。王喜曰:汝真良醫,既有善藝,又有仁心,以卹我赤子誠,副予望也。
Hậu, thường hữu nhân khấu môn cấp thỉnh viết “Gia hữu phụ nhân thốt bạo, huyết băng như chú, diện sắc sảo thanh”. Công văn chi, cử vãng. Xuất môn nhi vương sử nhân chí viết “Cung trung quí nhân hữu phát hàn nhiệt giả, triệu công khán chi”. Viết “Thử bệnh bất cấp. Kim nhân gia mệnh tại khoảnh khắc, ngã thả cứu bỉ, bất cửu tiện lai”. Trung sứ nộ viết “Nhân thần chi lễ,an đắc như thử ? Quân dục cứu tha mệnh, bất cứu nhĩ mệnh da?” Công viết “Ngã cố hữu tội, diệc vô nại hà, nhân nhược bất cứu, tử tại khoảnh khắc, vô sở vọng dã. Tiểu thần chi mệnh, vọng tại chúa thượng, hạnh đắc miễn tử, dư tội cam đương”. Toại khứ cứu trị, kỳ nhân quả hoạt. Thiếu khoảnh, lai kiến. Vương trách chi. Miễn quan tạ tội, phu tích chân tâm. Vương hỉ viết “Nhữ chân lương y, ký hữu thiện nghệ hựu hữu nhân tâm, dĩ tuất ngã xích tử, thành phó dư vọng dã”.
後之子孫,為良醫官四五品者二三人,世皆稱譽其不墜家業也。
Hậu chi tử tôn vi lương y quan tứ ngũ phẩm giả nhị tam nhân, thế giai xưng dự kỳ bất trụy gia nghiệp dã.
Dịch nghĩa
Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng
Ông tổ bên ngoại của Trừng[1] là Phạm công, húy Bân, gia nghiệp nghề y, thờ Trần Anh Vương, chức Thái y lệnh, thường hết tiền của để tích thuốc tốt, trữ lúa gạo. Người nào bị cô khổ bệnh tật, cụ cho ở nhà mình, cấp cơm cháo cứu chữa, tuy máu mũ dầm dề, không chút ghê tởm. Cứ thế, kẻ đến chờ khỏe mạnh rồi đi, trên giường không lúc nào vắng người. Bỗng mấy năm liền đói kém, bệnh dịch lan tràn, bèn dựng nhà cửa, cho kẻ khốn cùng ở, cứu kẻ đói người bệnh hơn nghìn người, đương thời trọng vọng.
Sau, có người gõ của mời gấp nói “Nhà có người vợ bỗngbị máu ra như xối, mặt mày nhợt nhạt”. Cụ nghe xong, đi ngay. Ra cửa, gặp người do vua sai tới nói “Trong cung, quí nhân lên cơn sốt rét, triệu ông vào xem”. Đáp “Bệnh ấy không vội. Nay có người tính mệnh chỉ còn chốc lát, tôi đi cứu đã, chốc nữa vào ngay”. Trung sứ giận nói “Lễ kẻ bề tôi, sao được như vậy ? Ông muốn cứu tính mệnh người, không cứu tính mệnh mình ư ?” Đáp “Tôi thật có tội, chẳng biết làm thế nào, nhưng không cứu người ta, chết trong chốc lát, trông mong vào đâu. Tính mệnh tiểu thần trông vào Chúa thượng, may ra khỏi chết, còn xin chịu tội”. Rồi đi cứu chữa, quả nhiên khỏe lại. Liền đó, vào cung. Vương quở trách. Cụ bỏ mũ tạ tội, giãi bày thực tâm. Vương mừng nói “Người thật là lương y, đã giỏi tay nghề lại có nhân tâm, để cứu con đỏ của ta, xứng đáng lòng ta mong mỏi”
Sau con cháu cụ là lương y, làm quan tứ ngũ phẩm có đến hai ba người, người đời ai cũng khen là không để mất nghiệp nhà.
Chú thích
▲ Mẹ của Hồ Nguyên Trừng họ Phạm. Đây là truyện nói về tổ tiên của bà
勇力神異
Dũng lực thần dị
安南李氏時,淸化人黎奉曉生而魁偉異常,飲食視人十倍,年十二三,身長七尺。適有外寇侵境,虜掠甚衆,隣里倉皇罔措。奉曉語其父母:不可隨人奔忙,但多 作飯,與兒子飽吃一頓,今日殺賊救民,易如反掌。
An Nam Lý thị thời, Thanh Hóa nhân Lê Phụng Hiểu sinh nhi khôi vĩ dị thường, ẩm thực thị nhân thập bội. Niên thập nhị tam, thân trường thất xích. Thích hữu ngoại khấu xâm cảnh, lỗ lược thậm chúng, lân lý thương hoàng võng thố. Phụng Hiểu ngữ kỳ phụ mẫu bất khả tùy nhân bôn mang, đãn đa tác phạn dữ nhi tử bão khiết nhất đốn, kim nhật sát tặc cứu dân dị như phản chưởng.
飯畢,持一短刀,俗呼為斫刀者,伐木為兵,直衝賊陣,縱擊潰走,盡獲隣邑被虜者千餘人而還。李氏賞賜除 授,固辭不受,乞賜田地以自耕食耳。有司議定頃畝,奉曉曰:臣以斫刀破賊,願擲斫刀,所至為界。許之,擲至十餘里,悉以與之。後人因此凡賞功田,名之 斫刀田。
Phạn tất, trì nhất đoản đao tục hô vi chước đao giả, phạt mộc vi bình, trực xung tặc trận, tung kích hội tẩu, tận hoạch lân ấp bị lỗ giả thiên dư nhân nhi hoàn. Lý thị thưởng tứ trừ thụ, cố từ bất thụ, khất tứ điền địa dĩ tự canh thực nhĩ. Hữu tư nghị định khoảnh mẫu, Phụng Hiểu viết “Thần dĩ chước đao phá tặc, nguyện trịnh chước đao, sở chí vi giới”. Hứa chi. Trịnh chí thập dư lý, tất dĩ thưởng chi. Hậu nhân nhân thử, phàm thưởng công điền, danh chi viết chước đao điền.
使領軍,辭以不能,願居田里,待用兵時,請為先鋒,破陣報國而巳。後十餘年,召為先鋒,以十餘人擊數萬餘賊衆,封威遠將軍,仍在田里,壽終 于家。
Sử lĩnh quân, từ dĩ bất năng, nguyện cư điền lý, đãi dụng binh thời, thỉnh vi tiên phong, phá trận báo quốc nhi dĩ. Hậu thập dư niên triệu vi tiên phong, dĩ thập dư nhân kích tán vạn dư tặc chúng, phong Uy Viễn Tướng quân, nhưng tại điền lý, thọ chung vu gia.
Dịch nghĩa
Sức khỏe dũng mãnh thần dị
Nước An Nam thời họ Lý, có người Thanh Hóa là Lê Phụng Hiểu, sinh ra khôi ngô kì vĩ lạ thường, ăn uống thì gấp mười lần kẻ khác. Mười hai mười ba tuổi, thân hình cao bảy xích. Chợt có giặc ngoài đến, cướp bóc rất nhiều, xóm làng hoảng hốt không biết làm sao. Phụng Hiểu nói với cha mẹ không theo người trốn chạy, chỉ nấu thật nhiều cơm cho con ăn một bữa no nê, việc giết giặc cứu dân hôm nay dễ như trở bàn tay. Ăn cơm xong, cầm một con dao ngắn tục gọi là dao rựa, chặt cây làm khí giới, xông thẳng vào trận giặc, đánh dọc khiến giặc vỡ chạy, hơn nghìn người trong ấp bị giặc bắt đều được về. Nhà Lý ban thưởng phong tước, đều cố từ không nhận, chỉ xin cấp ruộng đất để tự cày làm ăn thôi. Khi bàn định số khoảnh mẫu, Phụng Hiểu nói “Thần dùng dao rựa phá giặc, xin ném dao rựa, xa tới đâu lấy tới đó”. Thuận cho. Ném xa hơn mười dặm, lấy đó thưởng cho. Người sau nhân đấy, phàm thưởng ruộng công, đều gọilà “chước đao điền”. Sai cầm quân, lấy cớ bất tài từ chối, nguyện sống ở nơi ruộng vườn, có lúc dụng binh, xin làm tiên phong, phá trận đền ơn nước mà thôi. Hơn mười năm sau được triệu làm tiên phong, đem theo hơn mười người đánh tan hơn vạn quân giặc, phong Uy Viễn Tướng quân, vẫn sống ở thôn quê, thọ chết tại nhà.
夫妻死節 Phu thê tử tiết
永樂丁亥,大軍平交趾日,頭目吳勉赴水死,其妻阮氏仰天嘆曰:吾夫事主,一生受祿,由中官至登政府。今而死節,是得所也,又何怨乎!妾若苟活,豈無所 之?但夫道君恩,一時辜負,吾不忍也,寧相隨爾。言訖,亦赴水死。
Vĩnh Lạc Đinh Hợi, đại quân bình Giao Chỉ nhật, đầu mục Ngô Miễn phó thủy tử ; kỳ thê Nguyễn Thị ngưỡng thiên thán viết “Ngô phu sự chúa, nhất sinh thụ lộc, do Trung quan chí đăng chính phủ, kim nhi tử tiết, thị đắc sở dã, hựu hà oán hồ ! Thiếp nhược cẩu hoạt, khởi vô sở chi? Đãn phu đạo quân ân nhất thời cô phụ, ngô bất nhẫn dã. Ninh tương tùy nhĩ”. Ngôn hất, diệc phó thủy tử.
嗟夫!死節者,士大夫之所當然,猶或難之,宦官如此,古所罕聞。吳勉其丈夫乎!至于阮 氏,以婦人臨危,能識大節,知夫得所而無憾,又能重義輕生,視死如歸,可謂賢婦也歟!世之愚婦,以忿投水者多矣。至于以義亡身,甚不易得也。如阮氏者,誠 可嘉哉!
Ta phù ! Tử tiết giả, sĩ đại phu chi sở đương nhiên, do hoặc nan chi. Quan quan như thử, cổ sở hãn văn. Ngô Miễn kỳ trượng phu hồ? Chí ư Nguyễn Thị dĩ phụ nhân lâm nguy năng thức đại tiết, tri phu đắc sở nhi vô hám, hựu năng trọng nghĩa khinh sinh, thị tử như quy, khả vị hiền phụ dã dư ! Thế chi ngu phụ dĩ phẫn đầu thủy giả đa hĩ. Chí ư dĩ nghĩa vong thân thậm bất dị đắc dã ! Như Nguyễn Thị giả, thành giả gia tai !
Dịch nghĩa[sửa]
Vợ chồng tử tiết
Năm Đinh Hợi niên hiệu Vĩnh Lạc[1], ngày đại quân bình định đất Giao Chỉ, đầu mục Ngô Miễn nhảy xuống nước chết, vợ là Nguyễn Thị ngửa mặt lên trời than “Chồng ta thờ chúa, một đời ăn lộc, từ Trung quan được lên Chính phủ, nay đã tử tiết, là chết đáng chỗ, còn oán hận gì ? Nếu thiếp muốn sống, há hết chốn sao? Nhưng đạo chồng ơn vua nhất thời phụ bạc, ta nỡ lòng nào. Thà chết theo vậy”. Nói đoạn, cũng nhảy xuống nước chết.
Than ôi ! Tử tiết là lẽ đương nhiên của sĩ đại phu, thế mà còn lấy làm khó. Người nào như vậy, thì cũng ít nghe. Ngô Miễn là trượng phu chăng ? Đến như Nguyễn Thị là đàn bà mà lâm nguy vẫn thấy tiết lớn, biết chồng chết đáng chỗ không ân hận, lại còn trọng nghĩa khinh sống, coi chết như về, có thể gọi là bậc hiền phụ vậy. Ở đời loại đàn bà ngu dại, bực tức mà nhảy xuống nước nhiều lắm. Đến như vì nghĩa bỏ mình, thì không mấy có ! Người như Nguyễn Thị thật đáng ca ngợi thay !
Chú thích
▲ 1407
僧道神通 Tăng đạo thần thông
李氏時,嘗有妖物,晝夜隱形,啼呌于殿梁上,連日不止。時第二代王,召僧覺海、道士通玄同來厭勝。覺海以數珠擊柱,其聲應手而止。通玄以令牌擊柱,忽見大手出梁上,將一蛤蚧擲地,其妖乃止。王占口曰
Lý Thị thời, thường hữu yêu vật trú dạ ẩn hình để khiếu ư điện lương thượng, liên nhật bất chỉ. Thời đệ nhị đại vương, danh tăng Giác Hải, đạo sĩ Thông Huyền, đồng lai yếm thắng. Giác Hải dĩ sổ châu kích cực, kỳ thanh ứng thủ nhi chỉ. Thông Huyền dĩ lệnh bài kích trụ, hốt kiến đại thủ xuất lương thượng, tương nhất cáp giới trịnh địa, kỳ yêu nãi chỉ. Vương chiếm khẩu viết
覺海心如海
通玄道更玄
神通能變化
一佛一神仙。
Giác Hải tâm như hải
Thông Huyền đạo cánh huyền
Thần thông năng biến hóa
Nhất Phật, nhất Thần tiên
Dịch nghĩa
Tăng đạo thần thông
Thời họ Lý, từng có yêu quái ngày đêm ẩn hình kêu khóc trên rường cung điện, ngày ngày không dứt. Đời đại vương thứ hai, danh tăng Giác Hải, đạo sĩ Thông Huyền cùng đến yểm trừ. Giác Hải lấy tràng hạt gõ vào nóc, tiếng kêu khóc liền tay im bặt. Thông Huyền dùng lệnh bài đập vào cột, bỗng thấy một bàn tay to tướng ló ra khỏi rường, cầm con rắn mối vứt xuống đất, yêu quái bèn hết. Vương ứng khẩu nói
Giác Hải tâm như biển.
Thông Huyền đạo càng huyền
Thần thông tài biến hóa
Một Phật, một Thần tiên.
奏章明驗
Tấu chương minh nghiệm
交趾太清宮道士,名道甚。元世祖至元間,為陳太王祈嗣,拜章畢,乃白王曰:上帝既允奏章,即命昭文童子,降生王宮,住四紀。巳而後宮有孕,果生男,兩 膞上有文曰昭文童子,字頗明顯,因以昭文為號。年長,其文始消。
Giao Chỉ Thái Thanh cung đạo sĩ danh Đạo Thậm, Nguyên Thế Tổ Chí Nguyên gian vị Trần Thái Vương kỳ tự. Bái chương tất, nãi bạch vương viết “Thượng đế ký doãn tấu chương, tức mệnh Chiêu Văn đồng tử giáng sinh vương cung, trú tứ kỷ”. Dĩ nhi hậu cung hữu dâng, quả sinh nam, lưỡng bác thượng hữu văn viết “Chiêu Văn đồng tử”, tự phả minh hiển, nhân dĩ Chiêu Văn vi hiệu. Niên trưởng, kỳ văn thủy tiêu.
至四十八歲,臥病月餘,諸子為之建醮,請减巳壽以延父齡。道士拜章起曰:上帝覽章, 笑曰:何乃戀俗,欲久留乎?然其子孝誠,可允再留一紀。病乃瘳,後果有十二年壽。
Chí tứ thập bát tuế, ngọa bệnh nguyệt dư. Chư tử vị chi kiến tiếu, thỉnh giảm kỷ thọ dĩ diên phụ linh. Đạo sĩ bái chương, khởi viết “Thượng đế lãm chương, tiếu viết : hà nãi luyến tục, dục cửu lưu hồ? Nhiên kỳ tử hiếu thành, khả doãn tái lưu nhất kỷ”. Bệnh nãi liệu. Hậu quả hữu thập nhị niên thọ.
Dịch nghĩa
Tấu chương ứng nghiệm
Cung Thái Thanh xứ Giao Chỉ có người đạo sĩ gọi là Đạo Thậm, vào khoảng năm Chí Nguyên đời Nguyên Thế Tổ làm lễ cầu tự cho Trần Thái Vương. Đọc sớ xong, Đạo Thậm bạch với vương rằng “Thượng đế đã nhận sớ tâu, sẽ sai Chiêu Văn đồng tử giáng sinh nơi vương cung, ở lại bốn kỷ[1]”. Rồi hậu cung có mang, quả nhiên sinh con trai, trên hai cánh tay có chữ Chiêu Văn đồng tử, nét khá rõ ràng, nhân lấy hiệu là Chiêu Văn. Lớn lên, nét chữ mới mất đi.
Đến năm bốn mươi tám tuổi, bị ốm hơn tháng. Các con làm chay xin bớt tuổi thọ mình để kéo thêm tuổi cha. Đạo sĩ đọc sớ xong, đứng dậy nói “Thượng đế xem sớ, cười bảo : Sao còn quyến luyến cõi tục, muốn ở lại lâu thế ? Song các con thật hiếu thảo, có thể cho ở thêm một kỷ”. Bệnh liền khỏi. Sau quả nhiên thọ thêm mười hai năm nữa[2]
Chú thích
▲ Mỗi kỷ là 12 năm
▲ Trần Nhật Duật (1255 – 1330), con trai thứ sáu của Trần Thái Tông, có công trong kháng chiến chống Nguyên. Đại Việt sử kí toàn thư chép rằng Thượng đế cho ở lại 2 kỉ chứ không phải 1 kỉ, cộng tuổi Nhật Duật là 6 kỉ lẻ 5 năm.
壓浪真人
Áp lãng chân nhân
宋仁宗時,安南李王親率舟師伐占城,至神投海口,風浪連日,不得航海。聞近山有道士獨居庵中,乃召請祈禱。道士曰:王自有福力,臣保萬一無憂。明日發 行,勿生疑慮。夜半風止,詰旦,行至海外,遠望風浪如山,舟師所向寧靜,時復見此道士水上步行,或前或後,宛然明白,但人不可近爾。
Tống Nhân Tông thời, An Nam Lý cương thân suất chu sư phạt Chiêm Thành. Chí Thần Đầu hải khẩu phong lãng liên nhật bất đắc hàng hải. Văn cận sơn hữu đạo sĩ độc sĩ cư am trung, nãi triệu thỉnh kỳ đảo. Đạo sĩ viết “Vương tự hữu phúc lực, thần bảo vạn nhất vô ưu. Minh nhật phát hành vật sinh nghi lự !”Dạ bán phong chỉ. Cật đán hành chí hải ngoại, viễn vọng phong lãng như sơn, chu sư sở hướng ninh tĩnh. Thời phục kiến thử đạo sĩ thủy thượng bộ hành, hoặc tiền hoặc hậu, uyển nhiên minh bạch, đãn nhân bất khả cận nhĩ.
師還,至神投山,道 士迎見,王喜謝,慰勞道士曰:臣知王福重,故無憂,此神祐王爾,非臣也。問之鄉人,曰:道士自此採藥,久不在庵。王大異之,封為壓浪真人,賞賜金 帛,皆不受。後入山去,不知所之。
Sư hoàn chí Thần Đầu sơn, đạo sĩ nghênh kiến. Vương hỉ tạ úy lạo. Đạo sĩ viết “Thần tri vương phúc trọng, cố vô ưu, thử thần hựu vương nhĩ, phi thần dã”. Vấn chi hương nhân, viết “Đạo sĩ tự thử thái dược cửu bất tại am”. Vương đại dị chi, phong vi “Áp lãng chân nhân”. Thưởng tứ kim bạch giai bất thụ. Hậu nhập sơn khứ, bất tri sở chi.
真人姓羅,亾名,人皆以壓浪呼之。弱冠,棄妻子入道,其後裔有羅脩者,舉進士,仕陳藝王,官至審刑院司而卒。余所親識也。
Chân nhân tính La, vong danh, nhân giai dĩ “Áp lãng” hô chi. Nhược quan khí thê tử nhập đạo. Kỳ hậu duệ hữu La Tu giả, cử Tiến sĩ, sĩ Trần Nghệ Vương, quan chí thẩm hình viện sứ nhi tốt. Dư sở thân thức dã.
Dịch nghĩa
Chân nhân đè sóng
Đời Tống Nhân Tông[1], vua Lý nước An Nam tự mang binh thuyền thảo phạt Chiêm Thành. Tới cửa biển Thần Đầu[2], sóng gió ngày này sang ngày khác, không vượt biển được. Nghe núi gần đấy có đạo sĩ, một mình sống trong am, bèn triệu mời cầu đảo. Đạo sĩ nói “Vua tự có phúc lực, thần cam đoan muôn một không có gì đáng lo. Ngày mai lên đường chớ sinh nghi hoặc !”. Nửa đêm dừng gió. Sáng sớm ra tới ngoài biển, xa trông sóng gió cao như núi, nhưng chu sư đến đâu yên tĩnh đến đó. Bấy giờ lại thấy đạo sĩ ấy bước đi trên nước, lúc ở trước lúc ở sau, trông rất rõ ràng, duy người không đến gần được.
Ngày khải hoàn về núi Thần Đầu, đạo sĩ ra đón. Vương mừng, úy lạo tạ ơn. Đạo sĩ nói “Thần biết vương phúc trọng, không đáng lo, ấy là thần linh giúp, không phải hạ thần”. Hỏi người trong hương, nói “Đạo sĩ từ ấy đi hái thuốc không ở am”. Vương lạ lắm, phong làm “Chân nhân đè sóng”. Ban thưởng vàng lụa, đều không nhận. Sau vào núi rồi đi, không biết đi đâu.
Chân nhân họ La, sót tên, người ta dùng hiệu “Áp Lãng chân nhân” để gọi. Từ thuở tuổi xanh bỏ vợ con nhập đạo. Hậu duệ có La Tu thi đỗ Tiến sĩ[3], làm quan thời Trần Nghệ Vương, đến chức Thẩm hình viện sứ, rồi mất. Người này chính tôi quen biết.
Chú thích
▲ 1022 – 1063
▲ Sau đổi là Thần Phù, là cửa biển quan trọng trên con đường lưu thông Bắc Nam của Việt Nam. Hầu như các cuộc hành quân Nam tiến của Việt Nam đều đi qua cửa biển này. Về sau, cửa biển dần dần bị bồi lấp, nay nằm sâu trong đất liền hơn 30km, thuộc địa phận giáp ranh giữ huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình và huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa. Ở đây vẫn còn đền Áp lãng, thờ vị chân nhân trong truyện này
▲ La Tu đỗ khoa Tiến sĩ năm 1374, làm Tri phủ Thanh Hóa, sau thăng Thẩm hình viện sứ
明空神異
Minh Không thần dị
交趾膠水鄉,有空路寺,昔有僧,俗姓阮,名明空,宋治平間,出家,住此寺,有德行,頗知名。一日,明空從外來,其同房僧戲隱門內,躍出,作虎聲以怖明空。 明空笑曰汝脩行,反作虎耶?我當救汝。後年,僧沒。
Giao Chỉ Giao Thủy hương hữu Không Lộ tự. Tích hữu tăng tục tính Nguyễn, danh Minh Không, Tống Trị Bình gian xuất gia trú thử tự, hữu đức hạnh, phả tri danh. Nhất nhật Minh Không tòng ngoại lai, kỳ đồng phòng tăng hí ẩn môn nội, dược xuất tác hổ thanh dĩ bố Minh Không. Minh Không tiếu viết ” Nhữ tu hành phản tác hổ da? Ngã đương cứu nhữ !”. Hậu niên tăng một.
尋國王李氏生世子,年幾弱冠,忽徧身生毛,踴躍咆哮,頭面漸變虎形。王廣求醫巫僧道,皆無措手。聞 明空有法術,遣人乘船請來。明空以小鍋炊飯,欲食水手,使者笑曰:水手人多,自有食,莫煩常住。明空曰:不然。衆皆少喫,見我厚意。四五十人各盛 滿碗,飯亦不盡,人皆奇之。臨晚,上船,戒使者與水手:皆熟睡一覺,待月出,貧僧喚起,乃開船。不然,我且不去。使者懇請,不得,皆偃臥假寢,惟覺船 下風聲冷然,移時月出,呼起其船,巳在都下灣泊矣,經行三百餘里也,乃騰空入宮中。煑水以洗世子,應手毛退,體遂平復。王問故,對曰:脩行人一念迷著, 懺洗而巳,無難也。曰:師得何神通而能空行?曰:非也,臣宿有風疾,比發時,不見萬象,不知何者為空。乃信步耳,非神通也。乃空行回去,賜賚不 受,王遂鍚以神僧封號,因以空路名其寺云。世子後為王,謚曰神王。
Tầm Quốc vương Lý Thị sinh Thế tử, niên cơ nhược quan, hốt biến thân sinh mao, dũng dược bào hao, đầu diện tiệm biến hổ hình. Vương quảng cầu y vu tăng đạo giai vô thố thủ. Văn Minh Không hữu pháp thuật, khiển nhân thừa thuyền thỉnh lai. Minh Không dĩ tiểu oa xuy phạn, dục tự thủy thủ. Sứ giả tiếu viết “Thủy thủ nhân đa tự hữu thực, mạc phiền thường trú”. Minh Không viết “Bất nhiên. Chúng giai thiểu ngật, kiến ngã hậu ý”. Tứ ngũ thập nhân các thịnh mãn uyển, phạn diệc bất tận, nhân giai kỳ chi. Lâm vãn thượng thuyền, giới sứ giả dữ thủy thủ giai thục thụy nhất giác “Đãi nguyệt xuất, bần tăng hoán khởi, nãi khai thuyền, bất nhiên ngã thả bất khứ”. Sứ giả khẩn thỉnh bất đắc, giai yển ngọa giả mỵ, duy giác thuyền hạ phong thanh lãnh nhiên. Di thời nguyệt xuất, hô khởi, kỳ thuyền dĩ tại đô hạ loan bạc hĩ, kinh hành tam bách dư lý dã. Nãi đẳng không nhập cung trung, chử thủy dĩ tẩy Thế tử, ứng thủ mao thoái, thể toại bình phục. Vương vấn cố, đối viết “Tu hành nhân nhất niệm mê trước sám tẩy nhi dĩ, vô nan dã”. Viết “sư đắc hà thần thông nhi năng không hành?” Viết “Phi dã. Thần túc hữu phong tật, thử tật phất thời, bất kiến vạn tượng, bất tri hà giả vi không, nãi tín bộ nhĩ; phi thần thông dã”. Nãi không hành hồi khứ. Tứ lại bất thụ. Vương toại tích dĩ Thần tăng phong hiệu, nhân dĩ Không Lộ danh kỳ tự vân. Thế tử hậu vi vương, thụy viết Thần Vương.
Dịch nghĩa
Minh Không thần dị
Hương Giao Thủy ở Giao Chỉ có chùa Không Lộ. Ngày xưa có một vị sư họ tục là Nguyễn, tên là Minh Không, khoảng năm Trị Bình đời Tống xuất gia đến ở chùa này, có đức hạnh, ai cũng biết. Một hôm Minh Không từ ngoài về, có nhà sư cùng phòng đùa núp trong cửa, nhảy ra làm tiếng hổ kêu để dọa Minh Không. Minh Không cười nói “Đã đi tu, lại còn muốn làm hổ ư ? Ta phải cứu anh mới được !”. Năm sau, nhà sư kia chết.
Tiếp đó, Quốc vương họ Lý sinh Thế tử, tuổi chừng hai mươi thì bỗng nhiên khắp mình mọc lông, nhảy nhót gầm thét, đầu và mặt dần dần biến thành hình hổ. Nhà vua cầu y, vu, tăng, đạo khắp nơi, nhưng đều chịu bó tay. Nghe Minh Không có phép thuật, sai người đi thuyền đến mời về. Minh Không lấy một chiếc niêu nhỏ nấu cơm, định cho thủy thủ ăn. Sứ giả cười nói “Thủy thủ người đông, tự họ đã có cái ăn, không phiền tới thường trú”. Minh Không nói “Không phải như vậy đâu. Mọi người cứ ăn một ít đi rồi sẽ thấy hậu ý của ta”. Bốn năm mươi người mỗi người xới một bát đầy, cơm vẫn không hết, ai cũng lấy làm lạ. Đến tối, khi lên thuyền, nhà sư dặn sứ giả và các thủy thủ đều nên ngủ kỹ một giấc “Đợi lúc trăng mọc, bần tăng gọi dậy hãy mở thuyền, nếu không, ta chẳng đi nữa đâu”. Sứ giả nài xin không được, mọi người đành nằm sấp giả cách ngủ, duy cảm thấy bên dưới thuyền có tiếng gió lạnh. Phút chốc trăng lên, gọi dậy, thì thuyền đã cập bến ở đô thành, vượt hơn ba trăm dặm. Nhà sư bèn nhảy lên khoảng không mà vào trong cung, nấu nước để rửa cho Thế tử, tay cọ đến đâu lông hết đến đấy, thân thể liền bình phục. Vua hỏi nguyên do, đáp rằng “Kẻ tu hành hễ mắc niềm mê thì sám hối mà rửa đi thôi, không khó khăn gì cả”. Hỏi “Sư biết phép thần thông gì mà có thể đi trên không được?” Đáp “Không phải vậy. Thần vốn có phong tật, bệnh này khi phát thì chẳng thấy muôn cảnh tượng, chẳng biết đâu là không, bèn cứ thế mà bước thôi ; không phải thần thông gì hết”. Rồi đi trên không mà về. Ban thưởng các thứ đều không nhận. Vua phong cho hiệu Thần tăng, và nhân đó, lấy hai chữ Không Lộ để đặt tên chùa của sư. Thế tử về sau lên làm vua, thụy là Thần Vương.
入夢療病
Nhập mộng liệu bệnh
東山寺僧名灌園,戒行淸白,慧解圓融,數十餘年,不下山。適陳英王患眼,月餘,醫藥不効,日夜疼痛,夢見一僧,以手摩眼,王問:僧自何來?其名為誰? 曰:我灌園也,來救王眼。夢覺,眼痛便止,數日平復。
Đông Sơn tự tăng danh Quán Viên, giới hạnh thanh bạch, tuệ giải viên dung, sổ thập dư niên bất hạ sơn. Thích Trần Anh Vương hoạn nhãn nguyệt dư, y dược bất hiệu, nhật dạ đông thống. Mộng kiến nhất tăng dĩ thủ ma nhãn. Vương vấn tăng tự hà lai, kỳ danh vi thùy. Viết “Ngã Quán Viên dã, lai cứu vương nhãn”. Mộng giác, nhãn thống tiện chỉ, sổ nhật bình phục.
訪于僧徒,果有灌園在東山者,命人請來,宛然夢中所見僧也。王大異之,封為國師,賞賜甚厚,盡將 散施,不留一錢,破衲還山,若不經意。自後行脚,徧歷山川州縣聚落,凡有淫祀邪神為民害者,盡將訶斥,伐其廟壇,至于猛烈。大神多有見形見夢,郊迎請命 者,則為之授戒,减損血食,使保護生民,無敢犯者。後世人猶德之。
Phỏng vu tăng đồ, quả hữu Quán Viên tại Đông Sơn giả. Mệnh nhân thỉnh lai, uyển nhiên mộng trung sở kiến tăng dã. Vương đại dị chi, phong vi Quốc sư, thưởng tứ thậm hậu, tận tương tán thi bất lưu nhất tiền, phá nạp hoàn sơn, nhược bất kinh ý. Tự hậu hành cước biến lịch sơn xuyên châu huyện tụ lạc, phàm hữu dâm tự tà thần di dân hại giả, tận tương ha xích, phạt kỳ miếu đàn. Chí ư mạnh liệt đại thần đa hữu hiện hình kiến mộng giao nghênh thỉnh mệnh giả, tắc vị chi thụ giới, giảm tổn huyết thực, sử bảo hộ sinh dân, vô cảm phạm giả. Hậu thế nhân do đức chi.
Dịch nghĩa
Chữa bệnh trong mộng
Sư chùa Đông Sơn tên Quán Viên, giới hạnh thanh bạch, mắt tuệ vẹn toàn, mấy chục năm không xuống núi. Khi Trần Anh Vương đau mắt đã hơn tháng, chữa thuốc không khỏi, ngày đêm chói nhức. Mộng thấy một vị sư lấy tay xoa mắt. Vương hỏi sư từ đâu tới, tên là gì. Đáp “Tôi Quán Viên đây, đến cứu mắt vương”. Tỉnh mộng, mắt liền hết đau, vài ngày khỏi hẳn.
Dò hỏi tăng đồ, quả nhiên có Quán Viên ở Đông Sơn. Sai người mời đến, y hệt vị sư đã thấy trong mộng. Vương lấy làm lạ, phong làm Quốc sư, ban thưởng rất hậu, đều đem phân phát hết không để lại một đồng nào, mặc áo tràng vá mà về núi, dường như chẳng quan tâm. Từ đấy, đi vân du khắp các nơi sơn xuyên, châu huyện, làng mạc, hễ có miếu thờ tà thần, làm hại dân, quở trách đuổi đi hết, chặt phá cả miếu đàn. Còn những vị đại thần mạnh và dữ, phần nhiều hiển hiện hay báo mộng ra đón từ ngoài thỉnh mệnh, thì thụ giới cho, giảm bớt cúng tế, bắt phải bảo vệ dân, không ai dám xúc phạm. Người đời sau vẫn còn nhớ ơn.
尼師德行
Ni sư đức hạnh
清凉尼師,俗姓范氏,交趾世祿家女。出家,庵居清凉山,毀服苦行,戒律精勤,慧觧通暢。常習禪定,面貌酷似羅漢,遠近僧俗,莫不敬仰,蔚為一國尼徒宗師, 與諸大德齊名。洪武間,陳藝王賜號慧通大師,既老,移居望東山。
Thanh Lương ni sư tục tính Phạm thị, Giao Chỉ thế lộc gia nữ. Xuất gia, am cư Thanh Lương sơn. Hủy phục khổ hạnh, giới luật tinh cần, tuệ giải thông sướng, thường tập thiền định, diện mạo khốc tự La Hán, viễn cận tăng tục mạc bất kính ngưỡng, uất vi nhất quốc ni đồ tông sư, dữ chư đại đức tề danh. Hồng Vũ gian, Trần Nghệ Vương tứ hiệu Tuệ Thông đại sư. Ký lão di cư vọng Đông Sơn.
一日,忽謂其徒曰:吾欲以此幻軀,施與虎狼一飽。乃入深山,兀坐,絕食三七日,虎狼日 日環踞,莫敢近。其徒懇請,還庵,閉門入定,經一夏,乃集衆說法,因而奄然坐化,年八十餘。荼毗,有舍利甚多,官為建塔于本山焉。
Nhất nhật hốt vị kỳ đồ viết “Ngô dục dĩ thử huyễn khu thí dữ hổ lang nhất bão”. Nãi nhập thâm sơn ngột tọa, tuyệt thực tam thất nhật, hổ lang nhật hoàn cứ, mạc cảm cận. Kỳ đồ khẩn thỉnh hoàn am. Bế môn nhập định kinh nhất hạ, nãi tập chúng thuyết pháp, nhân nhi yêm nhiên tọa hóa, niên bát thập dư. Đồ tì hữu xá lị thậm đa. Quan vị kiến tháp vu bản sơn yên.
先是,嘗囑弟子: 吾去 後,當分取吾骨留此間,磨洗人疾病。至收骨時,衆議不忍,乃盡函封。經宿,忽得肘骨在函外桌上,衆皆異其靈驗。後凡有人以病來禱,弟子磨水,與之一洗, 莫不立愈。其誓願弘深,乃至如此。
Tiên thị, thường chúc đệ tử “Ngô khứ hậu, đương phân ngô cốt, lưu thử gian ma tẩy nhân tật bệnh”. Chí thu cốt thời, chúng nghị bất nhẫn, nãi tận hàm phong. Kinh túc, hốt đắc chẩu cốt tại hàm ngoại trác thượng, chúng giai dị kỳ linh nghiệm. Hậu phàm hữu nhân dĩ bệnh lai đảo, đệ tử ma thủy dữ chi nhất tầy, nạc bất ứng dũ. Kỳ thệ nguyện hoẳng thâm nãi chí như thử.
Dịch nghĩa
Ni sư đức hạnh
Vị ni sư Thanh Lương tục tính Phạm thị, con gái nhà thế gia ở Giao Chỉ. Xuất gia, tu ở am núi Thanh Lương. Bỏ y phục khổ hạnh, giữ giới luật tinh cần, được mắt tuệ thông suốt, thường tập ngồi thiền định, diện mạo hốc hác như La Hán, xa gần tăng ni người đời không ai không ngưỡng mộ, trở thành tông sư ni đồ một nước, danh tiếng ngang với các đại đức. Khoảng năm Hồng Vũ, Trần Nghệ Vương ban hiệu “Tuệ Thông đại sư”.
Lúc già, dời về ở Đông Sơn. Một hôm, sư bỗng bảo với đệ tử rằng “Ta muốn đem tấm thân vớ vẩn này thí cho hổ sói một bữa no”. Bèn vào núi sâu ngồi thiền, tuyệt thực hai mươi mốt hôm, hổ sói ngày ngày ngồi quanh, không dám đến gần. Đồ đệ cố mời trở về am. Đóng cửa nhập định qua mùa hè, bèn tập chúng giảng đạo, nhân đó bỗng yên nhiên ngồi mà hóa, tuổi ngoài tám mươi. Lúc hỏa táng có rất nhiều xá lỵ. Quan cho xây tháp ngay trên núi ấy.
Trước đó, từng dặn các đệ tử “Sau khi ta đi, nên chia xương ta, lưu lại đây mài rửa tật bệnh người đời. Đến lúc nhặt xương, mọi người bàn không nỡ, bèn đặt hết vào rồi phong lại. Qua một đêm, bỗng được chiếc xương cùi tay ngoài hộp trên bàn, mọi người đều ngạc nhiên về sự linh nghiệm. Sau, phàm có người mắc bệnh đến cầu, đệ tử mài với nước cho rửa, không ai là không khỏi bệnh ngay. Sự thề nguyền có thể lớn sâu đến như thế đấy.
感激徒行
Cảm kích đồ hành
陳太王之孫名道載號文肅者,是仁王之從弟也。自少有才名,十四歲,乞入試塲,遂登甲科,仁王深器重之,有意大用,不幸短命而亾故,未及為相也。仁王出家,脩苦行,文肅自此徒行曰:主上行腳徧山川,我縱不能隨從,何忍棄車馬乎?卒世不易。
Trần Thái Vương chi tôn danh Đạo Tái, hiệu Văn Túc giả, thị Nhân Vương chi tòng đệ dã. Tự thiếu hữu tài danh. Thập tứ tuế khất nhập thí trường, toại đăng giáp khoa. Nhân Vương thâm khí trọng chi, hữu ý đại dụng, bất hạnh đoản mệnh nhi vong, cố vị cập vi tướng dã. Nhân Vương xuất gia tu khổ hạnh. Văn Túc tự thử đồ hành, viết “Chí thượng hành cước biến sơn xuyên, ngã túng bất năng tùy tòng, hà nhẫn thừa trác yên hồ?” tốt thế bất dịch.
仁王一時入城,文肅來謁,命官廚以海味食之,笑語盡歡,王占口曰:「紅潤剝龜脚,黃香炙馬鞍,山僧持凈戒,同坐不同餐。」觀其君臣兄弟,相得如此,足感激也。
Nhân Vương nhất thời nhập thành, Văn Túc lai yết. Mệnh cung trù dĩ hải vị tự chi, tiếu ngữ tận hoan. Vương chiếm khẩu viết
Hồng nhuận bác quy cước,
Hoàng hương chá mã an.
Sơn tăng trì tĩnh giới,
Đồng tọa, bất đồng xan.
Quan kỳ quân thần huynh đệ tương đắc như thử, túc cảm khích dã.
Bản dịch
Cảm kích đi bộ
Cháu của Trần Thái Vương tên Đạo Tái, hiệu là Văn Túc, là em họ của Nhân Vương vậy. Từ nhỏ có tài danh. Mười bốn tuổi xin vào trường thi, liền đỗ giáp khoa. Nhân Vương rất mực quí trọng, có ý dùng vào chức lớn, không may chết khi đoản mệnh, chưa kịp làm Tể tướng. Nhân Vương xuất gia tu khổ hạnh. Văn Túc từ đấy đi bộ, nói “Chí thượng đi chân trần khắp núi sông, ta đã không thể đi theo, lòng nào lên xe xuống ngựa ?”. Suốt đời không đổi. Nhân Vương một hôm vào thành, Văn Túc đến chào. Sai cung trù dọn hải vị cho ăn, cười nói rất vui. Vương ứng khẩu rằng
Quy cước bóc đỏ thắm,
Mã yên nước vàng thơm.
Sơn tăng giữ trai giới,
Cùng ngồi, chẳng cùng ăn.
Hãy xem vua tôi anh em tương đắc như thế, thật đáng cảm động.
疊字詩格
Điệp tự thi cách
陳家第二代王曰聖王,既傳位世子,晚年頗間,適甞游天長故鄉,有詩云 :
景清幽物亦清幽,
一十仙洲此一洲。
百部笙歌禽百舌,
千行奴僕橘千頭。
月無事照人無事,
水有秋涵天有秋。
四海巳清塵巳浄,
今年游勝舊年游。
Trần gia đệ nhị đại vương viết Thánh Vương, ký truyền vị Thế tử, vãn niên phả nhàn. Thích thường du Thiên Trường cố hương, hữu thi vân
Cảnh thanh u vật diệc thanh u,
Nhất thập tiên châu thử nhất châu.
Bách bộ sinh ca, cầm bách thiệt,
Thiên hàng nô bộc, quất thiên đầu.
Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự,
Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu.
Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh,
Kim niên du thắng cựu niên du.[1]
此詩作時,蓋經元軍兩度征伐之後,國中安樂,故結意如此。其命意清高,疊字振響,非老于詩者,焉能道此?况自性淸高, 天然富貴, 國君風味與人自別矣。
Thử thi tác thì, cái kinh Nguyên quân lưỡng độ chinh phạt chi hậu, quốc trung an lạc, cố kết ý như thử. Kỳ mệnh ý thanh cao, điệp tự chấn hưởng, phi lão ư thi giả, yên năng đạo thử ? Huống tự tính thanh cao, thiên nhiên phú quí, quốc quân phong vị dữ nhân tự biệt hĩ.
Dịch nghĩa
Kiểu thơ điệp từ
Đời vua thứ hai nhà Trần là Thánh Vương, khi đã truyền ngôi cho Thế tử, những năm cuối đời rất nhàn. Nhân về chơi quê cũ Thiên Trường, có thơ rằng:
Cảnh thanh u, vật cũng thanh u,
Một chục tiên châu, đây một châu.
Trăm bộ sênh ca, chim trăm giọng,
Nghìn hàng nô bộc, quất nghìn đầu.
Trăng vô sự chiếu người vô sự,
Nước có thu lồng trời có thu.
Bốn biển đã trong, bụi đã lắng,
Năm nay chơi thắng cuộc năm xưa.
Thơ này làm ra, chắc sau khi trải qua hai lần chinh phạt của quân Nguyên, trong nước yên vui, nên ý câu kết mới vậy. Xem thơ này cấu tứ thanh cao, điệp tự gây nhiều âm hưởng, không phải già dặn về thơ, sao mà làm được ? Huống hồ tự tính thanh cao, vốn dòng phú quý, phong vị quốc quân với người thường vẫn tự khác biệt vậy.
Chú thích
▲ Đây là thi phẩm Hạnh Thiên Trường hành cung của vua Trần Thánh Tông
詩意清新
Thi ý thanh tân
竹林大士《詠梅詩》云
五出圓葩金撚鬚,
珊瑚沉影海鱗浮。
箇三冬白枝前面,
此一瓣香春上頭。
甘露歌凝癡蝶醒,
夜光如水渴禽愁。
嫦娥若識花隹處,
桂冷蟾寒只麼休。
其清新雄徤,迥出人表,千乘之君,趣興如此,誰謂人竆詩乃工乎?
Trúc Lâm đại sĩ “Vịnh mai thi” vân
Ngũ xuất viên ba kim niễn tu,
San hô trầm ảnh hải tân phù.
Cá tam đông bạch chi tiền diện,
Thử nhất biện hương xuân thượng đầu.
Cam lộ dục ngưng si điệp tỉnh,
Dạ quang như thủy khát cầm sầu.
Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ,
Quế lãnh thiềm hàm chỉ ma hưu.
Kỳ thanh tân hùng kiện quýnh xuất nhân biểu. Thiên thặng chi quân thú hứng như thử, thùy vị nhân cùng thi nãi công hồ?
又《山房漫興》二絕句云
誰縳更將求解脫
不凡何必覓神仙。
猿閒馬倦人應老,
依舊雲莊一榻禪。
是非言逐朝花落,
名利心隨夜雨寒。
花盡雨晴山寂寂,
一聲啼 鳥又春殘。
其瀟灑出塵,長空一色,騷情清楚,逸足超羣,有《大香海印集》,頗多絕唱,惜其地遭兵火,不得流傳。余只記誦一二而巳。吁可惜哉
Hựu “Sơn phòng mạn hứng” nhị tuyệt cú vân
Thùy phược cánh tương cầu giải thoát,
Bất phàm hà tất mịnh thần tiên.
Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão,
Y cựu vân trang nhất tháp thiền.
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịnh,
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
Kỳ tiêu sái xuất trần, trường không nhất sắc, tao tình thanh sở, dật túc siêu quần. Hữu Đại hương hải ấn tập phả đa tuyệt xướng, tích kỳ địa tao binh hỏa, bất đắc lưu truyền, dư chỉ ký tụng nhất nhị nhi dĩ. Hu khả tích tai!
Dịch nghĩa
Ý thơ tươi mới
Trúc Lâm đại sĩ[1] có thơ “Vịnh mai” rằng
Năm cánh tròn xòe vuốt chòm râu vàng,
Bóng san hô chìm, vảy cá bể nổi.
Ba tháng đông, trắng muốt phía trước mặt,
Một cành đây thơm ngát lúc đầu xuân.
Cam lộ sắp ngưng, chiếc bướm si choàng tỉnh,
Ánh trăng đêm như nước, con chim khát chạnh buồn.
Hằng Nga mà hiểu cái đẹp của hoa.
Bóng quế lạnh, vầng thiềm trong xanh, cũng bỏ mà nghỉ ngơi
Cái tươi mới chắc khỏe vượt xa khuôn khổ người thường. Vị vua nghìn xe hứng cảm như vậy, ai bảo người cùng khổ thì thơ hay ? Lại có hai bài tuyệt cú “Sơn phòng mạn hứng”, rằng
Nào ai trói buộc mà phải tìm giải thoát,
Là người bất phàm, hà tất phải tìm thần tiên.
Vượn nhàn ngựa nhọc, người phải già,
Vẫn một giường thiền chốn am mây.
Thị phi rơi dần cùng hoa buổi sáng,
Lòng danh lợi lạnh ngắt với giọt mưa đêm.
Hoa tàn mưa tạnh, núi non tịch mịch,
Một tiếng chim kêu, xuân lại sắp tàn.
Ấy trong trẻo tót vời, một màu bát ngát, tao tình thanh thoát, ý thú siêu quần. Có tập Đại hương hải ấn gồm nhiều thơ hay, tiếc nước ấy gặp binh lửa, không được lưu luyến, tôi chỉ nhớ đọc được một hài bài thôi. Ôi đáng tiếc thay !
Chú thích
▲ Tức Trần Nhân Tông
忠直善終
Trung trực thiện chung
范遇、范邁,本姓祝氏,交趾莊仁人也,兄名堅,弟名固,皆少年登高科,有才名。至正間,在陳明王,歷官清要,王以祝氏古無顯人,乃攺祝堅為范遇,固為范 邁。
王叔父為上宰,傳國柄,不避嫌疑,且與宰執有隙,適仇人上變告,誣搆上宰,國相率百官彈劾,議置大辟,獨范邁為御史中丞,固請緩獄慎刑,時上宰被收, 而家臣寮屬、親戚奴僕下獄殺戮甚衆。邁連上諫疏,面折法司,辯析冤屈,人主威怒之前,力爭不巳。
Phạm Ngộ, Phạm Mại bản tính Chúc thị, Giao Chỉ Lỵ Nhân nhân dã. Huynh danh Kiên, đệ danh Cố, giai thiếu niên đăng cao khoa, hữu tài danh. Chí Chính gian, sĩ Trần Minh Vương, lịch quan thanh yếu. Vương dĩ Chúc thị cổ vô hiển nhân, nãi cải Chúc Kiên vi Phạm Ngộ, Cố vi Phạm Mại.
Vương thúc phụ vi Thượng tể, chuyện quốc bính, bất tị hiềm nghi, thả dữ Tể chấp hữu khích. Thích cừu nhân thượng biến cáo vu cấu Thượng tể. Quốc tướng suất bách quan đàn hặc, nghị trí đại tịch, độc Phạm Mại vi Ngự sử trung thừa, cố thỉnh hoãn ngục thận hình. Thời Thượng tể bị thu, nhi gia thần liêu, thuộc thân thích nô bộc hạ ngục sát lục thậm chúng. Mại liên thướng gián sớ diện chiết pháp tư, biện tích oan khuất, nhân chúa uy nộ chi tiền lực tranh bất dĩ.
王叔既幽死,後得誣搆實跡,坐其姦人,王甚慚愧,追贈叔父極隆,乃賜邁詩云
臺烏久矣噤無聲,
整頓朝綱事匪輕,
殿上昂藏鷹虎氣,
男兒到此是功名。
尋遷 叅知政事,在政府多年,有清名。一日微恙,索筆題詩云
自從謫落下人間,
六十餘年一瞬看。
白玉樓前秋夜月,
朝真依舊傍闌干。
書畢,擲筆而逝。有《鏡溪詩集》行于世。遇亦廉正能文,與弟齊名,官至審刑院使而卒。
Vương thúc ký u tử. Hậu đắc vu cấu thực tích, tọa kỳ gian nhân, vương thậm tàm cụ, truy tặng thúc phụ cực long. Nãi tứ Mại thi vân
Ô đài cửu hĩ cấm vô thanh,
Chỉnh đốn triều cương sự phỉ khinh.
Điện thượng ngang tàng ưng hổ khí,
Nam nhi đáo thử thị công danh.
Tầm thiên Tham tri chính sự. Tại chính phủ đa niên hữu thanh danh. Nhất nhật vi dạng, sách bút đề thi vân
Tự tòng trích lạc hạ nhân gian,
Lục thập dư niên nhất thuấn khan.
Bạch Ngọc lâu tiền thu dạ nguyệt,
Triều chân y cựu bạng lan can.
Thư tất, trịch bút nhi thệ. Hữu Kính Khê thi tập hành vu thế. Ngộ diệc liêm chính, năng văn, dữ đệ tề danh. Quan chí Thẩm hình viện sử nhi tốt.
Dịch nghĩa
Sống ngay thẳng, chết yên lành
Phạm Ngộ, Phạm Mại nguyên là họ Chúc, người Lỵ Nhân, Giao Chỉ. Anh tên Kiên, em tên Cố, tuổi trẻ đã đỗ đạt lớn, có tài danh. Khoảng năm Chí Chính, làm quan cho Trần Minh Vương, trải nhiều trọng chức. Vương cho họ Chúc trước không có người hiển đạt, bèn đổi Chúc Kiên thành Phạm Ngộ, Cố thành Phạm Mại.
Vương thúc[1] làm Thượng tể, nắm quyền bính, không ngại hiềm nghi, lại xích mích với Tể chấp[2]. Bỗng có kẻ thù dựng chuyện cấp biến, tâu lên vu cáo Thượng tể. Tướng quốc kéo trăm quan đàn hặc, kiến nghị tử hình, riêng Phạm Mại làm Ngự sử trung thừa, cố xin từ từ xét xử thận trọng việc hình. Khi Thượng tể bị bắt, đến gia thần liêu thuộc thân thích tôi tớ đều bị tống giam, giết chóc rất nhiều. Mại liên tiếp dâng sớ can ngăn, trước mặt bẻ bác pháp ty, biện luận phân tích nỗi oan khuất, tranh cãi không thôi trước uy giận của chúa. Vương thúc bị giam chết. Sau, được bằng chứng đáng tin về sự vu cáo, bắt giam kẻ gian, vua rất thẹn sợ, truy tặng thúc phụ cực hậu. Bèn ban cho Mại thơ rằng
Ô đài[3] lâu rồi im bặt tiếng,
Chỉnh đốn triều cương không phải dễ.
Trên điện, ngang tàng như ưng hổ,
Nam nhi như thế mới công danh.
Rồi chuyển làm Tham tri chính sự. Trong chính phủ nhiều năm, rất tiếng tăm. Một hôm ốm nhẹ, cầm bút đề thơ rằng
Từ khi bị đày rơi xuống nhân gian,
Hơn sáu mươi năm một cái nháy mắt.
Trăng đêm thu, trước lầu Bạch Ngọc,
Chầu trời, như cũ, dựa lan can.
Viết xong, vứt bút mà qua đời. Có Kính Khê thi tập lưu hành ở đời. Ngộ cũng liêm chính, giỏi văn, tên tuổi ngang với em. Làm đến Thẩm hình viện sứ thì mất.
Chú thích
▲ Tức Huệ Võ Vương Trần Quốc Chấn (hoặc Chẩn), chú ruột đồng thời là bố vợ vua Trần Minh Tông
▲ Có lẽ là Trần Khắc Chung, khi đó giữ chức Đại Hành khiển
▲ Chỉ đài Ngự sử. Theo sách Hán thư, bên cạnh đài Ngự sử của triều Hán có khóm cây, hàng nghìn con quạ đến đậu ở đó. Vì vậy, đài Ngự sử còn gọi là Ô đài tức đài Quạ
詩諷忠諫
Thi phúng trung gián
至正間,交趾陳元旦以陳家宗冑,仕裕王為御史大夫。王不勤政,權臣多不法,元旦數諫,不納。裕王沒,其侄昏德嗣立,時事愈甚。元旦上書,不報,乃乞骸骨而 去。有《寄臺中寮友詩》云
臺端一去便天涯,
回首傷心事事違。
九陌塵埃人易老,
五湖風雨客思歸。
儒風不振回無力,
國勢如懸去亦非。
今古興亡真可鑑,
諸公何忍諫書稀。
Chí Chính gian, Giao Chỉ Trần Nguyên Đán dĩ Trần gia tông trụ sĩ Dụ Vương vi Ngự sử đại phu. Vương bất cần chính, quyền thần đa bất pháp, Nguyên Đán sác gián bất nạp. Dụ Vương một, kỳ điệt Hôn Đức tự lập, thời sự dũ thậm. Nguyên Đán thướng thư bất báo nãi khất hài cốt nhi khứ. Hữu ký đài trung liêu hữu thi vân
Đài đoan nhất khứ tiện thiên nhai,
Hồi thủ thương tâm sự sự vi.
Cửu mạch trần ai nhân dị lão,
Ngũ Hồ phong vũ khách tư quy.
Nho phong bất chấn hồi vô lực,
Quốc thế như huyền khứ diệc phi.
Kim cổ hưng vong chân khả giám,
Chư công hà nhẫn gián thư hy.
後內難起,奔從藝王。王即位,拜司徒平章事,居相位,頗多年而卒。
其人通曉曆法,甞著《百世通紀書》,上考堯甲辰,下至宋元,日月交蝕,星辰纏度,與古符合,奉道精煉,祈雨有應,自號氷壼子。
Hậu nội nạn khởi, bôn tòng Nghệ Vương. Vương tức vị, bái Tư đồ bình chương sự, cư Tướng vị phả đa niên nhi tốt.
Kỳ nhân thông hiểu lịch pháp, thường trứ Bách thế thông kỷ thư, thượng thảo Nghiêu Giáp thìn, hạ chí Tống, Nguyên ; nhật nguyệt giao thực, tinh thần triền độ dữ cổ phù hợp, phụng đạo tinh luyện, kỳ vũ hữu ứng. Tự hiệu Băng Hồ tử.
Dịch nghĩa
Thơ bóng gió, trung thành can gián
Khoảng năm Chí Chính, Trần Nguyên Đán ở Giao Chỉ là tôn thất nhà Trần, làm quan cho Dụ Vương, chức Ngự sử đại phu. Vương không siêng năng chính sự, quyền thần làm nhiều điều phi pháp, Nguyên Đán luôn can ngăn, không dùng. Dụ Vương mất, cháu là Hôn Đức[1] tự lập, thời sự càng tệ. Nguyên Đán dâng thư, không đáp, bèn xin hài cốt mang về[2]. Có gửi cho đồng liêu trong đài thơ rằng
Người ở đài một khi đi là đến tận chân trời,
Ngoảnh đầu, đau lòng, việc gì cũng trái mắt.
Bụi trần đường sá chốn cửu trùng, người dễ già,
Mưa gió chốn Ngũ Hồ, khách muốn ở ẩn.
Nho phong không chấn hưng, quay lại cũng bất lực,
Thế nước như treo, ra đi cũng không phải.
Hưng phế xưa nay thật có thể làm gương,
Các ông sao nỡ ít thư can gián ?
Sau, dấy nội nạn, chạy theo Nghệ Vương. Vương lên ngôi, lấy làm Tư đồ Bình chương sự, ở ngôi tướng nhiều năm rồi mất.
Ông là người thông hiểu lịch pháp, từng soạn sách Bách thế thông kỷ, trên khảo từ năm Giáp Thìn đời Nghiêu, dưới tới Tống, Nguyên ; nhật thực nguyệt thực, triền độ các sao đều phù hợp với sách cổ, phụng đạo tinh luyện, cầu mưa có ứng nghiệm. Tự hiệu là Băng Hồ tử.
Chú thích
▲ Tức Dương Nhật Lễ
▲ Lấy ý từ câu nói của Phạm Tăng, quân sư của Hạng Vũ. Sau khi bị mắc lừa kế phản gián của Trần Bình, Hạng Vương nghi ngờ Phạm Tăng làm phản theo Hán, có ý lạnh nhạt. Phạm Tăng giận, nói với Hạng Vũ rằng “Việc thiên hạ đã định rồi, xin Bá Vương cho tôi mang hài cốt về nhà”. Nhưng mới đi đến Bành Thành thì phát ung ở lưng mà chết
詩用前人警句
Thi dụng tiền nhân cảnh cú
陳家宗冑有號岑樓者,弱冠能詩,二十七歲而卒,有《岑樓集》行于世,墳在烏鳶江上。介軒阮忠彥亦有詩名,不及相識,行過烏鳶,有追挽詩云
Trần Trần gia tông trụ hữu hiệu Sầm Lâu giả nhược quan năng thi, nhị thập thất tuế nhi tốt. Hữu “Sầm Lâu tập” hành vu thế. Phần tại Ô Diên giang thượng. Giới Hiên Nguyễn Trung Ngạn diệc hữu thi danh, bất cập tương thức. Hành quá Ô Diên, hữu truy vãn thi vân
平生恨不識岑樓,
一讀遺編一點頭。
簑笠五湖榮佩印,
桑麻數畝勝封侯。
世間此語誰能道,
萬古斯文去巳休。
欲酹騷魂何處是,
煙波萬頃使人愁。
簑笠五湖一聯,是岑樓之詩句也。
Bình sinh hận bất thức Sầm Lâu,
Nhất độc di biên nhất điểm đầu.
Soa lạp Ngũ Hồ vinh bội ấn,
Tang ma sổ mẫu[1] thắng phong hầu.
Thế gian thử ngữ thùy năng đạo,
Vạn cổ tư văn khứ hĩ hưu.
Dục loại tao hồn hà xứ thị,
Yên ba vạn khoảnh sử nhân sầu.
“Soa lạp Ngũ Hồ” nhất liên thị Sầm Lâu chi thi cú dã.
Dịch nghĩa
Thơ dùng câu hay của tiền nhân
Tôn thất nhà Trần có người hiệu Sầm Lâu[2], trẻ tuổi đã có tài thơ, hai mươi bảy tuổi thì mất. Có Sầm Lâu tập lưu hành ở đời. Mộ trên bờ sông Ô Diên.
Nguyễn Trung Ngạn hiệu Giới Hiên cũng có tiếng thơ, nhưng không kịp quen biết. Đi qua Ô Diên, có thơ viếng rằng
Bình sinh hận không được biết Sầm Lâu,
Mỗi lần đọc thơ còn sót lại, một lần cúi đầu.
Tơi nón Ngũ Hồ vinh hơn mang ấn,
Dâu gai mấy mẫu thắng phong hầu.
Lời ấy thế gian ai nói được,
Văn này muôn thuở qua rồi thôi.
Muốn rót rượu tế hồn “tao”[3], biết ở đâu ?
Khói sóng muôn khoảnh khiến người sầu.
Một liên[4] “Tơi nón Ngũ Hồ” nguyên là câu thơ của Sầm Lâu đó.
Chú thích
▲ Đại Việt sử ký toàn thư chép là tế dã
▲ Uy Văn Vương Trần Quốc Toại, là cháu họ và con rể vua Trần Thái Tông, nổi tiếng hay thơ, có Sầm Lâu tập lưu hành ở đời.
▲ Tao vốn là từ chỉ tác phẩm Ly tao của Khuất Nguyên, sau được coi như một thể loại thơ
▲ Liên cú, chỉ cặp câu tam và tứ, ngũ và lục trong thể thơ thất ngôn Đường luật. Những câu này đăng đối với nhau, tạo thành một liên
詩言自負
Thi ngôn tự phụ
阮忠彥,早有才名,頗自負,甞有長篇詩,其畧云
介軒先生廟廊器,
茂齡巳有吞牛志。
年方十二太學生,
纔登十六充廷試。
二十有四入諫官,
二十有六燕京使。
其自負矜伐如此。然事陳明王,歷樞要,登政府,卒有令名,不負儒者,官至尚書左輔,壽八十餘。有《介軒集》行于世。
Nguyễn Trung Ngạn, tảo hữu tài danh, phả tự phụ, thường hữu trường thi thiên, kỳ lược vân
Giới Hiên tiên sinh lang miếu khí
Mậu linh dĩ hữu thôn ngưu chí
Niên phương thập nhị Thái học sinh
Tài đăng thập lục sung Đình thí
Nhị thập hữu tứ nhập Gián quan
Nhị thập hữu lục Yên Kinh sứ
Kỳ tự phụ căng phạt như thử. Nhiên sự Trần Minh Vương, lịch khu yếu, đăng chính phủ, tốt hữu lệnh danh, bất phụ nho giả, quan chí Thượng thư Tả phụ, thọ bát thập dư, hữu “Giới Hiên tập” hành vu thế.
Dịch nghĩa
Lời thơ tự phụ
Nguyễn Trung Ngạn, sớm có tài danh, rất tự phụ, từng có thơ trường thiên, đại lược rằng
Tiên sinh Giới Hiên tài lang miếu
Tuổi thanh niên đã có chí nuốt trâu
Năm mười hai tuổi Thái học sinh
Vừa đến mười sáu dự thi Đình
Hai mươi tư tuổi làm Gián quan
Hai mươi sáu tuổi sứ Yên Kinh
Ấy tự phụ kiêu căng như thế. Tuy nhiên thờ Trần Minh Vương, trải chức khu yếu, lên chính phủ, cuối cùng có lệnh danh, không thẹn là nho giả, quan đến Thượng thư Tả phụ, thọ ngoài tám mươi, có “Giới Hiên tập” lưu hành ở đời
命通詩兆
Mệnh thông thi triệu
黎括字伯括,清化人也。少時,游學都下,其友人為官者,當元季時,奉使燕京,括送詩云
驛路三千君據鞍,
海門十二我還山。
中朝使者煙波客,
君得功名我得閒。
識者知括將貴,後括登科,果驟遷,擢居政府,先於其友人。
Lê Quát tự Bá Quát, Thanh Hóa nhân dã. Tiểu thì, du học đô hạ, kỳ hữu nhân vi quan giả, đương nguyên quý thì phụng sứ Yên Kinh, Quát tống thi vân
Dịch lộ tam thiên quân cứ an,
Hải môn thập nhị ngã hoàn san.
Trung triều sứ giả, yên ba khách,
Quân đắc công danh, ngã đắc nhàn.
Thức giả tri Quát tương quý, hậu Quát đăng khoa, quả sậu thiên, trạc quan chính phủ, tiên ư kỳ hữu nhân
Dịch nghĩa
Số mệnh thông qua điềm thơ
Lê Quát, tự Bá Quát, là người Thanh Hóa. Lúc trẻ, du học kinh đô, có người bạn làm quan, gặp lúc phụng mệnh đi sứ Yên Kinh, Quát tiễn, có thơ rằng
Đường trạm ba nghìn, anh ngồi yên ngựa
Cửa biển mười hai, tôi về núi
Sứ giả trung triều[1], khách khói sóng
Anh được công danh, tôi được nhàn
Kẻ thức giả biết Quát sẽ quý hiển, sau Quát thi đỗ, quả nhiên được thăng chuyển làm quan trong chính phủ, hơn hẳn người bạn kia.
Chú thích
▲ Chỉ Trung Quốc
詩志功名
Thi chí ngôn hành
范五老,事陳仁王,為殿帥上將軍。平生出身戎行,頗好讀書,倜儻有大志,喜吟詩于武事,若不經意。然所領軍,必為父子之兵,每戰必勝,侍衞勤謹,首寇爪牙之臣。嘗有詩云
橫槊江山恰幾秋,
三軍貔虎氣吞牛。
男兒未了功名債,
羞聽人間說武侯。
Phạm Ngũ Lão, sự Trần Nhân Vương, vi Điện tiền Thượng tướng quân, bình sinh xuất thân nhung hạng, phả hiếu độc thư, thích thảng hữu đại chí, hỉ ngâm thi, vu võ sự nhược bất kinh ý, nhiên sở lãnh quân, tất vi phụ tử chi binh, mỗi chiến tất thắng, thị vệ cần cẩn, thú khấu trảo nha chi thần. Thường hữu thi vân
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu[1]
Dịch nghĩa
Thơ nói chí công danh
Phạm Ngũ Lão, thờ Trần Nhân Vương, làm Điện tiền Thượng tướng quân, bình sinh xuất thân trong quân ngũ, lại ham đọc sách, phóng khoáng có chí lớn, thích ngâm thơ, việc võ bị dường như không để ý, nhưng quân ông quản lãnh, thực là quân cha con, đã đánh là thắng, bảo vệ chăm chỉ cẩn thận, giặc cướp ra thú [được thu dụng thành] thuộc hạ nanh vuốt. Từng có thơ rằng
Múa giáo giữa non sông đã mấy thu
Ba quân khí thế như hổ, nuốt trôi trâu
Kẻ nam nhi vẫn chưa trả hết nợ công danh
Thẹn nghe nhân gian nói chuyện Vũ hầu
Chú thích
▲ Vũ hầu Gia Cát Lượng, danh tướng của nhà Thục Hán thời Tam Quốc ở Trung Quốc
小詩麗句
Tiểu thi lệ cú
陳家宗冑,有號愛山者,頗讀書學詩,偏好花情,多吟小詩,時有麗句,甞有詩云
寶鼎香銷沉水煙,
碧紗春帳薄如蟬。
洞章吟罷愁成海,
人在闌干月在天。
又曰
牕畔香雲暗碧紗,
平分午睡不禁茶。
相思在望登樓怯,
一樹木綿紅盡花。
Trần gia tông trụ, hữu hiệu Ái Sơn giả, phả độc thư học thi, thiên hiếu hoa tình, đa ngâm tiểu thi, thời hữu lệ cú. Thường hữu thi vân
Bảo đỉnh hương tiêu trầm thủy yên,
Bích sa xuân trướng bạc như thiền.
Động chương ngâm bãi sầu thành hải,
Nhân tại lan can nguyệt tại thiên.
Hựu viết
Song bạn hương vân ám bích sa,
Bình phân ngọ thụy bất cấm trà.
Tương tư tại vọng đăng lâu khiếp,
Nhất thụ thủy miên hồng tận hoa.
Dịch nghĩa
Thơ ngắn lời đẹp
Tôn thất nhà Trần có người hiệu Ái Sơn, rất ham đọc sách học thơ, vốn thích phong tình, hay ngâm thơ ngắn, thỉnh thoảng có câu đẹp. Từng có thơ rằng
Khói trầm đỉnh hương báu tiêu tan hết,
Màn xuân the biếc mỏng tựa cánh ve.
Bài thơ sâu sắc ngâm xong, sầu thành biển,
Người tại lan can, trăng tại trời.
Lại có
Mây thơm bên song mờ the biếc,
Thường ngủ trưa dậy chẳng kiêng chè,
Đang tương tư, sợ bước lên lầu,
Một cây gạo, màu đỏ nhuộm cả hoa
詩酒驚人
Thi tửu kinh nhân
演州人胡宗鷟,少年登科,頗有才名。初未甚顯,適至元宵,有道人黎法官者,張燈設席,以延文客。宗鷟受簡請題。一夜席上,賦詩百首,飲酒百杯,衆皆環視歎 服,無與敵者。自是名震都下,後以文學為人師,臣事陳藝王,官至翰林學士承旨兼審刑院使,詩酒無虛日。年八十餘,壽終于家。
Diễn Châu nhân Hồ Tông Thốc, thiếu niên đăng khoa, phả hữu tài danh. Sơ vị thâm hiển, thích chí nguyên tiêu, hữu đạo nhân Lê Pháp quan giả, trương đăng thiết tịch, dĩ diên văn khách. Tông Thốc thụ giản thỉnh đề. Nhất dạ tịch thượng phú thi bách thủ, ẩm tửu bách bôi, chúng giai hoàn thị thán phục, vô dữ địch giả. Tự thị danh chấn đô hạ, hậu dĩ văn học vị nhân sư. Thần sự Trần Nghệ Vương, quan chí Hàn lâm học sĩ, Thừa chỉ kiêm Thẩm hình viện sứ, thi tửu vô hư nhật. Niên bát thập dư, thọ chung vu gia.
Dịch nghĩa
Thơ rượu làm sợ người ta
Người Diễn Châu Hồ Tông Thốc, thi đỗ từ trẻ, rất có tài danh. Ban đầu chưa nổi tiếng lắm, nhân đến Nguyên tiêu, có đạo nhân Pháp quan họ Lê giăng đèn mở tiệc, rước khách văn chương. Tông Thốc nhận giấy mời đề thơ. Trong một đêm, trên tiệc làm trăm bài thơ, uống trăm chén rượu, ai nấy xúm nhìn thán phục, không ai địch nổi. Từ đó danh động kinh đô, sau dùng văn tài làm thầy người. Làm quan thờ Trần Nghệ Vương, quan đế Hàn lâm học sĩ, Thừa chỉ kiêm Thẩm hình viện sứ, thơ rượu không ngày nào vắng. Tuổi ngoài tám mươi, mất tại nhà.
詩兆餘慶
Thi triệu dư khương
澄太父之外祖曰阮公,諱聖訓,事陳仁王為中書侍郎,性甚仁厚,少年登高科,最能詩,當時無敵,後人稱為南方詩祖。嘗有《田園漫興詩》,其一聯云
巢鳥寄林休伐木,
蟻封在地未耕田。
識者歎其仁心及物,必有餘慶
Trừng đại phụ chí ngoại tổ viết Nguyễn công, húy Thánh Huấn, sự Trần Nhân Vương vi Trung thư thị lang. Tính thậm nhân hậu. Thiếu niên đăng cao khoa, tối năng thí, đương thời vô địch, hậu nhân xưng vi “Nam phương thi tổ”. Thường hữu “Điền viên mạn hứng thi”, kỳ nhất liên vân
Sào điểu ký lâm hưu phạt mộc,
Nghi phong tại địa vị canh điền.
Thức giả thán kỳ nhân tâm cập vật tất hữu dư khương.
後其女配我曾祖,生太父,及陳明王次妃。妃生,藝王卒,有贈典尊榮門閥,昌盛之福,果如識者所言,其兆先見于此詩乎?以至四世外孫,如澄,今者出自幽谷,遷于喬木,溝斷之餘,濫同成器,豈非先人之澤未割?乃得生逢聖世,深沐堯仁,而有此奇遇也歟!
Hậu kỳ nữ phối ngã tằng tổ, sinh đại phụ cập Trần Minh Vương thứ phi. Phi sinh Nghệ Vương. Tốt hữu tặng điển tôn vinh môn phiệt, xương thịnh chi phúc quả như thức giả sở ngôn, kỳ triệu tiên kiến ư thử thi hồ ? Dĩ chí tứ thế ngoại tôn như Trừng kim giả, xuất tự u cốc, thiên vu kiều mộc, càn đoạn chi dư lạm đồng thành khí, khởi phi tiên nhân chi trạch vị cát, nãi đắc sinh phùng thành thế, thâm mộc Nghiêu nhân, nhi hữu thử kỳ ngộ dã dư ?
Dịch nghĩa
Điềm thơ để phúc trạch về sau
Ông ngoại của đại phụ Trừng[1] là Nguyễn công, húy Thánh Huấn, thờ Trần Nhân Vương, làm Trung thư thị lang. Tính rất nhân hậu. Còn trẻ đã thi đỗ cao, cực hay thơ, đương thời vô địch, người sau gọi là “Thi tổ phương Nam”. Từng có thơ “Điền viên mạn hứng”, có một liên rằng
Tổ chim gửi rừng, ngừng chặt gỗ,
Ổ kiến dưới đất, chưa cày ruộng.
Thức giả khen lòng nhân đến cả loài vật, ắt để phúc cho con cháu. Sau, gả con gái cho tằng tổ[2] tôi, sinh đại phụ tôi và bà thứ phi Trần Minh Vương. Bà phi sinh Nghệ Vương. Lúc mất, phong tặng tổ tiên theo điển “tôn vinh môn phiệt”, phúc thịnh ấy quả đúng như lời thức giả nói, nó đã hiện trước trong thơ trên chăng ? Cho đến cháu ngoại bốn đời như Trừng nay, “ra tự hang sâu, dời đến cây cao”[3], một khúc rãnh thừa cũng thành khí[4], chẳng phải do phúc trạch của tiên nhân chưa dứt, mới được sinh gặp triều thánh, tắm gội nhân Nghiêu, mà có duyên kỳ ngộ này ư ?
Chú thích
▲ Tức ông nội của Hồ Nguyên Trừng, cha Hồ Quý Ly
▲ Tằng tổ là cụ nội
▲ Thơ Phạt mộc, Tiểu nhã, Kinh Thi
▲ Khí tức vật có ích
詩稱相職
Thi xứng tướng chức
陳藝王初為相時,有《送元使詩》云
安南老相不能詩,
空對金樽送客歸。
圓傘山高瀘水碧,
遙瞻玉節五雲飛。
其弟恭信,性文雅,好詩畵,後為右相,亦有《尋幽詩》云
槁七八重虹宛轉,
水東西折綠縈迴。
不因看石尋梅去,
安得昇平宰相來?
Trần Nghệ Vương sơ vi tướng thời, hữu “Tống Nguyên sứ thi” vân
An Nam lão tướng bất năng thi,
Không đối kim tôn tống khách quy.
Viên Tản sơn cao, Lô thủy bích,
Dao chiêm ngọc tiết ngũ vân phi.
Kỳ đệ Cung Tín, tính văn nhã, hiếu thi họa, hậu vi Hữu tướng, diệc hữu “Tầm u thi” vân
Kiều thất bát trùng hồng uyển chuyển,
Thủy đông tây chiết lục oanh hồi.
Bất nhân khán thạch tầm mai khứ,
An đắc thăng bình Tể tướng lai.
Dịch nghĩa
Thơ xứng chức Tể tướng
Trần Nghệ Vương khi mới làm Tể tướng, có bài thơ “Tiễn sứ Nguyên” rằng
Lão Tể tướng An Nam chẳng thạo thơ,
Ngồi suông trước chén vàng tiễn khách về.
Núi Tản Viên cao, dòng Lô Thủy biếc,
Vời trông theo cờ sứ bay vào năm mây.
Em là Cung Tín[1], tính thanh nhã, thích thi họa, sau làm Hữu tướng quốc, cũng có thơ “Tầm u” rằng
Cầu bảy tám lớp như cầu vồng uốn lượn,
Nước đông tây gấp khúc, màu xanh quanh co.
Không nhân dịp tìm mai ngắm đá,
Thì chốn này đâu mong có vị Tể tướng thời thăng bình đến chơi
Chú thích
▲ Cung Tín Vương Trần Thiên Trạch (?-1379), con trai của Trần Minh Tông, em trai Trần Nghệ Tông
詩歎致君
Thi thán trí quân
氷壼司徒《題玄天觀詩》云
白日升天易,
致君堯舜難。
塵埃六十載,
回首媿黃冠。
蓋為相時,不有功效,而興此歎。是亦憂愛在懷,情歸忠厚,詩人所可取也歟!
Băng Hồ Tư đồ “Đề Huyền Thiên quán thi” vân
Bạch nhật thăng thiên dị,
Trí quân Nghiêu Thuấn nan.
Trần ai lục thập tải,
Hồi thủ quý hoàng quan.
Cái vi tướng thời, bất hữu công hiệu nhi hứng thử thán, thị diệc ưu ái tại hoài, tình quy trung hậu, thi nhân sở khả thủ dã dư ?
Dịch nghĩa
Thơ than hai chữ “trí quân”
Băng Hồ Tư đồ[1] có thơ “Đề quán Huyền Thiên[2]” rằng
Ban ngày lên trời dễ
Giúp vua thành Nghiêu Thuấn khó
Sống ở cõi trần đã sáu mươi năm
Ngoảnh đầu, xấu hổ với đạo sĩ
Có lẽ khi làm Tể tướng, thấy không có công mới than thở như vậy, cũng là ưu ái trong lòng, tình quy trung hậu, đó là chỗ khả thủ của thi nhân chăng ?
Chú thích
▲ Trần Nguyên Đán
▲ Có lẽ là quán Huyền Thiên thuộc “Thăng Long tứ quán”, thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, nay là chùa Huyền Thiên thuộc phố Hàng Khoai, Hà Nội
貴客相歡
Quí khách tương hoan
軍頭莫記,東潮人也,出身行伍,酷好吟詩。元統間,伴送元使黃裳,裳亦好詩者,旬日江行,相與唱和,多有佳句,裳甚歡之。至界上,留《別詩》云
江岸梅花正白,
船頭細雨斜飛,
行客三冬北去,
將軍一棹南歸。
Quân đầu Mạc Ký, Đông Triều nhân dã, xuất thân hàng ngũ, khốc hiếu ngâm thi. Nguyên Thống gian bạn tống Nguyên sứ Hoàng Thường, Thường diệc hiếu thi giả, tuần nhật giang hành tương dữ xướng họa, đa hữu giai cú, Thường thậm hoan chi. Chí giới thượng lưu biệt thi vân
Giang ngạn mai hoa chính bạch,
Thuyền đầu tế vũ tà phi.
Hành khách tam đông Bắc khứ,
Tướng quân nhất trạo Nam quy.
Dịch nghĩa
Khách quý cùng vui
Quân đầu Mạc Kỳ, người Đông Triều, xuất thân quân ngũ, lại rất thích thơ. Khoảng năm Nguyên Thống, tiễn đưa sứ Nguyên là Hoàng Thường, Thường cũng là người thích thơ, một tuần[1] đi trên sông cùng nhau xướng họa, có nhiều câu hay, Thường rất vui. Đến đầu địa giới, có thơ lưu biệt rằng
Bờ sông hoa mai nở trắng,
Đầu thuyền mưa nhỏ lất phất bay.
Giữa ba đông hành khách về Bắc,
Một mái chèo Tướng quân lại Nam.
Chú thích
▲ Lịch xưa, một tuần là mười ngày
南翁夢錄後序
Nam Ông mộng lục hậu tự
《南翁夢錄》者,今工部左侍郎黎公所作也。公字孟源,南翁其別號也。公交南之巨擘,賔興天朝,久沐清化,以耆才碩德,受知列聖,累遷至亞卿,實奇遇也。公文 章政事兩濟其美,每於公餘之頃,追念舊日,賢王良佐之行事、君子善人之處心、貞妃烈婦之操節、緇流羽客之奇術,與夫綺麗之句,幽恠之說,可以傳示於後者, 具載成編,名曰《南翁夢錄》。
“Nam Ông mộng lục” giả, kim Công bộ Tả Thị lang Lê công sở tác dã. Công tự Mạnh Nguyên, Nam Ông kỳ biệt hiệu dã. Công Nam Giao chi cự phách, tân hưng thiên triều, cửu mộc thanh hoa, dĩ kỳ tài thạc đức, thụ tri liệt thánh, lũy thiên chí Á khanh, thực kỳ ngộ dã.
Công văn chương chính sự lưỡng tế kỳ mỹ. Mỗi ư công dư chi khoảnh, truy niệm cựu nhật hiền vương lương tá chi hành sự, quân tử thiên nhân chi xử tâm, trinh phi liệt phụ chi tháo tiết, truy lưu vũ khách chi kỳ thuật, dữ phù ỷ lệ chi cú, u quái chi thuyết, khả dĩ truyền thị ư hậu giả, cụ tái thành biên, danh viết “Nam Ông mộng lục”.
予與公有鄉曲之好,一日以斯《錄》見示,乃遍閱之,因而言曰:地有遠近,而所同者此心;心有彼我,而所同者此理。以天下之大而言之,交南乃蕞爾之 偏方,固不敢與中國齒,以《錄》中所載者而論之,其修身制行,持心操節,又何異於中國之士君子哉!《詩》曰:民之秉彝,好是懿德。其以此歟!雖然前人 之嘉言懿行縱多,然非公之好善有誠,固不能樂聞而著之於心胷之間。今也,不徒聞之而已,而又筆之於書,使前人湮沒之餘,一旦言行彰彰然表暴於世,若予之後 生晚學,於事有所未聞者,亦得一覽而知之。匪唯前人之幸,而亦予之一幸也。是《錄》足以資見聞,乃命繡梓以廣其傳,俾覽者知仁人之用心,而亦以見遐方之多 才也歟!禮部尚書胡公既為序引,予姑識歲月于後云。
正統七年,歲在壬戌,五月中澣,亞中大夫福建等處承宣布政使司右叅政交南宋彰書
Dư dữ ông hữu hương khúc chi hảo, nhất nhật dĩ tư lục kiến thị, nãi biến duyệt chi, nhân nhi ngôn viết: “Địa hữu viễn cận, nhi sở đồng giả, thử tâm, tâm hữu bỉ ngã, nhi sở đồng giả, thử lý. Dĩ thiên hạ chi đại nhi ngôn chi, Giao Nam nãi toát nhĩ chi thiên phương, cố bất cảm dữ Trung Quốc xỉ. Dĩ lục trung sở tái giả nhi luận chi, kỳ tu thân thế hạnh, trì tâm tháo tiết, hựu hà dị ư Trung Quốc chi sĩ quân tử tai! Thi viết: “Dân chi bỉnh di, hiếu thị ý đức”, kỳ dĩ thử dư? Tuy nhiên, tiền nhân chi gia ngôn ý hành túng đa, nhiên phi Công chi hiếu thiện hữu thành, cố bất năng lạc văn nhi trước chi ư tâm hung chi gian. Kim dã, bất đồ văn chi nhi dĩ, nhi hựu bút chi ư thư, sử tiền nhân yên một chi dư, nhất đán ngôn hành chương chương nhiên biểu bộc ư thế. Nhược dư chi hậu sinh vãn học, ư sự hữu sở vị văn giả, diệc đắc nhất lãm nhi tri chi, phỉ duy tiền nhân chi hạnh, nhi diệc dư chi nhất hạnh dã”. Thị lục túc dĩ tư kiến văn, nãi mệnh tú tử, dĩ quảng kỳ truyền, tỉ lãm giả tri nhân nhân chi dụng tâm, nhi diệc dĩ kiến hà phương chi đa tài dã dư.
Lễ bộ Thượng thư Hồ công ký vi tự dẫn, dư cô chí tuế nguyệt vu hậu vân.
Chính Thống thất niên, tuế tại Nhâm Tuất, ngũ nguyệt trung cán, Á trung đại phu, Phúc Kiến đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ty Hữu Tham chính, Giao Nam Tống Chương thư.
Dịch nghĩa
Bài tựa sau sách “Nam Ông mộng lục” (Tống Chương)
Sách “Nam Ông mộng lục” này, do Lê công hiện giữ chức Công bộ Tả Thị lang làm ra. Công tự Mạnh Nguyên, Nam Ông là biệt hiệu vậy đó. Công là cự phách của Nam Giao, thiên triều tiếp đón, tắm gội tinh hoa đã lâu, nhờ tài lạ đức cao, thánh hoàng tri ngộ, thăng mãi lên Á khanh, thật duyên kỳ ngộ vậy.
Công, văn chương và chính sự đều đẹp đẽ. Thường những lúc việc công nhàn rỗi, nhớ lại chuyện cũ, việc làm của vua hiền tôi giỏi, cái tâm của quân tử thiện nhân, tiết tháo của trinh phi liệt phụ, thuật lạ của đạo sĩ tăng nhân, cùng vần thơ đẹp đẽ, câu chuyện u quái, có thể truyền lại cho đời sau, đều chép thành sách, đặt là “Nam Ông mộng lục”.
Tôi với ngài có tình quê hương, một hôm mang sách này cho xem, bèn đọc khắp lượt, nhân đó thốt lên “Đất có xa gần, vẫn có điểm giống, là tâm, tâm tuy ta người, vẫn có điểm giống, là lý. Lấy việc lớn trong thiên hạ mà nói, thì Giao Nam chẳng qua là một phương trời, không dám sánh với Trung Quốc. Nhưng theo ghi chép trong sách mà bàn, thì tu thân tạo hạnh, gìn lòng giữ tiết, có khác gì sĩ quân tử Trung Quốc đâu ! Thi nói “Dân theo lẽ thường, ham cái đức tốt”[1], để nói điều đó ? Tuy nhiên, lời hay việc tốt của người xưa có nhiều nữa, nhưng nếu Công không thật lòng thích điều thiện, thì không thể nghe vui vẻ và khắc ghi vào lòng được. Nay thì, không chỉ nghe rồi để đấy, còn cầm bút chép vào sách, để lời nói việc làm người xưa bấy lâu mai một, một sớm được trình bày rõ ràng trong cõi đời. Như tôi kẻ sinh sau học muộn, nhiều việc chưa được nghe đến, chỉ đọc sách này một này cũng biết được cả, không chỉ là cái may của người xưa mà còn là cái may của tôi nữa”. Vì sách này giúp thêm kiến văn, đã cho khắc in, để truyền rộng rãi, khiến người xem biết được dụng tâm của bậc nhân, để cũng thấy phương xa có lắm nhân tài vậy. Quan Thượng thư bộ Lễ Hồ công đã làm tựa dẫn, tôi tạm ghi năm tháng vào sau.
Trung tuần tháng năm, năm Nhâm Tuất, niên hiệu Chính Thông thứ bảy (1442).
Á trung đại phu, Phúc Kiến đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ty Hữu Tham chính, Giao Nam Tống Chương viết.
Chú thích
▲ Câu trong bài Chưng dân, Đại nhã, Kinh Thi



Bottom of Form
http://lib.agu.edu.vn/gsdl/library?a=p&p=home&l=vi&w=utf-8

http://lib.agu.edu.vn/gsdl/library?e=d-00000-00---off-0thovan--00-0--0-10-0---0---0prompt-10---4-------0-1l--11-vi-50---20-about---00-0-1-00-0-0-11-1-0utfZz-8-00&a=d&c=thovan&cl=CL2.9.1&d=HASHbb1f1cb5a9a66814eed719.2.1

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét