Trần Văn Giáp/ Lược
truyện các tác gia Việt Nam- Tập 1. Nxb:KHXH.
Lời nói đầu(trang 7-27). Tập 1.
Lược truyện các tác gia Việt- Nam là 1 cuốn sách ghi rõ
tên tuổi, sự nghiệp, văn chương các nhà trứ thuật của Việt-nam, từ thế kỷ XI đến
thế kỷ thứ XX. Chúng tôi quan niệm tác
gia là tất cả các vị nào đã có làm sách, về bất cứ một môn loại nào, từ thi
văn, sử truyện, cho đến bút ký, phiên dịch, v.v…
Nước Việt-nam ta, từ thời tự chủ, tách khỏi hẳn ách thống
trị của phong kiến Trung-quốc, kể từ triều Đinh, Lê, Lý, Trần đến nay, theo các
sử sách, đã có biết bao nhiêu các tác gia: từ sử gia, văn gia, thi gia, cho đến
kỹ thuật, y dược gia; nên đã có rất nhiều sáng tác phẩm. Nhưng hoàn cảnh địa
lý, điều kiện lịch sử của nước ta đã làm mất nhiều những sách vở ấy. Trong khoảng
mấy chục thế kỷ, hầu như không có thế kỷ nào là không có chiến tranh chống xâm
lăng, hoặc về phía Nam, hoặc về phía Bắc. Binh hỏa đã tàn phá; lại không mấy
năm không bị lụt lội, gió bão. Lại khí hậu ẩm thấp nữa, cũng làm tiêu tan mất một
số lớn các sách vở xưa, các tài liệu cũ[1]. Cho nên, đến nay, số sách
còn lại không được bao nhiêu. Trong số còn lại ấy, loại sách liệt truyện, tuy cũng có, nhưng không một
bộ nào gọi là đầy đủ, biên chép được lược truyện các nhân vật lịch sử một cách
có hệ thống, đáp ứng được nhu cầu của các nhà nghiên cứu các môn lịch sử, văn học,
nghệ thuật, nông nghiệp, công nghiệp, v.v… và các nhà giảng dạy ở các trường về
những môn ấy.
Vì vậy, một tập sách Lược
truyện các tác gia Việt-nam thấy cần thiết. Sách này, như tên của nó đã nói
rõ, chỉ giới hạn trong lĩnh vực lược ghi tiểu
truyện từng nhà đã có sáng tác, nhất là các tác phẩm về đủ mọi nghành học
thuật: sử học, văn học, triết học, kỹ thuật, y dược, nghệ thuật, v.v… Chúng tôi
ghi tên các tác gia người Việt-nam đã sáng tác các sách viết bằng chữ Hán, chữ
Nôm, Chữ Quốc ngữ, và cả các sách viết bằng chữ Pháp, chữ Anh, v.v…
Mục đích nghiên cứu và biên soạn sách này chỉ giới hạn
trong việc ghi chép lược truyện các
tác gia và những tác phẩm của từng
tác gia; viết thật gọn, thật đủ, để giúp cho việc nghiên cứu được nhanh và
tương đối vững chắc. Trong quá trình sưu tầm và nghiên cứu các tác gia xưa, có
vị thì biết rõ họ, tên, quán chỉ, nhưng lại không biết được quá trình học tập,
quá trình sáng tác; có vị biết rõ sự nghiệp văn chương, hoàn cảnh sáng tác, thì
lại thiếu niên canh, quán chỉ. Đối với các tác phẩm còn lại, phần thì tàn khuyết,
lẫn lộn; phần thì có tên không có sách, có sách không có niên đại. Cho nên,
chúng tôi giới hạn sách này trong một phạm vi nhỏ hẹp, chỉ nói những điều thật
cần, thật rõ rệt. Ngoài ra, chỉ nhận xét tổng quát một vài nét bằng một vài chữ
vè tác gia và tác phẩm, theo trào lưu tư tưởng, thực trạng xã hội, v.v… qua các
thời đại, mà không trình bày tỉ mỉ, lấn vào lĩnh vực văn học sử hay lĩnh vực
khoa học khác, phẩm bình từng tác gia, phê phán từng tác phẩm.
Theo hiện trạng thực tế các thư lịch Việt-nam, chúng tôi
chia sách Lược truyện các tác gia Việt
–nam làm hai tập:
Tập 1, lược truyện những tác gia các sách viết bằng chữ
Hán và chữ Nôm, nghĩa là trong hệ thống chữ khối vuông, bắt đầu từ thời Lý, Trần,
đến khi chữ Hán, chữ Nôm không còn tác dụng lớn ở Việt-nam nữa, không được phổ
biến lắm nữa; nói gọn lại, là đến năm 1945, đến ngày Cách mạng tháng Tám thành
công, sau khi Đảng Cộng sản Đông-dương thành lập đã được 15 năm, 27 năm sau khi
bỏ các trường thi hương ở toàn quốc Việt-nam.
Tập II, lược truyện những tác gia các sách viết bằng chữ
Quốc ngữ và chữ Pháp, chữ Anh v.v…, nghĩa là trong hệ thống chữ la-tinh.
Về mỗi tập, các tác gia đều được xếp theo niên đại, lấy từng
thế kỷ làm giới hạn, và có chua rõ các thời đại cũ, như Lý, Trần, Lê, Tây-sơn,
v.v…, cho mãi đến cận đại, để tiện việc khảo cứu.
Về mỗi tác gia của chung cả 2 tập, chúng tôi đều cố gắng
sưu tầm, ghi đủ những phần cốt yếu: tên tự, hiệu, biệt hiệu, bút hiệu, tước
phong, quan chức[2],
quê quán, năm sinh, năm mất, thành phần gia đình, quan hệ xã hội, sự nghiệp
chính trị, văn chương, v.v…, chú trọng nhất là tên những tác phẩm đã sáng tác.
Những sách viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ ghi đúng theo trong bản thư
mục hiện có của các Thư viện Khoa học trung ương và Thư việc Quốc gia trung
ương; có ghi ký hiệu riêng của từng thư viện ấy.
Về mỗi tác phẩm, chúng tôi không phân tích sơ lược nội
dung, sợ sẽ lấn vào địa hạt văn học sử, lạc mất hướng chính của lược truyện các tác gia; chú tôi chỉ ghi
tên tác phẩm và nói qua vài nét về nộidung thuộc loại nào. Thí dụ:
Nguyễn Văn Siêu (1795-1872): Tự Tốn –ban, hiệu Phương-đình
và Thọ-xương cư sĩ; sinh năm
1795(niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 3, triều Tây-sơn) gốc tích ở làng Kim-lũ (nay gọi
là làng Đại-kim) huyện Thanh –trì(ngoại thành Hà-nội). Sau di cư ra ở phường
Dũng-thọ, huyện Thọ-xương, tỉnh Hà-nội (nay là phố Ngõ Gạch, còn gọi là phố Án
sát Siêu, thuộc khu Hoàn-kiếm, thành phố Hà –nội. Năm 1838(tức khoa Minh-mạng mậu
tuất năm thứ 19), đậu phó bảng. Năm ấy ông 43 tuổi. Sau làm quan đến án sát sứ.
Năm 1849 (Tự-đức thứ 2) được cử làm phó sứ sang triều Thanh; sau bị giáng xuống
hàn lâm thị độc. Ông cáo quan về ở phường Dũng-thọ, xây một lớp nhà vuông để giảng
sách; học trò theo học rất đông, nhiều người thành đạt. Do đó có hiệu là
Phương-đình.
Nguyễn Văn Siêu là người học rộng, nổi tiếng. Thời đó,
nhiều học giả nhà Thanh đã phải thán phục; có câu „văn như Siêu, Quát vô Tiền
Hán; thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường“(Văn chương như văn ông Siêu, ông Quát,
thì không còn có văn hay nhà Tiền Hán; thơ hay, đến như ông Tùng, ông Tuy, đã
làm lu mờ cái hay của thơ thời Thịnh Đường). Siêu tức Nguyễn Văn Siêu. Về điển
này, xem chuyện Cao Bá Quát, trong sách Bản
triều bạn nghịch liệt truyện của Kiều Oánh Mậu, viết năm Thành Thái tân sửu,
1901(A.997). Người ta còn thường gọi: „Thần Siêu, Thánh Quát“, ý nói Siêu, Quát
là hai tay có tài thơ văn thời đó.
Tác phẩm:
1.
Phương –đình địa dư chí, A.72 và A.1711(địa, sử);
2.
Phương-đình thi tập, A.187(văn);
3.
Phương –đình văn tập, A.188; A.190 (văn, sử);
4.
Phương-đình tùy bút lục, A.189; A.2671 (văn, sử);
5.
Phương-đình vạn lý tập, Vhv.23 (văn; tập thơ làm trong dịp đi sứ Trung-quốc);
6.
Chư kinh khảo ước (văn, sử, triết);
7.
Chư sử khảo thích (cổ sử)
8.
Tứ thư bị giảng (văn, sử, triết) v.v…
Ngoài ra ông còn phê bình tập thơ của Chu Doãn Chí, tên đề:
Tạ hiên thi tập phê bình, A.1110. Về
Nguyễn Văn Siêu xem thêm Nam phong, số
23, trang 328.
Về Tập I, chúng
tôi dùng một số sách Sử chí, Đăng khoa lục,
Thi văn tuyển tập, v.v… làm tài liệu cơ sở. Những tài liệu ấy, chúng tôi sẽ
phân tích và trình bày qua từng loại, từng bộ sách liền sau đây.
Trong phần chính của sách, chúng tôi đã sưu tầm, lựa lọc
được hơn 700 tác gia. Khi lựa chọn, chúng tôi nặng về chất hơn về lượng. Chúng
tôi chọn lựa từ các vị còn để lại được một bài thơ, một bài văn, cho đến các vị
có mấy chục bộ sách về đủ các môn loại, không kể ít nhiều. Có những vị có một
bài thơ, một bài văn như Lý Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Hữu Cầu, Phạm
Đình Trọng, v.v… Có những vị có nhiều bộ sách về nhiều loại, như Nguyễn Trung
Ngạn, Trần Nguyên Đán, Lê Quý Đôn, Nguyễn Thu, v.v…
Riêng về các thời Lý, Trần, vì là thời kỳ phôi thai của nền
văn học nước nhà, nhiều tác phẩm thời kỳ này bị mất mát đã lâu, đến nay chưa
tìm thấy, cho nên chúng tôi ghi chép tất cả tên những vị có thơ văn, nhất là
các nhà sư, dù chỉ có một bài thơ khó hiểu hay không điêu luyện, nhưng đến nay
vẫn còn được lưu truyền. Chúng tôi lựa chọn từ một người dân thường, một vị sư,
một ẩn sĩ, một nữ sĩ, cho đến các vua, quan, không theo đẳng lệ giai cấp xã hội.
Ngoài tiêu chuẩn thơ văn hay, chúng tôi còn lựa chọn lấy những vị có đức nghiệp
gương mẫu, tài năng siêu việt, khí tiết bền bỉ, giàu lòng yêu nước, thương dân.
Đó là phương châm và tiêu chuẩn chính cho việc lựa chọn, thí dụ: Trần Quốc Tuấn,
Nguyễn Trãi, Hoàng Diệu, v.v…
Mặt khác chúng tôi cũng có thu nhặt lấy một số người tiêu
biểu cho giới, chỉ có thơ văn hay mà đức hạnh kém, hoặc có tác phẩm mà tư tưởng
lại phản động. Về những hạng này, chúng tôi nghiêm khắc phê phán, để làm nổi rõ
thêm các vị có đức, có tài; và để người đời sau biết mà phẩm bình cho đúng sự
thật, thí dụ: Lê Trắc, Hoàng Cao Khải, Tôn Thọ Tường, Phạm Quỳnh, v.v…
Về cách sắp xếp, chúng tôi theo trình tự lịch sử, nghĩa
là theo thứ tự từng năm, trong từng thế kỷ. Chúng tôi cố gắng sưu tầm lấy năm
sinh và năm mất của từng vị; sau mỗi tên, viết rõ năm sinh và năm mất, như thể
lệ thường, thí dụ: Nguyễn Văn Siêu
(1795-1872). Khi sắp xếp trước sau, thì lấy năm mất của từng vị làm chính.
Nếu không sưu tầm được đầy đủ, vị nào mà chúng tôi chỉ biết được một năm sinh,
hay một năm mất, thì theo năm biết được ấy; vị nào mà chỉ biết có năm thi đậu
tiến sĩ hay cử nhân , thì theo năm thi đậu ấy; vị nào mà ngoài các lệ trên, chỉ
biết được sinh vào thế kỷ nào, thì xếp sau từng thế kỷ ấy. Trong phong trào
cách mạng vào thế kỷ gần đây (Cần vương, Văn thân, Đông-kinh nghĩa thục, Duy
tân, Đông du, Kháng chiến, v.v…), có nhiều vị có thơ văn cần được thu lượm,
nhưng còn tản mát nhiều nơi, chưa sưu tầm được đầy đủ và chính xác, chúng tôi
xin bổ sung sau.
Việt-nam ta là một nước gồm nhiều dân tộc. Về phương diện
văn hóa, cố nhiên là dân tộc Kinh phát triển mạnh hơn về các mặt văn học, nghệ
thuật, kỹ thuật, v.v… Nhưng, trong quá trình lịch sử, các dân tộc khác như
Thái, Nùng, Mường, Dao, v.v… cũng đóng góp một phần không phải là ít. Thí dụ:
Nguyễn Hựu Cung hay Bế Hựu Cung là người dân tộc Tày ở Cao Bằng, còn để lại một
tập sách về lịch sử Cao-bằng rất có giá
trị, nhan đề Cao-bằng thực lục.A.1129.
Con ông là Bế Hựu Nhân, trong khi lưu lạc ở Trung Quốc, đã viết ra nhiều thi
ca, tập thành bộ sách Lạc-sơn thi tập, sách
này đã được khắc ván gỗ, in tại Trung Quốc. Cụ Đồ Hậu (Hoàng Đức Hậu), một nhân
sĩ yêu nước, sống ở thế kỷ gần đây, đã làm nhiều thơ ca Nôm, thóa mạ bọn phong
kiến nhà Nguyễn và thực dân Pháp. Tiếc rằng, điều kiện và hoàn cảnh chưa cho
phép sưu tập được nhiều tác gia thuộc các dân tộc ấy; hiện nay mới ghi trong tập
Lược truyện này được một số ít như đã
kể trên. Sau này, chúng tôi sẽ xin cố gắng bổ sung vào tập Tục biên.
Về Tập II, chúng tôi đã sử dụng các sách kinh tịch chí,các bản mục lục các sách viết bằng chữ la-tinh, nhất là các sách lưu tàng ở thư viện Quốc gia
trung ương và thư viện khoa học trung ương, đại khái như các loại sau đây là
các tài liệu chính:
1-
Catalogue des ouvrages publiés júq´à ce jour của Trương Vĩnh Ký (Thư viện khoa học, ký hiệu Q.80176).
2- Bibliotheca Indosinica của
Henri Cordier.
3- Bibliographie de l`Indochine của
Bourgeois và (sic)
4-
Inventaire du Fonds Européen de l´Ecole
francaise d`Etreme-Orient.
5-
Liste des imprimés déposés aus Service du dépot légal của Direction des
Archives es Bibliothéques của chính phủ thực dân ở Đông-dương xưa. Chế độ
lưu trữ của thực dân Pháp ở Đông-dương chỉ mới được thi hành từ 31-1-1922.
Trong đó, có chia ra nhiều loại sách, theo từng thứ tiếng: tiếng Việt, tiếng
Lào, tiếng Pháp, v.v… và xếp theo các loại: báo
chí (périodisques) và không phải báo
chí (non périodisques) tức là sách, để riêng từng xứ trong lĩnh vực gọi là
Đông-dương xưa. Vì vậy ngoài các sách
kinh tịch chí nói trên (1-4), về thời gian từ năm 1922 trở về sau, cần tham
khảo danh sách này, đó là danh sách các sách báo lưu trữ tại Thư viện Quốc gia
trung ương.
6- Bibliography of the peoples and cultures
of mainland Southeast Asia của Embree (F.John) và Dotson (L.O.)
(New Haven, Yale Univesity, Southeast Asia Studies, 1950, 821 pages). Số ký hiệu
sách của Thư viện Khoa học: 808502. Đây là một bản kinh tịch chí của
các nước phương Tây; đứng trên phương diện khoa học, chúng tôi cũng dùng tham
khảo them, để biết them về những sách nói về các tác gia và tác phẩm Việt-nam.
7- Việt-nam văn học sử yếu của
Dương Quảng Hàm.
8- Sơ thảo lịch sử văn học Việt-nam của
Văn Tân, Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi, Vũ Ngọc Phan.
9- Mục lục sách Việt-nam bằng chữ Quốc ngữ của
Thư viện Khoa học Trung ương, của nhiều tác giả.
10- Nhà văn hiện đại của
Vũ Ngọc Phan.
Còn
về một số lớn những tác gia ở vào thời kỳ từ khi nước ta bị thực dân Pháp xâm
chiếm đến 1945, chúng tôi tìm trong các báo chí, các sách viết về tác gia, tác
phẩm, như đã nói trên là chính. Ngoài ra chúng tôi xem ngay ở những tác phẩm của
từng tác gia đó. Điều nào nghi ngờ, chúng tôi liên lạc thẳng với các tác gia ấy, và nhờ các cơ quan đoàn thể hữu
quan chỉ bảo và giúp đỡ (như Viện Văn học, Hội nhà văn, v.v …), để tìm hiểu
thêm cho được chính xác. Các vị nào đã có nói ở Tập I thì cũng chỉ dẫn rõ số ở Tập
II.
Trong
khi khởi thảo tập Lược truyện các tác gia
Việt-nam này, chúng tôi đã gặp một số khó khăn. Về các tác gia cổ đại, tiểu
sử ghi có khi rất sơ sài, niên biểu lại không chính xác, mỗi sách ghi theo chủ
quan của người làm sách, nên phải đối chiếu trên cơ sở tài liệu có phê phán,
rút ra một kết luận để ghi cho đúng. Về nhiều tác gia cận đại, tiểu sử hoặc có,
hoặc không, rất khó tra cứu; có khi biết tên mà không biết phát tích từ đâu, có
khi có tác phẩm mà tên không rõ, hoặc còn ngờ; chúng tôi đã gắng sức đi tìm hỏi
trong các nhà văn, các nhà báo, được đến đâu ghi đến đấy, nhưng thực ra cũng
chưa lấy gì làm thỏa mãn, đầy đủ.
Ngoài
ra, còn về các tên người, tên sách, cũng như tên đất, và các đoạn văn trích ở
nguyên văn ra, do điều kiện vật chất không cho phép, không thể in được chữ Hán
hay chữ Nôm kèm theo; đó là một điều đáng tiếc.
Về
cách thức viết những tên riêng, chúng tôi theo thể lệ viết đã quy định như sau:
1. Tên
người, về tên chính, thì cả ba chữ, hay hai chữ đều viết chữ hoa, không có dấu
gạch nối. Thí dụ: Lê Quý Đôn, Nguyễn Du.Vì
khi để một tên chính, theo đặc tính dân tộc Việt –nam, người ta có thể gọi cả
ba chữ một lúc, như Lê Quý Đôn, Nguyễn Du; hay chỉ gọi hai chữ: Quý Đôn; hay chỉ
gọi một chữ Đôn: cụ Đôn, Bảng Đôn.
2. Về
tên tự, tên hiệu thì, chỉ viết chữ hoa ở một chữ đầu, có gạch nối liền với chữ
dưới. Thí dụ: Doãn-hậu, Quế-đường là
tự, hiệu của Lê Quý Đôn; Tố-như, Hồng-sơn-liệp-hộ
là tự, hiệu của Nguyễn Du; ta không thể gọi cụ Hậu hay cụ Như được, phải gọi cả
tên. Miếu hiệu, thụy hiệu các vua, các quan cũng thuộc loại tự, hiệu này: Trần
Nhân-tôn, Lê Thánh-tông, Chu Văn-trinh, v.v…
3.
Về phức tính (họ đôi) nghĩa là tên họ có
hai chữ, thì viết hai chữ nối liền bằng một gạch nối. Thí dụ: Nguyễn-phúc Tần, Tôn-thất Thuyết.
4.
Về tên đất, có gạch nối liền, và viết chữ
hoa một chữ đầu, thí dụ: Thăng-long, Tức-mặc,
Hồng-lĩnh, Nhị-hà, Đọi-sơn.
5.
Niên hiệu cũng viết nối liền và chỉ viết
chữ hoa một chữ đầu. Thí dụ: Cảnh-hưng (1740-1787); Thiên-chương-bảo –tự
(1133-1138). Về năm viết bằng chữ can chi thì viết chữ thường: giáp tí, quý hợi.
Tập
Lược truyện các tác gia Việt-nam này,
như đã trình bày trên, có mục đích giúp các nhà nghiên cứu nói chung, để tìm một
số tác gia, hoặc sử gia, hoặc thi văn gia, chính trị gia, kinh tế gia, đến cả
các quân sự gia, nghệ thuật gia, v.v… đã có những tác phẩm góp phần vào việc
xây dựng văn hóa Việt-nam, từ thế kỷ XI đến XX, nghĩa là từ thời Lý đến năm 1945.
Riêng
về Tập I cuốn Lược truyện các tác gia Việt-nam,
ngoài phần chính nói về các tác gia và các tác phẩm qua các thời đại, về lược
truyện các tác gia từ thế kỷ XI đến 1945 (Hán,Nôm), còn có một phần giới thiệu
về cuốn sách này và phân tích một số tài liệu chính làm cơ sở cho việc biên soạn.
Toàn
tập Lược truyện các tác gia Việt-nam
là một công trình tập thể. Nhóm biên soạn gồm có bốn người: Trần Văn Giáp, Nguyễn
Tường Phượng, Nguyễn Văn Phú, Tạ Phong Châu; Trần Văn Giáp chủ biên.
Tập
I, dành riêng về các tác gia sách chữ khối vuông, nghĩa là chữ Hán và chữ Nôm,
do Trần Văn Giáp và Nguyễn Tường Phượng khởi thảo; Nguyễn
Văn Phú, Tạ Phong Châu góp ý kiến và bổ sung trong việc biên soạn. Đỗ Thiện góp
phần trong việc làm sách dẫn và cung cấp tài liệu.
Tập
II, dành riêng về các tác gia sách chữ la-tinh(chữ Quốc ngữ, chữ Anh, chữ Pháp,
v.v…), do Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Tường
Phượng, Tạ Phong Châu khởi thảo; Trần Văn Giáp góp ý kiến và bổ sung trong
việc biên soạn; Hoàng Trường, Bùi Cán làm sách dẫn.
.
. .
Trên
đây mới nói qua về lý do, mục đích, phương châm và tiêu chuẩn công việc biên soạn
cùng là cách thức trình bày tập sách Lược
truyện các tác gia Việt-nam, từ thế kỷ XI đến năm 1945. Nay xin giới thiệu
kỹ thêm về ý nghĩa và sự quan trọng của nó.
Muốn
sản xuất tốt, cần phải có tư liệu sản xuất đầy đủ. Muốn khai thác tư liệu dễ
dàng, nhanh chóng, cần phải có công cụ tốt. Công cụ tốt thì năng suất sẽ được
nâng cao, mà đỡ tốn sức lao động; kết quả sẽ được nhanh, nhiều, tốt và dễ dàng.
Việc
nghiên cứu về khoa học xã hội cũng không ngoài quy luật ấy. Công cụ chủ yếu
dùng để khai thác tư liệu các môn sử học, văn học, kinh tế học, chính trị học,
v.v…, nhất là về cổ đại, là những sách Kinh
tịch chí, Địa dư chí, và Nhân vật chí . Trong ba loại sách ấy, cố
nhiên Kinh tịch chí là rất cần thiết,
nhưng Địa dư chí và Nhân vật chí cũng không kém phần quan trọng.
Trong
hoàn cảnh nghiên cứu các môn sử học, văn học, v.v… của ta hiện nay, chúng ta
khi muốn tìm một tên đất, một tên người, vẫn còn phải mò mẫm, lục soát năm bảy
bộ sách, giở từng tờ, đọc từng dòng, mới tìm thấy một sự kiện lịch sử, một tác
phẩm thơ văn, một tác gia nào đó cần thiết cho việc nghiên cứu; đôi khi lại uổng
công không tìm thấy gì.
Về
các sách cổ, bằng chữ Hán, chữ Nôm, thì các thiên Nghệ văn chí của Lê Quý Đôn[4], Văn tịch chí của Phan Huy Chú[5], cơ hồ là những công cụ độc
nhất cho việc tìm tòi, nghiên cứu. Hai thiên này, tuy đã được nghiên cứu sơ bộ
và xuất bản năm 1938, nhưng do hoàn cảnh xã hội lúc đó, đã phải viết bằng Pháp
văn, nên không được phổ biến[6]. Cả hai thiên này, cũng chỉ
ghi được tên những sách viết từ thế kỷ thứ XI trở về sau, nghĩa là từ triều Lý
đến cuối thời Lê-Trịnh (thế kỷ thứ XVIII)[7]. Việc chia loại các sách ,
tuy đã theo một phương pháp khoa học, nhưng tổng số mới được non 400 tên bộ sách,
phần nhiều lại trùng nhau. Trong Nghệ văn
chí của Lê Quý Đôn, ghi có 113 tên sách; trong Văn tịch chí của Phan Huy Chú, ghi nhiều hơn, là 207 tên sách; trừ
đi chỉ còn non một tram tên sách là các sách mới, không thấy trong Nghệ văn chí, một số lớn lại bị thất lạc.
Vì
vậy, năm 1957, sau khi tiếp thu Thư viện Bác cổ cũ, chúng ta đã gấp rút biên soạn,
sắp xếp các sách Hán, Nôm, Việt còn lại, làm thành bảy quyển Mục lục, do Thư viện Khoa học trung ương
xuất bản, in bằng giấy nến (ronéo), tháng 8-1958. Đó là một công trình tập thể.
Người Pháp xưa kia muốn làm và phải làm công việc ấy, mà trong khoảng thời gian
hơn 50 năm, vẫn không làm nổi. Công việc trên đã do sang kiến riêng của Thư viện,
với những phương pháp và phương châm mới: không cầu toàn, kịp thời phục vụ các
nhà học giả trong nước và ngoài nước; mỗi bộ sách chỉ biên tên sách, tên tác giả,
năm xuất bản, số ghi của Thư viện và xếp vần theo vần Quốc ngữ cho dễ tìm. Bảy
quyển Mục lục, tuy chỉ mới là công cụ
còn thô sơ, mới là bước đầu của môn kinh
tịch chí, nhưng chúng ta đã chiếm kỉ lục nhanh chóng, hoàn thành được trong
thời gian tám tháng, và nó cũng đủ để tạm gọi là đủ, để phục vụ kịp thời các
nhu cầu cần thiết.
Về
các sách ghi các tên đất, thì lại còn hiếm nữa. Trong hoàn cảnh lịch sử Việt-nam,
cũng như lịch sử Trung-quốc, mỗi cuộc phế hung của các triều đại, mỗi lần thay
đổi chế độ chính trị, các tên đất phần nhiều đều bị thay đổi, nhiều tên cũ nay
không còn biết là ở đâu. Sách Địa danh
chí cốt để so sánh tên đất ngày xưa với tên đất hiện nay cho sát thực tế
thì lại càng thấy cần thiết. Vì vậy, một quyển từ điển về tên đất là rất cần
thiết cho việc khảo cứu lịch sử, địa lý, kinh tế, v.v… và nhất là cho việc giảng
dạy ở các trường học.
Năm
Kiến-phúc, đầu năm 1884, các cụ Phan Đình Phùng và Thái Khắc Tuy đã có sang kiến
soạn ra sách Việt sử địa dư toát biên (ký
hiệu A.971). Trong bộ sách này, tác
giả trích biên đủ các tên đất đã tra khảo, ghi trong Việt sử thông giám cương mục. Đầu sách có một bản mục lục, ghi đủ
các tên đất đã có nói trong bộ sử trên. Mỗi tên đều ghi rõ tìm thấy trong quyển
nào. Làm như thế là theo phương pháp cổ của sách Trung-quốc; khi tìm một tên đất
nào, phải xem toàn bộ mục lục, nên vẫn chưa tiện, chưa nhanh; có khi lại còn bỏ
sót không tìm thấy. Năm 1957, Ban Nghiên cứu Văn Sử Địa, tức là tiền thân của
Viện Sử học, trong khi biên dịch sách Việt
sử thông giám cương mục đã có sang kiến làm các Sách dẫn để giúp cho việc tìm các tên đất, cũng như tìm các sự kiện
lịch sử khác, một cách dễ dàng, nhanh chóng.
Đối
với hai thứ công cụ khảo cứu về sách, về tên đất ấy, sách của ta hiện nay tuy
còn sơ lược nhưng trong khi chờ đợi biên soạn lại thật kỹ, thật hiện đại, một bộ
Kinh tịch chí Việt-nam, một bộ Từ điển tên đất Việt-nam, thì những sách ta hiện
có, cũng có thể đáp ứng tạm thời nhu cầu trước mắt.
Duy,
còn một quyển truyện các tác gia Việt-nam, nghĩa là các nhà viết sách từ loại sử
học, văn học, kinh tế, chính trị, cho đến các tạp loại, các hồi ký, bút ký,
biên dịch v.v… nhất là về các tác gia cổ đại, thì chưa thấy có quyển sách nào
thích ứng cho nhu cầu.
Nói
đến những sách của ta, về các tên người và tiểu truyện nói chung, tức là liệt truyện và nhân vật chí của Việt-nam, tuy chúng ta đã có một số sách cổ, nhưng
thực ra cũng không lấy gì làm nhiều. Những sách có nói đến các nhân vật quan trọng
đời Lý, Trần, chẳng qua chỉ có mấy bộ: An
Nam chí lược, Việt Sử lược, Việt Kiệu thư, v.v… Trong các sách đó, đều nói
về nhân vật chung, giữa những truyện về các mục sử gia, văn gia, có xen lẫn các
mục võ tướng, hậu phi, thiền dật, v.v… Các sách Sử ký toàn thư, Cương mục, có ghi rõ các vua, quan, một số ông
hoàng, bà chúa, các học giả thi đậu tiến sĩ; nhưng cách biên chép theo lối kỷ
niên, về các sự việc, các công trình trứ tác, đôi khi có tường tận; nhưng còn
linh tinh tản mác, khi tra cứu không tiện chút nào. Hiện nay, ta có một số văn
bia, đến hơn hai vạn cái, là những tài liệu rất quý, tương đối chính xác nhất,
so với các sách, các sử. Nhưng, số hơn hai vạn bài văn bia ấy vẫn chưa được chỉnh
lý, biên mục, nên muốn dùng cũng khó. Những văn bia ấy có ghi nhiều sự việc lịch
sử, kinh tế, chính trị, văn học, sinh hoạt xã hội v.v… và nhiều tên người;
nhưng đến nay vẫn chưa khai thác được. Văn bia ở Văn miếu Hà-nội và ở Văn miếu
Huế, gồm có khoảng gần 200 tấm, ghi đủ các học giả đậu tiến sí. Thật ra, nào ai
đã mỗi khi tới tận nơi mà tìm tên, tìm sự tích một vị tiến sĩ, thám hoa có nhiều
tác phẩm.
Khoảng
đầu thế kỷ thứ XIX, Lê Cao Lãng, khi làm tri phủ Hoài-đức, đã có công biên tập
các văn bia ấy thành một bộ sách: Lê triều
lịch khoa tiến sĩ đề danh bi ký. Sách này đã giúp ích khá nhiều cho các nhà
học giả. Nhưng sách này chỉ ghi được niên canh, quê quán sơ lược của các tiến
sĩ triều Lê, còn thiếu hẳn truyện các tiến sĩ triều Nguyễn và từ triều Lê trở về
trước. Sách văn bia của họ Lê thiếu hẳn các vị tiến sĩ triều Nguyễn, thì trái lại,
sách Đại Nam liệt truyện, cả tiền biên lẫn chính biên, lại thiếu hẳn người triều Lê và về trước Lê. Sách có thể
giúp ích cho việc sưu tầm các tên người, có hai bộ đăng khoa lục sau đây là tiện
lợi và chắc chắn cho sự khảo cứu: một là Đại
Việt lịch triều đăng khoa lục của Nguyễn Hoản (1713-1791); hai là Thiên Nam lịch triều liệt huyện đăng khoa bị
khảo của Phan Huy Ôn. Bộ thứ nhất đã có in, là một tập niên biểu các khoa
thi đại khoa, sau tên mỗi vị tiến sĩ, có ghi qua tiểu truyện và tác phẩm của vị
ấy, nhưng còn sơ sài. Kế tiếp vào bộ này, lại có thêm các bộ Quốc triều hương khoa lục và Khoa bảng lục, của Cao Xuân Dục, ghi đủ
các văn gia, sử gia triều Nguyễn, cũng theo thứ tự niên đại, và có ghi tiểu
truyện sơ lược từng vị. Bộ thứ hai của Phan Huy Ôn, trái lại, còn là sách chép
tay, xếp theo đơn vị từng huyện, mỗi huyện ghi rõ tên các người đậu đại khoa, từ
đời Lý, Trần đến mãi cuối Lê, ghi cả quê quán, sự nghiệp và tác phẩm của từng
người. Sách họ Phan ghi được tường tận hơn các bộ khoa lục khác, nhất là có ghi
kỹ sự việc đi sứ Trung-quốc của từng người. Thêm vào hệ thống loại đăng khoa lục
đó, lại có các bộ đăng khoa lục từng huyện riêng, như các bộ Đông-yên huyện đăng khoa lục (Đông-yên
nay là Khoái-châu, thuộc Hải-hưng, sách gồm 30 tờ, ký hiệu A.1824) và bộ Từ -liêm huyện đăng khoa chí (Từ-liêm nay thuộc Hà-nội, ký hiệu
A.507); sách Từ-liêm … của Bùi Xuân Nghi, tự Dục-tăng, hiệu Ước-trai, người làng
Vân-canh, đậu cử nhân năm Tự-đức thứ 20 (1867). Cũng thuộc hệ thống khoa cử, ta
còn các sách văn tuyển, như Lê triều
hương tuyển, Hội thí văn tuyển, Hương thí văn tuyển, Hội đình văn tuyển (ký
hiệu A.2306) v.v… Trong các sách đó,
cũng ghi tên các người thi đậu, tức là các văn nhân, thi nhân có thể có những
tác phẩm có giá trị.
Về
các nhân vật lịch sử nói chung, trong đó có tên các tác gia, nhất là các sử gia
và thi, văn gia, ta có thể tìm thấy trong các tập vịnh sử, như sách Thoát hiên vịnh sử tập của Đặng Minh
Khiêm (ký hiệu A.44); các thiên liệt truyện trong Đại Việt thông sử, trong Kiến
văn tiểu lục cuả Lê Quý Đôn, Nhân vật
chí của Phan Huy Chú, v.v… Khoảng năm 1924, Cổ học viện ở Huế có biên tập một
bộ sách tên gọi là Nhân vật tính thị khảo,
do Lê Trọng Phiên, Trịnh Luyện phụ trách, dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Bá
Trác; nhưng sách xếp theo các họ, gồm cả vua, quan, v.v… lược trong các sử sách
cũ ra, phương pháp ghi chép sơ sài, không có trọng tâm và mới làm được ba quyển,
ước được 170 tờ (68-90-145), mới chép được các tên họ Đinh (C.1) và họ Lê
(C.2-3). Thứ đến các sách thuộc loại địa lý, mỗi bộ cũng có mục Nhân vật hay Liệt truyện, như các sách Phủ
biên tạp lục cuả Lê Quý Đôn, Nghệ- an
ký của Bùi Dương Lịch, Đại Nam nhất
thống chí của triều Tự-đức, v.v… Thứ nữa đến các thi văn tập, thi văn tuyển,
như Việt âm thi tập của Phan Phu Tiên
và Chu Xa, Toàn Việt thi lục của Lê
Quý Đôn, Hoàng Việt thi tuyển, Văn tuyển của
Bùi Huy Bích, Việt thi tục biên của
Nguyễn Thu, v.v… Các sách này đều là những sách có giá trị đối với các tác gia
Việt-nam; trên các bài thơ, bài văn trích lục, có ghi rõ tiểu truyện các tác
gia, văn gia Việt-nam. Những tiểu truyện ấy tuy ngắn, nhưng gọn và đủ, gồm từ
các vua, quan, đến các phụ nữ, nhà sư, các đạo sĩ, từ đời Lý đến đời Nguyễn,
đôi khi lại ghi rõ các tác phẩm của từng vị. Ngoài ra, tên và tiểu truyện các vị
học giỏi, thơ hay còn thấy ghi trong các gia phả các họ lớn, như Gia phả họ Vũ Mộ-trạch, Gia phả họ Nguyễn
Tiên-điền, v.v… Và trong các dã sử, như Công
dư tiệp ký của Vũ Phương Đề đời Lê, Tang
thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, cuối đời Lê đầu đời Nguyễn
v.v…
Muốn
việc nghiên cứu về các môn học được tiện lợi, nhanh chóng và gọn gang, chúng ta
cần có một tập sách tổng hợp tất cả các tiểu truyện các tác gia Việt-nam ghi
trong các loại sách nói trên, và trích lược các tác phẩm cho rõ ràng và dễ hiểu.
Một tập Lược truyện các tác gia Việt- nam, từ thế kỷ thứ XI đến XX, nghĩa là từ
Lý, Trần đến cận đại, là rất cần thiết và cần được phổ biến kịp thời.
Loại
sách này, tuy hiện nay ta chưa có, nhưng không phải trước kia chưa ai nghĩ tới.
Việc biên soạn và chuẩn bị biên soạn sách này đã được nhiều học giả trong nước
lưu tâm từ mấy chục năm nay, nhưng không thoát khỏi khuyên sáo cũ, chưa thấy đặt
rõ vấn đề. Năm 1912. Thọ-xuân Lê Văn Phúc ở Nam bộ đã làm bản sách dẫn sách Đại Nam liệt truyện, in trong tạp chí Tri tân. Cũng trong khoảng thời
gian ấy, Ứng- hòe Nguyễn Văn Tố cũng soạn một tập tiểu truyện Các ông nghè triều Lê, in trong Tri tân(1942).
Nhưng tập Sách dẫn của Lê Văn Phúc quá
gọn và quá đơn giản, sinh ra phiền toái cho người sử dụng mỗi khi tra xong một
tác gia nào, lại phải đi tìm sách mà coi, sách lại viết bằng chữ Hán và lại là
của hiếm, khó tìm. Trong hoàn cảnh đó, việc sử dụng Sách dẫn ấy thật chưa tiện; mặt khác nó lại chỉ giới hạn trong phạm
vi người triều Nguyễn, nên còn thiếu sót nhiều. Tập sách Các ông nghè triều Lê cua Nguyễn văn Tố, tác giả đã dịch bộ Đăng khoa lục sưu giảng, nên có nhiều thần
thoại, nhiều chuyện hoang đường, khiến người đọc dễ chán, người khảo cứu thấy
thừa, hơn nữa nó cũng chỉ giới hạn trong các tiến sĩ triều Lê, nên phần thiếu sót
không phải là ít, tác dụng của nó cũng bị hạn chế nhiều.
Thật
vậy, soạn một tập Lược truyện các tác gia
Việt- nam chưa nói đến bộ Việt-nam nhân danh đại từ điển quả là một công trình
khá phức tạp và cũng không kém phần lâu dài. Do nhu cầu phục vụ công tác chung
cho việc nghiên cứu chúng tôi đã cùng nhau họp thành một nhóm, cố gắng thực hiện
ý muốn chung, phục vụ kịp thời các nhà nghiên cứu. Chúng tôi không quản khả năng
có hạn, tài liệu phức tạp, hết sức mạnh dạn, cùng nhau bàn bạc, thảo ra một bản
đề cương cùng nhau biên soạn một tập Lược
truyện các tác gia Việt-nam, giới hạn trong thời gian từ thế kỷ thứ XI đến
XX, nghĩa là từ Lý, Trần đến cận đại, năm 1945, và giới hạn trong một phạm vi
nhỏ hẹp, thật gọn, thật đủ, phục vụ được nhanh và vững chắc.
Vi
những lý do trình bày trên đây, chúng tôi thiết tưởng muốn nghiên cứu về lược
truyện từng tác gia nghĩa là lấy tác phẩm làm trọng tâm, tức là phần chính của
sách này, trước hết phải đặt cơ sở cho vững chắc Cơ sở ấy tức là các tài liệu
chính nói về các nhân vật lịch sử Việt- nam. Rồi từ đó, lựa lọc lấy truyện các
tác gia, sắp xếp thành một hệ thống, theo trình tự lịch sử. Khi bắt tay vào công
việc biên soạn Tập I, chúng tôi đã vấp phải nhiều khó khăn trong phần cổ đại,
phần các sách Hán, sách Nôm. Một số lớn những tài liệu ấy là sách chép tay,
trong đó có nhiều sai lầm, và cũng xen lẫn nhiều tài liệu không thật chính xác,
nghĩa là tài liệu giả mạo. Vì vậy, mỗi tài liệu đem dùng cần phải phân tích thật
tỉ mỉ, cần phải tra khảo và so sánh thật kỹ. Sau đây là bảng phân tích các tài
liệu chính, dùng làm căn cứ để viết Lược
truyện các tác gia Việt- nam(tập I). Các tài liệu cơ sở ấy, chia lam ba loại:
1. Sử chí, 2. Đăng khoa lục 3. Thi văn
tuyển tập, xếp theo trình tự lịch sử, cớ ghi số thứ tự, từ 1 đến 30.
Chúng
tôi thành thực cám ơn các đồng chí ở các cơ quan, đoàn thể, các thư viện, đã giúp
đỡ chúng tôi trong công tác sưu tầm nghiên cứu các tài liệu, nhất là các đồng
chí nghiên cứu ở Viện Sử học, đồng chí Văn Tân, đã góp ý kiến và khuyến khích
chúng tôi rất nhiều về tập sách này. Chúng tôi không thể quên được sự giúp đỡ tận
tình của các vị công tác tại Thư viện Khoa học trung ương: các ông Đặng Xuân
Khanh, Nguyễn Ngọc Thụ và Thái Văn Liễn, xin thành thực cám ơn.
Dù
sao, chúng tôi cũng xin nhắc lại rằng tập sách này không thể không còn có nhiều
thiếu sót; mục đích thì lớn mà phần thể hiện chưa được bao nhiêu. Vì vậy, nó chỉ
là một tập sơ thảo về tiểu truyện các tác gia Việt- nam và cần được tiếp tục nghiên
cứu, bổ sung đầy đủ hơn nữa.
Chúng
tôi mạnh dạn đưa ra để kịp thời phục vụ các nhà nghiên cứu về đủ các ngành sử học,
văn học cũng như về kinh tế, chính trị nghệ thuật, giáo dục, v.v… Mong cac vị
lưu tâm giúp đỡ thêm tài liệu, góp thêm ý kiến, để chúng tôi có thể tiếp tục bồi
đắp thêm, xây dựng thêm, thành một bộ sách đầy đủ hơn, góp phần nhỏ vào bộ từ
điển lớn về Các danh nhân Việt-nam
sau này. Mong các vị rộng lượng, coi nó là một tập sách dùng tạm cho việc khảo
cứu, cũng như ngạn ngữ thường nói: “Không có cá, lấy rau má làm trọng.”
Ngày
15 tháng 12 năm 1961
NHÓM
BIÊN SOẠN
[1] Xem bài tựa thiên
Nghệ văn chí trong Đai Việt thông sử của Lê Quý Đôn và bản
dịch trong: Les chapitris
bibliographiques de Lê Quý Đôn et de Phan Huy Chú (Bul. de la Sociètè des
Études Indochinoises, N.S.t.XIII. N01, trang 37-42)
[2] Về tước phong và quan chức, mới coi ta tưởng là thừa, nhưng đối với sách
Hán, Nôm ta xưa, rất là quan trọng; vì người xưa có tục tránh gọi tên thật mà
dùng tên hiệu, tên làng, đôi khi dùng tên tước, tên quan chức để gọi thay tên
thật và tên sách. Thí dụ: Hồ Thượng thư
gia lễ là của Hồ Sĩ Dương; Đông-khê thi tập là của Nguyễn Văn Lý, v.v… Đây thực không phải quá chú trọng đến lịch sử khoa hoạn của từng tác gia.
[3] Những sách dùng làm tài liệu cơ sở và tài liệu tham khảo của Tập II sẽ được
phân tích và trình bày kỹ trong Tập II.
[4] Xem: Lê Quý Đôn-Đại Việt thông sử, sách chép tay của Thư viện Khoa học, ký hiệu
A.1387, và phần tài liệu số 8, sau này.
[5] Xem: Phan Huy Chú-Lịch triều hiến
chương loại chí, C.42-45, phần tài liệu số 11, và bản dịch của nhà xuất bản
Sử học, 1959-1962.
[6] Xem: Les chapỉtes bibliographiques de Lê Quý Đôn et de Phan Huy Chú, của Trần
Văn Giáp-Sài Gòn, 1938 (Bul.de la Socíeté des Etudes Indochinoises,
N.S.,t.XIII, N01)
[7] Về khoảng thời gian lịch sử sau triều Mạc, thường gọi là „Lê trung hưng“,
cũng có một phần nào đúng. Nhưng nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, từ năm 1527 (tức năm
Minh-đức thứ nhất) đến tháng 9-1667 là năm Thuận -đức thứ hai, Mạc Kính Vũ ở
Cao Bằng chạy sang Trung-quốc, thì nhà Mạc mới thật hết. Lê trung hưng bắt đầu
từ Lê Ninh tức Lê Trang-tông, năm Nguyên-hòa thứ nhất là 1533. Trong khoảng giữa
thế kỷ XVI và XVII, hai họ Mạc và Lê vẫn tồn tại cài răng lược trên đất Việt-nam.
Vì vậy chúng tôi gọi là thời „Lê-Trịnh“ cho phân biệt rõ hơn. Vì họ Trịnh (Trịnh
Kiểm) xuất hiện cùng với nhà Lê trên lịch sử một cách rõ rệt từ năm 1545, chỉ
sau Lê Trang-tông có 12 năm, mà mãi đến Trịnh Phùng (Yến-đô vương, năm
Quang-trung thứ nhất, 1788) mới thật hết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét