Về bài thơ vịnh Mã Yên sơn lăng của Tam
nguyên Thám hoa Vũ Phạm Hàm
Có duyên với cụ Vũ Phạm Hàm từ khi mới vào Viện
nghiên cứu Hán Nôm. Làm chuyên đề Tập sự chọn Tập Đường thuật hoài của
cụ vừa mỏng vừa nhẹ, chỉ độ hơn 20 tờ. Nhưng làm vào thì thấy nhiều chuyện. Cái
tính của Văn nhân cao nhã khó lường. Mình chỉ được cái hiếu cổ ghi lại về cụ một
đôi dòng đánh lên Blog cho con cháu cụ hiểu mà nhớ, cho người Hiếu sự như mình
khi cần thì tìm hiểu thêm. Cũng là cái duyên người cổ người kim với nhau. Lục lại
trong Từ điển thấy khen tài thơ cụ mà không thấy dịch, khảo được Nguyên văn
cùng đăng lên cả. Cám ơn TS Hoàng Hồng Cẩm đã hướng dẫn, cám ơn đồng nghiệp Mai
Thu Quỳnh đã chụp hộ tài liệu, cám ơn đồng nghiệp Hoàng Thúy Ngà đã cung cấp
nguyên văn.
Chân dung Vũ Phạm Hàm trong quan phục
Nguyễn Q. Thắng
– Nguyễn Bá Thế / Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam.
Trang 934 – 935
(Vũ Phạm Hàm)
(Giáp tí 1864 – Bính ngọ 1906)
Danh sĩ, tự Mộng Hải, hiệu Thư Trì. Quê xã Đôn Thư, huyện Thanh Oai, tỉnh
Hà Đông[2] (nay là tỉnh Hà Sơn
Bình[3]).
Làm
Giáo thụ phủ Kiến Thụy[6], rồi lãnh chức Đốc học
Hà Nội, kiêm sung quán Đồng Văn[7], hàm Quang Lộc tự Thiếu
khanh. Đương thời giới trí thức rất hâm mộ tài học và đức độ của ông.
Năm
Bính ngọ 1906 ông mất, hưởng dương 42 tuổi.
Các
tác phẩm của ông:
Kinh sử thi tập A.133, Tập Đường thuật hoài A.2354, Mộng Hồ gia tập, Hưng Hóa phúA.1055, Thám Hoa văn tập A.528, Cầu Đơ tỉnh nhân đinh phong tục tổng sách A.173.
Thơ
văn ông còn truyền tụng nhiều vì nội dung, nghệ thuật sâu sắc. Có nhiều hình tượng
mà giới yêu thơ thán phục. Bài Đề vịnh
Mã Yên sơn lăng (lăng Đinh Tiên hoàng ở núi Mã Yên) được nhiều người tán
thưởng:
Phủ
hám Hoàng Long khóa thạch lương,
Hoa
Lư thành thượng tối cao cương.
Bán
không thiên vụ trì thiên cổ,
Nhị
đế thần linh giá bát hoang.
Kì
kiếm dư uy không thảo thụ,
Kim
ngân cố chỉ biến tinh sương.
Thánh
triều hậu ý siêu tiền liệt,
Đặc
kiến phong bi biểu tích vương.
Dưới
đây là nguyên văn chữ Hán chép trong Tam nguyên Thám hoa Thư Trì Vũ đại nhân thi
tập ký hiệu HN902 ĐH Sư phạm Hà Nội.
三元探花 書池 武大人 詩集 HN902
馬 鞍 山 在 嘉 遠 縣 長 安 上 社 分 丁 先 皇 陵 在 山 頂 黎 大 行 陵 在 山 腳 均 有 石 碑 標 識
國 朝 明 命 年 間 奉 敕 建
俯 瞰 黃 龍 跨 石 梁
花 閭 城 上 最 高 崗
半 空 煙 霧 馳 千 古
二 帝 神 靈 駕 八 荒
旗 劍 餘 威 空 草 木
金 銀 故 址 剩 星 霜
聖 朝 厚 道 超 前 轍
特 建 豐 碑 表 昔 王
Dịch
nghĩa
Thi tập của Tam nguyên Thám hoa Thư Trì Vũ đại nhân.
HN902
Núi Mã Yên sơn ở địa phận xã Trường Yên thượng, huyện Gia
Viễn. Có lăng vua Đinh Tiên hoàng ở đỉnh núi, lăng vua Lê Đại Hành ở chân núi,
đều có bia đá ghi dấu năm Minh Mệnh bản
triều ta vâng sắc xây dựng.
Trời cao mây tỏa suốt nghìn năm,
Cờ kiếm uy xưa nay chỉ còn hư không với cây cỏ,
Tích cũ vàng son còn lại với sương sao.
Đặc dựng bia cao để biểu dương các vua xưa.
Kim Giang tướng công[13] bình rằng: Câu thứ 8 hiềm hơi quá thẳng. Phỏng tác sửa
lại thành: Kính đọc bia cao mà luận dài việc thế sự.
Dịch
thơ
Ngắm
dòng Hoàng Long cầu đá qua,
Hoa
Lư thành cũ đỉnh là non cao.
Nghìn
năm mây khói tuôn trào,
Anh
linh nhị đế đã vào Bát hoang.
Uy
xưa cờ kiếm hoang tàn,
Vàng
son tích cũ chỉ còn sương sao.
Triều
ta thánh hậu hơn bao,
Bia
to dựng để khen triều tiền vương.
Lời của cụ Kim Giang: Bia cao kính đọc luận triều dài lâu.
Deutschland, Taucha, 2015 Đồng Hữu Hoành 仝有橫 tạm dịch.
[1] Do cách đọc Bắc Nam khác nhau nên Việt Nam bây giờ dùng Quốc
ngữ ghi âm thành ra 2 họ Võ – Vũ. Thực là 1 mà thôi.
[5] Sau kì thi Hương thì lên Kinh thi Hội,
đỗ đầu kì thi Hội gọi là Hội Nguyên. Sau kì thì Hội thì được vào thi Đình (Đình
thí), đỗ thi Đình thì gọi là Hoàng Giáp, nhưng đỗ đầu thi Đình còn gọi là Đình
Nguyên. Người đỗ đầu cả 3 kì Hương – Hội- Đình thì gọi là Tam Nguyên.
[7] Năm Tân Mão, Thành Thái thứ 3 (1891 Tây lịch)… Tháng 8… Đặt Đại Nam Đồng văn nhật báo (ở Hà Nội), chuẩn cho Bố chánh Lục Nam Dương Lâm lấy hàm Tham biện Nha Kinh lược quản lãnh. Trước là năm Đồng Khánh thứ 1 đã đặt Nam công báo, về sau vì nhiều việc nên đình bãi không thi hành. Đến lúc ấy Toàn quyền đại thần De Lan-essan bàn nên đặt lại, phàm những công văn tư lục ở kinh có quan hệ đến chính thể và những việc có quan hệ tới dân tình, thương chính ở Bắc Kỳ đều nhất nhất in lên báo, mỗi tháng bốn kỳ, phát giao cho các bộ nha ở kinh và các phủ tỉnh ở ngoài xem”; nhân sự của tờ báo từ Dương Lâm, Phan Văn Tâm, Vũ Phạm Hàm thời gian 1891 – 1893 tới Kiều Oánh Mậu, Phan Văn Đại năm 1904 . Cao Tự Thanh/ Sự chuyển tiếp từ Đại Nam Đồng văn nhật báo qua Nam Việt quan báo &
Đại Nam Đăng cổ tùng báo. https://anhbasam.wordpress.com/viet-su-ky/su-chuyen-tiep-tu-dai-nam-dong-van-nhat-bao-qua-nam-viet-quan-bao-dai-nam-dang-co-tung-bao/
[8] Sông Hoàng Long là một trong 4 con
sông lớn chảy trong địa bàn tỉnh Ninh
Bình do trung ương quản
lý. Sông được tính từ nơi hợp lưu giữa sông Bôi và sông Lạng tại Kênh Gà đến cầu Gián
Khẩu. Đoạn mang tên sông Hoàng Long dài khoảng 25 km.
Lưu vực sông Hoàng Long bao gồm nửa phía bắc Ninh
Bình là Nho
Quan, Gia
Viễn, Hoa Lư, thành phố Ninh Bình.
[9] Hoa Lư 華閭 là kinh đô của 2 triều Đinh- Tiền Lê, là quê của Đinh Tiên Hoàng. Kinh đô này tồn tại 42 năm (968
- 1010), gắn với sự nghiệp của ba triều đại liên tiếp là nhà Đinh, nhà Tiền Lê
và nhà Lý với các dấu ấn lịch sử: thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm
và phát tích quá trình định đô Hà Nội. Năm 1010 vua Lý Thái Tổ dời kinh đô từ
Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội), Hoa Lư trở thành Cố đô. Các triều
vua Lý, Trần, Lê, Nguyễn sau đó dù không đóng đô ở Hoa Lư nữa nhưng vẫn cho tu
bổ và xây dựng thêm ở đây nhiều công trình kiến trúc như đền, lăng, đình, chùa,
phủ… Kinh đô Hoa Lư xưa, nay chỉ còn là Cố đô Hoa Lư với diện tích tự nhiên
13.87 km² nằm trọn trong quần thể di sản thế giới Tràng An thuộc địa bàn tỉnh
Ninh Bình.
[13] Kim
Giang tướng công, tức Nguyễn Trọng Hợp (1834 - 1902), là quan nhà Nguyễn trải qua bảy triều vua từ Tự Đức đến Thành Thái, đại
thần nhà Nguyễn chủ chốt trong việc nghị hòa với người Pháp. Ông có tên tự là Trọng Hợp仲合, hiệu là Kim Giang(金江), tên thật là Nguyễn Tuyên(阮瑄), sau dùng tên tự là Trọng Hợp nên thường được gọi
là Nguyễn Trọng Hợp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét