Chủ Nhật, 3 tháng 5, 2015

Phạm Thị Thùy Vinh. VĂN KHẮC HÁN NÔM THĂNG LONG- HÀ NỘI

VĂN KHẮC HÁN NÔM

THĂNG LONG- HÀ NỘI

  
Tư liệu văn khắc Hán Nôm hiện còn khá nhiều trên địa bàn Hà Nội, nó có mặt tại tất cả các quận huyện nội ngoại thành. Đây là nguồn tư liệu rất quý phản ánh nhiều mặt về đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa, tín ngưỡng của người dân Thăng Long trong các chặng đường lịch sử khác nhau.
Văn khắc Hán Nôm là những bài minh văn viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm hoặc xen kẽ cả Hán lẫn Nôm được khắc trên đá, đồng hoặc gỗ bằng những công cụ thủ công. Phổ biến nhất của loại hình văn khắc Hán Nôm là các bài minh văn khắc trên bia đá và chuông khánh đồng. Đây là sản phẩm văn hóa của dân tộc Việt trong suốt hơn nghìn năm lịch sử. Văn khắc Hán Nôm còn lại đến ngày nay vừa mang ý nghĩa văn bản vừa là hiện vật khảo cổ vì chúng ta vẫn có thể chạm vào hoặc sờ lên hiện vật như bia đá,chuông đồng hoặc hoành phi câu đối. Văn khắc Hán Nôm hiện diện ở hầu hết các điểm di tích như: đình, chùa, đền miếu, từ đường dòng họ,văn miếu, văn chỉ, lăng mộ.Có thể dễ dàng nhận thấy văn khắc Hán Nôm thường xuất hiện ở những nơi được nhiều người biết đến nên nội dung thông tin có thể truyền đi được nhiều hơn. Dựng bia đá khắc minh văn nhằm mục đích vừa công bố văn bản, vừa truyền lại cho hậu thế những thông tin của quá khứ. Ở cuối mỗi bài minh văn hay có những câu răn dạy hậu thế, đại để là người ở xứ ấy, đọc tấm bia ấy biết những nội dung cần phải thực hiện mà lại quay lưng bội phản với những lời cam kết với tiền nhân thì sẽ bị trời đất chu diệt.
Hà Nội ngày  nay với một diện tích rất rộng bao gồm cả Hà Nội cũ, tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh và 4 xã của huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình. Với một địa hành chính rộng như vậy nên tư liệu văn khắc Hán Nôm của Hà Nội thực sự phong phú và đa dạng. Trước đây khi chưa sát nhập, loại hình văn khắc Hán Nôm của Hà Nội chỉ có tại những điểm di tích là đình, chùa, đền miếu, từ đường dòng họ, y miếu, văn miếu, văn chỉ, lăng mộ, cầu, quán chợ. Nay thêm nhiều vùng đất mới như tỉnh Hà Tây với nhiều khu di tích gắn liền với cảnh thiên nhiên như chùa Hương, chùa Thày, núi Tản Viên... thì văn khắc Hán Nôm của Hà Nội lại có thêm một loại khác,đó là bia ma nhai. Bia ma nhai là những bài minh văn được bạt đá núi để khắc vào,chúng ta có thể bắt gặp nhiều bia ma nhai ở chùa Hương, chùa Thày và nhiều hang động, núi non thuộc Hà Tây cũ. Hà Tây là một trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long xưa, nên diện mạo văn hóa nói chung, văn hóa Hán Nôm nói riêng cũng rất đa dạng giống như trấn Kinh Bắc ở phía bắc, trấn Hải Dương ở phía đông. Tuy nhiên, do khoảng không gian quá rộng để khảo cứu tư liệu trong một thời gian rất hạn hẹp nên trong quá trình sưu tập, tuyển chọn văn khắc Hán Nôm của Hà Nội lần này chúng tôi chưa thể đề cập đến khối tư liệu văn khắc của tỉnh Hà Tây cũ, huyện Mê Linh và bốn xã thuộc huyện Lương Sơn mới sát nhập vào Hà Nội. Trong tuyển tập Văn khắc Hán Nôm Hà Nội chúng tôi chỉ sưu tập, thống kê và tuyển dịch những bài minh văn trên bia đá và chuông đồng của 14 quận huyện của Hà Nội trước ngày sát nhập. Số văn khắc Hán Nôm  của các vùng mới nhập về Hà Nội chúng tôi chỉ tuyển dịch 10 đơn vị văn bản để cung cấp cho độc giả một cảm nhận chung sơ bộ về văn khắc Hán Nôm Hà Tây cũ, để thấy có những điểm gần gũi giữa các vùng văn hóa kề cận kinh thành Thăng Long xưa. Toàn bộ số văn khắc của Hà Tây, huyện Mê Linh và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn Hòa Bình trước đây xin được triển khai vào một dịp khác để có thể kháo cứu đầy đủ và toàn diện hơn. Sau đây chúng tôi xin điểm qua một số nét chính về loại hình văn khắc Hán Nôm trên địa bàn Hà Nội.
I. Nguồn tư liệu văn khắc Hán Nôm trên địa bàn Hà Nội
Tư liệu văn khắc Hán Nôm của Hà Nội mà chúng tôi tiến hành khảo cứu bao gồm văn khắc trên bia đá và chuông khánh đồng của 9 quận và 5 huyện [1].Chúng tôi không đề cập đến văn khắc trên gỗ như hoành phi, câu đối, biển gỗ. Nguồn tư liệu để tiến hành khảo cứu là kho thác bản văn khắc Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm qua các đợt sưu tầm từ đầu thế kỷ XX do viện Viễn Đông bác cổ của Pháp tại Hà Nội tiến hành và Viện Nghiên cứu Hán Nôm tiếp tục sưu tầm tiếp vào các năm 2004, 2005, 2006, 2007. Muốn có đầy đủ thông tin về văn khắc Hán Nôm của Hà Nội bắt buộc chúng tôi phải thu thập tài liệu từ hai nguồn vừa nêu để bổ sung cho nhau nhằm có được thống kê tổng hợp về toàn bộ số lượng văn khắc Hán Nôm của Hà Nội.
1. Tư liệu văn khắc Hán Nôm của Hà Nội qua đợt sưu tầm của viện Viễn Đông bác cổ Pháp đầu thế kỷ XX.
Hiện nay trong kho sách Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang bảo quản hơn 50.000 ký hiệu thác bản văn khắc Hán Nôm, trong đó có 22.000 ký hiệu văn bản được viện Viễn Đông bác cổ Pháp tại Hà Nội cho in rập từ những thập niên đầu của thế kỷ XX; số còn lại do viện Nghiên cứu Hán Nôm bổ sung trong vài chục năm gần đây. Với 22.000 ký hiệu văn khắc do Viễn Đông bác cổ in rập tương đương với khoảng 11.000 đơn vị thác bản, đây là toàn bộ số văn khắc của cả nước từ thời bắc thuộc đến triều Nguyễn [2]. Trong số 11.000 đơn vị văn khắc ấy thì Hà Nội có 1971 đơn vị văn bản, chiếm  xấp xỉ 18 %. Chúng tôi đã tiến hành thống kê toàn bộ số văn khắc Hán Nôm của các quận huyện thuộc Hà Nội trước khi chia tách thêm những quận mới như quận Cầu Giấy, quận Hoàng Mai, quận Thanh Xuân. Dưới đây là con số cụ thể của từng quận huyện.
- Quận Ba Đình: 351 đơn vị văn bản.
- Quận Đống Đa: 207 đơn vị văn bản.
- Quận Hai Bà Trưng: 196 đơn vị văn bản.
- Quận Hoàn Kiếm: 207 đơn vị văn bản.
- Huyện Đông Anh:  146 đơn vị văn bản.
- Huyện Gia Lâm: 189 đơn vị văn bản.
- Huyện Sóc Sơn (lúc sưu tầm gọi là huyện Kim Anh): 144 đơn vị văn bản.
- Huyện Thanh Trì:  211 đơn vị văn bản.
- Huyện Từ Liêm:  320 đơn vị văn bản.
Tổng cộng là 1971 đơn vị văn bản.
 Như vậy số văn khắc Hán Nôm của Hà Nội do viện Viễn Đông bác cổ (EFEO) đi in rập từ đầu thế kỷ XX (từ đây chúng tôi xin gọi là đợt sưu tầm lần thứ nhất) được phân bổ ở tất cả các quận huyện của Hà Nội, trong đó quận Ba Đình và huyện Từ Liêm chiếm số lượng nhiều hơn cả.
Về các địa điểm di tích liên quan đến văn khắc Hà Nội trong đợt sưu tầm lần thứ nhất gồm: chùa, đền, đình, miếu, quán, văn chỉ, từ đường dòng họ và một số bia liên quan đến cầu và chợ; trong đó số văn khắc được lưu giữ tại chùa chiếm số lượng nhiều nhất. Ở nội thành Hà Nội cũ, các quận Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng, chùa là nơi còn lưu giữ được nhiều văn khắc nhất, tiếp theo là ở đền rồi sau đó mới đến đình. Trường hợp quận Hoàn Kiếm thì lại khác. Tại đây điểm di tích được nhắc đến nhiều nhât, lưu giữ nhiều văn khắc nhất là ngôi đền, sau đó mới đến chùa và đình. Điều này phải chăng cho thấy trong quá trình đô thị hóa ở chốn Kinh kỳ - Kẻ Chợ ngôi đình làng không còn là nơi hội tụ đông đảo dân chúng như ở các vùng quê, sinh hoạt cộng đồng của dân 36 phố phường xưa dần dần tập trung về các ngôi đền hoặc chùa. Đặc biệt quận Hoàn Kiếm là trung tâm buôn bán của Thăng Long với nhiều lớp dân từ các vùng quê đến lập nghiệp nên họ chú trọng dựng đền miếu, khắc bia để tưởng nhớ các vị tổ nghề cầu mong được làm ăn phát đạt. Do đó đền miếu được người dân lui tới nhiều hơn,vì thế họ cũng sẽ đóng góp nhiều hơn để tu bổ qua các thời kỳ. Đó là nguyên nhân dẫn đến số lượng bia ở đền tăng lên. Cũng cần lưu ý là điểm di tích nào được đông đảo người dân lui tới thường xuyên thì họ sẽ tham gia đóng góp công đức, tu bổ nhiều hơn và vì thế mà bia đá được dựng lên để ghi công.
Thống kê về địa điểm di tích còn lưu giữ văn khắc của bốn quận nội thành cho thấy vào đầu thế kỷ XX (khi Viện Viễn Đông bác cổ Pháp tiến hành in rập thác bản văn khắc) có ba loại di tích được nhắc đến nhiều nhất:
Đó là: 26 ngôi đình 35 ngôi đền và 59 ngôi chùa. Các di tích khác như văn chỉ chỉ có 3 và duy nhất có một nhà thờ họ ở quận Hai Bà Trưng. Ngược lại với chốn đô hội phố phường, tại các huyện ngoại thành Hà Nội như Gia Lâm, Đông Anh, Từ Liêm, Thanh Trì, Sóc Sơn thì số bia chuông được lưu giữ tại đình chiếm số lượng thứ hai sau chùa. Điều này cho hay, ở vùng ngoại thành ngoài sinh hoạt tín ngưỡng tại chùa thì ngôi đình vẫn là trung tâm của cả làng, tập hợp được nhiều lớp người trong làng. Nhưng Phật giáo vẫn là tôn giáo thâm nhập vào Việt Nam lâu đời nhất, trở thành một tín ngưỡng gần gũi và quen thuộc trong mọi tầng lớp nhân dân, vì thế những tư liệu, hiện vật liên quan đến Phật giáo thường được lưu giữ cẩn thận, chu đáo hơn và xuất hiện nhiều văn bản ở các ngôi chùa hơn. Một đặc điểm nữa của văn khắc các huyện ngoại thành Hà Nội là tất cả các huyện đều lưu giữ được những bài minh văn tại một số từ đường dòng họ. Điều này rất hiếm gặp tại các quận nội thành. Có thể lý giải là nội thành Hà Nội là nơi mới tụ cư của nhiều thành phần trong xã hội, dù các thế hệ khác nhau đã ra Thăng Long sinh sống vài ba trăm năm thì từ đường dòng họ ở quê mới là nơi thờ tự chính. Ngay cả những dòng họ phát đế nghiệp như họ Lê, họ Trịnh ở Thanh Hóa cũng không là ngoại lệ. Trong bài minh văn trên chuông chùa Hộ Quốc phường Thanh Lương quận Hai Bà Trưng đã phản ánh rất rõ điều này. Phần ghi tên những người công đức tiền của để đúc chuông vào năm Cảnh Thịnh 6(1798) người ta đã ghi hàng loạt tên người kèm theo nơi cư trú hiện tại và nguyên quán như sau:
  “Hội chủ thôn Nguyệt Lãng, xã Nhân Lý, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên, ở tại xóm Trung Chí thuộc Kinh Đô là Lê Văn Sách, tự Pháp Cẩn, vợ Lê Thị Cần, hiệu Diệu Nghiêm, cúng 3 quan tiền cổ.
Hội chủ thôn Lý, xã Hoàng Tùng huyện Quỳnh Lưu phủ Diễn Châu, ở tại xóm Nam Phụ, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên thuộc Kinh Đô là Phan Thị Tầm, hiệu Diệu Tâm, con gái Trịnh Thị Trường. Tầm quân sứ Vũ Trung Thân; Trương Đình Khổn, ở tại xóm Nam Phụ, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên thuộc Kinh Đô, cúng 3 quan tiền cổ. 
Hội chủ thôn Lục Thuyên, xã Hoằng Phúc, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, ở tại xóm An Thành, huyện Quảng Đức là Tạ Đình Giai, vợ Lê Thị Hai, cháu con là Nguyễn Thị Nữ, cúng 2 quan tiền cổ.  
Hội chủ xã Tam Cách huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, ở tại xóm An Trung Thượng, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên là Đàm Văn Trữ, vợ Nguyễn Thị Thục, cúng 2 quan tiền cổ.
Hội chủ thôn Lan Khê, xã Long Phúc, huyện Thạch Hà, phủ Hà Hoa, ở tại xóm An Trung Thượng, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên là Dương Thị Sâm, cúng 3 quan tiền cổ”…
 Những điều trên cho thấy dù đã định vị yên ổn tại nơi ở mới chốn kinh kỳ nhưng nguồn gốc quê hương vẫn là điều họ không quên, họ vẫn giữ nguyên nguồn gốc quê quán  khi tên của họ được ghi trên chuông đồng bia đá. Và từ đây suy ra quê hương mới chính là nơi được xây dựng từ đường dòng họ.
    Về niên đại, số văn khắc Hán Nôm của Hà Nội qua đợt sưu tầm lần thứ nhất chủ yếu có niên đại từ thế kỷ XVII, XVIII, XIX và những năm đầu thế kỷ XX. Tấm bia cổ nhất của Hà Nội trong đợt sưu tầm này đặt tại chùa Kim Liên phường Nghi Tàm quận Tây Hồ. Bia có ba niên đại khác nhau. Đây là tấm bia bốn mặt, chúng ta thường biết đến niên đại chính là Thái Hòa 3(1445), nhưng kiểm tra trên thác bản thì chúng tôi vẫn còn đọc được ba niên đại được khắc ở ba mặt khác nhau… Một mặt ghi niên đại là Thái Hòa 1, mặt khác ghi niên đại là Thái Hòa 3, mặt cạnh của bia khắc ghi sắc thượng với dòng niên đại là ngày 21 tháng 2 năm Mậu Thân, Thuận Thiên 1(1428). Đây là niên đại tạo dựng văn bản chứ không phải là niên đại ban bố sắc rồi đời sau cho khắc ghi lại. Chứng cứ là đằng sau dòng ghi ngày tháng là chữ tạo (nguyên văn là Mậu Thân Thuận Thiên nhất niên nhị nguyệt nhị thập nhất nhật tạo). Như vậy có thể khẳng định niên đại khắc là năm Thuận Thiên 1. Để tránh nhầm lẫn với các niên hiệu khác, như Thuận Thiên của triều Lý, ở dòng niên đại này còn ghi thêm là năm Mậu Thân. Đây chính là năm đầu tiên Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu Thuận Thiên và văn bản này được cho san khắc vào bia đá rất gần thời gian ngay sau khi Lê Lợi lên ngôi, đóng đô ở Thăng Long. Tuy nội dung của văn bản đã bị mờ hết nhưng chúng tôi cũng đếm được toàn bộ văn bản gồm 4 dòng với khoảng 30 chữ rất mờ.Chúng tôi có đọc được một số chữ còn lại trong văn bản này, đó là chức danh Điện thượng khinh xa Đô úy Á hầu nhưng tứ [][][]…,phần tên người bị mờ không đọc được. Nếu tấm bia này không bị mờ gần hết chữ thì rất có thể chúng ta đã có những thông tin quý về sự đóng góp tu sửa chùa Kim Liên (lúc đó có tên gọi là chùa Đại Bi) ngay từ những tháng năm đầu tiên của triều Hậu Lê.Điều này cho thấy ngay sau khi đánh tan giặc Minh, trở về làm chủ thành Đông Quan, Vua Lê Thái Tổ đã kịp ban bố những sắc chỉ liên quan đến Phật giáo để an dân sau những năm chiến tranh lọan lạc. Chùa Kim Liên có vị trí rất đẹp ngay sát Hồ Tây đã may mắn còn lưu giữ được chút dấu tích văn tự trên bia đá cách chúng ta đến gần 600 năm.
2.Văn khắc Hán Nôm Hà Nội qua đợt sưu tầm lần thứ hai do Viện Hán Nôm tiến hành vào  những năm  đầu thế kỷ XXI.
Trong các năm 2004, 2005, 2006, 2007 Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã đi sưu tầm lại toàn bộ di sản Hán Nôm trên địa bàn Hà Nội. Như vậy là gần một thế kỷ các tư liệu văn khắc của Hà Nội đã được in rập lại. Thật bất ngờ là có rất nhiều sự thiếu hụt trong lần sưu tầm đầu thế kỷ XX đã được bổ sung, số lượng văn khắc đã tăng lên gấp đôi so với lần sưu tầm thứ nhất. Nhưng cũng đáng tiếc là có một số bia có niên đại sớm lại không còn nữa. Như vậy,sự bổ sung của hai đợt sưu tầm tư liệu cách nhau một thế kỷ là cực kỳ quan trọng.
Về số lượng: qua đợt sưu tầm trong các năm 2004, 2005, 2006, 2007 toàn bộ số văn khắc của 9 quận 5 huyện  Hà Nội đã được in rập với tổng số là 3956 đơn vị văn bản.
Năm 2004:
Có 5 quận nội thành được sưu tầm, in rập thác bản văn khắc Hán Nôm, đó là các quận Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Tây Hồ với 1346 đơn vị văn khắc được in rập.
- Quận Ba Đình có 10 phường được sưu tầm tài liệu với 195 đơn vị văn bản.
- Quận Đống Đa có 16 phường đã sưu tầm tài liệu với 253 văn bản
- Quận Hai Bà Trưng có 14 phường đã sưu tầm tư liệu Hán Nôm với 302 văn bản văn bản.
Quận Hoàn Kiếm có 15 phường đã sưu tầm tư liệu với  243 văn bản.
- Quận Tây Hồ có 9 phường đã sưu tầm tư liệu  với số văn khắc là 353 văn bản.
        Năm 2005:
Có 7 quận huyện được sưu tầm tài liệu Hán Nôm, đó là các quận Cầu Giấy, quận Hoàng Mai, quận Thanh Xuân, huyện Đông Anh, huyện Gia Lâm, huyện Thanh Trì, huyện Từ Liêm. Tổng số có 1223 đơn vị văn khắc được in rập trong năm 2005.
Quận Cầu Giấy: có 6 phường được điều tra sưu tầm tài liệu Hán Nôm với tổng số 173 đơn vị văn bản.
Quận Thanh Xuân: có 3 phường đã sưu tầm tư liệu với 114 đơn vị văn bản.
Quận Hoàng Mai: có 14 phường đã sưu tầm tư liệu với 197 đơn vị văn bản.
Huyện Từ Liêm: có 8 xã đã sưu tầm tư liệu với 149 đơn vị văn bản.
 Huyện Đông Anh: có 10 xã được sưu tầm tài liệu với 185 đơn vị văn bản.
Huyện Gia Lâm:  có 6 xã được sưu tầm tư liệu với 166 đơn vị văn bản.
 Huyện Thanh Trì : có 8 xã sưu tầm tài liệu với 227 đơn vị văn bản.
Năm 2006:
Có 6 quận huyện với 59 xã phường thuộc quận Long Biên, huyện Gia Lâm, huyện Đông Anh, huyện Sóc Sơn, huyện Thanh Trì, huyện Từ Liêm được sưu tầm tư liệu Hán Nôm, có 893 đơn vị văn khắc được in rập.
       Quận Long Biên: có 10 phường được sưu tầm với 160 đơn vị văn bản.
Huyện Đông Anh: có 14 xã được sưu tầm với 151 đơn vị văn bản.
Huyện Gia Lâm: có 10 xã được sưu tầm tài liệu với 242 đơn vị văn bản
Huyện Sóc Sơn: có 17 xã được sưu tầm tài liệu với 182 đơn vị văn bản
Huyện Thanh Trì: có 7 xã được sưu tầm tài liệu với 125 đơn vị văn bản.
Huyện Từ Liêm: có một xã là xã Xuân Phương được sưu tầm tư liệu với 33 đơn vị văn bản.
 Năm 2007:
Có 20 xã phường thuộc 5 quận huyện được sưu tầm tư liệu, đó là phường Tân Mai quận Hoàng Mai, phường Cự Khối, phường Phúc Đồng, phường Thạch Bàn quận Long Biên; xã Đông Dư, xã Kim Lan, xã Văn Đức huyện Gia Lâm; xã Mai Đình, xã Minh Phú, xã Minh Trí, xã Quang Tiến, xã Tân Dân, xã Thanh Xuân huyện Sóc Sơn; xã Cổ Nhuế, xã Đại Mỗ, xã Minh Khai, xã Phú Diễn, xã Tây Mỗ, xã Xuân Đỉnh, xã Xuân Phương huyện Từ Liêm.Tổng số văn bản được in rập trong năm 2007 là 494 đơn vị.
Phường Tân Mai quận Hoàng Mai chỉ có 1 bia.
Quận Long Biên: có 3 phường được sưu tầm tư liệu với 47 đơn vị văn bản.
Huyện Sóc Sơn: có 6 xã được sưu tầm tư liệu với 104 đơn vị văn bản.
Huyện Gia Lâm: có 3 xã được sưu tầm tài liệu với 22 đơn vị văn bản
Huyện Từ Liêm: có 7 xã được sưu tầm tài liệu với 321 đơn vị văn bản.
Như vậy qua đợt sưu tầm lần thứ hai do Viện Nghiên cứu Hán Nôm tiến hành vào những năm đầu của thế kỷ XXI, tổng số văn khắc của Hà Nội cũ được in rập về là 3956 đơn vị văn bản. Nếu so sánh với số lượng văn khắc do Viện Viễn Đông bác cổ Pháp in rập đầu thế kỷ XX thì sau ngót một thế kỷ, số lượng văn khắc của Hà Nội đã tăng lên gấp đôi. Trong đó, số văn khắc của huyện Từ Liêm tăng lên đáng kể khi mà diện tích của huyện này đã bị chia tách ra cho các quận huyện mới thành lập như quận Tây Hồ, quận Cầu Giấy, quân Thanh Xuân. Điều đó cho thấy có khá nhiều văn khắc Hán Nôm đã bị bỏ sót không in rập trong lần sưu tầm thứ nhất.
Dưới đây là bảng thống kê số lượng văn khắc hiện còn của các quận huyện thuộc Hà Nội trước khi được mở rộng diện tích như hiện nay.

STT
Quận/huyện
2004
2005
2006
2007
Tổng cộng
1
Ba Đình
195
0
0
0
195
2
Hoàn Kiếm
243
0
0
0
243
3
Đống Đa
253
0
0
0
253
4
Hai Bà Trưng
302
0
0
0
302
5
Tây Hồ
353
0
0
0
353
6
Cầu Giấy
0
173
0
0
173
7
Thanh Xuân
0
114
0
0
114
8
Hoàng Mai
0
197
0
1
198
9
Long Biên
0
0
160
47
207
10
Gia Lâm
0
166
242
22
430
11
Đông Anh
0
185
151
0
336
12
Sóc Sơn
0
0
182
104
286
13
Thanh Trì
0
125
227
0
352
14
Từ Liêm
0
149
33
321
503
15
Tổng cộng
1346
1223
893
494
3956

Theo bảng thống kê trên có 6 quận huyện có số lượng văn khắc nhiều nhất, trên 300 văn bản. Đó là huyện Từ Liêm: 503 văn bản, huyện Gia Lâm 430 văn bản, quận Tây Hồ 353 văn bản, huyện Thanh Trì 352 văn bản, huyện Đông Anh 336 văn bản, quận Hai Bà Trưng 302 văn bản. Số văn bản tăng lên khá nhiều như vậy đã phản ánh  có rất nhiều văn khắc Hán Nôm đã bị bỏ sót hoặc cố ý không in rập trong đợt sưu tầm lần thứ nhất. Số văn bản này phần lớn có niên đại nhà Nguyễn và đều tập trung ở các ngôi chùa. Liên quan đến việc bỏ sót, không in rập những văn bản có niên đại muộn đầu thế kỷ XX,có hai nguyên nhân chính:
-       Một là do chủ trương lúc bấy giờ nếu in rập văn bản có niên đại sớm thì sẽ được trả thù lao cao hơn, (ỏ Hà Nội niên đại sớm là niên đại Hậu Lê, tập trung vào giai đoạn Lê trung hưng thế kỷ XVII, XVIII) nên có khá nhiều bia Nguyễn được làm giả niên đại Hậu Lê trong quá trình in rập [3]. Vì thế người đi sưu tầm lúc bấy giờ không chú trọng đến những văn bản có niên đại muộn.
-       Hai là, có nhiều bia xuất hiện trong niên hiệu cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại, những bia này có mặt sau khi những đợt sưu tầm đầu thế kỷ XX diễn ra, do vậy đã không thể có trong đợt sưu tầm lần thứ nhất.
Tất nhiên có thể vẫn có những văn bản niên đại sớm nhưng vẫn bị bỏ sót không in rập trong lần sưu tầm đầu thế kỷ XX. Lại có những hiện vật chưa được phát lộ, sau này mới xuất hiện như quả chuông đồng tại xã Nhật Tảo huyện Từ Liêm niên đại Càn Hòa 6( 948)[4]; nhưng cũng có những bia đá vẫn tồn tại cùng các điểm di tích từ đầu thế kỷ XX đến nay song vẫn không được in rập. Đó là bia Nga My tự bi đặt tại chùa Nga My phường Hoàng Văn Thụ quận Hoàng Mai, bia được tạo dựng vào năm Hồng Đức 28 (1497). Những cứ liệu mới phát hiện như thế cho phép chúng ta hy vọng tại Hà Nội vẫn còn ẩn tàng đâu đó những bài minh văn quý hiếm trên bia đá chuông đồng  trong dân gian chưa được phát lộ.      
Trong đợt sưu tầm do Viện Nghiên cứu Hán Nôm tiến hành, văn khắc có niên đại sớm nhất của Hà Nội là minh văn trên chuông Nhật Tảo niên đại Càn Hòa 6 (948). Tiếp theo vẫn là minh văn trên bia chùa Đại Bi (chùa Kim Liên quận Tây Hồ) với niên đại Thuận Thiên như chúng tôi đã trình bày ở trên và tư liệu mới phát hiện là minh văn được tạo dựng năm Hồng Đức 28 tại chùa Nga My phường Hoàng Văn Thụ quận Hoàng Mai. Tuy nhiên, minh văn trên chuông Nhật Tảo huyện Từ Liêm  được Phạm Văn Thắm phát hiện và công bố năm 1987 lại không thấy xuất hiện trong đợt sưu tầm đầu thế kỷ XX. Có lẽ đây là hiện vật quý hiếm nên không dễ tiếp cận. Nhưng minh văn trên quả chuông này đã được in rập về Viện Nghiên cứu Hán Nôm hơn hai chục năm trước và đã được công bố trong Văn khắc Hán Nôm Việt Nam từ Bắc thuộc đến thời Lý [5], do đó chúng tôi xếp bài minh văn này trong đợt sưu tầm lần thứ hai. Về niên đại của các văn bản trong đợt sưu tầm lần thứ hai chủ yếu là niên đại triều Nguyễn. Tiến hành kiểm tra, thống kê niên đại của văn khắc Hán Nôm của 5 quận nội thành là Ba Đình, Tây Hồ, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng cho thấy hầu hết đều là văn bản triều Nguyễn. Chúng tôi chưa có điều kiện để thống kê lại toàn bộ niên đại của tư liệu văn khắc Hán Nôm Hà Nội nhưng với con số của 5 quận nội thành đã cho chúng ta biết ở trung tâm Hà Nội hiện nay số văn khắc có niên đại trước thời Nguyễn chỉ chiếm chưa đến 10%. Cụ thể con số này ở 5 quận trên như sau:
- Quận Đống Đa: có 193 đơn vị văn khắc thời Nguyễn, 22 đơn vị văn khắc thuộc triều Lê và Tây Sơn ( ở đây không bao gồm số bia Văn Miếu vì bia Văn Miếu không được sưu tầm lần hai), 23 đơn vị văn bản không ghi niên đại, 7 đơn vị văn bản có niên đại Việt Nam dân chủ cộng hòa, tức sau năm 1945 đến trước năm 1975.
- Quận Tây Hồ: có 226 đơn vị văn khắc thời Nguyễn, 44 đơn vị văn khắc niên đại Tây Sơn và triều Lê, 73 đơn vị văn bản không ghi niên đại, 10 văn bản niên đại từ sau năm 1945 đến năm 2000.
- Quận Hai Bà Trưng: có 241 đơn vị văn khắc triều Nguyễn, 9 đơn vị văn bản niên đại triều Lê, 45 đơn vị văn bản không ghi niên đại, 7 đơn vị văn khắc có niên đại Việt Nam dân chủ cộng hòa.
- Quận Hoàn Kiếm: có 181 đơn vị văn khắc triều Nguyễn, 14 đơn vị văn bản triều Lê, 31 văn bản không ghi niên đại, 17 văn bản có niên đại Việt Nam dân chủ cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Quận Ba Đình có 123 đơn vị văn khắc triều Nguyễn, 7 văn bản triều Lê và Tây Sơn, 4 văn bản Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Những cứ liệu trên là minh chứng rõ ràng về tình trạng của văn khắc  Hán Nôm Hà Nội hiện nay. Hà Nội trung tâm đã thưa vắng khá nhiều những văn bản có niên đại sớm, trong khi đó lại xuất hiện những văn bản mới không những sau năm 1945, 1975 mà ngay đầu thế kỷ XXI vẫn có những bài minh văn viết bằng chữ Hán được khắc trên bia và chuông ở ngay các quận nội thành.
Chúng tôi đưa ra những thông tin khái quát về diện mạo văn khắc Hán Nôm Hà Nội qua hai đợt sưu tầm cách nhau ngót một thế kỷ, nhằm cung cấp cho độc giả những thông tin cơ bản về loại hình tư liệu văn khắc Hán Nôm trên địa bàn Hà Nội cũ và thực trạng hiện nay của loại hình văn bản này trên các điểm di tích của toàn thành phố.
II. Giá trị của văn khắc Hán Nôm trong việc nghiên cứu sự phát triển của Thăng Long – Hà Nội
1. Một số yêu cầu  tuyển dịch văn khắc Hán Nôm Hà Nội
Với một số lượng văn khắc rất nhiều qua hai đợt sưu tầm lớn nên trong một thời gian hạn hẹp, chúng tôi không dễ để có thể giải mã được nhiều văn bản. Vì thế, trong lần tuyển dịch này chúng tôi đã chọn dịch 117 văn bản mới và có tham khảo kế thừa thêm 18 bản dịch cũ trong Tuyển tập văn bia Hà Nội xuất bản cách đây 30 năm.Trong lần tham khảo này, hầu hết chúng tôi chỉ kế thừa một phần bản dịch cũ,còn lại đều bổ sung thêm các phần dịch mới cũng như phần phiên âm. Như vậy trong Tuyển tập Văn khắc Hán Nôm Hà Nội chúng tôi sẽ giới thiệu 135 bài minh văn trên cả bia đá và chuông đồng. Tuy số lượng đó so với tổng số văn khắc Hán Nôm hiện còn của Hà Nội là rất khiêm tốn, nhưng với tập thể nhóm công trình thì đó là một sự cố gắng rất lớn. Chúng tôi chủ trương dịch các văn bản mới chưa được công bố để có thể đóng góp được nhiều tư liệu nghiên cứu về Thăng Long. Những văn bia đã được tuyển dịch trong văn bia Hà Nội trước đây là những bài văn bia tiêu biểu và đặc sắc, có thể tham khảo được rất nhiều. Do đó chúng tôi chỉ tổ chức dịch lại một số văn bản chưa được dịch hoàn chỉnh. Bởi trong lần tuyển dịch đầu tiên về văn bia Hà Nội không có phần phiên âm và các tác giả chỉ tập trung dịch phần bài ký có ý nghĩa trọng tâm còn phần khắc ghi tên người, chức tước, số tiền bạc, ruộng đất đóng góp đã bị lược bỏ; thậm chí rất nhiều  bia bị lược bỏ phần ghi tên người đã tham gia định hình văn bản như người giám sát việc tạo dựng bia, người viết chữ, nhóm thợ khắc. Thực chất, những dòng ghi tên người đóng góp hưng công xây dựng các công trình như đình,chùa, đền miếu...đã cho chúng ta biết rất rõ các tầng lớp dân Hà Nội và các vùng phụ cận đã có những quan tâm như thế nào trước những việc công ích của cả cộng đồng. Những dòng tên người cùng chức tước, giới tính, quê quán của họ là những tư liệu để điều tra xã hội học rất hữu ích. Chính vì vậy chúng tôi đã cho dịch bổ sung phần bỏ sót đó. Ngoài ra, chúng tôi cũng  tuyển thêm những bài minh văn có trên địa bàn Hà Nội đã được dịch và công bố như bài minh văn trên chuông Nhật Tảo huyện Từ Liêm hoặc minh văn trên chuông Thanh Mai Hà Tây cũ. Chúng tôi sẽ có chú thích, dẫn nguồn tư liệu ở cuối mỗi bài tuyển chọn. Để có được số lượng các bài minh văn tuyển dịch, chúng tôi đã tiến hành khảo cứu trên toàn bộ gần 6000 đơn vị văn bản văn khắc của Hà Nội cũ. Sau đó chúng tôi mới chọn lựa được 135 văn bản để dịch. Những tiêu chí để lựa chọn của chúng tôi dựa trên một số nguyên tắc sau:
-        Chọn theo địa danh quận huyện, mỗi quận huyện có thể có từ 5 đến 10 văn bản. Chúng tôi không thể chọn theo cấp xã phường vì có quá nhiều xã phường. Tất nhiên có thể có những quận hoặc huyện được chọn nhiều hơn hoặc ít hơn tùy theo nội dung của văn bản. Nếu trong Tuyển tập văn bia Hà Nội đã xuất bản trước đây chỉ công bố phần dịch nghĩa và một phần chữ Hán của các bài văn bia thuộc bốn quận nội thành cũ, thì lần này chúng tôi có kế thừa phần nào thành quả của những người đi trước nhưng đã mở rộng ra rất nhiều lần. Phạm vi không gian đã vươn ra đến tất cả các quận huyện trước ngày sát nhập, cũng không phải chỉ có văn bia mới được tuyển dịch mà chúng tôi đã tuyển dịch một số minh văn trên các chuông đồng và những bài minh văn này thật sự rất hay, cho chúng ta biết những thông tin về Thăng Long trong sự chuyển giao từ chế độ Lê Trịnh sang Tây Sơn.
-        Chọn theo nội dung phản ánh. Chúng tôi muốn đưa vào Tuyển tập Văn khắc Hán Nôm Hà Nội lần này những bài minh văn có nội dung hay, đặc sắc, đề cập đến nhiều các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của Thăng Long xưa. Những văn bản đó có thể nói về việc tạo dựng đình, chùa, đền miếu,  hoặc tu sửa văn chỉ, xây từ đường dòng họ, cũng có thể là văn bản về việc xây cầu, dựng chợ và những việc liên quan đến đời sống kinh tế của nhân dân Hà Nội trong cả một chặng đường dài phát triển, từ thời Trung đại, Cận đại đến hiện đại. Mục đích tuyển chọn của chúng tôi là muốn có đại diện của tất cả các văn bản đặt tại các điểm di tích vừa nêu.
-        Chọn theo niên đại. Ưu tiên văn bản có niên đại sớm để dịch trước, như thế không có nghĩa là văn bản niên đại muộn không được quan tâm. Trong tuyển dịch lần này chúng tôi sẽ chọn phần lớn những văn bản có niên đại Hậu Lê, nhưng các đại diện văn bản của triều Tây Sơn và triều Nguyễn đều có trong số tuyển dịch của chúng tôi.
-        Một điều nữa cũng là nguyên tắc tuyển dịch của chúng tôi, đó là chỉ chọn dịch những văn bản còn thác bản tức những bản in rập qua các đợt sưu tầm, hoặc những bài minh văn đó vẫn còn hiện diện trên bia chuông. Những bài minh văn không còn thác bản, chỉ còn trong ghi chép ở các thư tịch chúng tôi không đưa vào tuyển dịch. Chẳng hạn như bia Nhất Trụ bi ký được Tuyển tập văn bia Hà Nội giới thiệu, nhưng khi chúng tôi điều tra lại tư liệu thì văn bia này chỉ là một văn bản chép tay trên giấy thường, không phải là thác bản in rập trên bia đá, do vậy chúng tôi đã loại trừ không tuyển dịch. Bởi hiện tại số lượng văn khắc Hán Nôm Hà Nội còn rất nhiều, rất phong phú nên chỉ tập trung giới thiệu những văn bản hiện còn cũng vẫn là chưa đủ.
-        Bia Văn Miếu là một phần của văn khắc Hán Nôm  Hà Nội nhưng chúng tôi cũng không tuyển  dịch. Bởi tuy cũng là loại hình văn khắc trên bia đá của Hà Nội nhưng bia Văn Miếu có đặc thù rất riêng biệt. Đây là loaị bia đề danh tiến sĩ của cả nước từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII. Do đó 82 bia Văn Miếu Hà Nội đã được dịch và xuất bản rất nhiều lần, trở thành những chuyên khảo riêng biệt và trong chương trình sách kỷ niệm nghìn năm Thăng Long Hà Nội, bia Văn Miếu cũng được tái xuất bản thành bộ sách riêng. Vì thế toàn bộ bia Văn Miếu Hà Nội cũng không nằm trong sự tuyển chọn của chúng tôi, mặc dù trong Tuyển tập văn bia Hà Nội đã xuất bản năm 1978, các tác giả cũng tuyển dịch tới 9 bia Văn Miếu trong tổng số 63 văn bia được giới thiệu.
-       Bên cạnh những bài minh văn trên địa bàn Hà Nội cũ, theo yêu cầu của Nhà xuất bản Hà Nội trong chương trình in sách kỷ niệm nghìn năm Thăng Long Hà Nội, các tác giả phải cập nhật thêm những thông tin về những tư liệu ở vùng đất mới sát nhập về Hà Nội. Vì vậy, chúng tôi tuyển thêm vào đây 10 bài minh văn trên đất Hà Tây cũ, trong đó có 4 bài được tuyển lại trong Văn bia Hà Tây nhưng nhóm công trình đã bổ sung phần chữ Hán và phiên âm, trong Văn bia Hà Tây trước đó chưa có phần này; đồng thời, chúng tôi cũng tuyển bài minh văn trên chuông Thanh Mai – Hà Tây cũ đã được Đinh Khắc Thuân phiên âm dịch nghĩa. Số văn bản còn lại là các bài văn bia có niên đại Lê sơ do Phạm Thị Thùy Vinh và Trần Thị Kim Anh trong nhóm công trình Văn bia Lê sơ của phòng Nghiên cứu Văn khắc Hán Nôm, Viện Nghiên cứu Hán Nôm thực hiện. Mục đích của việc đưa thêm một số văn khắc thuộc Hà Tây cũ để bạn đọc có cảm nhận thêm về văn khắc Hán Nôm của Hà Nội mở rộng hôm nay.
2.Giá trị nội dung của văn khắc Hán Nôm Hà Nội
   1. Cung cấp thông tin về địa danh hành chính
Giá trị dễ nhận thấy trong tư liệu văn khắc Hán Nôm là cung cấp thông tin về những thay đổi địa danh hành chính. Đáng tiếc là văn khắc Hán Nôm của Hà Nội còn lại nhiều nhất chỉ tập trung trong ba thế kỷ XVII, XVIII, XIX và nửa đầu thế kỷ XX nên những địa danh hành chính được phản ánh nhiều nhất cũng chỉ có trong khoảng thời gian đó. Nhưng chỉ chừng ấy thôi cũng thực sự quý để chúng ta nghiên cứu địa danh và các vấn đề xã hội khác của Hà Nội bởi các bộ sách địa chí ghi chép về Hà Nội hiện còn chỉ là nguồn tài liệu thời Nguyễn nhưng cũng là Nguyễn muộn. Chỉ một dòng địa danh được ghi trong minh văn chuông Nhật Tảo thế kỷ X “ Giao Chỉ huyện Hạ Từ Liêm thôn” đã góp phần xác nhận quả chuông đó đích thực là của người Việt ở vùng Hà Nội ngày nay. Cũng qua bài minh văn này lần đầu tiên chúng ta được biết đến địa danh Hạ Từ Liêm thôn, chúng ta mới chỉ biết đến tên huyện Từ Liêm còn địa danh thôn Hạ Từ Liêm thì chỉ  xuất hiện trong bài minh văn cách chúng ta hơn 10 thế kỷ và ngày nay không còn địa danh này. Tên huyện Giao Chỉ vốn là vùng đất huyện Long Biên thời Hán [6] được đặt từ năm 590 (đời Tùy Khai Hoàng năm thứ 10) nhưng đến năm 948 là năm có bài minh văn trên chuông, tức sau gần 400 năm thì tên huyện Giao Chỉ vẫn giữ nguyên.
   Hoặc trên minh văn chùa Nga My được khắc năm Hồng Đức 28(1497) đã ghi lại địa danh hành chính của huyện Thanh Trì ngày nay là huyện Thanh Đàm và xã Hoàng Mai thuộc huyện ấy “ Thanh Đàm huyện Hoàng Mai xã Nga My tự...” Ngày nay tên xã Hoàng Mai trước kia đã đổi thành tên quận, chùa Nga My vẫn giữ nguyên tên cũ nhưng đã thuộc phường Hoàng Văn Thụ quận Hoàng Mai. Đây là tư liệu niên đại Lê sơ duy nhất còn lại của Hà Nội ghi lại địa danh huyện Thanh Đàm. Cũng như vậy,chúng ta sẽ biết các địa danh hành chính từ cấp phủ, quận, huyện đến tổng, xã, phường, trại, sở, giáp...thông qua các bài minh văn. Chẳng hạn, phường Nhật Tân ngày nay xưa kia được gọi là phường Nhật Chiêu thuộc huyện Quảng Đức phủ Phụng Thiên. Chúng tôi chưa xác định thời gian chính xác phường Nhật Chiêu có từ bao giờ, nhưng trên văn bia niên đại Hoằng Định 13(1612), tên địa danh hành chính Nhật Chiêu phường thuộc địa phận huyện Quảng Đức phủ Phụng Thiên đã được khẳng định. Địa danh này được giữ nguyên từ phường, huyện, phủ và kéo dài từ năm Hoằng Định 13(1612) đến năm Quang Trung 4(1871),tức là hơn 250 năm. Đến năm Gia Long 16(1817) tên phường vẫn giữ là Nhật Chiêu nhưng tên huyện và phủ đã thay đổi. Không còn huyện Quảng Đức phủ Phụng Thiên nữa mà thay vào đó là huyện Vĩnh Thuận phủ Hoài Đức, địa danh này được phản ánh trên bia cho tới năm Đồng Khánh 3(1888). Đến năm Thành Thái 3 (1892), thay vì đơn vị hành chính là phường thì đã đổi thành xã và xã Nhật Tân đã thay thế cho tên gọi phường Nhật Chiêu trước đây, xã Nhật Tân thuộc tổng Thượng huyện Hoàn Long tỉnh Hà Đông. Lúc này có thêm đơn vị tổng, tên phường, huyện đã thay đổi.Xã Nhật Tân lại thuộc huyện Hoàn Long tỉnh Hà Đông.Một năm sau đó, Thành Thái 4(1892) lại có tên là phường Nhật Tân thuộc tổng Thượng huyện Vĩnh Thuận phủ Hoài Đức. Năm Thành Thái 8 (1897) và Thành Thái 13(1902) lại chuyển thành xã Nhật Tân tổng Thượng huyện Hoàn Long thuộc Hà Thành. Năm Duy Tân Mậu Thân (1908) lại gọi là phường Nhật Tân tổng Thượng huyện Hoàn Long. Năm Khải Định 3(1918) ngoài tên phường Nhật Tân tổng Thượng huyện Hoàn Long thì địa danh hành chính cấp tỉnh lại có sự thay đổi, thay vì thuộc Hà Thành, nó lại thuộc tỉnh Hà Đông. Địa danh phường Nhật Tân tổng Thượng huyện Hoàn Long tỉnh Hà Đông được ghi lại đến năm Khải Định 8 (1923). Năm Khải Định 10(1925) vẫn là phường Nhật Tân tổng Thượng huyện Hoàn Long nhưng lại thuộc Hà Thành. Năm Bảo Đại 2(1927) đến năm Bảo Đại 8  phường Nhật Tân vẫn thuộc tổng Thượng huyện Hoàn Long nhưng đơn vị cấp tỉnh lại là tỉnh Hà Đông.
Như vậy, tên các đơn vị hành chính từ phường xã đến huyện tỉnh đã thay đổi khá nhiều, đặc biệt dưới triều Nguyễn . Sự tách ra nhập vào đó có lẽ chỉ văn bia mới phản ánh kịp thời, bởi lẽ bia đá hoặc chuông đồng được dựng lên trong các thời điểm khác nhau nên đã phản ánh trung thực những biến đổi của xã hội đương thời. Đó là những trang sử được viết trên đá ở các thôn, trại, phường xã... Đây là những cứ liệu xác thực nhất giúp các nhà khoa học có thể đối chiếu so sánh với các tài liệu viết tay để kiểm chứng. Căn cứ vào tên gọi các phủ huyện xã phường... chúng ta có thể xác định niên đại tương đối cho văn bản.
Những tên gọi khác tuy không phải là địa danh hành chính như đàn Xã Tắc, đàn Nam Giao, chùa Đại Bi, chùa Thanh Nhàn, chùa Càn An...được ghi lại trong văn bia đã giúp cho chúng ta có thể định vị được vị trí cũ của những di tích ấy. Cách đây vài năm, Hà Nội từng xôn xao vì phát hiện ra nền móng của đàn Xã Tắc và người ta cũng bán tín bán nghi không biết di chỉ đó liệu có đúng là nền móng thật của đàn Xã Tắc hay không? Các nhà chuyên môn đã tranh luận rất nhiều về vấn đề này nhưng chưa tìm thấy những cứ liệu thuyết phục vì không có tư liệu nào ghi rõ ràng. Tuy nhiên, trong quá trình khảo cứu tư liệu văn khắc Hán Nôm của Hà Nội, chúng tôi thấy có hai văn bia  nhắc đến địa điểm của đàn Xã Tắc.
Bia Cao Sơn Tây Hưng miếu tạo năm Chính Hòa triều Lê (1680-1705) đặt tại đình Đông Các phường Ô Chợ Dừa đã mô tả về vị trí của ngôi đình trong sự tham chiếu với các điểm di tích xung quanh “Đình này vị trí tại huyện Quảng Đức phủ Phụng Thiên, nền đắp trên giáp Đông Các phường Thịnh Quang, vừa hưởng được dư khí của kinh đô Thăng Long vừa trấn giữ trường thành Đại La. Bên tả, về phiá đông dòng nước uốn quanh, đình này đứng song song với đàn Xã Tắc. Bên hữu, về phiá tây dãy núi bao bọc, đình này cao xấp xỉ chùa Thanh Nhàn”.
Bia thứ hai cũng đặt tại đình Đông Các có tên là Nghĩa Phê tạo đình bi ký, bia tạo dựng năm Chính Hòa 13(1692) cũng cho biết “ Nguyên xưa ngôi đình này nền đức rộng rãi, thềm phúc sang ngời. Bên phải đối diện chùa Thanh Nhàn, bên trái là đàn Xã Tắc đứng sừng sững...” Như vậy, qua sự mô tả về vị trí của đình Đông Các với hai điểm di tích gần đó là chùa Thanh Nhàn và đàn Xã Tắc chúng ta có thể xác định được đàn Xã Tắc nằm ở địa điểm rất gần với đình Đông Các và chùa Thanh Nhàn. Hiện chùa Thanh Nhàn vẫn còn, đình Đông Các tuy bị phá hủy và thu hẹp lại trong thời kỳ Pháp thống trị nhưng nay vẫn ở trên nền cũ, do đó để tìm lại vị trí xác thực của đàn Xã Tắc chúng ta có thể dựa trên sự mách bảo của những thông tin này. Theo chúng tôi biết, hai văn bia trên là cứ liệu duy nhất của thế kỷ XVII còn lại đã cho chúng ta biết đến cuối thế kỷ XVII đàn Xã Tắc vẫn còn rất bề thế và là một trong những điểm nhấn của kinh thành Thăng Long.
 2. Phản ánh tính chân xác của sự kiện,sự việc được nêu trong văn bản.
Văn khắc nói chung, văn khắc Hán Nôm nói riêng có một giá trị mà không có bất kỳ loại hình tư liệu nào có thể có được. Đó là tính chân xác của sự kiện, sự việc nêu trong văn bản. Trên chất liệu cứng như đá và đồng người ta không dễ dàng có thể tẩy xóa, viết thêm thông tin. Khi định hình văn bản văn khắc phải tuân thủ các bước nghiêm ngặt. Đó là phải có người soạn văn, chọn người chữ đẹp  để viết lấy mẫu và cuối cùng là mời thợ khắc theo mẫu chữ đã viết để khắc lên đá, lên đồng. Do có đặc điểm như vậy nên loại hình văn khắc Hán Nôm luôn được coi là những tư liệu quý, đáng tin cậy và không thể ngụy tạo. Đó là sản phẩm có tính bền vững rất cao, chịu được sự thử thách của thời gian. Trong khi các loại thư tịch trên giấy có thể bị cháy hoặc ẩm mục thì minh văn trên đá, trên đồng đã có thể “trơ gan cùng tuế nguyệt”.
Thăng Long - Hà Nội là vùng địa linh nhân kiệt, Thăng Long là nơi định đô của quốc gia Đại Việt trong suốt bảy thế kỷ, bắt đầu khi Lý Công Uẩn dời đô từ Trường Yên, Hoa Lư ra thành Đại La năm 1010 và tên gọi Thăng Long bắt đầu xuất hiện từ đó. Từ khi nhà Nguyễn nắm quyền điều hành đất nước, Thăng Long không còn là kinh đô nữa mà đã chuyển sang là một đơn vị tỉnh thành. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với một vị trí địa lý lịch sử đặc biệt như vậy, những di sản văn hóa thành văn nói chung, tư liệu văn khắc Hán Nôm nói riêng của Hà Nội đã phản ánh nhiều mặt về đời sống xã hội, về văn hóa tín ngưỡng, về hoạt động chung của cộng đồng. Đó là những giá trị đặc sắc của Thăng Long Hà Nội trong cả thiên niên kỷ.
Thăng Long đã có lịch sử ngàn năm tuổi với những di tích gợi nhớ về một thời dựng đô kiến quốc như chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột, tháp Báo Thiên... nhưng Thăng Long cũng từng là chiến địa trong các cuộc chiến tranh do ngoại xâm hoặc nội chiến trong cả chặng đường phát triển đi lên của mình. Do đó Thăng Long đã bị tàn phá rất nhiều, những di sản văn hóa của cha ông để lại đã bị cướp phá, hủy diệt. Một trong những ảnh hưởng nặng nề nhất là sau 20 năm giặc Minh sang xâm chiếm nước ta tất cả thư tịch cổ, hiện vật quý hiếm trong đó có bia đá chuông đồng đã bị chúng đập phá, tiêu hủy và cướp mang về nước. Vì thế những bia, chuông và thư tịch còn lại đến ngày nay của Hà Nội đều chỉ có niên đại chủ yếu từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX. Quả chuông Nhật Tảo với bài minh văn niên hiệu Càn Hòa nhà Nam Hán là một sản phẩm văn hóa hiếm hoi của Hà Nội trước thời kỳ độc lập tự chủ còn sót lại. Ngoại trừ minh văn trên chuông Nhật Tảo có niên đại  hơn 1000 năm, số minh văn còn lại có niên đại từ thế kỷ XV trở về sau [7]. Trong cả hai đợt sưu tầm cách nhau một thế kỷ, Hà Nội không có văn khắc Hán Nôm thời Lý – Trần, chỉ có bắt đầu từ thời Lê sơ, Mạc, Lê trung hưng, Tây Sơn đến triều Nguyễn. Điều này đã chứng minh phần nào sự khốc liệt của chiến tranh ngoại xâm đầu thế kỷ XV, vì thế những hiện vật thư tịch trước thế kỷ XV của Hà Nội gần như bị xóa sạch. Nhưng trong đợt sưu tầm lần thứ hai, tại huyện Gia Lâm có một văn bia ghi niên đại là Trần triều Quý Hợi lục nguyệt thập nhất nhật song đọc trên văn bản thì chúng tôi có thể khẳng định đây là văn bản của triều Lê. Bởi lẽ dòng địa danh thôn Kim Âu xã Lê Xá huyện Gia Lâm phủ Thuận An ghi trong văn bia không phải là địa danh hành chính thời Trần. Thời Trần, huyện Gia Lâm thuộc lộ Bắc Giang, lúc đó chưa có phủ Thuận An. Phủ Thuận An là một trong 4 phủ thuộc xứ Kinh Bắc thời Lê. Tên gọi này xuất hiện  sau khi Vua Lê Thánh Tông cho định sửa lại bản đồ, lập ra 12 Thừa tuyên. Văn bia chúng tôi đang đề cập tuy không phải là minh văn thời Trần, nhưng đã khắc ghi lại nội dung của văn bia Trần và rất có thể phiến đá khắc bia vẫn là đá cũ nhưng do chữ bị mờ nên được khắc lại và vẫn giữ nguyên niên đại cũ. Nội dung văn bia đề cập đến một sự việc xảy ra vào ngày 11 tháng 6 năm Quý Hợi triều Trần (có đến 3 năm Quý Hợi thuộc triều Trần, đó là năm 1263,1323 và 1383, không rõ sự việc được nêu trong văn bia xảy ra vào năm Quý Hợi nào?). Đó là trận lụt lớn mà văn bia miêu tả là “hồng thủy”  phá vỡ đê tràn vào địa phận xứ Cừ Tâm thôn Kim Âu. Cũng thời gian đó trong thôn có có cây gạo nở rất nhiều hoa, được coi là điềm lành  và trong làng xuất hiện một linh vât giống như hình rồng cuộn được đặt tên là Linh Lang Vũ nổi lên trên mặt nước để trấn giữ. Dân làng đã lập miếu, ngày đêm thờ phụng để ghi nhớ công ơn che chở cho dân vượt qua thiên tai. Loại bỏ những yếu tố dị đoan, qua văn bia này cho chúng ta biết vào năm Quý Hợi triều Trần đã có một trận lụt rất lớn, tràn vào phá vỡ làng xóm của thôn Kim Âu. Để chống trả với sự tàn khốc của thiên nhiên lúc bấy giờ, con người cũng chỉ biết trông chờ vào sự may rủi ngẫu nhiên của tự nhiên. Hình ảnh một linh vật giống hình rồng nổi lên trên mặt nước để che  chắn cho dân làng trước lũ lụt thật sự rất huyền ảo, nhưng có lẽ cũng phản ánh phần nào sự thật mà chúng ta chưa có điều kiện để bóc tách hiểu rõ. Đây là văn bia có nội dung phản ánh sự việc xảy ra vào thời Trần vì thế cũng là văn bia sớm của Hà Nội.
Chùa Trấn Quốc là ngôi chùa cổ nhất của Hà Nội nhưng văn bia còn lại sớm nhất là bia Trấn Quốc tự bi ký soạn năm Dương Hòa 5(1639). Văn bia cho biết “chùa được xếp vào hàng thứ tư của nước Nam. Chùa xưa lập ở ngoài bãi giáp ven sông, người trong phường sùng mộ đạo Phật, say mến cảnh thiền. Khoảng năm Hoằng Định 16(1615) chùa được dời về phía trong đê, chiếm gò đất Kim Ngư nơi có phong cảnh đẹp. Niên hiệu Vĩnh Tộ 6(1624) quan trên cho phép phía ngoài chân đê được thành lập xóm làng, làm nhà ở, trồng trọt. Xung quanh làng thì đào hào, bên trong đắp những con đường nhỏ đi lại. Bản phường noi theo người thiện thưở xưa nên cũng là một làng có phong tục thuần hậu. Nay đắp cao nền chùa cũ, mở rộng quy mô, trước tiên xây dựng các tòa thượng điện, thiêu hương, tiền đường và cửa hậu...” Văn bia này do một vị Trạng nguyên đỗ khoa Đinh Sửu (1637) là Nguyễn Xuân Chính soạn. Qua văn bia chúng ta biết được ngôi chùa xưa ở gần bãi sông Hồng, đến đầu thế kỷ XVII mới chuyển về vị trí hiện nay và đã trải qua nhiều lần tu bổ. Chùa Trấn Quốc tương truyền là được xây dựng từ thế kỷ thứ VI dưới thời Lý Nam Đế nhưng nội dung văn bia cổ nhất của chùa không nhắc lại sự kiện này, chỉ nói chùa được xếp vào hàng thứ tư của nước Nam.
Những di tích được tạo dựng từ Vương triều Lý như chùa Một Cột, chùa Lý Quốc Sư, chùa Chiêu Thiền, đền thờ Hai Bà Trưng tuy hiện nay vẫn còn nhưng đã trải qua rất nhiều lần trùng tu, xây dựng lại. Những văn bản còn lưu lại trong các di tích này cũng là những văn bản ra đời muộn nhưng vẫn còn kịp thời chuyển tải được những thông tin liên quan cho hậu thế.
Văn bia Trùng tu Tiên Thị từ ký ở chùa Lý Quốc Sư do Tiến sĩ khoa Kỷ Dậu là Nguyễn Cúc Linh soạn năm Tự Đức 8(1855) đã cho biết “ Đền chợ Tiên ở huyện Thọ Xương là đền thờ tượng Minh Không Quốc Sư. Đền xây dựng từ thời Lý. Tương truyền Quốc Sư có công chữa khỏi bệnh cho vua triều Lý nên được lập đền thờ”.
Bia Trưng Vương sự tích bi ký đặt tại đền Hai Bà Trưng do Tiến sĩ Vũ Tông Phan soạn năm Minh Mệnh 21(1840) đã ca ngợi Hai Bà như sau:
“ Nước Đại Nam ta, từ đời Hồng Bàng đến đời Lê trong khoảng trên dưới mấy ngàn năm, lần lượt có những vị anh hùng xuất hiện giành giữ bờ cõi, còn dựng thành chính thống là bốn họ Đinh, Lý, Trần, Lê. Than ôi, đấng trượng phu đúng phải như thế. Còn trong nữ giới xứng đáng là trượng phu thì chỉ có Hai Bà Trưng”. Văn bia cũng cho biết ngôi đền thờ Hai Bà từ xưa đã được dựng ở  gần bờ sông xã Đồng Nhân huyện Thanh Trì. Do gần đây bãi sông lở nên đã chuyển đến địa điểm mới ở xứ Vũ Miếu cũ thôn Hương Viên thuộc bản huyện. Sự di chuyển này đã được tâu lên triều đình và được chấp thuận cấp đất lập đền thờ phụng Hai Bà. Theo sử sách, đền Hai Bà Trưng được xây dựng dưới thời Lý Anh Tông, còn theo nội dung văn bia cho ta biết thêm ngôi đền cũ đã không còn, thay vào đó là ngôi đền mới được xây dựng vào đầu triều Nguyễn trên một vị trí mới sát kinh thành Thăng Long hơn. Như vậy tư liệu văn bia đã nối dài thêm cho lịch sử ngôi đền và nó thực sự có ý nghĩa khi chúng ta nghiên cứu những vấn đề cụ thể. Ví như văn bia Yên Thái phường Tây thôn trùng tu đình vũ bi ký do Phạm Quý Thích soạn năm Minh Mệnh 2(1821) cho biết đình Yên Thái bắt đầu thờ một vị thần từ thời Lý Nhân Tông. Tác giả không cho biết cụ thể tên vị thần đó là ai, nhưng trong nội dung văn bia có phản ánh con cháu dòng họ Vũ ở thôn Tây phường Yên Thái huyện Vĩnh Thuận đều nhận là dòng dõi của Thần, do đó có thể biết đây là một vị nhân thần. Nếu tiếp cận thêm một số minh văn tại đình Yên Thái, chắc chắn chúng ta sẽ biết đích xác tên vị Thần này. Hoặc tại đình thôn Trích Sài ven hồ Tây có bia Thần từ phụng sự điền bi được tạo dựng vào năm VĨnh Tộ 5(1623) đã ghi việc nhân dân phường Trích Sài huyện Quảng Đức lập bia ghi lại số ruộng thờ vị Thần trong đình là Mục Thận – người đã có công cứu vua Lý Anh Tông thoát họa Lê Văn Thịnh trên hồ Tây. Số ruộng để thờ cúng Thần gồm 13 mẫu 6 sào bị người ta xâm chiếm canh tác đã được Chúa Trịnh can thiệp trả lại cho bản phường. Như vậy hai văn bia này đã cung cấp thông tin về ngôi đình, về người được thờ trong đình, những người này đều có quan hệ đến triều Lý, về số ruộng đất liên quan và tư liệu này thật quý để làm bằng cứ đối chứng với các nguồn tư liệu khác.
Một di tích khác liên quan đến Hoàng đế Lê Thánh Tông, vị vua được xếp vào loại anh minh nhất của quốc gia Đại Việt, đó là chùa Huy Văn. Tại đây không còn bia cổ nhưng với các bia có niên đại muộn cũng cho chúng ta biết  lịch sử ngôi chùa và những điều về Lê Thánh Tông. Theo bia Trùng tu Huy Văn điện bi ký dựng năm Quý Mùi Minh Mệnh 3(1823) thì sở dĩ chùa Huy Văn lại gọi là điện Huy Văn vì “Khi lên ngôi báu, Ngài đã tôn phong mẹ là Ngô thị làm Quang Thục Hoàng Thái hậu rồi đổi chùa làm điện.Đó là lý do tại sao người ta gọi là điện Huy Văn. Trong chùa có chân dung Thái hậu và một quả chuông lớn. Việc thờ cúng được chăm sóc quanh năm. Về sau bỗng gặp tai ách, chân dung và quả chuông đều mất cả”. Sau đó nhà sư trụ trì đã hô hào thập phương góp đồng, thuê thợ đúc một quả chuông mới vào năm Mậu Ngọ (1798), đến năm Kỷ Mùi (1799) lại đúc tượng Thánh mẫu, phục hồi di tích cũ. Một văn bia khác cũng tại chùa này, viết năm Tự Đức 17(1864) là Trùng tu Huy Văn điện Dục Khánh tự bi ký cho biết rõ hơn “Chân dung vua Thuần hoàng trước kia thờ ở chùa Khán Sơn, được dựng vào niên hiệu Dương Đức (1672-1675) để đánh dấu chỗ luyện tập xưa ở Ngọc Hà. Đến cuộc đổi thay thời Tây Sơn mới dời về đây...” Như vậy qua hai văn bia cách nhau 40 năm ở chùa Huy Văn đã cho biết trước đây chỉ có chân dung Hoàng Thái hậu được thờ ở ngôi chùa này, đến thời Tây Sơn do những biến cố thời cuộc mới rước chân dung vua Lê Thánh Tông về thờ cùng với mẹ ở chùa Huy Văn. Những chi tiết như thế chỉ có thể tìm thấy trong văn bia mà thôi. Do đó khi nghiên cứu về sự nghiệp của Lê Thánh Tông và các vấn đề liên quan đến triều đình Lê sơ không thể không tiếp cận nguồn tư liệu văn khắc hiện còn tại chùa Huy Văn cũng như một số ngôi chùa khác của Hà Nội như chùa Ngọc Hồ được truyền tụng là nơi xảy ra câu chuyện vua Lê Thánh Tông gặp tiên nữ và có xướng họa thơ cùng nhau…
3. Phản ánh quá  trình xây dựng, trùng tu các di tích, danh thắng.
Những di tích nổi tiếng của Thăng Long xưa như chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột, chùa Thiên Niên, quán Trấn Vũ, điện Nam Giao, chùa điện Huy Văn, chùa Tiên Thị, chùa Chiêu Thiền, chùa Càn An, chùa Hàm Long, chùa Quán Sứ, chùa Liên Phái, xa hơn một chút là chùa Thánh Đức (chùa Hà) ở phía tây,chùa Linh Tiên (chùa Bằng ) ở phía nam hoặc xa hơn nữa là các chùa ở huyện Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn... đều có văn khắc ghi lại quá trình xây dựng, tu sửa do nhân dân địa phương và thập phương công đức. Ba huyện Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn thuộc xứ Kinh Bắc trước đây, khi nhập về Hà Nội đã góp cho văn hóa Hà Nội thêm đặc sắc. Huyện Thanh Trì ở phía nam vốn thuộc Sơn Nam Hạ đã mang đến cho Hà Nội đậm đặc chất làng xã ven đô thể hiện qua rất nhiều di tích và minh văn còn lại. Những di tích như Y Miếu, đàn Nam Giao tuy không còn nữa những vẫn còn lại văn bia cũng cho chúng ta biết được nguyên nhân và khoảng thời gian xây dựng.
Bia Nam Giao điện bi ký, tạo năm Vĩnh Trị 4 (1679) cho biết điện Nam Giao được tu sửa do lệnh của chúa Trịnh “ Chọn góc phía nam thành xây điện Chiêu Sự đàn Nam Giao, chính là nơi muôn loài sinh trưởng... Nhưng xây dựng còn chưa thật hoàn chỉnh, chưa đủ để báo đáp ơn trời. Muốn có quy mô từ xưa chưa có, muốn làm những việc từ xưa chưa làm, ắt phải đợi đến thánh vương là bậc đại tài, làm nên những việc có khí thế hơn người... Bấy giờ, lệnh Chúa ban ra, chọn ngày tốt tập trung các thợ. Cột xà đều dùng những nguyên liệu rất tốt, mực thước theo kiểu điện Trường Sinh, dỡ bỏ những cái cũ kỹ, xây dựng công trình mới mẻ. Khởi công cuối mùa thu năm Quý Mão Cảnh Trị thứ nhất (1664) hoàn thành cuối năm thứ hai là năm Giáp Thìn (1665)...”
Ghi về việc xây dựng Y Miếu, văn bia tạo năm Cảnh Hưng 35 (1774) là bia còn lại của ngôi miếu thờ các vị danh y nước Nam đã viết “Các vua trước quốc triều ta từng sửa sang điển lễ thờ cúng, nghĩ đến những bậc tiên sư khai sáng và từng ra lệnh cho viện Thái Y chọn đất nhận lĩnh tiền công xây dựng Y miếu... Nhưng người hiền tài lúc đó đã lần lữa bỏ qua, cho là việc không gấp, không thừa hành, khiến cho ngoài dân gian không có chỗ nào cho mọi người chiêm ngưỡng, kính lễ. Những người thấy việc nghĩa dám làm như quý hầu họ Trịnh thật ít ai bì kịp...” Qua đoạn văn trên cho biết việc xây dựng Y miếu đã từng được các triều đại trước đó quan tâm, chỉ đạo, thậm chí đã cấp tiền công để xây dựng nhưng vẫn bất thành. Phải đợi đến năm Cảnh Hưng 35 (1774), toàn thể Viện Thái Y đã hiệp sức cùng với ngài họ Trịnh là quan Chưởng Viện Thái Y, kiêm trông coi Tả đội của Viện, chức Hữu Hiệu điểm, tước là Ngoạn Trung hầu đã khởi công xây dựng đền thờ ba vị tiên thánh trong ngành y. Địa điểm của Y miếu được miêu tả như sau:
“ Nhận thấy ở phường Bích Câu có một khoảnh đất công giáp với phía tây Phượng thành, bên trái là Văn Miếu, lại thêm dòng nước bao quanh ven theo trường Quốc Tử Giám, cách biệt nơi bụi bặm ồn ào, có thể xây dựng cung điện được. Chỉ ngại việc đó mới là ý riêng mình, bèn mạnh dạn trình bày lên trên được Chúa khen ngợi vô cùng, chuẩn y lời thỉnh cầu, đặc biệt ban cho 10 mẫu tự điền để dùng vào việc đèn hương”. Như vậy là đến cuối thế kỷ XVIII, Y Miếu ở Việt Nam mới chính thức được xây dựng gần khu vực Văn Miếu. Công việc này đã được mẹ Chúa ban cho hai hốt bạc, các vị trong nội cung cũng hưởng ứng nhiệt tình, cùng tham gia đóng góp.
Những điều ghi lại như thế nói lên vai trò của các chúa Trịnh và các vị hoàng thân quốc thích trong triều đình Lê Trịnh đã đóng góp khá nhiều công sức, tiền của để tu bổ hoặc xây mới các di tích có ý nghĩa quốc gia như đàn Nam Giao, Y Miếu cũng như  đền chùa xung quanh Thăng Long và các vùng lân cận.
                                          *
                                       *    *
Trong lịch sử nghìn năm phát triển của Hà Nội có rất nhiều di tích cổ bị mất đi, những tư liệu văn khắc còn lại tuy có niên đại muộn song cũng bổ khuyết được rất nhiều điều. Nếu không có những bài văn trên đá trên đồng vẫn được bảo tồn thì thật khó mà biết được chính xác lịch sử của các điểm di tích ấy. Chùa Kim Liên ven hồ Tây là nơi còn lưu giữ được tấm bia đá có niên đại sớm nhất của Hà Nội như chúng tôi đã trình bày ở trên cũng đã qua bao phen biến cải. Văn bia viết năm Tự Đức 21(1868) đặt tại chùa Kim Liên đã ghi lại khá tường tận những lần di chuyển, tu sửa chùa:  “Chùa Kim Liên phường Nghi Tàm tổng Thượng huyện Vĩnh Thuận xưa kia là chốn danh lam. Trải qua thời gian lâu ngày bị đổ nát, các bậc tín vãi kỳ lão trong làng khởi xướng việc tu sửa, muốn làm bài ký ghi lại. Bèn tra cứu dấu vết cổ xưa thì thấy rằng trước kia chùa đã có bia đá, nhưng vì trải qua biến cố mà bị mòn mờ đi, vết chữ đa phần không thể đọc được. Tìm trong những ghi chép còn lại thì biết rằng chùa xưa kia có tên là Đại Bi, được tu tạo vào năm Dương Hòa thứ 5 (1639) triều Lê. Đến năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771), triều đình sai công thần Thiều Quận công Phạm Huy Đĩnh, quan Thái giám Tuân Sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân dời ra phía tây thành, thu lượm vật liệu gỗ ở chùa Bảo Lâm, theo nền cũ cho tu tạo thêm, đặt tên là chùa Kim Liên. Từ đó về sau tu sửa rồi hỏng, hỏng rồi lại tu sửa, không biết bao nhiêu phen nữa. Năm Đinh Tị niên hiệu Tự Đức thứ 10 (1861), do nước lớn vỡ đê nên phải trùng tu. Tháng 3 năm trước (1867), các bậc kỳ mục và quan viên chức sắc trong làng cùng các thiện tín đã quyên góp tiền của, đóng góp sức lực, nhưng do công trình rất lớn, mà kinh phí lại thiếu nhiều. Nhân đó mới tính toán bán một số ruộng để xây dựng mở rộng chùa. Đến tháng 9 năm đó thì khánh thành, chùa chiền tráng lệ, tượng Phật trang nghiêm, nhìn lại dấu vết xưa thì quang cảnh chùa đã đổi mới thực sự. Chùa hình rùa vàng, mắt rồng xanh. Trước mặt nhìn ra Tây Hồ, sau là dải sông Nhĩ Hà bao bọc, thành Thăng Long ở phía nam, dân cư sống phía bắc, thật là thắng cảnh đệ nhất của Tây Hồ vậy”.  Như thế qua văn bia này chúng ta biết rằng chùa Đại Bi đã được đổi tên là chùa Kim Liên từ năm Cảnh Hưng 32(1771) và đến thời điểm viết văn bia là năm Tự Đức 21(1868) thì bia có niên đại sớm như Thuận Thiên, Thái Hòa (chúng tôi đã giới thiệu ở phần trên) đều đã bị mòn, chữ mờ gần hết. Cũng tại ngôi chùa này có một văn bia ghi lại quá trình tu luyện của một nhà sư trụ trì bản chùa. Đây là một nhà sư khá nổi tiếng lúc bấy giờ, điều đặc biệt là nhà sư này vốn xuất thân trong một gia đình khoa bảng, có cha là Mai Lâm bá Trương tướng công, đỗ Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn, Đặc tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại phu, giữ chức Đông Các Hiệu thư, nhưng ông vẫn xuất gia đầu Phật từ rất nhỏ. Ông nổi tiếng là thông minh dĩnh ngộ, khi đi tu rồi vẫn phụng mệnh đi thi “Đến năm ngài 23 tuổi, vâng mệnh chiếu chỉ của quốc vương vào ứng thi. Vì các phép Phật pháp, kinh sách nhà Phật đều tinh thông nên được ban cho Điệp”, và “Khi ngài 62 tuổi, chống tích trượng đến kinh thành, tòan thể dân trên dưới và quan viên phường Nghi Tàm đến rước ngài, mời Tôn sư về trụ trì tại bản chùa (chùa Đại Bi thuộc phường Nghi Tàm). Thế là ngài lại có cơ hội hoằng truyền đạo Phật, phúc quả viên thành. Đến năm Mậu Thìn (1748), ngài vâng mệnh Chúa lập trai đàn. Được Chúa mến phục nên ban sắc chỉ phong là Quảng Giác Hòa thượng”.
Chùa Quang Hoa bên cạnh hồ Thiền Quang có vị trí khá đẹp, nhưng chùa được xây dựng từ bao giờ không khảo cứu được. Văn bia Quang Hoa thiền tự sự tích bi ký tạo năm Tự Đức 19(1860) dựng tại chùa đã ghi “ Quang Hoa thiền tự từ xưa đến nay không rõ được xây dựng từ thời nào. Từ cổ đã sẵn có nhà tranh am lá. Trải qua tháng năm lâu dài bị gió mưa đến nỗi điêu tàn. Nhân năm Quý Mão(1843) sư thầy Phổ Điều xin về trụ trì, đốt hương chúc tụng. Đến năm Bính Ngọ(1846) sư thầy Phổ Điều cùng với Lý trưởng Phạm Phú Hữu đã cùng cả giáp Quang Hoa thôn Liên Đường tổng Vĩnh Xương huyện Thọ Xương phổ khuyến thập phương hạ bỏ am nhỏ, dựng mới ba gian thượng điện, ba gian nhà trước, đều dùng ngói lợp...” Như thế văn bia đã cho biết chùa Quang Hoa hiện nay chính thức được xây dựng từ giữa thế kỷ XIX, còn trước đó chỉ là một am nhỏ bằng tranh tre. Văn bia cũng cho biết từng chi tiết cụ thể khi tiến hành xây dựng lại qua từng thời gian và tác giả bài văn bia cũng cảm thán trước sự biến cải của thế sự: “một ngôi chùa cổ nguy nga bỗng chốc trở thành hoang rậm, một ngôi am nhỏ đến nay lại ra kèo cột như thế thì các bậc cao nhân đạt thức có thể tự ngộ ra được ”.
Cũng ghi lại quá trình tu sửa lại chùa, nhưng chùa Tào Sách ven Hồ Tây được xây dựng lại muộn hơn rất nhiều, mãi đến năm 1930 mới được tiến hành thay đổi lai quang cảnh chùa. Văn bia chùa Linh Sơn tức chùa Tào Sách phường Nhật Tân soạn năm Bảo Đại Tân Tỵ (1941) đã ghi lại thời điểm chuyển hướng chùa và đổi tên mới cho chùa “Chùa Tào Sách xã Nhật Tân tổng Thượng huyện Hoàn Long tỉnh Hà Đông được dựng từ đời Lê, chùa tọa Cấn hướng Khôn. Chùa ấy cảnh trí u tịch, sắc màu cổ kính, bên trái tiếp Nhị Giang, bên phải liền Long Đỗ. Non xanh nước biếc, một trời cảnh sắc tươi mới... Trải thời gian lâu dài, cảnh sắc cũng đổi thay... Năm Canh Ngọ (1930) chùa được hướng cúng cho tổ tràng chùa Quảng Bá, tổ sư chứng kiến cảnh biến cải nên đã đổi tên chùa thành chùa Linh Sơn, chuyển hướng chùa thành hướng toạ Tân hướng Ất”.
                                *
                             *    *
Thăng Long vốn nổi tiếng về những ngôi chùa như chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột, chùa Hòe Nhai, chùa Hàm Long, chùa Càn An... nhưng không có nhiều những ngôi đình trong trung tâm Thăng Long - Hà Nội. Ngày nay những ngôi đình cổ của Thăng Long gần như không còn nữa nhưng chỉ qua một vài tấm bia còn lại cũng cho hậu thế biết tại nội đô Thăng Long cuối thế kỷ`XVII có một ngôi đình thật hoành tráng, là niềm tự hào của người dân trong 36 phố phường cổ. Văn bia Cao Sơn Tây Hưng miếu ở đình Đông Các  phường Ô Chợ Dừa cho hay đình này được xây dựng lại từ một ngôi đền thờ  thần có từ rất lâu tại xứ Cầu Dừa. Đình do hai giáp Mỹ Phê và Nghĩa Phê phường Thịnh Quang hưng công xây dựng nhưng nền đình lại được đắp trên nền đất giáp Đông Các phường Thịnh Quang huyện Quảng Đức phủ Phụng Thiên, vì thế đình được đặt tên là đình Đông Các. Về vị trí chọn đất dựng đình, văn bia cho biết: “ Đình này vì sao gọi là đình Đông Các? Có lẽ vì phủ Phụng Thiên có Phượng thành là chốn đế đô tôn nghiêm, là nơi ở của vua đứng đầu 12 Thừa tuyên. Còn giáp Đông Các trong phường Thịnh Quang là nơi ứng vào các vì sao khoa giáp nơi phượng các, sản sinh ra nhiều bậc hiền tài, từng được Tể tướng vời qua cửa nhỏ hướng đông và làm vẻ vang cho đất nước. Đây là nơi bậc nhất trong 36 phường. Nay giáp Mỹ Phê dựng đình ở đây, dựa vào những điều đó mà đặt tên như vậy chăng ?”. Qua văn bia, chúng ta biết Phúc thần nước nam được thờ tại đây đã từng hiển linh ban phúc khắp chốn, nhưng “ nền đắp từ xưa, mái chỉ lợp gianh. Nay muốn lễ thờ thần được đầy đủ, nơi cầu phúc được trang nghiêm, để tỏ rõ chế độ tốt đẹp cho đương thời, lập thành nền nếp rộng lớn  cho mai sau, cần phải đổi cũ thành mới, lợp ngói thay cỏ gianh. Nhân đó bàn bạc với giáp Nghĩa Phê trên dưới một lòng, lớn bé nhất trí... Năm Kỷ Tỵ (1689) vào ngày tốt đắp thêm ba bậc thềm đất, xây dựng năm gian đình mới. Lựa gỗ tốt, cây to làm cột, cây nhỏ làm rui. Chỉ huy nhóm thợ, tay khéo nẩy mực, tay giỏi cầm dây. Đại thế nghiêm chỉnh như cánh vươn lên, cạnh góc ngay ngắn như mũi tên thẳng. Cột rường cao vút như chim xòe cánh, mái đao rực rỡ như trĩ tung bay”. Thế là giữa chốn đế đô, một ngôi đình với mái đao cong vút như  chim trĩ xòe cánh tung bay đã hiện diện trên nền đất của nơi đứng đầu trong 36 phố phường Thăng Long thưở ấy.  
    Bia Nghĩa Phê tạo đình bi ký soạn năm Chính Hòa 13(1692) cũng nhắc lại sự kiện xây đình Đông Các: “Nguyên xưa ngôi đình này trên nền phúc phường Thịnh Quang, địa bàn rộng huyện Quảng Đức. Bên phải đối diện chùa Thanh Nhàn, bên trái là đàn Xã Tắc đứng sừng sững một mình. Mặt trước phía nam có núi đứng che, mặt sau phía bắc có sông bao bọc.Thật là nơi cảnh đẹp vào bậc nhất đế đô. Ngôi đình ấy xây dựng đã lâu năm, nhưng kiểu cách sơ sài, còn theo lối cổ. Muốn có quy mô chỉnh đốn phải đợi người sau. Nay toàn thể quan viên hương lão trên dưới giáp Nghĩa Phê hiệp đồng với toàn thể mọi người trong giáp Mỹ Phê bàn tính việc xây dựng lại, ai cũng đồng lòng. Bèn ứng xuất tiền của, tìm mua các loại gỗ tốt dựng lên năm gian đình ngói ngay trên nền cũ. Hoàn thành vào ngày tốt năm Kỷ Tỵ (1689)”. Từ  nội dung văn bia, chúng ta lại vỡ lẽ trong khi ở các vùng xa xôi hơn như Kinh Bắc, Sơn Nam đã có những ngôi đình làng bề thế xây dựng từ cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, thì ỏ Thăng Long mãi đến cuối thế kỷ XVII mới có những ngôi đình như đình Đông Các được xây dựng mới, thoát khỏi quy mô nhỏ bé với mái lợp là cỏ gianh.
Cũng vào cuối thế kỷ XVII, các vùng ven kinh thành Thăng Long là xã Mai Động, xã Quỳnh Lôi huyện Thanh Trì cũng khởi công xây đình mới. Đình Mai Động hay còn gọi là đình Mơ Táo được xây dựng năm Chính Hòa 20 (1699), đình Quỳnh Lôi (nay thuộc phường Minh Khai, quận Hai Bà Trưng) xây dựng năm Chính Hòa 13 (1692), hoặc xã Kính Chủ huyện Từ Liêm (nay là phường Trung Kính quận Cầu Giấy) xây đình năm Vĩnh Trị 1(1675), xã Thượng Cát huyện Gia Lâm (nay là phường Thượng Thanh quận Long Biên) xây đình làng vào năm Vĩnh Trị 3(1677). Bia Tạo xuân đình hậu thần bi ký soạn năm Chính Hòa 20, cho biết đình Mơ Táo do Quận Chúa Trịnh Thị Ngọc Thánh hiệu Diệu Kính đã bỏ tiền nhà, phát tâm giúp làng xây một ngôi đình để thờ Thần, cầu phúc, ca múa, cầu mong thái bình cho đất nước.
Năm Cảnh Trị thứ nhất (1663), nhân dân phường Nhật Chiêu huyện Quảng Đức phủ Phụng Thiên đã xây dựng đền thờ Thần (ngày nay được gọi là đình Nhật Tân, phường Nhật Tân quận Tây Hồ) với sự trợ giúp về tiền của của Chúa Tây Vương Trịnh Tạc. Vị trí của phường Nhật Chiêu  được văn bia mô tả rất đẹp “Phường Nhật Chiêu huyện Quảng Đức phủ Phụng Thiên là nơi hình thế đẹp, gần với hoàng đô,Chu Tước phía trước ngoảnh trông phía đông Hồ Tây thủy triều nhấp nhô, Huyền Vũ phía sau dựa thành Đại La, soi bóng núi Tản Viên, bên trái là dòng Đại Hà chảy dài cuồn cuộn, bên phải là đỉnh núi xa xa...”
Sang đến giữa thế kỷ XIX, tại nội thành Hà Nội vẫn có một vài ngôi đình được xây dựng lại như đình Cổ Lương (nay là phố Nguyễn Siêu). Bia Cổ Lương hương đình bi ký dựng năm Tự Đức 32 cho biết “Thôn Cổ Lương tiếp giáp mé sông Nhị Hà, dân cư là người làng Khúc Thủy, đền thờ hai vị chính thần là Phổ Tế và Nam Hải. Công lao sự nghiệp của Thần trong tự điển có ghi chép rõ ràng. Nhưng ngôi đền lúc mới xây dựng thì lợp cỏ gianh đơn sơ. Hơn trăm năm dân cư ca mừng tụ họp ở đây mà đền thần vẫn còn như cũ...”  Đến lúc đó vị lý trưởng họ Đào tên là Đằng mới tiếp nối ý cha để đứng ra hưng công xây lại đình mới, lợp ngói. Và như thế, đình làng Cổ Lương trước đây là một ngôi đền, từ ngôi đền thờ Thần đã bị cũ nát xây dựng cách đó hơn trăm năm, người ta đã xây mới một ngôi đình để thờ Thần với quy mô gồm một gian làm đền thờ chính, một tòa khám thờ và ba gian bái đường. Nếu so sánh với đình Đông Các xây dựng cuối thế kỷ XVII, thì mới thấy tiềm lực vật chất, công sức của người dân đóng góp để xây đình khi đó có quy mô hoành tráng hơn rất nhiều. Đó cũng là đặc điểm chung của thế kỷ XVII, các công trình về văn hóa, tín ngưỡng được khởi xướng xây dựng ở rất nhiều nơi trên quốc gia Đại Việt, điều này được phản ánh rất rõ nét trong các bài minh văn trên bia, chuông.
                                      *
                                    *   *
Thăng Long – Hà Nội là mảnh đất ngàn năm văn hiến, nơi đây đã hội tụ nhiều tinh hoa của cả dân tộc và có rất nhiều di tích văn hóa tiêu biểu. Văn Miếu Quốc Tử Giám là niềm tự hào của Hà Nội, của Việt Nam về sự hiếu học thành tài và sự vinh danh của cả xã hội đối với những người thực học. Khi đến thăm Văn Miếu chúa Trịnh Căn đã có một bài thơ chữ Nôm khắc trên bia nói lên sự ngưỡng mộ của ông đối với khu di tích này.
“Thánh nhân đạo cao đức trọng, khắc ở bia đá lớn để lại muôn đời. Ngày khánh thành, ta đến thăm lại, xem xét khắp xung quanh; thấy thể chế ngay ngắn nghiêm chỉnh, hình thức và nội dung đều tốt đẹp. Thật đáng trân trọng, bèn làm ra bài thơ quốc âm.
Đạo thống tường xem nhật nhật minh,
Vậy nên biểu lập trước trung đình.
Tôn nghiêm vốn có bề phương chính,
Trân trọng nào sai mực đất bằng.
Rộng chứa văn chương hằng rỡ rỡ,
Tỏ ghi đức giáo hăy rành rành.
Vừng bền sóc sóc đồng thiên địa,
Thấy đấy ai là chẳng ngưỡng thành.”
Đề cuối Mùa Đông năm Ất Hợi (1695).
Ngoài Văn Miếu mang tính chất quốc gia đó, ở nội thành và ngoại thành của Hà Nội vẫn còn lưu giữ được những khu văn chỉ ở cấp huyện hoặc xã phường để thể hiện sự kính trọng những người có học và đỗ đạt qua các kỳ thi cử. Khu vực nội thành có văn chỉ phường Hà Khẩu, văn chỉ huyện Thọ Xương, văn chỉ thôn Thanh Hà, đặc biệt có văn chỉ của trại Vạn Bảo là một trong thập tam trại của thành Thăng Long. Bia văn chỉ do hội Tư văn trại Vạn Bảo, tổng Vạn Bảo huyện Vĩnh Thuận phủ Hoài Đức tỉnh Hà Nội dựng năm Tự Đức 29 (1876) cho biết nhân dân trong trại Vạn Bảo đã xây dựng từ chỉ ở núi Trúc để có nơi thờ cúng hàng năm.
Khu vực ngoại thành có văn chỉ thôn Trung xã Cổ Điển huyện Thanh Trì, văn chỉ xã Nguyệt Áng nay là thôn Nguyệt Áng xã Vĩnh Ninh huyện Thanh Trì, văn chỉ huyện Thanh Trì; văn chỉ giáp Bản Hội xã Trung Mầu huyện Gia Lâm... Sở dĩ Thanh Trì còn giữ được một số văn chỉ ở các làng xã và của huyện có lẽ bởi đây là vùng đất có nhiều nhà trí thức tiêu biểu cho học khí của Hà Nội.Đó là Chu Văn An thời Trần, là Bùi Huy Bích triều Lê, là Nguyễn Siêu triều Nguyễn và rất nhiều các bậc danh sĩ khác. Bia Thanh Trì tiên hiền miếu trùng tu bi ký do Nguyễn Văn Siêu soạn vào mùa đông năm Ất Sửu cho biết “ Văn Trinh công Chu tiên sinh là vị nho gia đầu tiên của nước Việt ta, được trăm đời ngưỡng mộ, nên làng xóm nào cũng đều thờ tự. Từ thời Trần ông đã được thờ ở văn miếu Thăng Long, riêng miếu thờ ông ở Huỳnh Cung huyện Thanh Trì ta thì không biết hương thôn thờ ông như một vị phúc thần từ bao giờ. Nhân khảo gia phả họ Nguyễn ở Linh Đường thấy ghi ông Triệu Khánh Công Nguyễn Tử Tư từng dựng từ chỉ trong bản huyện, đặt ruộng tế điền mới biết ngôi miếu này có từ thời Lê Cảnh Hưng nhưng do lâu ngày, quy mô miếu còn sơ sài,cột kèo cũ nát, trâu bò chăn thả khắp nơi. Vì thế đến năm Canh Thân các ông Trịnh Lý Đình, Hà Học ở Định Công, Định Cao, ông Hoàng Đình Chuyên ở Linh Đường khởi xướng việc quyên tiền tu sửa, ông Nguyễn Văn Siêu thân chinh trông coi việc sửa chữa ba gian miếu đường, cửa Nghi môn, khám thờ thần, chữa  lại 5 gian bái đường cũ bên ngoài, ba gian giải vũ hai bên đều được dựng lại bằng gỗ tốt, tường rào bên ngoài bao quanh, đắp lũy đất”...
       Trong bia văn chỉ thôn Trung xã Cổ Điển huyện Thanh Trì cho biết làng Thanh Liệt cũng xây dựng văn chỉ để thờ bốn vị Tiên hiền là: Chu Văn An, Tư nghiệp Quốc tử giám; Chu Tam Tỉnh, Ngự thí trúng tuyển khoa Tân Hợi, giữ chức Hàn Lâm viện Trực học sĩ, Tả Hình viện đại phu, là con trai Chu Văn An; Chu Đình Bảo, cháu bốn đời của Chu văn An, đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn, giữ chức Trung thư giám Điển thư; Lý Trần Thản, Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu, giữ chức Hữu Tư giảng, được phong tặng Binh bộ Thượng thư, tước Tuy Quận công. Bia được lập năm Cảnh Hưng 18(1757).
Cũng tương tự như vậy, trong bia văn chỉ xã Phú Thị huyện Gia Lâm đã ghi lại việc xây dựng từ vũ để thờ các bậc tiên hiền như sau “Vào năm Hoàng triều Cảnh Hưng thứ 24 (1763), làng Trung Nghĩa ta mới bắt đầu dựng đền thờ. Khách Nho học tạo nên cung sở, xem ra dựng được 2 dãy 6 gian nhà thờ. Trụ cột làm bằng gỗ quí, đục khắc để cất nóc thượng lương; mái lợp ngói vẩy cá, hành lang xây bằng gạch; xung quanh bốn phía quây tường, tường phía nam che tòa Nghi môn. Mọi người cùng đồng thanh nói: Ôi ! Cái gì mà tôn nghiêm vậy? Đó là sự đồng tâm của các vị quan lại triều đình, sửa sang chính đạo vậy”.Việc xây dựng từ vũ của xã Phú Thị được những người trong hội Tư văn và đặc biệt là có rất nhiều vị Tiến sĩ của xã sau khi đăng khoa đã từng giữ nhiều chức vụ quan trong trong triều đình hưởng ứng. Đó là Tiến sĩ khoa Quí Mùi, chức Tham tụng Thượng thư bộ Hộ, Nhập thị Kinh diên Tri Quốc Tử Giám về hưu Triệu Quận công Nguyễn Huy Nhuận cùng con trai là Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, chức Giám sát Ngự sử Thự Tham chính Nguyễn Huy Dận và cháu nội là Tiến sĩ khoa Canh Thìn Nguyễn Huy Cận đã cùng 26 vị quan khác đứng ra khởi xướng. Dưới triều Lê trung hưng xã Phú Thị có nhiều người đỗ đạt và có đến 4 quan Thượng thư cùng là người trong xã. Điều này thật hiếm gặp trong các làng xã Việt Nam và đó thực sự là niềm tự hào của người dân Phú Thị. Văn bia ở đây đã kịp thời ghi lại những thế hệ đỗ đạt và làm quan của cả xã.
  Hà Nội còn có một loại di tích khá đặc sắc, đó là Thọ chỉ là nơi thờ những vị cao niên, thượng thọ trong làng xã. Bia Bùi Đông thôn Thọ Ông từ do Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu, Chính nghị đại phu, Binh bộ Tả Thị lang, Quốc sử Tổng tài, Liệt hầu Tồn Am Bùi Huy Bích soạn năm Chiêu Thống Đinh Mùi (1787). Văn bia cho biết “ Đền Thọ Ông là nơi tế lễ các bậc tiên lão. Phong tục thôn ta xưa nay rất thuần hậu, siêng năng việc trồng cấy, coi trọng văn học. Nếp ăn ở thường ngày thì quý người có tuổi, trọng người có tước, chất phác thích làm điều thiện, có lẽ là được ở gần kinh sư. Vả lại đời trước có nhiều bậc hiền khanh đại phu cho nên tập tục mới được chuộng như vậy chăng?... Sở dĩ đền Ông Thọ được dựng lên là để tôn kính bậc già cả đức cao lễ trọng, là xuất phát từ hiếu đễ, mà đề cao sự kính nhường. Tỏ rõ ý coi trọng tập tục tốt đẹp, coi trọng người hiền đức có lẽ chẳng phải ở chỗ này chăng? Còn như việc được ban cho tuổi thọ sống lâu trăm vạn năm thì có quỷ thần soi xét, người có đức thì phúc sẽ hội tụ. Vì thế viết tên những người già cả và phụ khắc bên dưới, ngõ hầu người đời sau còn được thấy mà chung niềm vui vậy”. Lời văn thật nhẹ nhàng mà  ý tứ sâu sắc khiến cho ai đọc lên cũng phải suy ngẫm. Thọ chỉ còn xuất hiện ở thôn Đại  Từ  xã Linh Đường tổng  Thanh  Liệt  huyện  Thanh  Trì. Năm Tự Đức 21(1868) dân làng đã lập bia ghi việc trùng  tu  Thọ  Chỉ.
Cũng với mục đích tôn trọng người có tuổi, trong bia Từ chỉ yến lão bi ký được khắc năm Minh Mệnh 21(1840) đặt tại đền Bạch Mã đã ghi những quan niệm về kính trọng người cao tuổi của ba giáp Mật Thái, Bắc Thượng và Bắc Hạ phường Hà Khẩu tổng Đông Thọ huyện Thọ Xương như sau: “ Ba điều mà thiên hạ thường suy tôn, tuổi là thứ nhất. Năm điều hoàng trù ban phúc, thọ đứng hàng đầu. Tuổi tác được tôn quý đã từ lâu. Kính trọng người lớn tuổi ai ai cũng đồng lòng. Lấy tuổi tác định dưới trên, nghi lễ từ xưa sẵn có. Lễ vốn xuất phát từ lẽ phải, xưa đã đúng nay há lại sai?” 
Tinh thần tôn trọng người cao tuổi của Hà Nội xưa vẫn còn nguyên giá trị đối với các thế hệ tiếp nối hôm nay. Truyền thống đó, cùng với sự trọng thị các bậc hiền tài của đất nước quê hương, đã cho chúng ta thấy một Thăng Long - Hà Nội rất nhân văn, rất chuộng lễ nghĩa, biết tôn sư trọng đạo. Điều này được thể hiện rất rõ trong bài văn bia ở đền thờ Chu Văn An do nguyên Án sát Hưng Yên Nguyễn Văn Siêu soạn “ Phàm đức độ của người hiền sẽ trường tồn mãi mãi, sự nghiệp của người hiền là vĩ đại nhất nên việc tiến đức tu nghiệp của sĩ nhân chỉ mong theo kịp được bậc hiền tài, bậc thánh nhân. Nước Việt ta và Trung Châu cùng đồng văn giao tế, từ đời Trần đến nay đã gần ngàn năm mà chưa có ai theo kịp gót Chu Văn Trinh để xếp vào hàng học trò môn đệ của Khổng Thánh Phu Tử”. Đọc lại những lời ngợi ca về tài năng và đức độ của Chu Văn An dưới bút lực của “Thần Siêu” mới thấy Hà Nội thật đáng tự hào vì đã sản sinh ra một trí thức đầy bản lĩnh như Chu Văn An.
                                 *
                               *   *
Văn khắc Hán Nôm của Hà Nội như những mạch nước ngầm cho chúng ta cảm nhận về Thăng Long xưa trong nhiều chiều khác nhau của lịch sử. Đó không chỉ là những ngôi đình, mái chùa rêu phong cổ kính, là Văn Miếu ghi danh những vị đỗ Tiến sĩ của toàn quốc hay văn chỉ thờ những người hiền tài của từng địa phương... Qua văn khắc Hán Nôm còn lại đến ngày nay chúng ta còn biết đến  Hà Nội từng có  một nghĩa địa ngay trong địa bàn phường Kim Mã hiện nay. Bia Kim Sơn tự đàn bi ký viết năm Thành Thái 14(1902), đặt tại chùa Kim Sơn phường Kim Mã quận Ba Đình đã ghi như sau: “ Kim Mã ở phía tây ngoài thành Thăng Long, nguyên là nơi an táng những người đã mất từ xưa.Trước đây có bà Trần Thị Uổng và ông Lê Văn Định chọn dựng một am nhỏ để thờ cúng các vong linh không nơi nương tựa. Đến năm Tân Tỵ niên hiệu Tự Đức (1881) vì gió bão nên am bị đổ nát, người trong thôn tu tạo lại. Nhân đó đắp tượng thờ Phật, đặt các linh vị bên cạnh tượng Phật, lấy tên là chùa Tào Mã. Mùa đông năm Đinh Dậu niên hiệu Thành Thái (1897) người trong thôn là cựu Hương trưởng Nguyễn Xuân Trinh và Hương lão Trần Văn Liễu đã bàn với nhau mở rộng chùa. Nhưng khi đào đất đắp nền thì thấy rất nhiều hài cốt xếp lẫn vào hũ sành thật đáng thương xót, muốn thu gom nhặt lại nhưng tài lực không đủ...”. Sau đó vị hương trưởng đã kể chuyện lại với những người có lòng hảo tâm muốn làm việc thiện để xin trợ giúp. Sau một thời gian quyên góp tiền của, vật lực, các vị trong thôn đã xây nghĩa lăng và tu tạo lại chùa, đổi tên chùa Kim Sơn thành chùa Kim Mã khiến cho Kim Mã trước đây hoang vu, uế tạp đã được dọn bỏ, trước kia là nhà cỏ, nền nát thì nay trở nên huy hoàng đẹp đẽ. Người ta lại mời đạo sĩ dựng đàn cầu siêu ở bãi cát sông Nhị Hà để cho các vong linh u tịch dưới sông được siêu thoát.
   Như vậy, dù văn bia có niên đại rất muộn nhưng đã kịp ghi lại những sự việc liên quan đến chùa Kim Sơn hiện nay, kể lại quá trình biến chuyển của vùng ven đô đầu thế kỷ XX nay đã trở thành khu trung tâm sầm uất của Hà Nội.
Sau khi trở thành tỉnh thành đầu thời Nguyễn, Hà Nội đã có nhiều sự đổi thay. Những cuộc hỏa hoạn thường xuyên xảy ra khiến người dân lo sợ. Để cầu mong thần lửa không giáng tai họa và trấn an dân chúng, các vị quan sở tại đã cho xây dựng miếu thờ thần lửa. Đây có lẽ cũng là một trong những nét đặc sắc của văn hóa Hà Nội. Bài văn bia Hỏa thần miếu bi viết năm Thiệu Trị 1(1841) đặt tại đền Hỏa Thần phường Cửa Đông quận Hoàn Kiếm đã cho biết ở huyện Thọ Xương có miếu thờ thần lửa. Miếu gồm 3 gian, quay mặt hướng Bính (hướng nam), xây tường gạch, lợp mái ngói, có chuông treo, xuân thu nhị kì cúng tế. Vào năm Mậu Tuất (1828) niên hiệu Minh Mệnh thứ 19 xảy ra hoả hoạn rất nặng, sau đó miếu cũng bị thiêu trụi. Sau đó vào năm Kỷ Hợi (1839), có bậc đại nhân họ Nguyễn đã trích sáu mẫu ruộng ở cạnh miếu để dùng vào việc tu sửa miếu. Thời gian trôi qua, ngôi miếu dần dần bị hư hỏng nặng, các bậc kì mục trong huyện nhiều lần báo lên, quan huyện nhiều lần đến xem xét, rồi bẩm báo lên quan tỉnh. Các hộ dân lại cung cấp thêm vật liệu, nhờ người đứng ra xây dựng nhà trong nhà ngoài, mỗi dãy ba gian. Tháng 5 năm Tân Sửu (1841) khởi công, qua hai tháng thì hoàn thành ngôi miếu. Vì Thọ Xương là huyện ở sát thành, sau khi cắt đặt (địa giới) đã chiêu tập dân lưu tán, khai khẩn đất hoang, làm lại đường sá, tích chứa nước nôi để phòng hỏa hoạn. Văn bia Hỏa thần miếu bi được viết ra bởi một vị Tiến sĩ từng giữ chức quan Học chính tỉnh Bắc Ninh, do đó nó không phải là sự mê tín, nhận thức thiếu căn cứ mà thể hiện sự quan sát chiêm nghiệm thực tế.
4. Ghi lại việc xây dựng cầu chợ và sinh hoạt cộng đồng
Trên các bài minh văn của Hà Nội chúng ta còn có thể kể ra rất nhiều hoạt động liên quan đến kinh tế, văn hóa - xã hội của Thăng Long. Ngày nay khi đi qua khu vực Cầu Giấy không ai nghĩ đến nơi đây từng có một cây cầu rất đẹp bắc qua dòng sông Tô Lịch. Bài văn bia Trùng tu Tô giang kiều bi ký  được soạn năm Vĩnh Trị 4(1679) đã ghi lại quá trình xây dựng cầu sông Tô như sau: “Ngày 16 tháng 10 năm Đinh Tỵ (1677)  thì dựng cột. Đến ngày 22 tháng 7 năm Kỷ Mùi (1679) thì hoàn thành. Một cây cầu gồm 15 gian liền mạch. Tầng tầng lớp lớp đối nhau nhô lên trời cao xanh; Nhịp cầu uốn lượn vòng quanh dọi sắc đỏ rực trên lâu đài điện gác. Sâm sâm sảng sảng, lung lung linh linh. Cột đá dựng đứng giữa dòng, vút lên cao như dựng trên đất bằng. Thao lược huyền bí, mặc tình tiên ông thư bút; Xe cao ngựa tốt, đắc ý kẻ sĩ đề thơ. Kẻ sĩ trong triều; nhà nông thôn dã đều được thoả lòng; Kẻ buôn ở chợ, lữ khách trên đường đều có chỗ cho mình.” Cầu này do các sãi vãi, đạo tràng ở các xã Dịch Vọng, Thượng Yên Quyết, Hạ Yên Quyết, Mai Dịch, Cổ Nhuế thuộc tổng Dịch Vọng huyện Từ Liêm cùng các hội chủ sinh sống trong nội thành và các vùng lân cận hưng công xây dựng. Có một số các vị Quận Chúa trong phủ chúa Trịnh cũng tham gia đóng góp tiền trong việc xây cầu. Như thế, vào giữa thế kỷ XVII, tại cửa ngõ phía Tây của kinh thành Thăng Long có một cây cầu gỗ 15 gian có mái lợp bắc qua sông Tô Lịch, đây là cầu theo kiểu “thượng gia hạ kiều” rất phổ biến trong thế kỷ XVII và XVIII, cầu được hoàn thành sau hơn một năm khởi công. Cũng trong thời gian này có một số cây cầu khác cũng được xây dựng như cầu Quang Bình bắc qua sông Tô Lịch thuộc địa phận xã Thanh Liệt huyện Thanh Trì, cầu được xây dựng năm Long Đức 3(1734) hoặc cầu Nghĩa Trụ thôn Thạch Cầu xã Cự Linh huyện Gia Lâm được xây dựng năm Vĩnh Hựu 4(1738). Riêng cầu Quang Bình sau nhiều lần tu sửa, vào năm Bảo Đại 16(1941) văn bia đã ghi lại thực trạng của cầu như sau: “ Cầu Quang Bình trên sông Tô Lịch do lâu đời đã bị hư hỏng. Năm Long Đức thứ 3 (1734) bà Ý Đức nhà Lê khuyến giáo thập phương và xuất của nhà làm lại,trên là cột lim dưới là gạch đá, cuốn thành cầu cống, dựng bia ghi lại. Năm 1940, nhà nước khơi sông dẫn thủy, bỏ cầu cống, bắc cầu gỗ, chân xi măng cốt sắt, mặt cầu gõ lim, gạch đá giao giả sở tại Thanh Liệt”. Rõ ràng chỉ qua văn bia chúng ta mới biết được lai lịch của cây cầu này đã trải qua nhiều lần trùng tu sửa chữa.
Một điều không thể không nhắc đến trong nội dung văn khắc Hán Nôm Hà Nội, đó là những bài văn bia ghi về sinh hoạt hát cửa đình cũng như xung quanh lệ thu tiền hát cửa đình ở một số vùng ven đô, tập trung nhiều ở huyện Từ Liêm. Bia Đình môn sự lệ bi ký, dựng năm Cảnh Hưng 29 (1768) tại xã Phú Mỹ huyện Từ Liêm (nay thuộc xã Mỹ Đình, Từ Liêm) đã  ghi lại những hủ tục phiền phức do Giáo phường gây ra “ hàng năm bản ấp vẫn duy trì việc thờ phụng, mọi việc làm đều bị Giáo phường tìm cách ngăn trở, nhiễu sách đủ điều khiến người đương sự khốn khổ tuân theo, học đi tập lại, tệ nạn chồng chất, vì thế rất muốn sửa đổi lại luật lệ nhưng chưa có cơ hội làm lại. Năm nay, vừa đúng dịp cũ đã quá kỳ, Giáo phường không có tiền đóng quan dịch nên đã trao đổi với bản ấp xin tỉnh giảm các lệ đồng thời cùng với các sắc mục hương lão trong ấp bàn bạc các chi phí”. Hoặc bia Đình môn bi, tạo năm Cảnh Hưng 22(1761) đặt tại đình Dịch Vọng Sở huyện Từ Liêm đã ghi rất cụ thể cho lệ hát cửa đình như sau: “ Ngày 20 tháng 2 hàng năm bản giáp có lệ rước Thánh giá vào hội, ca hát, trong giáp cắt cử hai đào nương, cô đào phù giá, khi trải chiếu hát không được vắng mặt. Theo chiếu đặt lệ 3 mạch tiền văn, một mâm xôi, một con gà. Nếu ai phế bỏ điều này thì người khác được trải chiếu, còn bản giáp thì mất tiền mâm cỗ đó. Đến ngày đặt chiếu vào hội, bản giáp cắt cử hai ca nương, hai người này cũng không được vắng mặt, nay đặt lệ.Khi có lễ vào hội ca hát thì bản giáp và bản huyện hoặc nơi có lễ đó có lệ tiền trù để phát cho các hạng, bản giáp và nơi đó tham gia thi đạt hạng ưu, hạng thứ thì phát cho mỗi người ba mạch tiền văn, nay đặt lệ.” Những đoạn văn bia như thế đã gợi nhớ về một Thăng Long hào hoa, về những làng quê ven đô với góc chiếu sân đình trong những ngày lễ hội, và chúng ta có thể cảm nhận được phần nào không khí vui vẻ, tưng bừng, có cả đào nương và ca nương về hát ca trù mừng lễ. Cũng qua đây chúng ta biết được các Giáo phường chuyên đi hát phục vụ ở các cửa đình bấy giờ thường ỷ vào thế mạnh chuyên môn để gây khó dễ cho các địa phương, tạo ra những hủ tục nặng nề. Nhưng Giáo phường cũng phải chịu các khoản tạp dịch, quan dịch từ trên bổ xuống mà nhiều khi họ không đủ kinh phí trang trải, nên đã phải bán cho nơi đến ca hát những quyền lợi thu được để có tiền nộp quan. Những vấn đề như vậy khá phổ biến trong văn bia nói chung, và ở Hà Nội còn lại không ít những bài minh văn nói về quan hệ của Giáo phường với địa phương đến trình diễn, những dẫn chứng trên chỉ là một phần rất nhỏ trong đó.

     Hà Nội còn có khá nhiều bài minh văn đề cập đến tình hình ruộng đất và sự tranh giành, kiện tụng để được sở hữu những khu đất đang tranh chấp. Tiêu biểu cho vấn đề này là những văn bản kiện tụng của xã Bát Tràng huyện Gia Lâm đã được nha môn phủ Thuận An phán xét. Văn bản có niên đại Thịnh Đức 4(1654) đã ghi lại những vấn đề tố tụng về ruộng đất bãi bồi ven sông Hồng của hai xã Bát Tràng và Đông Cao. Tình hình đó cũng gặp ở văn bia của xã Cổ Loa, xã Lương Quy huyện Đông Anh. Trong bài văn bia Xã nội bằng tích viết năm Vĩnh Thịnh 5(1709), đặt tại đền thờ An Dương Vương xã Cổ Loa cũng ghi lại những vấn đề tranh chấp đất chợ Cầu Sa giữa xã Dục Tú và xã Cổ Loa. Văn bản này cho biết “ trước điện thờ An Dương Vương có giếng Rửa Ngọc, từ thượng cổ đến thời điểm đó giếng luôn đầy nước sâu để thả cá phụng sự. Nhưng trước đó một năm đã bị quan Nội giám đánh bắt cá, lại tát cạn nước nên giếng biến thành ruộng để con cháu tự động mua bán, cày cấy, phân rác ô uế, gây bất hòa trong xã. Vì thế bản xã căn cứ vào giao ước, đắp đất xung quanh giếng, chứa đầy nước, thả cá phụng sự như cũ để dân được an cư, để bền quốc mạch. Nếu ai tự tiện tát nước, bản xã bắt nộp phạt trâu để lễ tạ Tiên Đế rồi trình lên Thượng quan, không tha!”
Văn bia khắc năm Cảnh Trị 1(1663) cũng tại đền Cổ Loa đã ghi các tường trình của quan viên xã thôn trưởng xã Cổ Loa tố cáo xã Dục Tú cậy đông người, cậy quyền thế đã đem gậy gộc đánh người gần chết, lại còn đi tố cáo xã Cổ Loa gian lận. Tuy sự việc như vậy nhưng sai nha lại bắt xã Cổ Loa lên xét hỏi, còn xã Dục Tú lại càng trở nên ngang ngược. Quan viên thôn trưởng xã ấy nói rằng bản xã có nhiều người giàu có, số hộ đông nên không sợ pháp luật. Trong một ngày nọ, xã đó đã tổ chức dân binh, lập ra tuần đội chừng hơn 100 người, đem chiêng trống gậy gộc, mang vũ khí sắc bén, mai phục các nơi với ý tranh chấp mốc giới, chém cây đa, dựng rào gai chắn, lấp lối đường đi, chửi bới đánh đuổi người nhưng vẫn đến tố cáo tại nha môn. Do đó xã Cổ Loa tâu xin lên bản huyện xem xét sự việc sai trái, hoàn trả lại mốc giới, bồi thường cây đa mà xã bên đã tố cáo sai. Nhưng đã qua hai tháng mà vẫn chưa thấy nha môn truy gọi xét xử, căn cứ vào các chứng lý để kiểm nghiệm... Câu chuyện này còn kéo dài cùng với những sự việc cụ thể của cả bên tố cáo và bên bị tố cáo, cuối cùng là phán quyết của nha môn về từng điều một. Rất thấm thía sự cực nhọc, cay đắng của việc theo kiện nên năm Vĩnh Thịnh 2(1706) xã Cổ Loa đã làm giao ước để khắc vào bia đá như sau:
“...Một lần kiện nếu lạm tiền bao nhiêu, thiếu lương ăn bao nhiêu, bản xã cùng chịu. Nếu có người bị đánh gậy, bản xã chịu bồi thường mỗi gậy 3 mạch cổ tiền. Người bị búa đánh, bản xã chịu bồi thường mỗi búa 3 mạch 30 văn cổ tiền. Nếu có người bị giết chết, bản xã chịu bồi thường y như luật định, mỗi ngày giỗ thịt trâu bò, tế ba năm theo nghi thức, có bao nhiêu con trai đều được tha cho phu dịch ba đời. Nếu có người tự nguyện chịu phạt, bản xã chịu bồi thường 100 quan sử tiền, được mua nhiêu cho con trai một đời. Người đi hầu kiện thắng cho làng, hàng năm bản xã biếu thưởng ba đời, cũng được tế lễ như vậy. Nay giao ước. Chọn các vị xã trưởng Lại Công Bỉnh, Đề lại Lê Đăng Thư, cựu xã Lại Công Lập ngày ngày theo kiện. Nếu thắng kiện được thưởng như đã giao ước.” Từ những nội dung trên văn bia dựng ngay tại chính điện đền Cổ Loa cho chúng ta thấy sự đấu tranh để tranh giành ruộng đất ở các vùng quê hết sức phức tạp, nan giải. Công lý nhiều khi không phụ thuộc vào sự đúng sai mà tùy thuộc vào đồng tiền.
Những văn bia liên quan đến ruộng đất hoặc lập chợ có ở hầu hết các huyện ngoại thành như Đông Anh, Sóc Sơn, Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm. Bia Nhị xã cộng luận hội thị bi ký, được soạn năm Vĩnh Thịnh 14(1718) đặt tại chợ Kim xã Lương Quy huyện Đông Ngàn(nay thuộc xã Cổ Loa) ghi việc hai xã Lương Quy huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn và xã Xuân Nộn huyện Kim Hoa phủ Bắc Hà cùng mở chợ. Nguyên hai xã có một phần đất ao và hai thửa ruộng giáp ranh nên đã cùng nhau sửa sang lập chợ, dựng lều quán để buôn bán cùng hưởng lộc. Vì thế hai xã đặt ra các quy định lệ chợ “ để từ nay về sau, nếu xã nào nuốt lời có điều ra tiếng vào cũng không thể sửa đổi lệ chợ được. Người nào tranh chấp địa phận, chiếm đoạt chợ, không tuân theo cam kết, hai xã cùng suy xét luận tội: bắt nộp một con trâu, một hũ rượu đặt tại đầu chợ”.
Còn có thể đề cập rất nhiều đến các giá trị khác của văn khắc Hán Nôm Hà Nội cả khu vực nội thành và ngoại thành. Văn bia tại từ đường dòng họ Nguyễn ở ở thôn Xa Long xã Đặng Xá huyện Gia Lâm viết năm Cảnh Hưng 26 (1767) lại cho biết một khía cạnh khác. Đó là ông Nguyễn Sĩ Trung đã “trải 50 năm phụng sự triều đình, lập công danh ghi vào sử sách; trong thì kính cẩn phò tá, ngoài thì hành sự rõ ràng. Khi chinh chiến do thám tình hình địch, đốc thúc quân binh tiến đánh có nhiều công lao; mẫn cán quản lý Thủy binh, được ban quan tước hiển vinh, thỏa chí bình sinh. Lúc đêm khuya đưa quân vào đồn Thúy Ái gặp thuyền giặc, dùng pháo tấn công; khiến giặc tơi bời. Như cụ Tổ khi xưa, từng đi thảo phạt 24 trận ở Hải Dương; đem sức kình nghê mà được khen thưởng công lao. Rồi lại đi dẹp giặc ở Lạng Sơn, vượt qua 96 ghềnh thác, cưỡi sóng lớn thừa cơ diệt địch. Khi chinh phạt ở Nghệ An, Thanh Hóa qua vùng núi hoang vu ở Nam Đàn, Hưng Nguyên; mỗi đồn trú là một lá cờ chỉ huy, mọi công việc đều hoàn thành chu tất. Do sự cống hiến với nước nhà, có công lao phò trợ thánh giá, nên ngài được thăng phẩm trật cao sang. Tuy vậy, ngài vẫn không chịu nhận đó là công lao của mình; chẳng có văn chương nào ghi chép hết, há người bình thường làm được như vậy sao ? Ngoài việc dụng  thủy binh, ngài còn phụ trách việc đóng thuyền; nửa năm đóng được 10 chiếc, 5 tháng đóng trụ nhuệ 50 cái, hiệp nhuệ 200 cái. Khi ở Hoan Châu 20 năm, chọn gỗ đóng thuyền binh; mọi việc đều hoàn thành cẩn thận, không phiền hà đến dân chúng. Ngài lại không tiếc tiền, ruộng ban thưởng, thu xếp công việc ổn thỏa.” Đoạn văn bia đó cho thấy ông là một người có tài cả trong chinh chiến và trong việc xây dựng củng cố quốc phòng, cụ thể là việc đóng thuyền chiến. Công lao của ông to lớn như vậy nên khi ông về nghỉ hưu ở tuổi 67, Vua Lê Cảnh Hưng đã ban cho ông một bài thơ khen và các bạn bè đã làm thơ ca ngợi tặng ông nhân ngày ông về nghỉ hưu. Tất cả những điều này hiện vẫn còn được lưu lại trên bia đá của từ đường dòng họ.Đây là bài thơ vua Lê Hiển Tông ban cho ông.                             
“ Phụng ban thi,
Phục lao vu ngoại hứa đa niên,
Hoàn cục như kim lạc cẩm triền.
Sĩ hải ba đào khinh nhất trạo,
Thánh ân vũ lộ đính trùng thiên.
Nam châu thảo mộc lưu dư khánh,
Bắc dã y quan xỉ thắng diên.
Cự tiếp trường xuyên do hệ vọng,
Vị ưng quắc thước lão lâm tuyền.
  Cảnh Hưng nhị thập lục niên, quí Thu tam cửu đề.

Nghĩa là:
Vất vả gian lao, nhiều năm phục vụ nơi biên ải,
Xong việc trở về, nay thật yên vui.
Vượt biển sóng to bằng mái chèo nhẹ,
Ơn huệ mưa móc cao ngất tầng trời.
Đến cây cỏ phương Nam còn ghi công tích,
Áo mũ của phương Bắc, làm phí cả tiệc vui.
Mái chèo lớn vượt sông xa, bằng niềm tin tưởng,
Chưa làm ông già quắc thước nơi suối rừng.
Thơ đề ngày 3 tháng 9 cuối mùa Thu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 (1765)”[8].
  Không đâu trên đất nước này có nhiều loại di tích lịch sử, văn hóa có ý nghĩa như ở Hà Nội. Đền Cổ Loa là một di tích lâu đời nhất, có ý nghĩa quốc gia, ngôi đền này gắn với nhà nước Âu Lạc, với An Dương Vương, chuyện nỏ thần và câu chuyện tình bi thảm của Mỵ Châu – Trọng Thủy. Những tư liệu còn lại đã phần nào cho chúng ta  thấy công tích của tiền nhân. Văn bia viết năm Vĩnh Thịnh 6(1710) tại đền Cổ Loa đã ghi về vị trí của ngôi đền này như sau: “ Trong loại đền thờ Tứ Tiên ở nước Đại Việt ta thì đền Cổ Loa là thứ nhất...” Bên cạnh đền Cổ Loa thờ An Dương Vương, Hà Nội còn có đền Sóc thờ Thánh Gióng, đền Tản Viên thờ đức Thánh Tản Viên... những ngôi đền đó đều có lịch sử rất lâu đời. Những di tích như thế là nơi văn khắc Hán Nôm được tạo dựng và lưu giữ. Hy vọng trong một điều kiện khác chúng ta sẽ có thể giải mã được nhiều hơn nữa các bài văn khắc Hán Nôm của Hà Nội để các nhà nghiên cứu và những ai yêu quý Thăng Long có thêm nhiều tư liệu hay và quý về  mảnh đất Thăng Long nghìn năm văn hiến.
5. Về các tác giả biên soạn văn bản
 Một trong những nhân tố quan trọng góp phần tạo nên giá trị cho các bài minh văn khắc trên bia đá, chuông đồng của Hà Nội là các tác giả soạn văn bia. Có thể kể đến rất nhiều người nổi tiếng, văn chương và sự nghiệp lừng lẫy một thời như: nhà sử học Lê Tung, Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan, Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính, Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo, Thám hoa Vũ Thạnh, Thám hoa Bùi Huy Bích, Tiến sĩ Hồ Sĩ Dương... hay những bậc danh sĩ nổi tiếng ở  Bắc Hà như Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Phạm Quý Thích, Nguyễn Văn Lý.v.v... Có nhiều vị Tiến sĩ có lẽ ta chỉ gặp tên họ trên bia đá nhưng nhiều khi họ lại cũng không ghi tên thật, chỉ ghi họ, khoa thi đỗ, chức tước, quê quán nhưng phần quê quán cũng bị tỉnh lược rất khó đoán. Chẳng hạn phần tác giả soạn văn bia Cao Sơn Tây Hưng miếu được ghi như sau: Tứ Ất Sửu khoa đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất than, Cẩn sự lang, Thanh Hoa đạo Giám sát Ngự sử, Kinh Từ Đông Hoa Đỗ Phủ soạn. Nghĩa là: Ông họ Đỗ, đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, chức Cẩn sự lang, Giám sát Ngự sử đạo Thanh Hoa,  quê xã Hoa Lâm huyện Đông Ngàn phủ Từ Sơn xứ( đạo) Kinh Bắc soạn văn bia. Hay tác giả soạn văn bia Nghĩa Phê tạo đình bi ký đặt tại đình Đông Các cũng ghi khá tỉnh lược như sau: Tứ Canh Tuất khoa đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất than, Đặc tiến kim Tử Vinh Lộc đại phu, Bồi tụng Binh bộ Tả Thị lang, Thọ Giang tử, Cẩm Giang Nghĩa Phú Nguyễn độn soạn.  Nghĩa là: Ông họ Nguyễn dốt nát, người xã Nghĩa Phú huyện Cẩm Giang, tước là Thọ Giang tử, giữ chức Bồi tụng Binh bộ Tả Thị lang, Đặc tiến Kim Tử Vinh Lộc đại phu, đỗ đệ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất soạn. Những nhà khoa bảng mà chúng ta không rõ sự nghiệp của họ nhưng do họ là tác giả soạn văn bia mà chúng ta may mắn biết đến họ. Có thể kể rất nhiều, như Tiến  sĩ  Nguyễn Giản giữ chức Cẩn  sự  lang,  Quốc  Tử Giám  Lễ  ký,  kiêm chức Tự Thừa ở  Thái  Thường  tự đã soạn văn bia chùa Nga My năm Hồng Đức 28(1497). Nguyên văn: Tứ  Tiến  sĩ  Cẩn  sự  lang  Quốc  Tử Giám  Lễ  ký  kiêm  Thái  Thường  tự  Tự  Thừa  Nguyễn Giản soạn 
Ở dòng ghi chức vụ của vị Tiến sĩ này chúng ta biết thêm một chức danh mới là Quốc Tử Giám Lễ ký   và chức Tự Thừa, trên các bia niên đại Lê trung hưng ta thường bắt gặp chức Thái Thường tự khanh mà ít gặp chức Tự Thừa. Có nhiều chức danh chỉ xuất hiện trên văn bia, đó là những tư liệu thật quý để nghiên cứu về quan chức, chức danh, nhân danh.
Như vậy, với tư liệu văn khắc Hán Nôm của Hà Nội, chúng ta có thể tìm thấy trong đó rất nhiều giá trị về nội dung . Chúng ta có thể tìm hiểu về địa danh, nhân danh, chức danh, có thể tìm hiểu về tôn giáo, tín ngưỡng, về các danh thắng, về tình hình ruộng đất và việc giao thương buôn bán, về sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt cộng đồng của người dân Thăng Long trong 10 thế kỷ xây dựng và phát triển. Đó là nguồn tư liệu tổng hợp của Hà Nội từ nhiều thời kỳ khác nhau cùng viết về Thăng Long – Hà Nội. Đó còn là nguồn tư liệu có giá trị về nghệ thật với hình thức biểu hiện rất phong phú và đa dạng. Những cảnh trí thiên nhiên cùng cỏ cây, hoa lá, chim thú đều được các nghệ sĩ dân gian đưa lên trang trí trên văn bia khá sinh động. Hoa văn trang trí trên văn bia Hà Nội nói riêng, văn bia Việt Nam nói chung có sức biểu cảm cao, đặc sắc, khác hẳn với trang trí hoa văn trên văn bia của Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản là những nước đồng văn với chúng ta trong quá khứ.
Thật khó để giới thiệu hết những giá trị mà văn khắc Hán Nôm Hà Nội chuyển tải, vì thế chúng tôi mới đưa ra một số phác họa ban đầu. Hy vọng quý vị độc giả có thể tìm thấy rất nhiều những khía cạnh có giá trị khác trong từng bài minh văn mà chúng tôi sẽ giới thiệu sau đây. Mặc dù nhóm công trình đã cố gắng hết sức để có thể đảm bảo chất lượng bản dịch nhưng với loại hình tư liệu văn bia và minh văn trên chuông là một thử thách rất lớn. Khôn văn tế,dại văn bia đó là câu mà các nhà nho học đã truyền lại, bởi lẽ văn bia rất khó, nó có nhiều điển tích, điển cố mà không phải lúc nào chúng ta cũng có thể giải mã chính xác được. Do đó chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ giáo của các bậc thức giả xa gần để tập sách được hoàn chỉnh hơn.
Cuối cùng thay mặt nhóm tác giả cùng công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn tới Viện Việt Nam học và khoa học phát triển thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội và Nhà xuất bản Hà Nội đã tạo điều kiện để bản thảo Tuyển tập văn khắc Hán Nôm Hà Nội có thể ra mắt bạn đọc trong dịp kỷ niệm chào mừng Thăng Long – Hà Nội ngàn năm tuổi.
Hà Nội , Xuân Canh Dần
                                                    Chủ nhiệm đề tài
                                                 TS. Phạm Thị Thùy Vinh



[1] Gồm các quận: Ba Đình,Hoàn Kiếm,Đống Đa, Hai Bà Trưng,Thanh Xuân, Hoàng Mai,Cầu Giấy,Long Biên,Tây Hồ và các huyện: Từ Liêm,Thanh Trì, Gia Lâm, Đông Anh,Sóc Sơn.
[2] Sở dĩ có sự chênh lệch như vậy vì một đơn vị văn khắc có thể có từ một đến bốn hoặc sáu ký hiệu,mỗi một ký hiệu tương ứng với một mặt của thác bản văn khắc.
[3] Xem Nguyễn Văn Nguyên
[4] Chuông do Phạm Văn Thắm phát hiện năm 1987.
[5] Xem Văn khắc Hán Nôm Việt Nam từ Bắc thuộc đến thời Lý, Viện Viễn Đông bác cổ Pháp và Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản năm 1998
[6] Xem Nhật Tảo cổ chung minh trong Văn khắc Hán Nôm Việt Nam từ bắc thuộc đến thời Lý, trang 47
[7] Ở đây chúng tôi chưa đề cập đến các minh văn trên đất Hà Tây cũ và huyện Mê Linh. Trong phần tuyển dịch chúng tôi có chọn 10 bài minh văn của Hà Tây cũ nhưng chưa đủ khái quát để giới thiệu.
[8]. Về nhân vật Nguyễn Sĩ Trung có thể có nhiều cách nhìn nhận đánh giá khác nhau. Nếu xét dưới góc độ một quan chức của triều đình thì ông đã hoàn thành xuất sắc công việc được giao. Nhưng nếu xét theo khía cạnh khác thì đây lại là nhân vật đã tham gia  đàn áp khởi nghĩa nông dân trong thế kỷ 18. Tuy nhiên, chúng tôi muốn căn cứ theo nội dung văn bản còn lại trong từ đường để công bố những thông tin liên quan đến ông, còn việc đánh giá về nhân vật Nguyễn Sĩ Trung xin nhường lại cho các nhà nghiên cứu lịch sử.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét