Chủ Nhật, 3 tháng 5, 2015

Văn bia Chùa Vua - Hưng Khánh tự

Chùa Vua, địa bàn phường Phố Huế, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Là một địa danh di tích có lịch sử lâu đời tại đất Thăng Long. Vì có thờ Đế Thích nên tục gọi là Chùa Vua. Tương truyền được xây dựng từ thời Lê, với quần thể bao gồm Chùa Hưng Khánh, Điện Mẫu, Điện Đế Thích. Từ xưa địa danh này đã là nơi tổ chức thi đấu Cờ Người nổi tiếng. Từng được coi là một địa danh của Đạo quán Thăng Long (Thăng Long tứ quán), về sau kết hợp với Phật giáo trở thành một di tích lịch sử lâu đời của Hà Nội. Hiện tại chùa còn văn bia ghi lại sự trùng tu chùa Hưng Khánh năm Đồng Khánh thứ 3 (1888).
Noi theo nếp cũ giới thiệu các cổ tích danh thắng nước nhà chúng tôi có sưu tập được văn bia này, xin giới thiệu nguyên văn cùng phiên âm dịch nghĩa để tìm hiểu thêm về di tích lịch sử chùa Vua. Cũng như góp phần cho tư liệu văn khắc cổ Việt Nam viết bằng chữ Hán.
Ảnh chụp văn bia tại chùa Vua:
(Bản dịch đã được giới thiệu trong công trình Tuyển tập Văn khắc Hán Nôm Hà Nội của nhóm PGS.TS Phạm Thùy Vinh/ Viện nghiên cứu Hán Nôm)
49153 (chùa Vua)
Nguyên văn:
興慶寺寄忌碑
總敘星野彊域新造興慶寺碑記
又恭進綿繡傘一雙旗扁一部
夫易之言曰:在天成象,在地成形,方以類聚,物以群分。此星野彊域之所由分也。自有虞氏璇璣玉衡以齊七政,夏后氏玄圭告成而正九洲,後之仰觀俯察者咸謂通都鉅邑,各有邊陲嵩嶽名山。上應列宿雖方里之域,函丈之室莫不屬於分野,統於分星。正之以經界,別之以籓籬。由是災祥之徵,彼我之見紛然起矣。如此娑婆世界是則不然何以。故以六合為一家,八荒為一闥,萬象森羅,一心所仰而今視彼橫生區域者,譬如有人割截虛空欲其離異,收歸自己豈可得耶?雖然如是雲月總同溪山,各別無故,虛空忽生山河大地於大地上區分大小諸國省府縣社村城,聚落之於聚落區域,建立伽藍精舍。今於盛安區域新造興慶伽藍,誰開誰繼,誰主誰賓興慶同居不放諦當。如或不然則斬荊披棘,墾土誅茅還與木人討創耶!此處新造興慶伽藍仍惟比丘清歷與壇主蔡輝謙(壬午年三月十五日)(一月初?日正忌),妻裴氏屋號妙通(丁酉年月日受生亨耆?)(於三月二十六日正忌)捐資新造殿五間前堂七間 (內寺田五高在宮??處并青錢壹千五百緡又民田壹畝肆高在白梅坊禮佳處并青錢五百貫仝民順受合約百歲後遞年忌日本村辨具豬一面吹一盤金銀芙留具足至如四季禮物隋宜亦從配亨要在)奉事三寶以此功德同向 (內顯考蔡貴公字允執諡福厚妣阮貴氏號慈?;外顯考裴貴公字德正妣粱貴氏號慈明諸真靈)四恩總報,三有齊資,法界眾生,同圓種智。何以故地名勝母之里,曾子回車易垂幹蠱之文,姬公遜美,故雖撞破煙樓也須謙退如云水。由於水正好知源,檀越發心誠之至也。興功會主何敢忘之,是故總敘星野彊域新造興慶伽藍碑記 (詳按興慶寺在河內省懷德府壽昌縣金蓮總盛安村區域)
同慶三年歲次戊子十一月二十九日立碑記 (倘何人忘前功德已有鬼神證鑑)
Phiên âm:
HƯNG KHÁNH TỰ KÝ KỴ BI
Tổng tự tinh dã cương  vực tân tạo Hưng  Khánh tự bi ký
Hựu cung tiến miên tú tản nhất song kỳ biển nhất bộ
Phù Dịch chi ngôn viết: tại thiên thành tượng, tại địa thành hình, phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân. Thử tinh dã cương  vực chi sở do phân  dã. Tự Hữu Ngu thị toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính, Hạ Hậu thị huyền khuê cáo thành nhi chính cửu châu, hậu chi ngưỡng quan phủ sát giả hàm vị thông đô cự ấp, các hữu biên thuỳ tung nhạc danh sơn. Thượng ứng liệt tú tuy phương lý chi vực, hàm trượng chi thất mạc bất thuộc ư phân  dã, thống ư phân  tinh. Chính chi dĩ kinh giới, biệt chi dĩ phiên ly. Do thị tai tường chi trưng, bỉ ngã chi kiến phân nhiên khởi hỹ. Như thử sa bà thế giới thị tắc bất nhiên hà dĩ. Cố dĩ lục hợp vi nhất gia, bát hoang vi  nhất thát, vạn tượng sâm la, nhất tâm sở ngưỡng nhi kim thị bỉ hoành sinh khu vực giả, thí như hữu nhân cát tiệt hư không dục kỳ ly dị, thu quy tự kỷ khởi khả đắc datuy nhiên như thị vân nguyệt tổng đồng khê sơn, các biệt vô cố, hư không hốt sinh sơn hà đại địa ư đại địa thượng  khu phân  đại tiểu chư quốc tỉnh phủ huyện xã thôn thành, tụ lạc chi ư tụ lạc  khu vực, kiến lập già lam tinh xá. Kim ư Thịnh Yên khu vực tân tạo Hưng  Khánh già lam, thuỳ khai thuỳ kế, thuỳ chủ thuỳ tân Hưng  Khánh đồng cư bất phóng đế đương. Như hoặc bất nhiên tắc trảm kinh phi cức, khẩn thổ tru mao hoàn dữ mộc nhân thảo sáng da Thử xứ tân tạo Hưng  Khánh già lam  nhưng duy Tỳ khưu Thanh Lịch dữ Đàn chủ Thái Huy Khiêm (Nhâm Ngọ niên tam nguyệt thập ngũ nhật) nhất nguyệt sơ nhật chính kỵ) , thê Bùi Thị Ốc hiệu Diệu Thông (Đinh Dậu niên nguyệt nhật thụ sinh hanh kỳ ?)(ư tam nguyệt nhị thập lục nhật chính kỵ) quyên tư tân tạo thượng  điện ngũ gian tiền đường thất gian  (nội tự điền ngũ cao tại Cung ?? xứ tịnh thanh tiền nhất thiên ngũ bách mân hựu dân điền nhất mẫu tứ cao tại Bạch Mai phường Lễ Giai xứ tịnh thanh tiền ngũ bách quán đồng dân thuận thụ hợp ước bách tuế hậu đệ niên kỵ nhật bản thôn biện cụ trư nhất diện xuy nhất bàn kim ngân phù lưu cụ túc chí như tứ quý lễ vật tuỳ nghi diệc tùng phối hưởng yếu tại) phụng sự tam bảo dĩ thử công đức đồng hướng  (nội hiển khảo Thái Quý công tự Doãn Chấp thụy Phúc hậu tỷ Nguyễn Quý thị hiệu Từ ?;ngoại hiển khảo Bùi Quý công tự Đức Chính, tỷ Lương Quý thị hiệu Từ Minh chư chân linh) tứ ân tổng báo, tam hữu tề tư, pháp giới chúng sinh đồng viên chủng trí. Hà dĩ cố địa danh Thắng Mẫu chi lý, Tăng tử hồi xa dịch thuỳ cán cổ chi văn, Cơ Công tốn mỹ, cố tuy tràng phá yên lâu dã tu khiêm thoái như vân thuỷ. Do ư thuỷ chính hiếu tri nguyên, đàn việt phát tâm thành chi chí dã. Hưng  công hội chủ hà cảm vong chi, thị cố tổng tự tinh dã cương  vực tân tạo Hưng  Khánh già lam  bi ký.  (tường án Hưng  Khánh tự tại hà nội tỉnh hoài đức phủ thọ xương huyện kim liên tổng Thịnh Yên thôn khu vực)
Đồng Khánh tam niên tuế thứ Mậu Tý thập nhất nguyệt nhị thập cửu nhật lập bi ký  (thảng hà nhân vong tiền công đức dĩ hữu quỷ thần chứng giám)
Dịch nghĩa:
BIA GỬI GIỖ CHÙA HƯNG KHÁNH
Bia ghi tổng thuật về tinh dã cương  vực[1] và việc xây mới chùa Hưng  Khánh
Lại cung tiến 1 đôi Tán lụa, 1 bộ cờ biển.
Ôi ! Kinh Dịch nói rằng: Trên trời thì có tượng, dưới đất thì thành hình, các loài tụ họp, muôn vật chia bầy. Đấy là cái sự phân chia tinh dã cương  vực là như thế. Tự khi họ Hữu Ngu[2] dùng máy toàn cơ ngọc hành[3] để sửa đều thất chính, họ Hạ Hậu[4] dùng ngọc huyền khuê[5] mà bố cáo thành lập 9 châu. Rồi cúi xem ngẩng xét, bao gồm thâu cả các nơi đô to ấp lớn, đều có biên thuỳ sông núi tiếng tăm. Trên thì ứng với các vì tinh tú, tuy chỉ là nơi vuông có 1 dặm, cái nhà rộng có 1 thước, chẳng có cái gì là cái không thuộc về phân  dã, quản về các vùng sao chiếu. Phân vạch nó ra bằng đường Kinh giới, phân biệt nó ra bởi các vùng giáp ranh. Mà từ đó các điềm may điềm gở mới hiện ra, các ý phân biệt đây kia mới khởi rõ.  Thế nên gọi lục hợp[6] vốn một nhà, bát hoang[7] cùng vào một cửa, muôn tượng sum vầy, một lòng cùng hướng. Vậy mà nay, thấy nó hoành hành nảy sinh ra các khu vực, cứ như là có người cắt tiệt cả hư không, mong cho nó chia lìa khác đi, mà thu gồm về một mình mình, có thể được như thế saoTuy nhiên, cảnh trăng mây vẫn thế, cùng là núi sông đây, mỗi cái khác biệt vô cớ, như là từ hư không mà nảy sinh ra có sông có núi, trên đất lại chia ra thêm đất, thành các nước lớn nhỏ, tỉnh phủ huyện xã thôn, thành vùng tụ họp, gây dựng cảnh già lam tinh xá. Nay ở khu vực Thịnh Yên mới tạo dựng chùa Hưng  Khánh già lam, ai người khai mở, ai kẻ kế truyền, đâu là chủ, đâu là khách, chùa Hưng  Khánh cùng ở đấy chẳng phiền xem xét chuyện ấy. Như hoặc không như thế thì cũng dẹp gai góc vén bụi bờ, dỡ đất nhổ cỏ, cũng gọi là như làm ra người  gỗ thôi sao[8] Khu vực ấy tạo dựng mới cảnh chùa Hưng  Khánh, cũng nhờ ở Tỳ khưu Thanh Lịch và vị Đàn chủ là Thái Huy Khiêm (sinh ngày 15 tháng 3 năm Nhâm Ngọ; Giỗ ngày ? tháng 1, và vợ là bà Bùi Thị Ốc, hiệu là Diệu Thông (sinh ngày tháng năm Đinh Dậu [9]; Giỗ ngày 26 tháng 3) quyên góp tiền của để dựng mới 5 gian thượng  điện, 7 gian tiền đườngtrong ấy có cúng ruộng 5 sào ở xứ Cung ?? và  thanh tiền 1500 xâu, lại có 1 mẫu 4 sào ruộng của dân ở xứ Lễ Giai phường Bạch Mai và thanh tiền 500 quan, cùng với nhân dân thuận nhận hợp ước là khi các vị trăm tuổi, các ngày giỗ, bản thôn sẽ biện đủ xôi thịt 1 mâm, vàng mã  trầu cau cúng lễ, bốn mùa tùy nghi phối hưởng, chủ yếu để phụng sự Tam Bảo. Công đức ấy cùng hướng cúng cho (chân linh các vị: Cụ nội hiển khảo là Thái Quý công tên tự là Doãn Chấp, tên thụy là Phúc Hậu; cụ bà là Nguyễn Quý thị hiệu Từ ?;Cụ ngoại hiển khảo là Bùi Quý công tên tự là Đức Chính; cụ bà là tỷ Lương Quý thị, hiệu là Từ Minh. Nguyện cho tổng báo đáp bốn ân, tư trợ luôn tam hữu[10], chúng sinh trong pháp giới cùng đạt trí viên thông. Sao lại lấy cớ làng tên “Thắng Mẫu”[11], hay chuyện “Mặc tử quay xe”[12] để thay đổi sự lợi ích, Cơ Công còn khiêm tốn về dung mạo[13], Thế nên tuy rằng tài cán có làm hơn được đời trước, cũng nên khiêm lui nhẹ nhàng như mây trôi nước chảy thôi. Vì chăng nước còn có ý phát từ nguồn, đó là lòng thành tâm phát nguyện chí thiết của các bậc Đàn Việt[14] . Vậy thì công lao của người Hội chủ hưng  công, sao dám quên được. Vậy nên làm lời bia ghi tổng tự về cái tinh dã cương vực và việc gây dựng cảnh chùa Hưng  Khánh này.  (Rõ y chùa Hưng  Khánh ở khu vực thôn Thịnh Yên tổng Kim Liên huyện Thọ Xương phủ Hoài Đức tỉnh Hà Nội
Lập bia ghi ngày 29 tháng 11 năm Đồng Khánh thứ 3 - 1888hoặc như có ai dám quên công đức của người xưa đã có quỷ thần chiếu soi

Nguyễn Đức Toàn dịch - 2010




[1] Tinh dã cương vực: quan niệm cổ xưa, là đất đai sông núi đều có cương vực phân dã quy hoạch trên bầu trời, theo phân chiếu của các vì sao.
[2] Tức vua Thuấn () là một vị vua huyền thoại thời Trung Quốc cổ đại, nằm trong Tam Hoàng Ngũ Đế. Ông cũng được gọi là Hữu Ngu Thị (有虞氏).
[3] toàn cơ ngọc hành: Máy đo trắc thời tiết thời cổ. Sau có người gọi là “Hỗn thiên nghi”; thất chính: 7 vì sao trong vũ trụ: mặt trăng, mặt trời, các sao Kim – Mộc –Thủy – Hỏa – Thổ. Sách Thượng thư/ Thuấn điển: 在璿璣玉衡,以七政Tại toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Ý nói đo trắc thời gian, để xem thời tiết
[4] Tức vua Hạ Vũ (; 2205 TCN2198 TCN) là vị vua đầu tiên của nhà Hạ trong lịch sử Trung Quốc. Còn xưng là Hạ Hậu thị.
[5] Ngọc màu đen, thời cổ đại dùng để ban tặng cho người có công lao đặc biệt. Sách Thượng thư/Vũ cống: 玄圭,告厥成功。Vũ tứ huyền khuê, cáo quyết thành công. Ý nói vua Vũ ban tặng huyền khuê, bố cáo thành công trong việc chia định thiên hạ thành 9 châu; Cửu châu: Cửu châu: 9 châu, chỉ thiên hạ nói chung.
[6] Lục hợp六合: Chỉ bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc, và bên trên bên dưới. Ý phiếm chỉ thiên hạ vũ trụ nói chung.
[7] Bát hoang: tức 8 hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nam, Đông Nam. Ý cũng như Lục hợp, chỉ thiên hạ vũ trụ nói chung.
[8]木人討創: Mộc nhân thảo sáng/ Làm ra người gỗ: ý nói sáng tạo một việc bình thường, không giá trị nhiều
[9] Chữ bị mờ.
[10] Tứ ân: 4 loại ơn, là ơn cha mẹ, ơn chúng sinh, ơn quốc gia, ơn Tam Bảo; Tam hữu: 3 giới, là Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Chỉ chung cho muôn loài.
[11] Điển tích Tăng tử, đến một nơi có ngõ phố tên là Thắng Mẫu, cho là tên gọi ấy nghe trái với lễ, không thuận, nên không vào. 胜母之里,曾不入/.孫過庭〈書譜〉
[12] Nguyên văn là Tăng tử, nhưng không có điển về Tăng tử quay xe mà phải là Mặc tử. Mặc tử thời xưa đi với các đệ tử đi chu du liệt quốc, một hôm nghe nói trước mặt sắp đến vùng Triều Ca, nơi kinh đô của Trụ vương. Mặc tử  thất kinh bảo học trò quay xe, vì phía trước là hướng chẳng lành.
[13] Điển tích, Cơ Công tức là Chu Công, ở thành Nam là người nổi danh đẹp trai. Có người ở thành Bắc, sáng dậy soi gương hỏi vợ: Ta có đẹp bằng Chu Công không?. Vợ đáp: Đẹp hơn. Ra đường hỏi bạn, cũng trả lời thế. Một hôm hắn gặp Chu Công, mới ngẫm ra mình không bằng Chu Công, mà sự khiêm tốn của Chu Công còn hơn thế. Hắn nghiệm được rằng, vợ khen ta đẹp vì vợ sợ ta, bạn khen ta đẹp vì bạn có việc cần nhờ ta. Huống đẹp như Chu Công mà còn phải khiêm tốn đến thế, càng làm cho hắn đẹp thêm. Câu này có ý nói tốt đẹp nhưng vẫn có chỗ chưa hoàn hảo, mà đẹp như Chu Công còn phải khiêm nhường, vậy không nên câu chấp cái tên, cái vẻ ngoài mà bỏ hết cả cái hay của nó.
[14] Đàn Việt: những người có lòng công đức góp của cải tu tạo, làm việc Phật sự.
[15] Những người có công lao được thờ phối hưởng tại đình đền thì gọi là Hậu Thần.
[16]Nguyên văn: 古廟關亭/ Cổ miếu quan đình/ miếu cổ đình Quan, có thể là nói khu vực làng Quan Nhân? hay là miếu thờ Quan đế, cũng có thể hiểu nghĩa là cái miếu ở cổng làng? hay tên riêng của miếu là Miếu Quan Đình.
[17] Tiền cổ: đơn vị tính tiền thời xưa. Có tiền Quý, tiền Gián, tiền Cổ, tiền Văn.
[18] Hậu vị: Linh vị của người được bầu Hậu Thần.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét