Thi gia Việt Nam trong Vãn tinh di thi hội
Nguyễn Đức
Toàn
Viện
nghiên cứu Hán Nôm
Tư liệu dịch từ khi còn là cán bộ Viện Hán Nôm nên vẫn đề nguyên. Đã gửi Tạp chí nhưng chắc chờ còn lâu nên đưa lên Blog cho cộng đồng cùng xem
Vãn tinh di di hội 晚晴簃詩匯, gồm 200 quyển, do Từ Thế Xương[1]
biên tập. Đây là tổng tập sưu tuyển các tác phẩm thơ đời Thanh, Trung Quốc. Bao
gồm cả Hoàng đế, Thân vương, danh nhân, quan lại, tăng đạo, thuộc quốc, …. Tác
phẩm được sưu tập vào Tập bộ trong Tục tu Tứ khố toàn thư 續修四庫全書[2]. Nội dung biên
tập theo thứ tự, bắt đầu từ vua Khang Hi, đến hết các Sứ thần nước Lưu Cầu. Sưu
tập 5780 tác giả. Trong đó phần Thuộc quốc
ở quyển thứ 200 có sưu tập 19 tác phẩm của 14 nhà thơ Việt Nam . Là các tác gia: Hà Tông Mục, Nguyễn
Công Hãng, Phạm Khiêm Ích, Phạm Lập Trai, Nguyễn Hoành Khuông, Tống Danh Lãng, Lê
Lương Thận, Trần Đăng Đại, Nguyễn Chỉ Tín, Nguyễn Đề, Nguyễn Huy Oánh, Trần Văn
Trứ, Ngô Thì Sĩ, Ngụy Khắc Tuần. Một số tác gia đã được nghiên cứu sâu rộng và
một số tác gia chưa được đề cập đến. Thông qua tư liệu từ Vãn tinh di di hội, chúng tôi phiên dịch, giới thiệu 19 tác phẩm của
14 tác gia trên đóng góp tư liệu thơ văn của các thi nhân Việt Nam Trung đại.
Mục lục quyển 200-
có các thi nhân An Nam
|
Trang đầu Vãn tinh di thi hội với lời Tự
|
1.何宗穆
何宗穆,安南人。
詩話康熙四十三年二月宗穆以鴻臚卿充副使詣京師午門外受賜陳奕禧香泉西齋在列問姓名語言不通畫地而書宗穆求紙筆書所為贈朝鮮使臣詩香泉西齋皆次其韻西齋並代朝鮮使臣答詩有句云借問碧瀾亭下客官名還號大加無
後漢書注古皺大加高麗掌賓客之官如今之鴻臚宗穆正為是官使事甚密合云
Dịch nghĩa:
Thi thoại[4],
đời Khang Hy năm thứ 43 (1704), tháng 2. Tông Mục với thân phận Hồng Lô tự
khanh sung chức Phó sứ đến Kinh sư. Khi thụ tứ ở Ngọ Môn. Bọn Trần Dịch Hi,
Hương Tuyền, Ngô Cảnh, Tây Trai[5]
cũng dự hàng. Hỏi thăm nhau mấy lời, không thông, nên viết chữ ra (để đàm thoại).
Tông Mục xin giấy bút để viết, làm bài thơ tặng cho Sứ thần Triều Tiên. Hương
Tuyền và Tây Trai cũng nối vận. Tây Trai cũng đại diện sứ thần Triều Tiên đáp
thơ lại. Bài có câu:
Ướm hỏi
khách dưới đình sóng biếc
Chức
quan còn gọi Đại Gia không”
Sách Hậu
Hán thư chú rằng: Xưa Châu Đại Gia, là chức quan coi nắm
tiếp đãi tân khách ở Cao Li. Như chức Hồng lô ngày nay. Tông Mục chính là chức
quan ấy. Việc sứ giả hai bên rất là hòa hợp”
赠朝鲜使臣
周原万里共驰驱,
才立谈閒志意殊。
道理渊源攸一揆,
衣冠礼乐却同符。
畏天各谨侯朝度,
任士同归王会图。
流水高山琴载鼓,
知音世有子期无。
|
Dịch thơ
Trung
nguyên, muôn dặm cùng ruổi rong,
Mới vừa
đàm thoại ý chí thông.
Đạo lý thâm
sâu xưa vẫn một,
Y quan
lễ nhạc cũng tương đồng.
Kính
uy cẩn thận chầu đúng phép,
Sĩ về
triều tụ cảnh thịnh trông.
Nước chảy non cao cầm xưa vọng,
Tri âm còn có Tử Kỳ không.
|
Tặng sứ thần Triều Tiên
Đất rộng, muôn vạn dặm cùng rong ruổi,
Mới đứng đàm thoại một lát thấy chí ý rất đặc
biệt.
Nhưng đạo lý thâm sâu thì xưa vẫn là một,
Lễ nhạc y quan lại cũng có sự tương đồng phù hợp.
Sợ uy trời mà các bên đều kính cẩn hầu trầu
đúng phép,
Sai kẻ sĩ cùng về triều tụ cảnh thịnh trị nơi
vương hội.
Nước chảy non cao tiếng đàn cầm xưa như vọng lại,
Trên đời tri âm có thấy Tử Kỳ nữa hay không.
(Xem thêm http://yeuhannom.blogspot.de/2013/07/bai-tho-cua-ha-tong-muc-tang-su-than.html)
(Xem thêm http://yeuhannom.blogspot.de/2013/07/bai-tho-cua-ha-tong-muc-tang-su-than.html)
2. 阮公沆
阮公沆,安南人。
简朝鲜国使俞集一李世瑾
沧海扬尘几度三,
炎邦自昔宅交南。
六经以外无他道,
一岁之中熟八蚕。
万户鱼盐常给足,
四时花木共敷覃。
归来宣室如前席,
似与观风助一谈。
|
Dịch
thơ:
Nương
dâu biển hóa ba phen,
Viêm
bang tự cõi Giao nam đến giờ.
Lục
kinh chuộng, khác không ưa,
Chăn tằm
tám vụ cùng vừa một năm.
Làm muối
đánh cá đều chăm,
Cỏ hoa
bốn tiết khoe trăm sắc nhuần.
Về rồi
như thấy lưu chân,
Chuyện hay nước lớn sứ thần quan quang.
|
Dịch nghĩa:
Trình Sứ thần nước Triều Tiên là Du Tập Nhất,
Lý Thế Cẩn
Biển xanh ruộng dâu biến đổi đã ba lần,
Ngoài Lục kinh ra cũng không học theo đạo nào
khác,
Nghề chăn tằm thì một năm những tám vụ.
Muôn nhà làm muối đánh cá, gia cấp đầy đủ,
Bốn mùa hoa cỏ cùng phô tươi thắm.
Cũng như một câu chuyện hay về sự quan quang nước
lớn vậy.
地各东南海际居,
计程一万又零馀。
威仪共秉周家礼,
学问同遵孔氏书。
好把文章通肯綮,
休论温饱度居诸。
使轺云返重相忆,
在子安知不我如。
|
Dịch thơ
Đông
Nam hai nước cách xa,
Tính đường phải đến dư ra[9]
vạn dài.
Cơ tử gia lễ truyền đời,
Suy tôn học vấn cùng lời Khổng Tuyên.
Văn chương chuộng lối thông truyền,
Chẳng bàn gì đến sự phiền đói no.
Xe xa mây khuất đắn đo,
Bên kia như có đắn đo nhớ mình.
|
Dịch nghĩa:
Địa vực nước ở phía
đông, ở phía nam cách biển nhau,
Kế trình đường lối
đến hơn vạn dặm có dư.
Uy nghi còn giữ gia
lễ từ đời Cơ tử,
Học vấn cùng suy
tôn sách vở họ Khổng.
Làm văn văn chương
thích lối văn thông suốt làm cốt yếu,
Chẳng bàn gì đến
thói no ấm qua ngày tầm thường.
Xe sứ xa rồi mây lấp
càng thêm nhớ nhau,
Có biết bên phía
ngài có như ta mà nhớ nhau chăng.
3. 范谦益
范谦益,安南人。
谢两广总督孔公
皇天有意属斯文,
汶泗锺灵岳降神。
数仞宫墙增粉雘 ,
一方屏翰试经纶。
宪邦文武威怀旧,
专阃东西宠渥新。
圣泽宏宣膏雨润,
荣孚穀仰慰来宾。
|
Dịch thơ
Trời cao có ý giúp tư văn,
Phần-Tứ đúc chung núi giáng thần.
Mấy thước cung tường thêm vẻ đẹp,
Một phương gìn giữ rõ kinh luân.
Hiến bang văn võ uy nguồn cổ,
Cương vực đông tây lại duy tân.
Thánh đạo tuyên ra nhuần mưa móc,
Tốt tươi cung ngưỡng khách xa gần.
|
Dịch nghĩa:
Phạm Khiêm Ích[10],
người An Nam.
Tạ Khổng công, Tổng đốc Lưỡng Quảng
Trời cao có ý giúp tư văn[11],
Mạch Phần-Tứ hun đúc nên, núi giáng thần[12].
Mấy thước cung tường thêm tô điểm,
Gìn giữ một phương triển tài kinh luân.
Là nước văn hiến, nên sự văn võ đều có uy hướng về nguồn cổ,
Quyền hành nơi cương vực đông tây đều hưởng ơn huệ mới.
Thánh đạo tuyên ra như mưa móc tưới nhuần,
Để thóc lúa tốt tươi, người phương xa đến làm khách phải ngưỡng trông.
旅币寻常效簿来,
湛恩今仰体柔怀。
观光辱荷金鞍贶,
醉德均叨绮席陪。
久沐周仁覃海峤,
重欣夏贡达江淮。
蘩薇静觉无涯答,
万寿惟赓南有台。
|
Dịch thơ
Tiền bạc đi đường sổ
sách ghi,
Đội ơn thể đức, xa vỗ về.
Quan quang lại được yên
vàng tặng,
Say đức lạm ơn chiếu gấm
quỳ.
Nhân đức nhà Chu khắp
thiên hạ,
Lệ cống đời Hạ đến Giang
Hoài.
Cỏ vi dám báo ân vô hạn,
Duy chúc nam sơn vạn thọ
kỳ.
|
Dịch nghĩa:
Tiền bạc đi đường thường theo sổ sách,
Đội ơn nay được thể lòng vỗ về cho người phương xa.
Đến quan quang lại được mông ân ban yên vàng[13],
Say đức cùng theo lạm ơn thù tiếp trên chiếu quý.
Gội lâu đức nhân nhà
Lại vui vẻ theo lệ cống đời Hạ đến tận vùng Giang Hoài[15].
Loài nhỏ như rau vi rậm rạp biết báo đáp sự vô hạn này,
Duy chúc vạn thọ cát tường như nam sơn có rau đài[16].
|
Diễn Lục Bát
Đi đường tiền bạc sổ
ghi,
Đội ơn thể đức vỗ về người
xa.
Quan quang yên báu ban quà,
Lạm ơn say đức chiếu hoa
ra mời.
Nhân đức Chu, khắp mọi
nơi,
Vui theo Hạ cống đến
khơi Giang Hà.
Cỏ vi dám báo ơn xa,
Cúi mong vạn thọ như là
|
4. 范立齐
范立齐,安南人。
诗话家晓山中丞越南辑略采彼都人士诗数十家范立齐有禾黍之感是必黎氏旧臣惓怀故国故特录之
Dịch nghĩa:
Phạm Lập Trai[17],
người An Nam.
Theo Thi thoại gia Hiểu Sơn Trung Thừa trong sách Việt
Nam
tập lược[18]
sưu tập thơ của nhân sĩ nước ấy vài chục người. Thơ Phạm Lập Trai có cái cảm
xúc ưu cố quốc[19],
ắt là cựu thần nhà Lê quyến luyến nước cũ vậy, thế nên đặc biệt ghi lại.
秋郊杂咏
野外连衡宇,
秋高见远山。
斜阳明一半,
烟树断中间。
国破家何在,
年深客未还。
紫芝如可采,
一为问商颜。
|
Dịch thơ
Đồng xa nhà cũ đơn sơ,
Trời thu thấy cả núi xa
cao vời.
Chiều tà còn nửa sáng
thôi,
Cột mây như cắt giữa trời
chia ra.
Nước mất còn đâu nữa
nhà,
Năm dài mà khách đi xa
chưa về.
Thuốc tiên hái, biết chỗ
đi,
|
Tạp vịnh cảnh thu ngoại ô
Ngoài đồng mấy gian nhà đơn sơ,
Trời thu cao thấy cả núi xa.
Ánh chiều tà chỉ còn nửa sáng,
Cột mây như cắt chia ở giữa.
Nước mất nhà ở đâu đây,
Năm tháng dài mà khách còn chưa về.
Như có thể đi mà hái thuốc,
Thì cho hỏi thăm tới Thương Nhan[21].
书怀
故国山河已大殊,
故园桑菊半荒芜。
茫茫天地为逋客,
扰扰风尘自腐儒。
病骨平分秋岭瘦,
臣心仍伴月轮孤。
有人劝我杯中趣,
为问三闾肯醉无。
|
Dịch thơ
Cố
quốc non sông đổi hết rồi,
Vườn
xưa dâu cúc nửa hoang tồi.
Mênh
mang trời đất thân làm khách,
Phong
trần nhiễu loạn hủ nho thôi.
Xương
bệnh khẳng khiu gầy như núi,
Trăng
khuya làm bạn phận bề tôi.
Khuyên
mình lắng trải vui cùng rượu,
Hỏi cụ Tam Lư say nữa thôi.
|
Dịch nghĩa:
Tả lòng
Nước cũ non sông đã khác
rồi,
Vườn xưa dâu cúc nửa
hoang vu.
Mênh mang trời đất, làm kẻ
trốn tránh,
Nhiễu loạn phong trần, kẻ
hủ nho.
Xương bệnh khẳng kheo gầy
như núi,
Tấm lòng bề tôi vẫn làm bạn
với trăng cô.
Có người khuyên ta vui với
chén rượu,
5. 阮宏匡
阮宏匡,安南人。
诗话乾隆中安南国王阮光平初抗师行卒盾侯度其受封在五十四年明岁为高宗八旬万寿先期奏请入觐优诏许之乃於春初遣使诣阙宏匡以刑部右侍郎充谢恩正使东阁学士宋名朗翰林院待制黎梁慎副之翰林院侍读陈登大充进贡正使东阁学士阮止信翰林院阮提副之光平寄谕宏匡以安南旧尝与暹罗称兵慮暹罗使者有言令以構衅始末入奏又以其母衰弱令市人参以归广西巡抚孙永清以闻高宗敕谕光平以暹罗使者未尝有言并赐人参一斤畀永清驛致光平是岁八月光平诣热河行在展觐并祝釐恩礼备极优渥
Dịch nghĩa:
Nguyễn Hoành
Khuông, người An Nam.
Theo Thi Thoại, giữa đời Càn
Long, An
Nam quốc vương là Nguyễn Quang Bình[23]
lúc đầu hành binh kháng thiên triều, sau noi theo về, được thụ phong. Vào năm thứ 54
(1791), năm sau là tiết vạn thọ 80 của Cao tông[24]
bát tuần vạn thọ. Bên ấy trước đã dâng tấu xin vào triều cận, trên đặc ưu chiếu hứa cho. Nên đến đầu xuân sai sứ đến cửa khuyết. Hoành Khuông làm Hình bộ hữu Thị lang sung làm chánh sứ tạ ân, Đông các học sĩ Tống Danh Lãng và Hàn lâm viện đãi chế Lê Lương Thận làm phó; Hàn lâm viện thị độc Trần Đăng Đại sung chánh sứ tiến cống, Đông các học sĩ Nguyễn Chỉ Tín và Hàn lâm viện Nguyễn Đề làm phó. Quang Bình đã dụ cho Hoành Khuông, đem chuyện An Nam trước với Xiêm La có sự động binh. Lo là sứ Xiêm La có lời tâu, thành cớ gây hấn. Đầu đuôi vào tấu. Lại lấy cớ mẹ mình suy nhược, sai người đi tìm mua nhân sâm mang về. Quảng Tây Tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh đem việc tâu lên, Cao tông sắc dụ với Quang Bình là sứ Xiêm La không tâu sự gì, lại ban
1 cân nhân sâm, sai Vĩnh Thanh chuyển trạm đến Quang Bình. Tháng 8 năm ấy, Quang Bình đến yết kiến hành tại ở
Nhiệt Hà, hành lễ nhập cận và chúc mừng, ơn lễ rất là trọng hậu.
恭和御制赐朝鲜琉球安南诸国使臣诗
筵开前节值新旬,
春暖名园诏问频。
恩侈帡幪高覆物,
泽覃优渥广同人。
怀侯柔远天生圣,
饱德观光子慕亲。
化外幸陪冠带会,
期颐介寿拜皇仁。
|
Dịch thơ
Vừa tiết
tiệc khai lúc đầu tuần,
Chiếu
vào vườn ngự ấm hơi xuân.
Ân nhiều
đội đức phủ muôn vật,
Huệ trạch
rộng ban khắp đồng nhân.
Yên vỗ
kẻ xa, trời sinh thánh,
Bề tôi
no đức, hiếu yêu thân.
Ngoài
tầm giáo hóa may gặp hội,
Thánh
hoàng mong chúc thọ muôn xuân.
|
Kính họa bài Ngự chế cho sứ thần các nước
Triều Tiên, Lưu Cầu, An Nam
Tiệc khai trước buổi,
vừa lúc đầu tuần mới,
Ngày xuân ấm áp, vườn
ngự chiếu gọi cả.
Ân nhiều đội đức phủ
cả muôn vật,
Huệ trạch lan rộng
khắp mọi người.
Yêu mến chư hầu, vỗ
về kẻ xa, trời sinh thánh nhân,
Kẻ bề tôi no đức
thánh, ngắm vẻ rạng ngời như người con mộ hiếu.
Nơi ngoài tầm giáo
hóa cũng được may theo hội cân đai này,
Mong chúc cho thánh
hoàng nhân thọ muôn tuổi.
6. 宋名朗
宋名朗,安南人。
恭和御制赐朝鲜琉球安南诸国使臣诗
虞廷肆觐未盈旬,
拜奉天恩灌沃频。
不限阳春覃异域,
式隆膏泽宠来人。
沦肌浃髓知优渥,
望日瞻云妥戴亲。
分外帡幪何报答,
愿将嵩寿祝皇仁。
|
Dịch thơ
Triều cận sân Nghu sắp đủ
tuần,
Nhiều phen mưa móc bái
thiên ân.
Dương xuân vô hạn lan khắp
chốn,
Huệ trạch ban ra để đãi
nhân.
Xương da ân huệ còn nhuần
thấm,
Trời mây trông ngắm thỏa
lòng thân.
Đức ân biên ngoại làm
sao báo,
Tung cao nguyện chúc
thánh hoàng muôn xuân.
|
Dịch nghĩa:
Tống Danh Lãng,
người An Nam
Kính họa bài Ngự
chế cho sứ thần các nước Triều Tiên, Lưu Cầu, An Nam
Sân Nghu[25]
ban tứ cho triều cận, chưa được đầy tuần,
Bái tạ thiên ân mưa móc nhiều phen.
Như ánh dương xuân không ngừng đến cả vùng khác,
Dùng huệ trạch để trọng đãi người đến chầu.
Ân huệ còn thấm nhuần đến cả xương da,
Ngắm trời trông mây cho thỏa lòng trông cha mẹ[26].
Nơi biên ngoại được che chắn ân đức, làm sao báo
đáp,
Nguyện chúc thánh hoàng vạn thọ như núi Tung
sơn.[27]
7. 黎梁慎
黎梁慎,安南人。
恭和御制赐朝鲜琉球安南诸国使臣诗
天眷皇王启寿旬,
亿年圣泽祝声频。
御园日暖常佳气,
华宴春浓及远人。
星度共旋依北极,
威颜咫只仰慈亲。
观光幸缀明堂列,
顶踵均沾雨露仁。
|
Dịch thơ
Trời mến
hoàng vương mở thọ tuần,
Tung
hô thánh trạch chúc muôn xuân.
Vườn
ngự đẹp tươi thời tiết tốt,
Xuân nồng
yến tiệc viễn phương nhân.
Các
sao đúng độ chầu cực bắc,
Uy
nhan gang tấc đấng từ thân.
Thịnh
hội Minh đường, mừng được dự,
Nối
gót gội mưa móc thánh nhân.
|
Dịch nghĩa:
Kính họa bài Ngự chế cho sứ thần các nước
Triều Tiên, Lưu Cầu, An Nam
Trời mến hoàng
vương mở tuần tiệc thọ,
Thánh trạch tung hô
chúc muôn tuổi.
Vườn ngự ngày xuân
trùm khí ấm đẹp tươi,
Yến tiệc xuân nồng
đến cả người phương xa.
Như các sao cùng
đúng độ chầu về bắc cực,
Uy nhan trong gang
tấc như thấy đấng từ thân.
Ngắm thịnh hội, mừng
được dự hàng điểm nơi Minh đường,
Nối gót đội ơn mưa
móc thánh nhân.
8. 陈登大
陈登大,安南人。
恭和御制赐朝鲜琉球安南诸国使臣诗
虞阶何待舞经旬,
玉帛初通雨露频。
煦育肯分千里外,
绥怀浑似一家人。
幸陪周宴清光接,
近挹尧樽咫尺亲。
新宠归来分海国,
共将华祝颂皇仁。
|
Dịch thơ
Thềm Ngu đâu đợi múa mấy tuần,
Ngọc bạch phương
xa cống đã gần,
Đức sáng nuôi khác đâu nghìn dặm
Vỗ về nhân ái tựa người thân.
May bồi
Chúc chén Nghiêu gần thỏa đức thân.
Nước xa mới đội ân sủng lớn,
Cùng dâng lời chúc tụng đức hoàng nhân
|
Dịch nghĩa:
Kính họa bài Ngự
chế cho sứ thần các nước Triều Tiên, Lưu Cầu, An Nam
Thềm Ngu đâu đợi múa can múa lông mấy tuần, [28]
Đức sáng nuôi dưỡng đâu phân biệt vùng xa nghìn
dặm
Thân ái vỗ về thân thiết như người một nhà.
May được bồi yến Chu
tiếp đãi vẻ thanh quang,
Mới đội ơn sủng về nơi nước xa,
Cùng dâng lời hoa từ chúc tụng đức nhân thánh
hoàng
9. 阮止信
阮止信,安南人。
恭和御制赐朝鲜琉球安南诸国使臣诗
华旦欣逢万寿旬,
春卮廑祝叩筵频。
象方玉帛联王会,
鹿宴笙簧慰远人。
望日有年陶煦暖,
朝天何幸妥尊亲。
南归愿即呈黄耇,
早拜丹墀仰至仁。
|
Dịch thơ
Ngày
xuân tươi đẹp gặp thọ tuần,
Tiệc
đông vui chúc chén chàn xuân.
Phương
xa ngọc lụa chầu vương hội,
Tiệc bầy
đàn sáo vấn an nhân.
Trông
cho vầng dương năm tháng chiếu,
Chầu
thánh may thỏa được tôn thân.
Về nam
nguyện các bậc nguyên lão,
Sớm đến
thềm đan chúc chí nhân.
|
Dịch nghĩa:
Nguyễn Chỉ Tín,
người An Nam.
Kính họa
bài Ngự chế cho sứ thần các nước Triều Tiên, Lưu Cầu, An Nam
Ngày hoa tươi đẹp,
gặp tiết vạn thọ,
Chén xuân chàn,
chúc tiệc đông vui.
Trông cho vầng thái
dương năm tháng chiếu hơi ấm nên vạn vật,
Chầu thiên triều
may sao lại thỏa lòng được tôn thân.
Về nam nguyện các bậc
nguyên lão,
Sớm đến thềm đan
trông đức bậc chí nhân.
10. 阮偍
阮偍,安南人。
诗话偍乾隆间以翰林副贡使嘉庆初元复奉赓来朝则已迁兵部左卿爵为宜城侯偍本黎氏公族阮氏得国改姓从之诗忆兰溪渔者盖亦宗子而隐遁故有首阳今日无人问语也
Dịch nghĩa:
Nguyễn Đề[33],
người An Nam.
Theo Thi thoại, Đề thời Càn
Long, hàm Hàn lâm sung Phó
cống sứ. Đầu đời Gia
Khánh lại phụng mệnh sang trầu, đã thăng Binh
bộ tả khanh, tước Nghi Thành
hầu. Vốn là dòng công thần nhà Lê. Khi nhà Nguyễn được ngôi, đổi họ
theo phụng sự. Lời thơ trong bài Ức Lan Khê
ngư giả cũng là cảnh
con cháu tông thần phải ẩn náu, vậy nên có câu Thú Dương kim
nhật vô nhân vấn vậy.
恭和御制赐朝鲜琉球安南诸国使臣诗
九十韶光甫二旬,
灵园莺燕报春频。
星驰轮辔趋行殿,
云集衣冠拜圣人。
仰见英君德得寿,
可知天命敬惟亲。
金章玉席洪恩浃,
泸伞难酬顶踵仁。
|
Dịch thơ
Thiều quang chín chục đủ hai tuần,
Vườn kia oanh yến báo tin xuân.
Ruổi sao, rong lối điện triều kiến,
Mây tụ y quan bái thánh nhân.
Mong đấng anh quân đức đắc thọ,
Thực hay mệnh lớn kính người thân.
Chương vàng chiếu ngọc ân phủ khắp,
Núi Tản dòng Lô đội dấu nhân.
|
Kính họa
bài Ngự chế cho sứ thần các nước Triều Tiên, Lưu Cầu, An Nam
Vườn kia oanh yến thi nhau báo tin xuân.
Ruổi sao, rong xe giữ cương mà theo hàng đến điện trầu,
Áo quần mây tụ chiêm bái thánh nhân.
Cúi trông đấng anh quân đức cao đắc thọ,
Chương vàng chiếu ngọc ân lớn phủ khắp,
次东山偶忆兰溪渔者
东鲁行车雨雪飞,
偶怀閒客钓鱼矶。
二伦情谊心相合,
渔者与我分兼兄弟朋友故云二伦
十载穷通命每违。
不审役形当世事,
何如拭目看时机。
首阳今日无人问,
也任夷齐采尽薇。
|
Dịch thơ
Đông Lỗ xe qua mưa tuyết bay,
Bạn câu ghềnh nọ nhớ nhau thay.
Bằng hữu, anh em tình rất hợp,
Người cùng kẻ đạt, số vần xoay.
Thân tâm chẳng xét đương thế sự,
Rụi mắt thời cơ nên thấy ngay.
Thú Dương chuyện cũ ai người hỏi,
Di Tề hái cỏ hết đời nay.
|
Dịch
nghĩa:
Nghỉ ở Đông Sơn, ngẫu nhiên nhớ đến bạn chài suối
Lan Khê[37]
Vùng Đông Lỗ[38]
xe qua cảnh mưa tuyết bay,
Ngẫu nhiên nhớ
người bạn câu cá bên ghềnh đá.
Vừa bằng hữu,
vừa anh em, tình kết giao rất hợp,
(Người đánh cá này với tôi kiêm tình vừa anh em vừa bạn bè, nên tôi gọi
là Nhị luân)[39]
Nhưng hai
bên, lúc cùng lúc đạt, số mệnh lại
khác nhau.
Chẳng xét cái
sự sai khiến thân xác ghánh vác việc đời,
Làm sao mà rụi
mắt để thấy được thời cơ.
Chuyện Thú
Dương ngày xưa, nay có ai màng hỏi,
Đã để Di Tề
đi hái cỏ vi hết rồi.
|
Diễn Lục Bát
Qua vùng Đông Lỗ tuyết bay
Bạn câu ghềnh đá nhớ thay trong lòng
Anh em bằng hữu tình nồng
Kẻ cùng người đạt mặc vòng vần xoay
Thân tâm việc thế đương vầy
Thời cơ rụi mắt thấy ngay chăng là
Thú Dương chuyện cũ ai mà
Di Tề hái cỏ cho qua trọn đời
|
11. 阮辉
亻莹
阮辉亻莹 ,安南人。
涿州题壁
远捧芝纶万里来,
烟云绕向马头开。
客囊衣在缝仍密,
带得平安两字回。
|
Dịch thơ
Chiếu
thư đồ quí đường dài,
Khói
mây đầu ngựa rẽ hai bên đường.
Túi áo
vá, kín lạ thường,
Bình
an hai chữ chắc mang trở về.
|
Dịch nghĩa:
Nguyễn Huy Oánh[40],
người An Nam.
Từ xa muôn dặm vâng mang đồ quý, chiếu thư đến,
Trước đầu ngựa, mây khói còn vẩn quanh mở ra.
Túi và áo khách còn phải vá, nhưng kín đáo,
Mang về được trọn hai chữ bình an.
12. 陈文火著
陈文火著 ,安南人。
答复天朝册使
玉堂纶綍属才华,
天汉遥遥载泛槎。
驿路九千初发轫,
葩诗三百旧生涯。
胸中吐出霞千朵,
纸上凝成雪六花。
除却盛唐元白外,
骚坛几见自成家。
|
Dịch thơ
Chiếu vua điện ngọc lắm
tài hoa,
Thiên Hán trời cao xuống
cõi xa.
Sứ trình dằng dặc lên đường sớm,
Ba trăm bài cũ phát kế
ra.
Muôn đóa mây tươi lòng
trữ phát,
Tuyết sinh sáu cánh giấy
ngưng hoa.
Trừ những Thịnh Đường
như Nguyên Bạch,
Tao đàn mấy kẻ tự thành
gia.
|
Dịch nghĩa:
Thềm ngọc chiếu vua ban, đủ tài hoa,
Trong lòng trữ phát muôn đóa mây sặc sỡ,
Trên giấy như ngưng kết những đóa hoa tuyết sáu
cánh.
Trên Tao đàn thấy mấy người tự lập thành gia được.
庄诵瑶章咀丽华,
不妨世号阿瞒槎。
古来先进开新进,
谢道无涯役有涯。
向阙多君头未雪,
望尘使我眼生花。
此身如作衡山雁,
北往南翔总是家。
|
Dịch thơ
Lời
trang nhã, từ lệ hoa,
Chẳng hiềm nhân thế gọi là A
Người sau nhờ trước mở mang,
Trí là vô hạn thân đang hữu kỳ.
Trông khuyết chúc, tóc thanh ti,
Phần tôi bụi ngóng mắt thì sinh hoa.
Hành Sơn hóa nhạn bay xa,
Khi
|
Dịch nghĩa:
Trang nhã lời hay, tụng từ hoa lệ,
Đâu để tâm nhân gian gọi là khách A Man[48].
Xưa nay người đi trước mở mang cho người đi sau,
Cảm tạ cái trí tuệ vô hạn dẫn dắt cho cái bản thể
hữu hạn[49].
Ngóng về cửa khuyết, mong chúc đầu còn chưa bạc
tuyết,
Trông xuống đám bụi trần, càng thấy mắt mình
sinh hoa.
Thân này mà hóa được thành nhạn ở Hành Sơn[50],
Thì bay bắc hay bay nam cũng đều là nhà cả.
13. 吴时仕
吴时仕,安南人。
Ngô Thì Sĩ[51],
người An Nam.
游绿云洞
巑岏翠巘俯苍波,
洞口潆洄拥荔萝。
岩邃造工施凿巧,
景幽渔父占閒多。
古今历阅英雄几,
儵忽其如混沌何。
开辟不应危栈旷,
故增一座石弥陀。
|
Dịch thơ
Cao vời núi biếc bọc dòng xanh,
Cửa động dây bám cỏ leo quanh,
Vách đá gây công trời khéo tạc,
Nhàn tênh ngư phủ chốn u thanh.
Kim cổ anh hùng ai mấy độ,
Chớp mắt quay ra hỗn độn nhanh.
Mở mang chẳng ngại cầu treo thiếu,
Tượng đá Di Đà vẫn nguyên hình.
|
Dịch
nghĩa:
Chơi động Lục
Vân
Cao vời núi
biếc bọc dòng nước xanh,
Cửa động
quanh co những cây, dây bám.
Vách đá tạo
hóa gây công khéo tạc đẽo,
Cảnh thanh u,
cho người ngư phủ hưởng nhàn nhã.
Xưa nay những
đấng anh hùng mấy kẻ,
Chớp mắt đã
thành hỗn độn làm sao.
Sự mở mang chẳng
hiềm nguy hiểm thiếu cầu treo,
Vẫn từng có một
tòa Di Đà ở đây.
|
Diễn Lục
Bát
Cao vời núi bọc dòng xanh,
Cửa hang dây cuốn leo quanh bên ngoài.
Hóa công đẽo tạc tuyệt vời,
Nhàn tênh ngư phủ thảnh thơi thanh bình.
Xưa nay bao đấng anh hùng,
Trải qua chớp mắt đã thành hỗn mang.
Thiếu cầu đâu ngại gian
nan,
Di Đà tượng đá vẫn an chốn
này.
|
14. 魏克循
魏克循,越南人。
氵灵 江晚眺
迢递川原合,
潮风大海通。
沙分村径绿,
波卷夕阳红。
百战威犹在,
千年俗已同。
清高凭眺处,
草木亦思巧。
|
Dịch thơ
Xa xôi nước hợp dòng,
Gió nổi sóng triều
thông.
Bãi sa, đường thôn biếc,
Sóng cuốn ánh chiều hồng.
Uy danh trăm trận đó,
Nghìn năm vẫn cổ phong.
Nơi thanh cao ngắm cảnh,
Cây cỏ thật khéo trông.
|
Dịch nghĩa:
Chiều ngắm sông Gianh
Xa xôi dòng nước hợp chảy,
Gió nổi sóng triều nước biển thông.
Bãi sa, đường thôn phủ xanh biếc,
Sóng cuốn ánh chiều mặt trời hồng.
Uy danh trăm trận còn như vẳng tại đây,
Phong tục nghìn năm vẫn như vậy.
Có chỗ dựa nghỉ thanh cao mà ngắm cảnh,
Thấy cỏ cây thật là khéo léo thay.
晚度横山关
南北关河旧此分,
几层树栅屯三军。
金戈一自行天讨,
石垒从教锁白云。
雨过青山晴似拭,
帆移碧海日初曛。
陈黎土宇今为隘,
万里秋风扫瘴氛。
|
Dịch thơ
Bắc
Nam ranh giới chỗ này phân,
Bao
phen dựng trại, đóng ba quân.
Từ lúc
kim qua trời thảo phạt,
Thành
đá để cho mây trắng vần.
Sau
mưa núi biếc vừa lau nước,
Biển
giăng buồm lướt ánh dương huân.
Trần
Lê cương vực thành quan ải,
Hung
tàn muôn dặm gió thu phân.
|
Dịch nghĩa:
Chiều qua ải Hoành Sơn
Non sông Nam Bắc xưa phân chia ranh giới chỗ
này,
Bao phen dựng trại, đóng đồn ba quân.
Từ lúc giáo vàng vung lên thay trời thảo phạt,
Lũy đá lại để cho khóa vòng mây trắng.
Núi xanh sau mưa tạnh ngắt như vừa lau nước,
Buồm giăng qua biển biếc mới lên ánh mặt trời.
Cương vực các đời Trần Lê nay thành quan ải,
Muôn dặm gió thu quét sạch chướng khí hung tàn.
[1] Từ Thế Xương徐世昌(1855-1939), đỗ Tiến sĩ năm Quang
Tự 12 (1886), tên tự là Phác Ngũ, hiệu Cúc Nhân, còn có hiệu là Đào Trai, Thiên
Tân nhân. Đời Thanh từng đảm nhiệm Quân cơ đại thần, Thể Nhân các Đại học sĩ. Đời
Dân quốc từng đảm nhiệm Quốc vụ khanh, kết giao với Viên Thế Khải. Năm 1918, được
sắp xếp làm Đại Tổng thống. Sau bị thế lực quân phiệt buộc từ chức, ông lui về
sống ẩn dật tại Thiên Tân, từ chối hợp tác với Nhật. Là người cổ học, tinh
thông thư họa. Cuối đời ông chuyên tâm sách vở, biên tập nhiều tác phẩm, có giá
trị tham khảo. Trong đó có bộ Vãn tinh di
thi hội 200 quyển, có sưu tập một số tác gia Việt Nam.
[2] Tục tu
Tứ khố toàn thư《续修四库全书》là công trình cấp quốc gia của Trung Quốc, sưu
tầm những văn hiến cổ tiếp theo sau bộ Tứ
khố toàn thư do nhà Thanh biên tập từ năm 1772. Do Thượng Hải cổ tịch xuất
bản xã xuất bản năm 2002.
[3] Hà
Tông Mục (1653–1707) tên tự là Hậu
Như, còn có các hiệu là Thuần Như, Chuyết Trai, Đôn Phủ; quê ở làng Tỉnh Thạch,
huyện Thiên Lộc (nay là xã Tùng
Lộc, huyện Can Lộc) tỉnh Hà Tĩnh.
Ông đỗ
tiến sĩ năm 1688, là một danh thần thời Lê trung
hưng, có công trạng đối với đất nước. Từng trải các chức quan trọng, đi sứ
Trung Quốc.
[4] Thi thoại, chưa rõ là sách gì nhưng cũng có thể tức chỉ giai thoại
thơ văn truyền tụng mà thôi.
[5] Đây có thể là 4 vị sứ thần nước Triều Tiên, đi sứ và gặp mặt Hà
Tông Mục trong dịp thết Sứ thần ở ngoài cửa Ngọ Môn.
[6] Nguyễn Công Hãng (1680–1732) tên tự là Thái
Thanh, hiệu Tĩnh Am, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc, nay là thôn Phù
Chẩn, xã Phù Chẩn, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân niên hiệu
Chính Hòa 21 (1700) đời Lê Hy Tông lúc mới 20 tuổi, nổi
tiếng hay chữ. Ông giữ các chức quan trọng, xếp vào hàng tá lý công thần, từng
làm chánh sứ sang nhà Thanh năm 1718. Nguyễn
Công Hãng có tập thơ để lại, gồm những bài thơ tả tình, vịnh cảnh, thù tiếp sứ
bộ Triều Tiên ...
[7] Viêm bang: xưa nước ta cũng còn gọi là Viêm bang, tức là xứ nóng,
vì ở phía Nam; Giao Nam: cũng gọi là Nam Giao, theo cách gọi trong Thượng Thư,
về sau chỉ đất Giao Chỉ, tức là nước An Nam.
[8] Nguyên văn Tiền tịch: ý nói về nước mà như thấy vẫ
hướng về cung điện thiên tử vậy. Điển trong Sử
ký/ Thương quân liệt truyện: Vệ Ưởng gặp Tần Hiếu công, Hiếu công nói chuyện
cùng, mà bất giác chân đã tiến lên đến quá chỗ chiếu. 史記/商君列伝: 衛鞅 復見 孝公,公与語,不自知厀之前於席也. Về sau dùng điển Tiền tịch để nói muốn tiến lên, mà không
nhận ra là chỗ đang đứng đã quá lên rồi, tỏ ý nói chuyện hay quá càng ngày càng
sát lại.
[9] Dị bản thơ Nguyễn Công Hãng chép là tam vạn. Lời dịch thơ chúng tôi chú thích thêm.
[10] Phạm Khiêm Ích (1679-1740), nguyên họ Nguyễn,
làm con nuôi họ Phạm đổi thành Phạm Khiêm Ích. Có tên hiệu là Kính Trai, người làng Kim Sơn, huyện
Gia Lâm (Hà Nội), đỗ Thám hoa đình
nguyên năm 1710 đời Lê Dụ Tông, trải nhiều chức vụ
quan trọng. Năm 1723, ông làm chánh sứ sang Trung Quốc mừng vua Ung Chính vừa lên ngôi. Khi
tới Bắc Kinh, ông cùng mọi người
trong đoàn dâng lên 3 bài thơ chúc mừng, được Ung Chính khen hay cho vào yết kiến
trong điện Càn Thanh.
[11] Tư văn: điển trong sách Luận
ngữ dùng Tư văn để chỉ đạo Nho,
chỉ trí thức.
[12] Phần-Tứ: hai con sông, nơi phát nguồn đều từ tỉnh Sơn Đông, thuộc địa
phận nước Lỗ đời Xuân Thu, quê hương của Khổng tử. Song thân của Phu tử đi cầu
tự núi Ni sơn về sinh ra Phu tử, nên cũng dùng câu Nhạc giáng thần. Về sau cũng dùng từ này để chỉ mạch đạo Nho giáo.
Khổng công chắc là dòng dõi của Khổng phu tử nên tác giả khen ngợi đạo học bằng
những điển từ liên quan đến Nho giáo.
[13] Nguyên văn Nhục hạ, nói sự
đội ơn, mông ân gia tặng.
[14] Nguyên văn Hải kiểu, chỉ
những vùng xa xôi ven biển, những chốn biên cương núi cao.
[15] Chỉ vùng thuộc lưu vực Trường giang, Hoài hà. Ý cả câu là nói đến
vùng thuộc Trung nguyên.
[16] Lấy chữ trong bài Nam sơn hữu đài/Tiểu nhã trong Kinh Thi. Nói chúc thọ vô cương.
[17] Phạm Quý Thích (1760-1825), tên tự là Dữ Đạo, hiệu là Lập Trai, còn có biệt hiệu Thảo Đường cư sĩ; người xã Hoa Đường,
huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Sau dời lên kinh
đô Thăng Long, ngụ ở phường Báo
Thiên, huyện Thọ Xương (nay thuộc thành
phố Hà Nội). Ông đỗ Tiến sĩ năm Kỷ Hợi (1779), lúc 19 tuổi, là
danh sĩ cuối Lê đầu Nguyễn. Khi quân Tây Sơn ra Bắc, ông lánh nạn
sang Kinh Bắc. Đời Gia Long (1802), ông được trao chức
Thị trung học sĩ, tước Thích An hầu. Sau xin từ quan về, chuyên việc dạy
học ở quê nhà, đào tạo được nhiều trí thức như Nguyễn Văn Lý, Nguyễn
Văn Siêu, Vũ Tông Phan ... Là bậc thầy danh vọng thời bấy giờ, ông còn để lại
thi phẩm còn lưu truyền.
[18] Hiện chúng tôi chưa tra cứu được về Hiểu Sơn Trung Thừa cũng như
tên sách Việt Nam tập lược. Tạm để lời dịch
như nguyên văn.
[19] Nguyên văn là Hòa thử chi cảm
禾黍之感ý nói chuyện nhìn cảnh cũ thấy hoang phế cỏ lúa đan chen nên cảm xúc
sự hưng phế vậy.
[20] Thương nhan: địa danh cổ của Trung Quốc, chưa rõ nghĩa. Nhưng cũng
có thể là từ liên quan đến điển Bá Di Thúc Tề bỏ nhà Chu
vào núi hái rau, tưởng vọng triều Thương cũ?.
[21] Thương nhan: địa danh cổ của Trung Quốc, chưa rõ nghĩa. Nhưng cũng
có thể là từ liên quan đến điển Bá Di Thúc Tề bỏ nhà Chu
vào núi hái rau, tưởng vọng triều Thương cũ?.
[22] Tam lư: tức Tam Lư đại phu, chức quan đặt thời Chiến quốc, lo việc
tế lễ, quản sự vương tộc, giáo dục tông thất. Khuất Nguyên từng bị bãi chức làm
Tam Lư đại phu. Vì ông lo lắng cho vận nước mất, nên về sau nhắc đến Tam Lư
cũng là nhắc đến Khuất Nguyên, nhắc đến lòng nhớ nước cũ vậy.
[23] Nguyễn Quang Bình: tên khác của Tây Sơn Nguyễn Huệ, lên ngôi niên
hiệu Quang Trung.
[25] Nguyên văn là Ngu đình tức
là sân nhà Ngu, đời vua Thuấn. Tỏ ý tụng thiên triều uy đức như nhà Ngu của vua
Thuấn vậy.
[26] Có ý sánh thiên triều như phụ mẫu, phận bề tôi như con cái trông vọng
phụ mẫu như trông mặt trời, trông mây cao vậy.
[27] Tung sơn, một núi lớn trong Ngũ nhạc, năm ngọn núi thiêng ở Trung
Quốc. Thường được dùng sánh với tuổi thọ.
[28] Nguyên văn Ngu giai, bệ Ngu. Cũng ý giống Ngu đình xem chú số 21. Theo sử liệu vua Đại Vũ lên ngôi, cho múa
can vũ ở thềm mấy tuần. Các di địch người Miêu vọng uy lập tức đến chầu (Thượng thư/Đại Vũ mô)
[29] Ngọc bạch: chỉ chung các đồ cống phẩm
[30] Yến Chu, chén Nghiêu, đều là những từ tôn xưng tán tụng.
[31] Nguyên văn Tượng phương, có
ý nói phương xa.
[32] Nguyên văn Lộc yến, từ chỉ
yến tiệc của vương thất, quân tử đến hội tụ. Dùng chữ của bài Lộc minh/Thi Kinh.
[33] Nguyễn Đề (1761-1805), tên húy là Nễ,
tên tự là Nhất Quế, hiệu Quế Hiên; sau đổi tên là Đề, tự Tiến Phủ, hiệu Tỉnh
Kiên, biệt hiệu Văn Thôn Cư Sĩ, nguyên quán tại làng Tiên Điền, huyện
Nghi Xuân, trấn Nghệ An, nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con thứ
sáu của Nguyễn
Nghiễm, và là anh cùng mẹ với Nguyễn Du. Vì cha làm Tể tướng,
ông được tập ấm. Khi quân Tây Sơn ra Bắc, ông lánh về
quê mẹ ở Bắc Ninh. Sau nhờ người
quen đề cử, ông được Tây Sơn mời ra giúp việc từ hàn, tiếp đến là Hàn lâm viện
thị thư, hai lần đi sứ Trung Quốc. Khi Tây Sơn mất, vua Gia Long cho ông ra làm việc
dưới quyền quan Tổng trấn. Ông để lại thi tập còn lưu truyền.
[34] Thiều quang: ánh nắng đẹp tươi, chỉ nắng xuân. Cửu thập là 90, tức
chỉ 3 tháng xuân có 90 ngày. Vừa mới được 2 tuần, là mới được 20 ngày.
[35] Dùng chữ trong Thượng thư/Y
huấn: Lập ái duy thân, tập kính duy trưởng. Tỏ cái ý diệu dụng của đạo Nho
trị thiên hạ ở quý Thân rồi lan ra khắp nơi.
[36] Sông Lô, núi Tản là hai địa danh của Việt Nam . Đây tác giả
ý nói nước ta đội ơn nhân nghĩa của thiên triều.
[37] Lan Khê: chưa rõ địa danh này ở đâu.
[38] Đông Lỗ tức là vùng Sơn Đông, Trung Quốc. Chắc tác giả đi sứ qua
vùng này.
[39] Phải chăng chính là Nguyễn Du, người em đồng mẫu với tác giả?
[40] Nguyễn Huy Oánh (1713 - 1789), tên tự là Kinh Hoa, hiệu là Lưu Trai; quê ở làng Trường Lưu, tổng
Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Trường Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Ông đỗ Đình
nguyên (Thám hoa) năm Mậu Thìn (1748), trải nhiều chức
vụ quan trọng, từng đi sứ Trung Quốc. Sau ông cáo lão về trí sĩ ở hẳn quê nhà mở
trường dạy học, lập Thư viện, đặt “học điền” để khuyến học. Học trò có nhiều đỗ
đạt. Con ông là Nguyễn
Huy Tự, cháu ông là Nguyễn
Huy Hổ cũng là những tác gia lớn. Ông là tác gia mở đầu dòng văn Nguyễn Huy
và là một trong các tác gia tiêu biểu của thế kỷ 18.
[41] Trác Châu: địa danh ở Trung Quốc, nằm về phía Nam Bắc Kinh, chắc
tác giả làm thơ trên đường đi sứ về, nghỉ lại ở Trác Châu.
[42] Trần Văn Trứ (1715- ?) người làng Từ
Ô, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải dương là người nổi tiếng thanh liêm và nhân hậu.
Đỗ hoàng giáp năm 1743, làm quan đến Thiêm đô ngự sử, kiêm Quốc tử giám trực giảng, sau cáo quan về dạy học. Tác phẩm có Hoa thiều hậu mệnh và Vịnh sử tập. Thấy chính sự trong triều quá đỗi mục nát, ông
cáo lão về trí sĩ.
[43] Sứ Thiên triều sang sách phong cho vua
Chư hầu.
[44] Thiên Hán: cũng như Ngân Hán, ý nói từ xa
xôi tận trời cao vậy.
[45] Nguyên văn Phát nhận: nhận là cái chốt hãm xe, nên Phát nhận nói sự mở chốt xe,
khởi hành.
[46] Thơ hoa ba trăm bài: dịch sát nghĩa chữ,
cũng là chỉ Kinh Thi 300 bài vậy
[47] Nguyên Bạch: Nguyên, tức Nguyên Chẩn; Bạch,
tức Bạch Cư Dị, là hai thi gia nổi tiếng thời Thịnh Đường, hình thành hẳn 1 thi
phái gọi là Nguyên Bạch phái.
[48] 阿瞒槎 A Man tra:
A Man nguyên là tên tiểu tự của Tào Tháo; Tra: cột buồm. Nhưng có lẽ xưa cũng
hay dùng từ A Man, để chỉ khách người Trung Quốc chăng?. Giống từ Hoa Man trong bài Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến có câu: Rõ chú hoa man khéo vẽ
trò, Bỡn ông mà lại dứ thằng cu. Hiện chúng tôi chưa rõ, nên tạm dịch là khách A
Man.
[49] Dụng câu của Trang Tử trong Dưỡng Sinh: 吾生也有涯,而知也无涯。以有涯随无涯,殆已/ Đời ta là hữu hạn, mà trí tuệ thì vô hạn, lấy
cái hữu hạn để cầu cái vô hạn, mỏi mệt lắm. Là một quan điểm vê dưỡng sinh.
[50] Hành Sơn: một trong Ngũ nhạc của Trung Quốc,
ở phía Nam nên còn gọi là Nam Nhạc Hành Sơn, nơi có khí hậu, tự nhiên cảnh sắc
đẹp nhất trong Ngũ Nhạc.
[51] Ngô
Thì Sĩ (1726-1780), tên tự là Thế Lộc, hiệu là Ngọ Phong, còn có đạo hiệu là Nhị Thanh cư sĩ;
quê tại làng Tả Thanh Oai (làng Tó), huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (sau thuộc tỉnh Hà
Đông, và nay thuộc huyện Thanh Trì
Hà Nội).
Thuộc dòng họ nổi tiếng văn học, từng làm văn ban trong phủ chúa
Trịnh, Tùy giảng cho Thế tử Trịnh
Sâm. Ông thi đỗ Hoàng giáp năm Bính
Tuất (1766), đời
Cảnh Hưng. Năm 1777,
ông làm Đốc trấn Lạng Sơn, thi hành nhiều chính sách hay, ông mất tại nhiệm
lúc 54 tuổi. Các con ông đều là danh sĩ đương thời như: Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Chí, Ngô Thì Trí, Ngô Thì Hương và là cha vợ của Phan
Huy Ích.
[52] Ngụy Khắc Tuần (1799-1854), hiệu là Thiện Phủ,
người xã Xuân Viên huyện Nghi Xuân phủ Đức Thọ trấn Nghệ An (nay thuộc xã Xuân
Viên huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh). Năm Bính Tuất 1826, ông đỗ tiến sĩ lúc 27 tuổi, trải giữ các chức quan, như Hàn lâm viện,
Lang trung Bộ Hộ, Tham hiệp trấn Ninh Bình và Thanh Hóa, Bố chánh Bắc Ninh, Sơn
Tây, Hưng Hóa và Nam Định, Hữu Thị lang Bộ Công, Tuần phủ Bắc Ninh, Tổng đốc
Sơn- Hưng-Tuyên, sau thăng Thượng thư Bộ Hộ và được cử đi sứ sang Pháp. Sau khi
mất, ông được tặng chức Hiệp biện Đại học sĩ, được thờ vào đền Hiền Lương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét