Noi theo nếp cũ giới thiệu các cổ tích danh thắng nước nhà chúng tôi có sưu tập được văn bia này, xin giới thiệu nguyên văn cùng phiên âm dịch nghĩa để tìm hiểu thêm về di tích lịch sử chùa Vua. Cũng như góp phần cho tư liệu văn khắc cổ Việt Nam viết bằng chữ Hán.
Ảnh chụp văn bia tại chùa Vua:
(Bản dịch đã được giới thiệu trong công trình Tuyển tập Văn khắc Hán Nôm Hà Nội của nhóm PGS.TS Phạm Thùy Vinh/ Viện nghiên cứu Hán Nôm)
49153 (chùa Vua)
Nguyên văn:
興慶寺寄忌碑
總敘星野彊域新造興慶寺碑記
又恭進綿繡傘一雙旗扁一部
夫易之言曰:在天成象,在地成形,方以類聚,物以群分。此星野彊域之所由分也。自有虞氏璇璣玉衡以齊七政,夏后氏玄圭告成而正九洲,後之仰觀俯察者咸謂通都鉅邑,各有邊陲嵩嶽名山。上應列宿雖方里之域,函丈之室莫不屬於分野,統於分星。正之以經界,別之以籓籬。由是災祥之徵,彼我之見紛然起矣。如此娑婆世界是則不然何以。故以六合為一家,八荒為一闥,萬象森羅,一心所仰而今視彼橫生區域者,譬如有人割截虛空欲其離異,收歸自己豈可得耶?雖然如是雲月總同溪山,各別無故,虛空忽生山河大地於大地上區分大小諸國省府縣社村城,聚落之於聚落區域,建立伽藍精舍。今於盛安區域新造興慶伽藍,誰開誰繼,誰主誰賓興慶同居不放諦當。如或不然則斬荊披棘,墾土誅茅還與木人討創耶!此處新造興慶伽藍仍惟比丘清歷與壇主蔡輝謙(壬午年三月十五日)(一月初?日正忌),妻裴氏屋號妙通(丁酉年月日受生亨耆?)(於三月二十六日正忌)捐資新造上殿五間前堂七間 (內寺田五高在宮??處并青錢壹千五百緡又民田壹畝肆高在白梅坊禮佳處并青錢五百貫仝民順受合約百歲後遞年忌日本村辨具豬一面吹一盤金銀芙留具足至如四季禮物隋宜亦從配亨要在)奉事三寶以此功德同向 (內顯考蔡貴公字允執諡福厚妣阮貴氏號慈?;外顯考裴貴公字德正妣粱貴氏號慈明諸真靈)四恩總報,三有齊資,法界眾生,同圓種智。何以故地名勝母之里,曾子回車易垂幹蠱之文,姬公遜美,故雖撞破煙樓也須謙退如云水。由於水正好知源,檀越發心誠之至也。興功會主何敢忘之,是故總敘星野彊域新造興慶伽藍碑記 (詳按興慶寺在河內省懷德府壽昌縣金蓮總盛安村區域)
同慶三年歲次戊子十一月二十九日立碑記 (倘何人忘前功德已有鬼神證鑑)
Phiên âm:
HƯNG KHÁNH TỰ
KÝ KỴ BI
Tổng tự tinh dã
cương vực tân tạo Hưng Khánh tự bi ký
Hựu cung tiến
miên tú tản nhất song kỳ biển nhất bộ
Phù Dịch chi ngôn viết: tại thiên thành tượng, tại địa thành hình, phương
dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân. Thử tinh dã cương
vực chi sở do phân dã. Tự Hữu Ngu
thị toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính, Hạ Hậu thị huyền khuê cáo thành nhi
chính cửu châu, hậu chi ngưỡng quan phủ sát giả hàm vị thông đô cự ấp, các hữu
biên thuỳ tung nhạc danh sơn. Thượng ứng liệt tú tuy phương lý chi vực, hàm trượng
chi thất mạc bất thuộc ư phân dã, thống
ư phân tinh. Chính chi dĩ kinh giới, biệt
chi dĩ phiên ly. Do thị tai tường chi trưng, bỉ ngã chi kiến phân nhiên khởi hỹ.
Như thử sa bà thế giới thị tắc bất nhiên hà dĩ. Cố dĩ lục hợp vi nhất gia, bát
hoang vi nhất thát, vạn tượng sâm la, nhất
tâm sở ngưỡng nhi kim thị bỉ hoành sinh khu vực giả, thí như hữu nhân cát tiệt
hư không dục kỳ ly dị, thu quy tự kỷ khởi khả đắc da?tuy nhiên như thị vân nguyệt tổng đồng khê sơn, các biệt vô
cố, hư không hốt sinh sơn hà đại địa ư đại địa thượng khu phân
đại tiểu chư quốc tỉnh phủ huyện xã thôn thành, tụ lạc chi ư tụ lạc khu vực, kiến lập già lam tinh xá. Kim ư Thịnh
Yên khu vực tân tạo Hưng Khánh già lam, thuỳ
khai thuỳ kế, thuỳ chủ thuỳ tân Hưng Khánh
đồng cư bất phóng đế đương. Như hoặc bất nhiên tắc trảm kinh phi cức, khẩn thổ
tru mao hoàn dữ mộc nhân thảo sáng da !Thử xứ tân tạo Hưng Khánh già
lam nhưng duy Tỳ khưu Thanh Lịch dữ Đàn
chủ Thái Huy Khiêm (Nhâm Ngọ niên tam nguyệt thập ngũ nhật) (nhất nguyệt sơ ?nhật chính kỵ) , thê Bùi Thị Ốc
hiệu Diệu Thông (Đinh Dậu niên nguyệt nhật thụ sinh hanh kỳ ?)(ư tam nguyệt nhị thập lục nhật
chính kỵ) quyên tư tân tạo thượng điện
ngũ gian tiền đường thất gian (nội tự điền
ngũ cao tại Cung ?? xứ tịnh thanh tiền nhất thiên ngũ bách mân hựu dân điền nhất
mẫu tứ cao tại Bạch Mai phường Lễ Giai xứ tịnh thanh tiền ngũ bách quán đồng
dân thuận thụ hợp ước bách tuế hậu đệ niên kỵ nhật bản thôn biện cụ trư nhất diện
xuy nhất bàn kim ngân phù lưu cụ túc chí như tứ quý lễ vật tuỳ nghi diệc tùng
phối hưởng yếu tại) phụng sự tam bảo dĩ thử công đức đồng hướng (nội hiển khảo Thái Quý công tự Doãn Chấp thụy
Phúc hậu tỷ Nguyễn Quý thị hiệu Từ ?;ngoại hiển khảo Bùi Quý công tự Đức Chính, tỷ Lương Quý thị hiệu Từ Minh
chư chân linh) tứ ân tổng báo, tam hữu tề tư, pháp giới chúng sinh đồng viên chủng
trí. Hà dĩ cố địa danh Thắng Mẫu chi lý, Tăng tử hồi xa dịch thuỳ cán cổ chi
văn, Cơ Công tốn mỹ, cố tuy tràng phá yên lâu dã tu khiêm thoái như vân thuỷ. Do
ư thuỷ chính hiếu tri nguyên, đàn việt phát tâm thành chi chí dã. Hưng công hội chủ hà cảm vong chi, thị cố tổng tự
tinh dã cương vực tân tạo Hưng Khánh già lam
bi ký. (tường án Hưng Khánh tự tại hà nội tỉnh hoài đức phủ thọ
xương huyện kim liên tổng Thịnh Yên thôn khu vực)
Đồng Khánh tam
niên tuế thứ Mậu Tý thập nhất nguyệt nhị thập cửu nhật lập bi ký (thảng hà nhân vong tiền công đức dĩ hữu quỷ
thần chứng giám)
Dịch nghĩa:
BIA GỬI GIỖ
CHÙA HƯNG KHÁNH
Bia ghi tổng thuật
về tinh dã cương vực[1]
và việc xây mới chùa Hưng Khánh
Lại cung tiến 1
đôi Tán lụa, 1 bộ cờ biển.
Ôi ! Kinh
Dịch nói rằng: Trên trời thì có tượng,
dưới đất thì thành hình, các loài tụ họp, muôn vật chia bầy. Đấy là cái sự phân
chia tinh dã cương vực là như thế. Tự khi
họ Hữu Ngu[2]
dùng máy toàn cơ ngọc hành[3]
để sửa đều thất chính, họ Hạ Hậu[4]
dùng ngọc huyền khuê[5]
mà bố cáo thành lập 9 châu. Rồi cúi xem ngẩng xét, bao gồm thâu cả các nơi đô to
ấp lớn, đều có biên thuỳ sông núi tiếng tăm. Trên thì ứng với các vì tinh tú, tuy
chỉ là nơi vuông có 1 dặm, cái nhà rộng có 1 thước, chẳng có cái gì là cái
không thuộc về phân dã, quản về các vùng
sao chiếu. Phân vạch nó ra bằng đường Kinh giới, phân biệt nó ra bởi các vùng
giáp ranh. Mà từ đó các điềm may điềm gở mới hiện ra, các ý phân biệt đây kia mới
khởi rõ. Thế nên gọi lục hợp[6]
vốn một nhà, bát hoang[7]
cùng vào một cửa, muôn tượng sum vầy, một lòng cùng hướng. Vậy mà nay, thấy nó hoành
hành nảy sinh ra các khu vực, cứ như là có người cắt tiệt cả hư không, mong cho
nó chia lìa khác đi, mà thu gồm về một mình mình, có thể được như thế sao?Tuy nhiên, cảnh trăng mây vẫn thế,
cùng là núi sông đây, mỗi cái khác biệt vô cớ, như là từ hư không mà nảy sinh
ra có sông có núi, trên đất lại chia ra thêm đất, thành các nước lớn nhỏ, tỉnh
phủ huyện xã thôn, thành vùng tụ họp, gây dựng cảnh già lam tinh xá. Nay ở khu
vực Thịnh Yên mới tạo dựng chùa Hưng
Khánh già lam, ai người khai mở, ai kẻ kế truyền, đâu là chủ, đâu là
khách, chùa Hưng Khánh cùng ở đấy chẳng
phiền xem xét chuyện ấy. Như hoặc không như thế thì cũng dẹp gai góc vén bụi bờ,
dỡ đất nhổ cỏ, cũng gọi là như làm ra người
gỗ thôi sao[8] !Khu vực ấy tạo dựng mới cảnh chùa
Hưng Khánh, cũng nhờ ở Tỳ khưu Thanh Lịch
và vị Đàn chủ là Thái Huy Khiêm (sinh ngày 15 tháng 3 năm Nhâm Ngọ; Giỗ ngày ?
tháng 1), và vợ là bà Bùi
Thị Ốc, hiệu là Diệu Thông (sinh ngày tháng năm Đinh Dậu □[9]; Giỗ ngày 26 tháng 3) quyên góp tiền của để dựng mới 5 gian
thượng điện, 7 gian tiền đường(trong ấy có cúng ruộng 5 sào ở xứ
Cung ?? và thanh tiền 1500
xâu, lại có 1 mẫu 4 sào ruộng của dân ở xứ Lễ Giai phường Bạch Mai và thanh tiền
500 quan, cùng với nhân dân thuận nhận hợp ước là khi các vị trăm tuổi, các
ngày giỗ, bản thôn sẽ biện đủ xôi thịt 1 mâm, vàng mã trầu cau cúng lễ, bốn mùa tùy nghi phối hưởng,
chủ yếu □)để phụng sự Tam Bảo. Công đức ấy
cùng hướng cúng cho (chân linh các vị: Cụ nội hiển khảo là Thái Quý công tên tự
là Doãn Chấp, tên thụy là Phúc Hậu; cụ bà là Nguyễn Quý thị hiệu Từ ?;Cụ ngoại hiển khảo là Bùi Quý
công tên tự là Đức Chính; cụ bà là tỷ Lương Quý thị, hiệu là Từ Minh). Nguyện cho tổng báo đáp bốn ân,
tư trợ luôn tam hữu[10],
chúng sinh trong pháp giới cùng đạt trí viên thông. Sao lại lấy cớ làng tên “Thắng
Mẫu”[11],
hay chuyện “Mặc tử quay xe”[12]
để thay đổi sự lợi ích, Cơ Công còn khiêm tốn về dung mạo[13],
Thế nên tuy rằng tài cán có làm hơn được đời trước, cũng nên khiêm lui nhẹ
nhàng như mây trôi nước chảy thôi. Vì chăng nước còn có ý phát từ nguồn, đó là
lòng thành tâm phát nguyện chí thiết của các bậc Đàn Việt[14]
. Vậy thì công lao của người Hội chủ hưng
công, sao dám quên được. Vậy nên làm lời bia ghi tổng tự về cái tinh dã
cương vực và việc gây dựng cảnh chùa Hưng
Khánh này. (Rõ y chùa Hưng Khánh ở khu vực thôn Thịnh Yên tổng Kim Liên
huyện Thọ Xương phủ Hoài Đức tỉnh Hà Nội)
Lập bia ghi ngày
29 tháng 11 năm Đồng Khánh thứ 3 - 1888(hoặc như có ai dám quên công đức của người xưa đã có quỷ thần
chiếu soi)
Nguyễn Đức Toàn dịch - 2010
[1] Tinh dã cương vực: quan niệm cổ xưa, là đất đai sông
núi đều có cương vực phân dã quy hoạch trên bầu trời, theo phân chiếu của các
vì sao.
[2] Tức vua Thuấn (舜) là một vị vua huyền thoại thời Trung
Quốc cổ đại, nằm trong Tam Hoàng Ngũ Đế. Ông cũng được gọi là Hữu Ngu Thị (有虞氏).
[3] toàn cơ ngọc hành: Máy đo
trắc thời tiết thời cổ. Sau có người gọi là “Hỗn thiên nghi”; thất chính: 7 vì
sao trong vũ trụ: mặt trăng, mặt trời, các sao Kim – Mộc –Thủy – Hỏa – Thổ.
Sách Thượng
thư/ Thuấn điển: 在璿璣玉衡,以齐七政。Tại toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Ý nói đo
trắc thời gian, để xem thời tiết
[5] Ngọc màu đen, thời cổ đại dùng để ban tặng cho người
có công lao đặc biệt. Sách Thượng
thư/Vũ cống: 禹 锡玄圭,告厥成功。Vũ tứ huyền khuê,
cáo quyết thành công. Ý nói vua Vũ ban tặng huyền khuê,
bố cáo thành công trong việc chia định thiên hạ thành 9 châu; Cửu châu: Cửu châu: 9 châu, chỉ
thiên hạ nói chung.
[6] Lục hợp六合: Chỉ bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc,
và bên trên bên dưới. Ý phiếm chỉ thiên hạ vũ trụ nói chung.
[7] Bát hoang: tức 8 hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Bắc,
Tây Bắc, Tây Nam, Đông Nam. Ý cũng như Lục hợp, chỉ thiên hạ vũ trụ nói chung.
[8]木人討創: Mộc
nhân thảo sáng/ Làm ra người gỗ: ý nói sáng tạo một việc bình thường, không giá
trị nhiều
[10] Tứ ân: 4 loại ơn, là ơn cha mẹ, ơn chúng sinh, ơn quốc
gia, ơn Tam Bảo; Tam hữu: 3 giới, là Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Chỉ chung
cho muôn loài.
[11] Điển tích Tăng tử, đến một nơi có ngõ phố tên là Thắng
Mẫu, cho là tên gọi ấy nghe trái với lễ, không thuận, nên không vào. 胜母之里,曾參不入/唐.孫過庭〈書譜〉
[12] Nguyên văn là Tăng tử,
nhưng không có điển về Tăng tử quay xe mà phải là Mặc tử. Mặc tử thời xưa đi với
các đệ tử đi chu du liệt quốc, một hôm nghe nói trước mặt sắp đến vùng Triều
Ca, nơi kinh đô của Trụ vương. Mặc tử thất
kinh bảo học trò quay xe, vì phía trước là hướng chẳng lành.
[13] Điển tích, Cơ Công tức là Chu Công, ở thành Nam là
người nổi danh đẹp trai. Có người ở thành Bắc, sáng dậy soi gương hỏi vợ: Ta có
đẹp bằng Chu Công không?. Vợ đáp: Đẹp hơn. Ra đường hỏi bạn, cũng trả lời thế.
Một hôm hắn gặp Chu Công, mới ngẫm ra mình không bằng Chu Công, mà sự khiêm tốn
của Chu Công còn hơn thế. Hắn nghiệm được rằng, vợ khen ta đẹp vì vợ sợ ta, bạn
khen ta đẹp vì bạn có việc cần nhờ ta. Huống đẹp như Chu Công mà còn phải khiêm
tốn đến thế, càng làm cho hắn đẹp thêm. Câu này có ý nói tốt đẹp nhưng vẫn có
chỗ chưa hoàn hảo, mà đẹp như Chu Công còn phải khiêm nhường, vậy không nên câu
chấp cái tên, cái vẻ ngoài mà bỏ hết cả cái hay của nó.
[16]Nguyên văn: 古廟關亭/ Cổ miếu quan đình/ miếu cổ đình Quan, có thể là
nói khu vực làng Quan Nhân? hay là miếu thờ Quan đế, cũng có thể hiểu nghĩa là
cái miếu ở cổng làng? hay tên riêng của miếu là Miếu Quan Đình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét