Thứ Năm, 16 tháng 3, 2017

Giới thiệu:– Tập Đường Thuật Hoài A.2354 của Thám hoa Vũ Phạm Hàm

Giới thiệu: Tập Đường Thuật Hoài của Thám hoa Vũ Phạm Hàm
探花武范諴
集 唐 述 懷
Tập Đường Thuật Hoài
Dịch: Nguyễn Đức Toàn
Viện nghiên cứu Hán Nôm /2003
(NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN, PHIÊN ÂM, DỊCH NGHĨA, CHÚ THÍCH)
Trong phần giới thiệu, chúng tôi xin trình bày :
1. Nguyên văn chữ Hán đã qua đối chiếu.
2. Phần phiên âm.
3. Dịch nghĩa.(dịch thơ để tham khảo)
4. Phần chú thích :
+ Chú thích, được đặt ngay sau phần dịch của mỗi bài.
+ Một số câu có phụ thêm lời diễn nghĩa của Đường thi cổ suý tiên chú (viết tắt là: ĐTCS).
+ Một vài chỗ chú thích chúng tôi thấy cần thiết nên để thêm chữ Hán
+ Chỗ nào là chú thích nguyên từ âm Hán Việt thì để chữ nghiêng. Vd: sảnh trung, Ngũ hồ, Bồng lai,...là chú từ âm Hán Việt.
 5. Phần xuất xứ của câu thơ chúng tôi xin đưa vào phụ lục.
Phần này đối chiếu theo tên tác giả chép trong Tập Đường thuật hoài với Đường thi cổ suý. Theo thứ tự: Chữ số là để chỉ thứ tự câu trong Tập Đường thuật hoài
三 十 首
其一
一官常懼處非才
坐對寒松手自裁
只見絲綸終日降
不知冠蓋幾人迴
行人自笑不歸去
往事空成半醉來
日暮鄉關何處是
長亭一望一徘徊
Phiên âm:            Kỳ nhất
Nhất quan thường cụ xử phi tài,
Tọa đối hàn tùng thủ tự tài.
Chỉ kiến ti luân chung nhật giáng,
Bất tri quan cái kỉ nhân hồi.
Hành nhân tự tiếu bất quy khứ,
Vãng sự không thành bán túy lai.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Trường đình nhất vọng nhất bồi hồi.
Dịch nghĩa:                            
Bài 1
Làm quan thường sợ tài năng không xứng với chức vị(1),
Ngồi buồn trước cây tùng do tay mình tự trồng.
Chỉ thấy chiếu thư cầu hiền tài(2) suốt buổi ban ra mà không được đắc dụng,
Những kẻ thành đạt mũ cao áo rộng, quay đầu lui về ẩn dật biết được có mấy người(3).
Ta cũng là người đang đi trên con đường hoạn lộ ấy, tự cười mình còn           chưa lui về được,
Chuyện cũ thôi đã không làm được gì, chỉ nên dở say mà đi.
Chiều hôm nhớ quê hương ấy ở xứ nào,
Chốn trường đình xa ngắm non sông, trong dạ lại bồi hồi không nỡ.(4)
Dịch thơ:
1/
Làm quan sợ chẳng xứng tài,
Khóm tùng ngồi rỗi tự tay vun trồng.
Cầu hiền chiếu ấy như không ,
Áo cao mũ rộng mấy ông quay đầu.
Cùng đường lòng những buồn đau,
Không thành, việc cũ ôm sầu mà đi.
Chiều hôm quê cũ nhớ gì,
Đình xa ngóng vọng nghĩ về quê hương.
2/
Làm quan chỉ sợ chẳng xứng tài,
Trước mặt tùng cô tự vun bồi.
Chiếu thư cầu sĩ cả ngày giáng,
Biết đâu mũ áo được mấy người.
Đường đời cười trách không quay lại,
Chuyện cũ qua rồi nửa cuộc say.
Chiều hôm quê cũ đâu hay nhỉ,
Đình xa càng ngắm lại bồi hồi.
Chú thích:
(1) Tài năng không xứng: Xử phi tài處非才: ý nói ở vào ngôi vị cao mà không tài cán gì, không xứng với chức vị. Theo Tấn thư, khi Đông Hải Vương Tư Mã Việt mất, toàn quân suy tôn Vương Diễn làm nguyên soái, Vương Diễn không dám nhận nói: “Ta lúc trẻ không có chí làm quan chỉ nhờ vào văn điệp tuyển quan mà đến được như thế này, việc hôm nay sao dám không tài cán gì mà ngồi vào chỗ ấy”
(2) Chiếu thư: Ti luân絲綸:Kinh Lễ. Truy y có câu: “王言如絲其出如綸“Lời vua mới nói ra như sợi tơ, khi nói ra đến lúc thi hành ở bên ngoài thì như sợi luân”. Về sau dùng chữ “Ty luân” để chỉ chiếu thư của các bậc đế vương. Đời Đường có Ty Luân các, là nơi soạn các chiếu chỉ văn thư của hoàng đế.
Đường thi cổ suý (ĐTCS): Hôm nay chiếu thư nói về việc cầu hiền... thấy chiếu thư tuy giáng mà không được thi hành, vậy nên công nghiệp cũng khó thành được.
(3) Mũ cao áo rộng: Quan cái冠蓋: chỉ quan lại, công khanh. Nguyên câu này ở trong bài “Đề Tứ Hạo miếu“. ĐTCS: “Kinh đô đời Đường thuộc Thiểm Tây, nơi có núi Thương Sơn là nơi ẩn dật của bốn ông lão, người đời xưng là Tứ Hạo. Ý thơ chỉ nơi gần kinh đô, sĩ phu khanh tướng qua lại đông đúc ngang qua núi Thương Sơn, những người ấy biết từ bỏ danh lợi để quay về ẩn dật như Tứ Hạo được mấy người”.
(4) Ngắm non sông:  Trường đình nhất vọng nhất bồi hồi: ĐTCS: “Đứng nơi trường đình ly biệt ngắm vọng bồi hồi không nỡ đi, là do suy tư đến quan hà muôn dặm phải trải qua bao trận chiến mới có được như bây giờ”.
其二
好為裁書謝白鷗
竹林啼鳥不知休
觀風共美新為政
好月那堪獨上樓
碧落有情空悵望
酒杯無日不淹留
名場聲利喧喧在
阜俗文章惜暗投
Phiên âm:            Kỳ nhị
Hiếu vị tài thư tạ bạch âu,
Trúc lâm đề điểu bất tri hưu.
Quan phong cộng mĩ tân vi chính,
Hảo nguyệt na kham độc thượng lâu.
Bích lạc hữu tình không trướng vọng,
Tửu bôi vô nhật bất yêm lưu.
Danh trường thanh lợi huyên huyên tại,
Phụ tục văn chương tích ám đầu.
Dịch nghĩa:                            
Bài hai
Những mong soạn sách để đáp tạ cánh âu trắng không biết đến             ưu phiền(1)­,
Trong rừng trúc, lắng nghe tiếng chim hót chừng không biết mỏi.
Xem xét phong tục (2)của nhân dân, cùng vui mừng nền chính hóa mới vừa tốt đẹp,
Trăng sáng đẹp thế kia, đâu nỡ một mình lên lầu thưởng ngoạn.
Trời xanh hữu tình như một dòng biếc từ trên cao thả xuống, buồn ngắm mãi,
 Chén rượu này, không ngày nào không tràn trề.
Đường danh lợi tiếng vang vang huyên náo,
Văn chương có thể dùng để điểm tô phong hóa thuần hậu(3),tiếc sao lại  cũng ngầm ném đi.
Dịch thơ:
1/
Những mong đáp tạ cánh âu,
Rừng tre chim ríu biết đâu mỏi ngừng.
Ngắm xem phong tục thêm mừng,
Trăng thanh cảnh đẹp một mình đâu vui.
Trời xanh dòng biếc ngắm trôi,
Rượu ngon đầy chén để vơi nỗi sầu.
Lợi danh rộn rã đâu đâu,
Văn chương thuần hậu buồn rầu ném
đi.
2/
Văn chương mong những đáp bạch âu,
Chim hót vườn xưa thấy nghỉ đâu.
Phong hóa thuần lương mừng chính mới,
Trăng thanh đâu nỡ  tự lên lầu.
Dòng biếc hữu tình trôi ngắm mãi,
Chén sầu đâu buổi chẳng vơi bầu.
Trường danh tiếng lợi vang vang đấy,
Văn chương danh giáo tiếc đâm đầu.
Chú thích:
(1) Chim âu trắng: Bạch âu白鷗: loài chim biểu tượng cho tự do, thanh, nhàn vô sự, không vướng bận trần tục. Thơ Đỗ Phủ có câu:白鷗波浩蕩,萬里誰能馴.Chim âu trắng đùa giỡn trên sóng nước, Muôn dặm ai có thể thuần phục được”.
(2) Xem xét phong tục: Quan phong觀風: chỉ việc xem xét dân tình. Thời cổ có chức quan chuyên đi thu tìm các câu phong dao trong nước dâng lên để xem xét phong tục, dân tình.
(3) Văn chương tô điểm : Phụ tục văn chương阜俗文章: Bài sách vấn của Đỗ Phủ có câu: 夫榖者所以阜俗康時聚人守位者也.“Gạo để giúp phong tục, cứu đời, tụ họp dân chúng, có thể giữ được ngôi vị vậy”. “Phụ tục văn chương” ý nói văn chương có thể giúp điểm tô thuần hậu phong hoá. (ĐTCS)
其三
極浦遙山合翠微
省中啼鳥吏人稀
共知人事何嘗定
爭敢[1]當年便息機
溪渡夜隨明月入
鄉關晴望白雲歸
自探典籍忘名利
不用登臨嘆落暉
Phiên âm:            Kỳ tam
Cực phố diêu sơn hợp thúy vi,
Sảnh trung đề điểu lại nhân hi.
Cộng tri nhân sự hà thường định,
Tranh cảm đương niên tiện tức ki.
Khê độ dạ tùy minh nguyệt nhập,
Hương quan tình vọng bạch vân quy.
Tự thám điển tịch vong danh lợi,
Bất dụng đăng lâm thán lạc huy.
Dịch nghĩa:                            
Bài ba
Bến rộng núi xa cùng một màu xanh biếc,
Trên sảnh đường(1) tiếng chim nghe u tĩnh,tiểu lại vắng .
Cùng biết rằng việc đời không định trước,
Đâu được như mọi năm thoải mái an nhàn.
Đêm khuya trăng sáng rọi, bước theo đường suối mà đi,
Trời hôm trong trẻo, ngắm mây trắng bay mà lòng nhớ quê hương.(2)
Tự xem tìm trong sách vở để quên đi danh lợi,
Chẳng cần phải lên núi cao ngao ngán ngắm cảnh chiều tà buông.
Dịch thơ:
1/
Bến xa núi biếc một màu,
Sảnh đường chim hót thấy đâu bóng người.
Chẳng yên than thở việc đời,
Được đâu như trước thảnh thơi an nhàn.
Đêm khuya trăng sáng qua nguồn,
Trời quang mây trắng ngóng buồn quê hương.
Đọc sách danh lợi không vương,
Cần đâu lên núi ngắm buông cảnh chiều.

2/
Bến rộng non xa cảnhbiếc rì,
Sảnh đường chim hót vắng người đi.
Cũng biết việc đời là vô định,
Tranh thủ bây giờ cứ nhàn  đi.
Suối trong đêm vắng theo trăng sáng,
Tình quê ngày đẹp hướng mây về.
Vui xem sách vở quên danh lợi,
Chẳng cần lên cao ngắm  nắng suy.
Chú thích:
(1) Sảnh trung省中: Có 3 ý giải thích của “Sảnh trung”:- Chỉ cung cấm, đời Hán do kiêng huý cha của hoàng hậu vợ Hán Nguyên đế là Vương Cấm王禁 nên “Cấm trung” gọi là “Sảnh trung”.- Theo Văn tuyển: chế độ đời Hán chỗ của vua ở gọi là “Cấm trung禁中”, của các quan lại công khanh gọi là “Sảnh trung省中” . - Theo chế độ đời Hán, nơi hội tụ quần thần để nghe chính lệnh gọi là “sảnh” “
(2) Mây trắng bay về: Bạch vân quy白雲歸: chỉ nỗi nhớ vọng về quê hương. Đời Đường có Địch Lương công làm quan xa, lúc lên núi Thái Sơn nhìn thấy mây trắng bèn chỉ về phía ấy nóivới người xung quanh: “Dưới đám mây trắng kia là nhà của cha mẹ ta đó”. Về sau lấy điển tích này để tỏ lòng của người đi xa mong nhớ người thân, nhớ quê hương.
其四
五湖風月合教貧
依舊紅霞作近鄰
長有歸心懸馬首
未知何路到龍津
壺中日月將焉用
夢裏嬴輸總未真
推卻簿書搔短髮
猶將談笑對風塵
Phiên âm:            Kỳ tứ
Ngũ hồ phong nguyệt hợp giao bần,
Y cựu hồng hà tác cận lân.
Trường hữu quy tâm huyền mã thủ,
Vị tri hà lộ đáo long tân.
Hồ trung nhật nguyệt tương yên dụng,
Mộng lí doanh thâu tổng vị chân.
Thôi khước bạ thư tao đoản phát,
Do tương đàm tiếu đối phong trần.
Dịch nghĩa:                  
Bài bốn
Trăng gió ngũ hồ(1) kết giao cũng hợp cảnh nghèo nàn,
Mây hồng vốn vẫn kết làm hàng xóm gần gũi từ trước.
Đã sẵn lòng quy ẩn từ lâu theo nơi đầu ngựa(2),
Đâu biết đường nào lại dẫn ta đến bến Long tân(3).
Cảnh nhật nguyệt trong bầu tiên(4) dùng vào đâu được,
Việc hơn thua như trong cõi mộng đâu phải là thật.
Giở sách ra xem lại gãi đầu cho thêm rụng tóc,
Còn đem chuyện phong trần ra bàn luận.
Dịch thơ:
1/
Ngũ hồ trăng gió cảnh nghèo,
Mây hồng từ trước vẫn theo bạn cùng.
Trước ngựa quy ẩn sẵn lòng,
Long tân bến ấy chẳng mong lại về.
Trong bầu nhật nguỵêt làm chi,
Hơn thua như mộng việc gì phải tin.
Xem sách tóc lại rụng thêm,
Phong trần thế cuộc còn đem luận bàn.
2/
Trăng gió ngũ hồ hợp cảnh bần,
Từ xưa ráng đỏ ấy bạn thân.
Luôn có lòng về buông đầu ngựa,
Đâu hay đường lại đến long tân.
Nhật nguyệt trong bầu dùng sao nữa,
Được thua như mộng chẳng là chân.
Đọc sách gãi đầu thêm tóc rụng,
Vẫn còn cười nói với phong trần.
Chú thích:
(1) Ngũ Hồ五湖: 1. Năm hồ ở địa phận nước Sở xưa là Bá Dương, Động Đình, Sào Thái và Chung hoặc Bành Lãi, Động Đình, Sào Thái và Giám. Thời Chiến Quốc, sau khi giúp Câu Tiễn diệt Ngô, Phạm Lãi lui về dong chơi sông nước ở vùng này; 2. Cũng là tên để gọi Thái hồ, vì nó có 5 ngả hợp lưu giống như 5 hồ. Các hồ ở khoảng 2 tỉnh Triết Giang và Giang Tô.
(2) Đầu ngựa: Mã thủ馬首: Ngày xưa, trong lúc chiến đấu, thường binh lính xem đầu ngựa của chủ tướng hướng về phía nào, để tiến thoái cho thống nhất. Tả truyện Tương công thập tứ niên có câu: “惟余馬首是瞻.Duy dư mã thủ thị chiêm- Duy chỉ theo đầu ngựa.” Lời chú rằng: “言進退從己. Ngôn tiến thoái tòng kỷ - Ý nói tiến lui theo ý mình.
(3) Long tân龍津: ý cũng như Long môn là nơi các loài cá, rùa tụ họp đua nhau bơi ngược dòng thác, nếu vượt qua được thì hoá rồng. Cũng như “Vũ môn” là ám chỉ việc công danh, khoa hoạn.
(4) Cảnh ... trong bầu: Hồ trung nhật nguyệt壺中日月: Chỉ cảnh tiên. Theo Hậu Hán thư: Phí Trưởng Phòng được một ông già tiên dẫn vào trong một quả bầu, ở trong ấy cũng có mặt trời, mặt trăng, cũng có cảnh trời đất, cây cỏ như ở ngoài, Trưởng Phòng bèn theo ông già đó học đạo tu tiên.
其五
官職無才思已闌
暫煩賓從駐征鞍
朝驅旌旆行時令
夜到樽罍伴客歡
官舍已空秋草綠
花枝欲動春風寒
何當歸去重攜手
卻伴漁郎把釣竿
Phiên âm:            Kỳ ngũ
Quan chức vô tài tứ dĩ lan,
Tạm phiền tân tòng trú chinh an.
Chiêu khu tinh bái hành thời lệnh,
Dạ đáo tôn lôi bạn khách hoan.
Quan xá dĩ không thu thảo lục,
Hoa chi dục động xuân phong hàn.
Hà đương quy khứ trùng huề thủ,
Khước bạn ngư lang bả điếu can.
Dịch nghĩa:                  
Bài năm
Quan chức không tài cán(1) gì, nghĩ mà thấy mệt mỏi đường sĩ hoạn,
Tạm gác u phiền chủ khách dừng trên yên ngựa để chia tay.
Sớm ra đi giữa đám cờ bay, mong để thi hành thời lệnh(2),
Tối đến cùng bạn hữu lại vui vẻ say sưa.
Quan xá đã hoang tàn vắng vẻ, lại thêm cỏ mọc xanh um,
Nhánh hoa lay động trong gió xuân mà lạnh lẽo.
Sao không lại nắm tay nhau cùng lui ẩn,
Làm bạn với làng chài vui vẻ với sông nước.
Dịch thơ:
1/
Quan chức vô tài nghĩ chẳng đừng,
Tạm phiền trên ngựa ta dừng chia tay.
Sớm đi giữa đám cờ bay,
Thi hành chính lệnh giúp đầy muôn dân.
Tối đến họp bạn xa gần,
Chén vàng rượu rót mấy lần cùng vui.
Nhà hoang thêm bị cỏ vùi,
Nhánh hoa lay động gió vui rỡn cành.
Sao chẳng quy ẩn cho nhanh,
Cùng chàng ngư phủ sóng xanh vui vầy.
2/
Quan chức không tài nghĩ đã nhàm,
Tạm phiền khách cứ liệu trên yên.
Sáng đi cờ quạt rao chính lệnh,
Tối về đầy chén với bạn hiền.
Nhà quan đã vắng thêm cỏ biếc,
Cành hoa như động dưới gió hàn.
Sao bằng nắm tay cùng lui ẩn,
Làm bạn dân trài vui thả cần.

Chú thích:(1) Vô tài: Xem chú bài 1
(2) Thi hành thời lệnh: Thời lệnh時令: Là những chính lệnh thuận theo từng mùa. Dựa theo quý tiết chế định ra chính lệnh gọi là “thời lệnh”, cổ nhân chép  chính lệnh trong 12 tháng,  gọi là “nguyệt lệnh”tức là chỉ “thời lệnh”.
Kinh Lễ. Nguyệt lệnh. Quý đông chi nguyệt: Thiên tử cùng công khanh sĩ phu điểm tô điển chế quốc gia, luận bàn thời lệnh, để thích nghi cho năm tới (天子與公卿大夫共飾國典論時令以待來歲之宜). Hậu Hán thư. Minh đế kỉ. Vĩnh Bình nhị niên: 班時令敕群后Ban thời lệnh sắc quần hậu”. Lời chú: “時令謂月令也,四時各有令, Thời lệnh gọi là nguyệt lệnh vậy, bốn mùa đều có lệnh.”



其六
探得黃花且獨斟
數村殘照半山陰
風煙併起思鄉望
霄漢常懸捧日心
遠信初憑雙鯉去
長竿一繫白龍吟
馳煙未勒山亭字
欲問徵君何處尋
Phiên âm:            Kỳ lục
Thám đắc hoàng hoa thả độc châm,
Sổ thôn tàn chiếu bán sơn âm.
Phong yên tịnh khởi tư hương vọng,
Tiêu Hán thường huyền bổng nhật tâm.
Viễn tín sơ bằng song lí khứ,
Trường can nhất hệ Bạch long ngâm.
Trì yên vị lặc sơn đình tự,
Dục vấn trưng quân hà xứ tầm.
Dịch nghĩa:                  
Bài sáu
Gặp tiết đẹp, được hoa vàng một mình thưởng thức,
Mấy thôn xóm trong ánh chiều tàn, đã bị núi che mất một nửa.
Ngắm khói sóng trên sông lại gợi lòng trông về quê hương(1),
Lòng mong giúp chúa thường đeo đẳng trong lòng(2).
Tin tức quê xa chỉ nhờ đôi cá chép mang hộ(3),
(Không thỏa chí) nên một niềm ca khúc Bạch long(4).
(Nơi ẩn cũ) sương vụ chưa kịp khắc chữ chốn sơn đình(5),
Muốn hỏi người được vua triệu ra(6), mà đắc dụng tìm ở chốn nào đây.
Bài 6
Được cánh hoa vàng một mình châm,
Mấy thôn nắng nhạt nửa non râm.
Khói sương tự gợi lòng quê cũ,
Dòng ngân giúp chúa một khối tâm.
Tin xa xin gửi đôi chép nhảy,
Cần dài một sợi Bạch long ngâm.
Sương mờ chưa tỏ Sơn đình tự,
Chốn nao tìm được bậc hiền nhân.
Chú thích:
(1) Tư hương: Lấy ý của câu : “日暮鄉關何處是,煙波江上使人愁”  trong thơ Thôi Hiệu.
(2) Lòng giúp chúa: Bổng nhật tâm捧日心: Tỉ dụ lòng trung thành phụ giúp vua. Tam quốc chí. Ngụy chí. Trình Dục truyện: Trình Dục lúc bé thường mơ thấy lên núi Thái sơn, hai tay ôm lấy mặt trời. Về sau quả nhiên được làm tướng. Người đời Đường thường dùng điển này trong các bài ứng chế, chỉ lòng trung quân mong được phò giúp chúa.
(3) Đôi chép: Song lý雙鯉: Văn tuyển, Cổ nhạc phủ có câu: “Khách ở phương xa đến. Tặng ta đôi cá chép, Gọi trẻ làm cá, Bên trong thấy có mẩu thư”. Người đời sau dùng chữ “song lý” để chỉ về thư từ, tin tức.
(4) Khúc Bạch long:白龍– Bạch long ngư phục. Thuyết uyển. Chính gián: “Rồng trắng xuống chơi vực Thanh Lãnh, hoá làm cá, bị người đánh cá làm bị thương”. Về sau dùng ý này chỉ việc người có tài phải chịu khuất.
ĐTCS: “謂余不能得志長歌白龍之吟Nói rằng mình không được thoả chí nên trường ca mãi khúc Bạch long”.
(5) Chưa ... chốn sơn đình: Vị lặc sơn đình tự未勒山亭字: Lấy câu trong Bài “Bắc Sơn di văn” của Khổng Đức Chương phúng thích Chu Ngung, Ngung trước ẩn cư ở Bắc Sơn, sau lại ứng chiếu ra làm quan, chức Hải Diêm lệnh. Khổng Đức Chương thác lời của sơn thần làm bái văn để khước từ Chu Ngung, có câu: “鍾山之英, 草堂之靈, 馳煙驛霧, 勒移山亭Tinh hoa của Trung Sơn, thần  linh  nơi Thảo đường, trong  sương khói mờ khắc di văn lưu tại sơn đình.”
ĐTCS : Tuy chưa kịp khắc bài di văn của núi Bắc sơn nhưng thần núi có đồng ý cho ta quay lại chốn này chăng.
(6) Tức Trưng quân徵君: người được vua ban triệu mời ra làm quan mà không ra, gọi là Trưng quân. Cũng như Trưng Sĩ徵士là kẻ sĩ không chịu để triều đình trưng triệu.



其七
村舍新添燕亦多
春風還為起微波
塵纓未濯今如此
世路無機奈爾何
自古聖賢皆寂寞
知君名宦未蹉跎
時人莫笑非經濟
應笑無成返薜蘿
Phiên âm:            Kỳ thất
Thôn xá tân thiêm yến diệc đa,
Xuân phong hoàn vị khởi vi ba.
Trần anh vị trạc kim như thử,
Thế lộ vô ki nại nhĩ hà.
Tự cổ thánh hiền giai tịch mịch,
Tri quân danh hoạn vị sa đà.
Thời nhân mạc tiếu phi kinh tế,
Ưng tiếu vô thành phản bệ la.
Dịch nghĩa:                  
Bài bảy
Thôn xá mới dựng thêm chim sẻ lại tụ về thêm nhiều,
Gió xuân thổi làm sóng gợnlăn tăn.
Sợi trần(1) lụy công danh trói buộc nay vẫn còn như thế,
Đường đời mênh mang, cơ may không gặp, chẳng biết làm sao.
Từ xưa các bậc thánh triết hiền nhân đều lẳng lặng như thế,
Còn biết ông, đường danh hoạn chưa quá sa đà.
Người đời chớ có cười không có tài kinh bang tế thế,
Mà nên cười việc làm không thành lại quay về mặc áo cỏ tơi.
Dịch thơ:
Thôn xóm thêm lên én lại nhiều,
Gió xuân lay động sóng xiêu xiêu.
Sợi trần chưa dứt còn như thế,
Đường đời mênh mang biết làm sao.
Tự cổ thánh hiền đều lẳng lặng,
Hay rằng quan lộ chửa bao nhiêu.
Đương thời chớ cười không kinh tế,
Cười kẻ không nên khoác áo tiều.
Chú thích:
(1) Sợi trần: Trần anh, chỉ sự gò bó của trần tục. Trong sách Mạnh tử có điển tích “trạc anh”là rửa dải mũ. Tỉ dụ việc từ bỏ danh lợi về ẩn dật, siêu thoát trần tục, thao thủ cao khiết.
ĐTCS: 被功名之累未能歸隱以濯塵纓. Bị công danh trói buộc chưa thể quy ẩn để mà giặt dải mũ.
(2) áo tơi : Tức Bệ la薜蘿 Viết tắt  của bệ lệ薜荔nữ  la女蘿đều là  tên loài  thực vật. Sở Từ, Cửu Ca, bài Sơn Quỷ có câu: “若有人兮山之阿,被薜荔兮帶女蘿”. Như  có người a !trên góc núi, khoác  bệ  lệ a! đeo  nữ la  (Đào Duy Anh dịch). Về  sau dùng chữ bệ lệ để chỉ trang phục của kẻ ẩn sĩ, mặc áo cỏ tơi.
其八
人去人來自不同
六街塵起鼓鼕鼕
榮枯盡寄浮雲外
暑雨初晴皓月中
岐路未關今日事
旌旗猶鎮昔時宮
春心莫共花爭發
已許滄浪作釣翁
Phiên âm:            Kỳ bát
Nhân khứ nhân lai tự bất đồng,
Lục nhai trần khởi cổ đông đông.
Vinh khô tận kí phù vân ngoại,
Thự vũ sơ tình hạo nguyệt trung.
Kì lộ vị quan kim nhật sự,
Tinh kì do trấn tích thời cung.
Xuân tâm mạc cộng hoa tranh phát,
Dĩ hứa thương lang tác điếu ông.
Dịch nghĩa:                  
Bài tám
Người đi qua người đi lại vốn không ai giống ai,
Đường Lục Nhai(1) bụi mịt mù, tiếng trống canh tùng tùng.
Việc đời vinh hiển cùng suy lạc đều gửi theo đám mây trôi,
Sau mưa vừa tạnh lại thấy hiện vầng trăng sáng.
Đường đời bôn tẩu chưa khép lại, việc ngày nay còn chưa hết,
Bóng cờ xí còn như bay phấp phới trấn cung xưa(2).
Lòng xuân đâu chả cùng hoa đua sắc,
Đã hứa với sóng xanh sẽ làm ông chài vui cùng sông nước.
Dịch thơ:
1/
Người đi kẻ lại chẳng đồng,
Lục Nhai bụi nổi trống dong tùng tùng.
Mây trôi vimh nhục gửi cùng,
Sau mưa trời tạnh trăng trong rạng đầy.
Đường đời bôn tẩu đến nay,
Cung xưa như vẫn còn  bay bóng cờ.
Ý  xuân, hoa sắc cùng đua,
Ông trài đã hứa vui đùa nước sông.
2/
Người đi người lại vốn không đồng,
Lục Nhai bụi nổi trống tùng tùng.
Vinh suy đều gửi mây trời hết,
Mưa nắng tạnh rồi ánh trăng trong.
Hôm nay đường đời chưa khép hẳn,
Cờ xí còn bay trấn cửa cung.
Lòng xuân như với hoa phô sắc,
Dòng xanh đã hẹn một ngư ông.
Chú thích:
(1) Lục nhai六街: chỉ sáu con đường lớn hai bên phải trái trong thành Trường An đời Đường. Biện Kinh đời Bắc Tống, cũng có Lục Nhai. Về sau dùng chữ “Lục Nhai” để chỉ cảnh đô thành náo nhiệt, phồn hoa.
(2) Trấn cung xưa: Câu này lấy ở bài Đăng Uý Đà lâu, là cảm tác lúc lên thăm di tích Triệu Đà cũ của Hứa Hồn. ở đây dùng ý hoài cổ.
其九
酒開金甕綠醅濃
硯匣留塵盡日封
想到家山無俗侶
悔將名利役疏慵
五湖煙水即[2]山月
蓬島煙霞閬苑鍾
自是君身有仙骨
放教歸去臥群峰
Phiên âm:            Kỳ cửu
Tửu khai kim úng lục phôi nồng,
Nghiễn hạp lưu trần tận nhật phong.
Tưởng đáo gia sơn vô tục lữ,
Hối tương danh lợi dịch sơ dung.
Ngũ hồyên thủy Lang sơn nguyệt,
Bồng đảo yên hà Lãng uyển chung.
Tự thị quân thân hữu tiên cốt,
Phóng giao quy khứ ngọa quần phong.
Dịch nghĩa:                  
Bài chín
Rượu ngon rót chén vàng, men thơm nồng,
Nghiên tráp không dùng đến suốt ngày đậy, bụi bám đầy.
Nghĩ đến quê nhà không có một người bạn phàm tục nào,
Lại hối tiếc vì danh lợi mà lụy vào những việc không đâu.
Nay sóng nước Ngũ hồ(1)  hòa cùng trăng núi Lang sơn(2),
Chuông kêu như ở vườn Lãng uyển, sương khói như cõi Bồng Lai(3).
Tự thấy thân mình sẵn có phần tiên cốt(4),
Khiến về quy ẩn ở giữa miền núi non(5).
Dịch thơ:
1.Chén vàng rượu rót men nồng,
Nghiên tráp bụi bám để không cả ngày.
Quê nhà bạn tục có ai,
Tiếc vì danh lợi việc bày không không.
Trăng hồ mây núi hoà cùng,
Chuông kêu Lãng Uyển non Bồng cảnh tiên.
Biết thân tiên cốt sẵn liền,
Cho về quy ẩn giữa miền non cao.
2.Rượu ngon chén quý đậm men nồng,
Nghiên tráp bụi trần cả ngày phong.
Nghĩ đến quê nhà không bạn tục,
Tiếc ham danh lợi việc lung tung.
Sóng nước ngũ hồ trăng đầu núi,
Đảo Bồng sương khói Lãng uyển chung.
Tự biết thân này sẵn tiên cốt,
Cho về ẩn dật giữa non trùng.
Chú thích:
(1) Ngũ hồ五湖: xem chú ở bài 4
(2) Lang Sơn郎山: Địa danh nay ở phía Tây Nam huyện Dịch, tỉnh Hà Bắc.ĐTCS :“Ngũ hồ ở phiá Nam sông Đại Giang, Lang Sơn ở phía bắc núi Thái Sơn, cách xa nhau như sức trâu, ngựa phóng cũng không đến chỉ trong lúc say mới cảm thấy như hợp làm một”.
(3) Bồng Lai, Lãng Uyển: đều chỉ cảnh tiên.
(4) Tiên cốt: Thuật ngữ Đạo gia, chỉ tư chất thoát tục có thể tu tiên. Về sau chỉ cả tư chất siêu thoát thế tục.
(5) Giữa miền núi non: Dịch thoát ý từ Ngoạ quần phong臥群峰: Trong Văn tuyển, thơ Tạ Linh Vận có câu: 遂登群峰首, 貌若升雲煙Bèn lên đỉnh cao giữa muôn núi, mặt tươi vui như được lên mây. ĐTCS: “Duy chỉ sớm muộn, lui về giữa núi non để được thích chí mà thôi, chẳng được đắc dụng thì từ quan mà lui về”.
其十
歲歲開花知為誰
負他黃菊滿東籬
醉鄉日月終須覓
嶺下山川想到時
江客不堪頻北望
海鷗何事更相疑
飲餘回首話歸路
君問歸期為[3]有期
Phiên âm:            Kỳ thập
Tuế tuế khai hoa tri vị thùy,
Phụ tha hoàng cúc mãn đông li.
Túy hương nhật nguyệt chung tu mịch,
Lĩnh hạ sơn xuyên tưởng đáo thì.
Giang khách bất kham tần bắc vọng,
Hải âu hà sự cánh tương nghi.
Ẩm dư hồi thủ thoại quy lộ,
Quân vấn quy kỳ vị hữu kỳ.
Dịch nghĩa:                  
Bài mười
Hàng năm hoa nở biết vì ai,
Đành phụ cúc vàng nở đầy ở phía dậu đông.
Lúc say sưa(1) chỉ thấy thời gian như dài mãi,
Một dải non sông mong nhớ đến lúc nào nguôi.
Lòng ta chẳng nỡ trông về hướng bắc,
Cánh chim âu(2) kia vì việc gì sao lại nghi ngờ thế.
Say rồi mới quay đầu hỏi đến đường về,
Anh hỏi lúc nào, tôi còn chưa biết được là khi nào.
Dịch thơ:
1/Mọi năm hoa nở vì ai,
Cúc vàng đành nỡ phụ hoài dậu đông.
Say sưa thời khắc như không,
Khôn nguôi một giải non sông quê nhà.
Hướng bắc đâu nỡ trông xa,
Cánh âu hà cớ gì mà sinh nghi.
Uống xong rồi hỏi đường đi,
Hỏi tôi, tôi còn chẳng biết là khi nào về.
2/Mọi năm hoa nở biết vì ai,
Dậu đông hoàng cúc cứ phụ hoài.
Say sưa ngày tháng còn tìm mãi,
Non sông một dải nhớ khôn nguôi.
Bến khách chẳng kham đầu ngoảnh bắc,
Cánh âu chi việc cứ nghi hoài.
Uống hết quay đầu hỏi quy lộ,
Anh hỏi ngày về có đâu hay.
Chú thích:
(1) Say sưa: Tuý hương醉鄉: ám chỉ tình thái say sưa.
(2) Hải âu海鷗: Sách Liệt Tử  kể:Trên biển có người thích chim âu, sáng nào cũng theo chúng dong chơi.Hàng trăm con bay tới làm bạn. Cha thấy thế, bảo bắt về cho mình một con xem. Hôm sau anh ta ra biển, thấy chim âu chỉ bay lượn trên cao. ý nói những người không xảo trá, không có lòng hại ai, mới gần được chim âu.(xem chú bài số II)

其十一

眇眇三山洞裏官
雪花當戶戟枝寒
傍人錯比楊雄宅
此客空彈
白首相知猶按劍
紫泥封後獨憑欄
西樓悵望芳菲節
相見時難別亦難
Phiên âm:            Kỳ thập nhất
Diểu diểu tam sơn động lý quan
Tuyết hoa đương hộ kích chi hàn
Bàng nhân thác tỉ Dương Hùng trạch
Thử khách không đàn Vũ Cống quan
Bạch thủ tương tri do an kiếm
Tử nê phong hậu độc bằng lan
Tây lâu trướng vọng phương phi tiết
Tương kiến thời nan biệt diệc nan.
Dịch nghĩa:                  
Bài mười một
Mênh mang  giữa cõi tam sơn(1),
Hoa tuyết rơi đầy, kích(2) cắm trên cửa lạnh lùng.
Người đi đường nhầm tưởng đấy là nhà Dương Hùng(3),
Khách đây chẳng màng đến mũ quan của Cống Vũ(4).
Bạc đầu quen nhau còn đặt tay lên giữ kiếm,
Chiếu thư đã đóng dấu(5) để ban ra, vô sự chỉ mình đứng tựa lan can.
Lầu tây buồn ngắm tiết xuân xanh,
Gặp được nhau đã khó thì ly biệt lại càng khó hơn.
Dịch thơ:
Quan trường như giữa động Tam sơn,
Tuyết hoa chẹn cửa nhánh kích hàn.
Người qua nhầm nghĩ Dương Hùng đó,
Đây khách không màng Cống Vũ quen.
Đầu bạc quen nhau còn giữ kiếm,
Dấu son đóng xuống tự mình xem.
Lầu tây xa ngắm xuân tươi ấy,
Quen thân là khó lìa khó hơn.
Chú thích:
(1) Dương Hùng(53 TCN-18 SCN)tự Tử Vân, người Thành Đô đời Hán, Học rộng tài cao, nhà nghèo, sống giản dị. Dương Hùng trạch chỉ gia cảnh bần hàn
(2) Tam Sơn三山: Chỉ cảnh tiên, tức Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu.Trong Sử ký - quyển 6 - Tần Thuỷ Hoàng bản kỷ có chép :“Từ Phúc dâng thư nói ngoài biển có ba ngọn Tam thần sơn là Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu các tiên sống ở đấy, xin được đem theo đồng nam, đồng nữ đi cầu thuốc trường sinh, bất lão”.
(3) Nhánh kích: Kích chi戟枝: Theo thể chế đời Đường thì những người có làm quan, có tước vị, có công nghiệp, đủ ba điều ấy thì được dựng kích ở cửa. Về sau gọi các nhà quyền quý vương tôn là “Kích môn戟門”  hay “Kích hộ戟戶” .
(4) Cống Vũ貢禹: người đời Hán tự là Thiếu Ông, làm quan Bác sĩ thời Hán Nguyên đế, chức đến Ngự sử đại phu. Cống Vũ cùng Vương Dương kết làm bạn tương tri, người đời khen. “王陽在位貢禹彈冠- Vương Dương tại chức thì Cống Vũ cũng phủi mũ sạch sẽ” (ý nói sắp sửa chờ sẵn để ra làm quan), tức hai người này thủ xả tương đồng vậy.
(5)Chiếu thư đã đóng dấu: Dịch từ Tử nê紫泥: Đời xưa người ta dùng một loại đất nhão, mềm để phong dính lá thư lại, trên đó đóng dấu ấn vào. Chiếu thư của  nhà vua thì dùng loại tử nê, là loại có màu tía để mà phong thư.
其十二
青袍今已誤儒生
萬里歸心對月明
愁向公庭問重譯
休將文字占時名
霑襟正嘆人間事
小隱堪忘世上情
[4]羨無愁是沙鳥
風波終日看人爭
Phiên âm:            Kỳ thập nhị
Thanh bào kim dĩ ngộ nho sinh,
Vạn lý quy tâm đối nguyệt minh.
Sầu hưởng công đình vấn trùng dịch,
Hưu tương văn tự chiếm thời danh.
Chiêm khâm chính thán nhân gian sự,
Tiểu ẩn kham vong thế thượng tình.
Khước tiễn vô sầu thị sa điểu,
Phong ba chung nhật khán nhân tranh.
Dịch nghĩa:                  
Bài mười hai
Mặc áo xanh(1) nay đã lầm lỡ kiếp nho sinh,
Cách xa muôn dặm, lòng quy ẩn tỏ dưới vầng trăng sáng.
Buồn bã hướng công đình hỏi việc Trùng dịch(2),
Nhưng chớ đem chữ nghĩa văn chương ra để đổi lấy cái danh vọng một thời.
Ướt đầm vạt áo than thở việc đời ,
Nơi rừng sâu chỉ làm kẻ tiểu ẩn(3) sao quên được tình đời cõi nhân gian.
Thích nhất là được như chim âu(4) vô sầu muộn,
Suốt ngày đùa giỡn với sóng nước ngắm người đời tranh giành.
Dịch thơ:
Áo xanh nay lỡ kiếp Nho sinh,
Muôn dặm lòng về với ánh trăng.
Buồn chốn công đường kêu phiên dịch,
Chớ đem chữ nghĩa hỏi lợi danh.
Ướt đầm vạt áo than nhân sự,
Tiểu ẩn nào quên được thế tình.
Muốn học chim trời vô sầu muộn,
Phong ba suốt buổi ngắm đời tranh.
Chú thích:
(1) Aó xanh: Thanh bào, theo điển chế đời Đường quan bát, cửu phẩm thì mặc màu xanh, chỉ chức quan thấp bé. 
(2) Trùng dịch重驛: ý nói phiên dịch, khéo léo. Theo Hán thư, Bình đế kỷ, Nguyên Thuỷ nguyên niên có chép: “Họ Việt Thường qua phiên dịch đem cống một con bạch trĩ, một đôi hắc trĩ” (“越裳氏重譯獻白雉一,黑雉二”) Lời chú rằng: “Dịch là truyền ngôn ngữ đi vậy, đường xa tít, phong tục cách trở, thế phải luỵ vào dịch thì sau mới thông được” (“一譯謂傳言也道路絕遠風俗殊隔故累譯而乃通”).
(3) Tiểu ẩn小隱: Chỉ những người ẩn dật nơi sơn dã. Đại ẩn chỉ những người ẩn dật nơi thành thị. ý câu thơ muốn nói ở nơi thâm sơn cùng cốc mà lòng còn chưa dứt được tục luỵ, làm sao quên được chuyện thị phi cõi nhân gian?

其十三

霜落秋郊樹影疏
使君家似野人居
到門不敢題凡鳥
依枕辰驚落蠹魚
從此角巾因爾戴
不知功業是誰書
虛舟尚嘆縈難解
終日王門強曳裾
Phiên âm:            Kỳ thập tam
Sương lạc thu giao thụ ảnh sơ,
Sứ quân gia tự dã nhân cư.
Đáo môn bất cảm đề phàm điểu,
Ỷ chẩm thời kinh lạc đố ngư.
Tòng thử giác cân nhân nhĩ đái,
Bất tri công nghiệp thị thùy thư.
Hư chu thượng thán oánh nan giải,
Chung nhật vương môn cường duệ khư.
Dịch nghĩa:                  
Bài mười ba
Sương rơi cõi thu giao bóng cây thưa thớt.
Khiến nhà ta thanh u hiu quạnh như nơi quê mùa thôn dã(1).
Đến nhà đâu dám đề câu phàm điểu(2)
Nghiêng gối làm kinh động khiến con mọt(3) sách rơi rụng.
Từ nay an nhàn mà đội khăn sừng(4) về ở ẩn.
Đâu cần biết công danh sự nghiệp có được ai ghi lại.
Lòng tuy khoáng đạt(5), nhưng buồn chưa cởi bỏ được sợi dây trói buộc,
Cả ngày chạy vạy, miễn cưỡng nhờ cậy nơi quyền thế(6).
Dịch thơ:
Sương đọng vườn thu bóng cây thưa,
Nhà quan hưu quạnh vẻ quê mùa.
Dám đâu trước cửa đề Phàm điểu,
Dựa gối còn kinh mọt sách rơi.
Từ nay khăn chéo mình nên đội,
Đâu hay công nghiệp để ai ghi.
Thuyền không còn thán dây chưa dứt,
Suốt ngày quyền thế bám theo đi.
Chú thích:
(1) Quê mùa thôn dã: Dã nhân cư野人居: Chỉ nơi ở thanh u tĩnh mịch, của người ẩn dật.
(2) Phàm điểu凡鳥: Chỉ người vô tài.Trong Thế thuyết tân ngữ. Giản ngạo có chuyện: Kê Khang kết giao ùng với Lữ An. Có lần An đến nhà gặp lúc Khang đi vắng. Anh của Khang là Hỉ ra mời, An không vào, chỉ đề lên cửa một chữ “phượng” rồi về (chữ phượng tức là chữ phàmlồng với chữ điểu). Nguyên là Lữ An muốn lấy chữ “phàm điểu” để chỉ Hỉ là người vô tài. Về sau dùng điển “đề phượng” (題鳳) để tỉ dụ có bậc khách cao quý đến thăm viếng.
(3) Mọt sách: Một loại trùng nhỏ, có vẩy bạc, hình như cá nên gọi là “Đố ngư” thường trú trong quần áo, sách vở.
(4) Khăn sừng:  Giác cân角巾, mũ kẻ ẩn sĩ thời xưa. Đội khăn sừng ý nói bỏ mũ quan về ẩn dật. Tấn thư. Dương Hựu truyện, Dương Hựu viết thư cho em là Tú có câu: 既定邊事當角巾東路歸故里(為容棺之櫨) “Việc biên cương đã định xong nên đội khăn sừng hướng phía đông mà về quê cũ”, (tìm cái chỗ chôn quan tài”).ĐTCS : Vui vì có thể cùng gia nhập hàng dật sĩ, từ nay từ bỏ ấn quan mà về đội khăn sừng.
(5) Thuyền không:Hư chu虛舟. Cũng dùng tỉ dụ người có tấm lòng khoáng đạt như chiếc thuyền không. ĐTCS: 如濟河之虛舟猶嘆唯繫- Như con thuyền không trôi trên sông, còn than không thoát được sợi dây trói buộc.
(6) Duệ khư曳裾: Khư là vạt của áo ngoài; “Duệ khư” là viết tắt của “Duệ khư vương môn -  曳裾王門裾chỉ việc chạy vạy, nương nhờ nhà vương giả quyền quý.

其十四

水滴銅龍晝漏長
披書纔暇即焚香
不妨公事資高臥
擬托良媒亦自傷
直道莫拋君子業
退休便是養生方
五湖煙水盈歸夢
一曲狂歌入醉鄉
Phiên âm:            Kỳ thập tứ
Thủy thích đồng long trú lậu trường,
Phi thư tài hạ tức phần hương.
Bất phỏng công sự tư cao ngọa,
Nghĩ thác lương môi diệc tự thương.
Trực đạo mạc phao quân tử nghiệp,
Thoái hưu tiện thị dưỡng sinh phương.
Ngũ hồ yên thủy doanh quy mộng,
Nhất khúc cuồng ca nhập túy hương.
Dịch nghĩa:                  
Bài mười bốn
Từ vòi nước hình rồng(1) từng giọt nước nhỏ xuống, ngày như dài thêm,
Đốt hương thơm, mở sách ra thưởng thức lúc nhàn rỗi(2).
Việc công không chểnh mảng, vẫn nằm cao mà bàn thơ văn(3),
Nghĩ thân này phải nhờ đến mai mối mà tự thương mình.
Nhưng một lòng ngay thẳng chẳng vứt bỏ cái nghiệp của người quân tử,
Thoái hưu về ẩn dật lại là cách dưỡng sinh tốt.
Với giấc mộng quy nhàn giữa cảnh sương nước ngũ hồ.(4)
Hát một khúc cuồng ca về với cõi say(5).
Dịch thơ:
Giọt rơi từng giọt ngẫm ngày dài,
Đốt hương giở sách chốn nhàn trai.
Chẳng màng công vụ riêng cao gối,
Nghĩ nhờ mai mối tự thương ai.
Đạo thẳng đừng quên người quân tử,
Dưỡng sinh cách tốt phải hưu thôi.
Sương nước ngũ hồ nhàn quy mộng,
Một khúc cuồng ca tới cõi say.
Chú thích
(1) Đồng long銅龍: loại phun nước bằng đồng đúc hình đầu rồng, phun nước ra ở miệng, có thể dùng để tính thời gian.
(2) Phi thư tài hạ tức phần hương: ĐTCS : Ngoài việc đốt hương thơm, rỗi rãi nằm đọc sách không còn vướng luỵ việc gì.
(3) Nằm cao: Cao ngoạ高臥ý nói an nhàn vô sự chỉ nằm gối cao đầu, cũng dùng để chỉ bậc ẩn cư lánh tục không chịu ra làm quan.
(5) Tuý hương醉鄉: xem chú bài X

其十五

踏青過後寒食前
見月上弦還下弦
惟對篁松聽刻漏
不勞詩句詠貪泉
休將世路悲塵事
暗喜風光似昔年
今日鑪錘用真宰
一生杯酒在神仙
Phiên âm:            Kỳ thập ngũ
Đạp thanh quá hậu hàn thực tiền,
Kiến nguyệt thượng huyền hoàn hạ huyền.
Duy đối hoàng tùng thính khắc lậu,
Bất lao thi cú vịnh tham tuyền.
Hưu tương thế lộ bi trần sự,
Ám hỉ phong quang tự tích niên.
Kim nhật lư chùy dụng chân tể,
Nhất sinh bôi tửu tại thần tiên.
Dịch nghĩa:                  
Bài mười lăm
Sau tiết đạp thanh, còn chưa đến tiết Hàn thực(1),
Đã ngắm trăng thượng huyền rồi lại ngắm trăng hạ huyền(2).
Duy chỉ đứng trước bụi tre, khóm tùng đếm từng giờ khắc(3),
Đâu cần mệt mỏi làm mấy câu vịnh suối tham(4) để tỏ lòng mình.
Đừng vì đường đời gian nan mà buồn chuyện phong trần,
Nên âm thầm mừng cho quang cảnh còn được như năm cũ.
Ngày nay việc chính sự(5) cũng chỉ mong nhờ ở ý trời(6),
Một đời ta gửi vào chén rượu, say sưa vui vẻ khác gì thần tiên.
Dịch thơ:
Qua tết Đạp thanh Hàn thực liền,
Thấy trăng Thượng huyền rồi Hạ huyền.
Trước khóm cây thưa đếm từng khắc,
Chẳng phiền thi cú vịnh tham tuyền.
Đường đời gian khó thêm phiền muộn,
Mừng thầm phong cảnh chẳng như tiền.
Hôm nay quyền chính thay quan mới,
Cuộc đời vui rượu mới là tiên.
Chú Thích:
(1) Đạp thanh: Đầu xuân là Tiết Thanh minh đi chơi xuân gọi là Đạp Thanh; Hàn Thực là tết 3/3, ăn đồ nguội để tưởng nhớ  Giới Tử Thôi.
(2) Thượng huyền: Hiện tượng tròn, khuýêt của mặt trăng, theo nông lịch vào khoảng ngày 7, 8 mỗi tháng từ mặt đất nhìn lên mặt trăng chỉ có một nửa ánh sáng hướng về Tây gọi là Thượng huyền; Hạ huyền: Mỗi tháng trước hoặc sau ngày 23 gọi là Hạ huyền.
(3) Giờ khắc Khắc lậu刻漏: Một dạng đồng hồ nước thời xưa, dùng để xem thời gian.
(4) Suối tham: Tham tuyền貪泉. Tương truyền nằm ở phía Tây Bắc huyện Nam Hải, tỉnh Quảng Đông. Đời Tấn có Ngô Ẩn Chi là người liêm khiết, Hoàn Huyền muốn thay đổi lệ tục cõi Lĩnh Nam, dùng Ẩn Chi làm Quảng Châu thứ sử, suối Tham tuyền cách châu đó 20 dặm. Các bậc phụ lão truyền rằng: “Ai uống nước suối đó thì là người liêm khiết cũng thành tham lam”. Ẩn Chi bèn đến suối đó múc nước mà uống nhân làm thơ tỏ chí mình, tiết tháo lại càng cao.
(5) Chính sự: Lô truỳ鑪錘: dụ chỉ việc rèn đúc tạo nên vật dụng. Về sau ám chỉ lò tạo hoá đúc tạo nên muôn vật hoặc chỉ việc nắm chính sự.
(6) Trời : Chân tể真宰: Trời là chân thể của vạn vật, nên gọi trời là Chân tể.

其十六

曾脫素衣參幕客
休辭黃綬拂行塵
逢辰已自致高位
節概猶誇似古人
捷在眼前猶不見
辱隨榮後定須均
誰人正得風波便
此地還成要路津
Phiên âm:            Kỳ thập lục
Tăng thoát tố y tham mạc khách,
Hưu từ hoàng thụ phất hành trần.
Phùng thời dĩ tự trí cao vị,
Tiết khái do khoa tự cổ nhân.
Tiệp tại nhãn tiền do bất kiến,
Nhục tùy vinh hậu định tu quân.
Thùy nhân chính đắc phong ba tiện,
Thử địa hoàn thành yếu lộ tân.
Dịch nghĩa:                  
Bài mười sáu
Từng cởi áo trắng để tiếp đãi làm thực khách dưới quyền người(1),
Đừng từ chối là sợi thao ấn vàng(2) dính bụi bặm.
Lúc cùng tương phùng thì thân phận đã ở ngôi vị cao,
Thế mà tiết khái còn khoe bằng được với người đời xưa.
Hạt bụi ở ngay trước mắt mà còn không thấy ư,
Sự vinh nhục luôn đi cùng với nhau số định rất đều.
Ai số may gặp được thời tiết thuận lợi(3),
Thì chỗ này có thể trở thành con đường trọng yếu để lên được chức vị cao sang.(4)
Dịch thơ:
Áo trắng buông ra làm mạc khách,
Chớ từ ấn báu dính bụi trần.
Gặp gỡ tự thân ngồi cao vị,
Khí tiết còn khoe với cổ nhân.
Bụi ngay trước mắt mà không thấy,
Nhục dính liền vinh liệu có hay.
Ai được trời giúp buồm xuôi gió,
Chốn này thực chốn yếu địa đây
Chú thích:
(1) Thuộc khách: Mạc khách chỉ thuộc khách dưới quyền
(2) Thao ấn: Hoàng thụ黃綬: Dây thao buộc ấn màu vàng, nhân đó dùng để chỉ quan viên chức phó.
(3) Thời tiết thuận lợi: Dùng tích của Vương Bột xưa, được thuận gió thẳng đến kịp dự hội ở Đằng vương các. Sau chỉ ý là được trời giúp, gặp vận may.
 (4)Dịch từ Yếu lộ tân要路津: Chỉ con đường, vị trí trọng yếu chủ đạo, cũng dùng để chỉ chức vị quan trọng.

其十七

綠楊如髮雨如煙
共把離觴向水邊
萬里憶歸元亮井
三年間上鄂君船
莫言行路咱如此
祇是當辰已惘然
名利到身無了日
清樽相伴看他年
Phiên âm:            Kỳ thập thất
Lục dương như phát vũ như yên,
Cộng bả li thương hướng thủy biên.
Vạn lý ức quy Nguyên Lượng tỉnh,
Tam niên gian thượng Ngạc quân thuyền.
Mạc ngôn hành lộ thính như thử,
Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên.
Danh lợi đáo thân vô liễu nhật,
Thanh tôn tương bạn khán tha niên.
Dịch nghĩa:                  
Bài mười bảy
Tóc xanh như dương liễu, mưa bụi như khói,
Cùng nâng chén hướng về bến sông biệt ly .
Lòng quy ẩn ở nơi xa muôn dặm vẫn nhớ về giếng Nguyên Lượng(1),
Ba năm quan trường, giờ mới được lên thuyền của Ngạc quân(2).
Đừng bảo rằng đi trên đường đời thì phải biết lắng nghe như thế,
Bởi vì lúc ấy đã trở thành quên lãng rồi.
Danh lợi quấn quít bên mình khiến ta không một ngày nào yên,
Chỉ muốn chén rượu đầy làm bạn để quên chuyện năm trước.
Dịch thơ:
Tóc xanh dương liễu khói mưa bay,
Cùng nâng chén rượu bến sông này.
Muôn dặm giếng khơi Nguyên Lượng nhớ,
Ba năm thuyền dạo Ngạc quân hay.
Chớ rằng đường đời phải như thế,
Vì chăng lúc ấy quá buồn thay.
Danh lợi đến thân ngày nào dứt,
Chuyện cũ trôi đi chúc chén đầy.
Chú thích:
(1) Nguyên Lượng元亮: Tức Đào Tiềm còn một tên nữa là Uyên Minh tự là Nguyên Lượng, người đời Tấn, từng giữ chức Huyện lệnh Bành Trạch. Sau bỏ quan về quy ẩn, lấy thơ rượu làm vui.
(2) Ngạc quân鄂君: Nhân danh, tên Tử Tích, là em của Sở Vương, dung mạo rất đẹp, lúc cưỡi thuyền thanh hàn(một loại thuyền có cắm lông chim, sơn xanh) đi chơi có người nước Việt chèo thuyền làm bài ca khen ngợi. Về sau dùng việc này chỉ cuộc sống an nhàn, tự do.
(ĐTCS): 今歷仕三年垂青翰而歸已“Nay làm quan đã 3 năm, cưỡi thuyền thanh hàn mà lui về”.
其十八
到處明知是暗投
道非身外更何求
三春月照千山路
萬事風波一葉舟
懶出任從遊子笑
清言遠待玉人酬
鱸魚正羨不歸去
回首更慚江上鷗
Phiên âm:            Kỳ thập bát
Đáo xứ minh tri thị ám đầu,
Đạo phi thân ngoại cánh hà cầu.
Tam xuân nguyệt chiếu thiên sơn lộ,
Vạn sự phong ba nhất điệp chu.
Lại xuất nhậm tòng du tử tiếu,
Thanh ngôn viễn đãi ngọc nhân thù.
Lô ngư chính tiễn bất quy khứ,
Hồi thủ cánh tàm giang thượng âu.
Dịch nghĩa:                  
Bài mười tám
Đến nay mới hay tài năng đã ngầm lỡ vứt đi rồi(1),
Đạo không ở ngoài thân ta, sao lại phải đi cầu tìm ở nơi đâu.
Ba năm trôi qua, muôn đời ánh trăng vẫn chiếu rọi trên đỉnh núi,
Phong ba muôn việc chỉ phó mặc một lá thuyền trôi.
Lười nhác đành cam cho lũ trẻ cười nhạo,
Thơ hay(2) gửi bạn(3)tri âm còn chờ lời đáp lại.
Cá lư(4) đang mùa ngon mà chẳng được về,
Quay đầu lại thẹn với cánh âu(5) trên sông.
Dịch thơ:
Đến nơi mới rõ tối đâm đầu,
Đạo ở nơi thân lọ phải cầu.
Ba xuân trăng rọi muôn đời núi,
Vạn sự phong ba một lá sầu.
Lười nhác cam đành con trẻ nhạo,
Thơ hay xa đợi bạn hiền đâu.
Gỏi ngư vừa nhớ sao chẳng ẩn,
Ngoảnh đầu lại thẹn với đàn âu./ Sông vắng đàn âu thẹn ngoảnh đầu.
Chú thích:
(1) Ám đầu暗投: ngầm ném đi. ĐTCS: 此言有才莫用如明珠暗投Đó là nói người có tài mà không được dùng cũng như ngọc minh châu vị ngầm ném vứt đi”.
(2)  Thơ hay: Thanh ngôn清言: Chỉ những lời cao đàm thanh nhã, như thù tạc thơ văn.
(3)  Bạn: Ngọc nhân玉人: Chỉ người bạn tri âm.
(4) Cá Lư: Lô ngư鱸魚: Cá lư, tích Thế thuyết tân ngữ, Chức giám chép: Trương Quý Ưng làm quan xa nhà, nhớ đến các món canh rau, gỏi cá lư ở quê than rằng: “Đời người quý ở thích chí mà thôi, sao lại để sợi cương sĩ hoạn buộc dắt đi ngàn dặm mà cầu danh tước hão huyền” nói rồi từ quan bỏ về.
(5) Giang thượng âu江上鷗: xem chú bài II, X.
其十九
敢論松菊久荒蕪
眼暗休尋九局圖
身事未知何日了
才能不管用辰無
誰人世上為金口
一片冰心在玉壺
春雨正多歸未淂
青雲依舊是前途
Phiên âm:            Kỳ thập cửu
Cảm luận tùng cúc cửu hoang vu,
Nhãn ám hưu tầm Cửu cục đồ.
Thân sự vị tri hà nhật liễu,
Tài năng bất quản dụng thời vô.
Thùy nhân thế thượng vi kim khẩu,
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.
Xuân vũ chính đa quy vị đắc,
Thanh vân y cựu thị tiền đồ.
Dịch nghĩa:                  
Bài mười chín
Dám đâu bàn luận về cội tùng khóm cúc bỏ hoang đã lâu ngày,
Mắt mờ tối rồi, chớ lần tìm bí quyết Cửu cục đồ(1).
Việc đời chưa biết ngày nào ra sao.
Có tài năng nào quản đến việc có được đắc dụng hay không,
Trên đời ai là người có lời nói đáng quý trọng(2),
Như một tấm lòng băng khiết giữ trong bầu ngọc.
Tiết mưa xuân đương đẹp, thế mà chẳng được về,
Đường công danh(3) phía trước vẫn cứ là như cũ.
Dịch thơ:
Tùng cúc hoang vu đã mấy chầy,
Mắt mờ mòn mỏi cuộc cờ vây.
Việc thân chưa biết ngày nào dứt,
Tài dùng chẳng quản được mặc thây.
Trên đời ai người lời đáng trọng,
Bầu ngọc lòng trong ý giãi bầy.
Mưa xuân nhiều thế chưa về được,
Trước mặt thênh thang rộng đường mây.
Chú thích:
(1) Cửu cục đồ九局圖: Kỳ phả cửu cuộc – sách dạy đánh cờ.
(2) Trọng lời nói: Kim khẩu金口: tỉ dụ quý trọng lời nói, tôn xưng lời nói của người khác.
(3) Đường công danh: Tức Thanh vân lộ青雲路: chỉ quan cao tước trọng, đường công danh thênh thang rộng mở cũng gọi là “Thanh vân”, đường mây
其二十
一竿多謝紫溪翁
外事無端心已空
自致此身繩檢外
更堪回首夕陽中
謾誇書劍無歸處
且喜琴樽數日同
祇是真誠天自信
豈知夭[5]道曲如弓
Phiên âm:            Kỳ nhị thập
Nhất can đa tạ Tử khê ông,
Ngoại sự vô đoan tâm dĩ không.
Tự chí thử thân thằng liễm ngoại,
Cánh kham hồi thủ tịch dương trung.
Mạn khoa thư kiếm vô quy xứ,
Thả hỉ cầm tôn sổ nhật đồng.
Chỉ thị chân thành thiên tự tín,
Khởi tri thiên đạo khúc như cung.
Dịch nghĩa:                  
Bài hai mươi
Với một cần câu theo đa tạ ông Tử Khê(1),
Lòng không còn màng việc đời, tâm đã rỗng không.
Tự đặt thân này ngoài vòng danh lợi,
Lại được quay đầu ngắm nhìn ánh chiều tàn.
Lỡ khoe khoang tài thư kiếm nay chẳng còn đường mà về,
Để lại được vui vẻ cùng đàn, cùng rượu mấy hôm.
Chỉ có một tấm lòng thành ngay thẳng tin ở trời,
Đâu hay đạo trời cong như cây cung(2).
Dịch thơ:
Một cần đa tạ Tử Khê ông,
Việc đời vô cớ lòng trống không.
Tự đặt thân này ngoài danh lợi,
Lại còn quay ngắm ráng chiều hồng.
Khoe khoang tài cán về không lối,
Vui với rượu đàn được mấy cung.
Một tấm chân thành tin trời vậy,
Đạo trời đâu biết tựa cây cung.
Chú thích:
(1) Tử Khê Ông紫溪翁: tức Lục Quy Mông một nhà thơ đời Đường tự là Lỗ Vọng, đi thi không đỗ, ẩn cư ở Phủ Lý, Tùng Giang, thích ngao du sông hồ tự hiệu là Giang Hồ tản nhân, hoặc Thiên Tùng Chi thời bấy giờ gọi là Phủ Lý tiên sinh, cùng với Bì Nhật Hưu kết giao xướng hoạ, triều đình triệu mời ông không ra.
(2)Đạo trời cong như cung: Thiên đạo khúc như cung天道曲如弓:
(ĐTCS): Lão tử: 天之道其猶張弓乎高者抑之下者舉之有餘者損之不足者補之.天之道損有餘補不足反其意用之,蓋怨之之詞也. “Đạo của trời cong như là giương cung chăng?, Cao thì ấn cho thấp, thấp thì đẩy cho cao, nhiều thì lấy bớt, thiếu thì bù cho, đạo trời là lấy chỗ nhiều bổ chỗ thiếu”. Ý của câu thơ dùng ý ngược lại, là những lời ai oán (ý nói đạo trời cũng thiên lệch như cung).
其二十一
雲捲珠簾劍旆高
雁迷寒雨下空壕
因恩桂蠹傷肌骨
莫向林泉改鬢毛
遙為晚花吟白菊
還應選地種仙桃
釣鄉天[6]里斷消息
宮豎陌塵何太勞
Phiên âm:            Kỳ nhị thập nhất
Vân quyển châu liêm kiếm bái cao,
Nhạn mê hàn vũ hạ không hào.
Nhân ân quế đổ thương cơ cốt,
Mạc hướng lâm tuyền cải mấn mao.
Dao vị vãn hoa ngâm bạch cúc,
Hoàn ưng tuyển địa chủng tiên đào.
Điếu hương thiên lý đoan tiêu tức,
Cung thụ mạch trần hà thái lao.
Dịch nghĩa:                  
Bài hai mươi hai
Mây vén rèm châu, gươm cờ treo cao,
Chim nhạn bay mê dưới mưa lạnh, ướt rơi xuống hào không.
Nhân nghĩ tới(nhờ lộc vua như) con sâu quế(1)mà thêm thương gân cốt,
Chớ có quay đầu về nơi rừng núi để cho mái tóc thêm sợi bạc.
Thấy hoa nở muộn mà thêm nhớ câu thơ bạch cúc,
Lại còn đang chọn đất tốt  để trồng giống đào tiên.
Làng chài ở nơi cách xa muôn dặm không chút tin tức gì,
Đường quan lộ gian nan, sao không mệt nhọc.
Dịch thơ:
Mây cuốn rèm châu gươm bái cao,
Nhạn say mưa lạnh rớt xuống hào.
Ơn trên sâu quế  thương gân cốt,
Chẳng hướng lâm tuyền tóc bạc hao.
Xa ngắm chiều thu ngâm bạch cúc,
Lại còn chọn đất giống tiên đào.
Quê trài muôn dặm không tin tức,
Đường quan gian khó lại gian lao.
Chú thích:
(1) Quế đố桂蠹: Loại sâu sống nhờ trên thân quế, dùng để dụ chỉ kẻ bầy tôi ăn lộc vua.
其二十二
綺陌塵香曙色分
幾人終肯別囂氛
玄都館裏桃千樹
遠渚沙中鷺一群
徒使詞臣庾開府
可堪貧攝鮑參軍
Phiên âm: Kỳ nhị thập nhị
Ỷ mạch trần hương thự sắc phân,
Kỷ nhân chung khẳng biệt hiêu phân.
Huyền Đô quán lý đào thiên thụ,
Viễn chử sa trung lộ nhất quần.
Đồ sử từ thần Dữu khai phủ,
Khả kham bần nhiếp Bão Tham quân.
Dịch nghĩa:                  
Bài hai mươi hai
Bờ ruộng quanh co buổi rạng đông chia rõ sắc hương trần thế,
Cuối cùng mấy ai có thể biết được sự phiền nhiễu của đường đời.
Trong quán Huyền Đô(1) đào trồng nghìn cội,
Xa xa giữa bến nước một đàn cò đùa rỡn.
Huống có được bề tôi văn từ như Dữu Tín(2),
Lại cam chịu đựng nghèo khổ như Bão Tham quân(3).(4)
Dịch thơ:
Ven đường nắng chiếu  hương bụi phân,
Mấy người chung cuộcrõ hồng trần.
Huyền Đô quán ấy đào muôn gốc,
Bãi nọ ven bờ cò mấy con.
Ví được văn thần như Dữu Tín,
Mà cam nghèo được Bão Tham quân.
Chú thích:
(1) Huyền Đô quán玄都館: là tên một đạo quán đời Tuỳ Đường, nguyên là Thông Đạo quán sau đổi là Huyền Đô, có chép trong Trường An ký.
(2) Dữu Khai phủ庾開府: Tức Dữu Tín người thời Nam Bắc triều lúc đầu làm quan cho nhà Lương (Nam triều), đi sứ sang Tây Ngụy, bị giữ lại đến khi Tây Ngụy mất, làm quan cho Bắc Chu chức đến Phiên kị đại tướng quân, Khai phủ đồng tam ti. Tuy ở ngôi cao nhưng lòng hoài niệm Nam triều, thường hay có lòng của kẻ sĩ tha hương nhớ quê.
(3) Bão Tham quân鮑參軍: tức Bão Chiếu người thời Nam triều, thiện thi văn. Lâm Hải Vương Lưu Tử Hạng trấn giữ Kinh Châu dùng ông làm Tham quân, chưởng Thư ký, gọi là Bão Tham quân, sau Giang Lăng loạn, ông chết trong loạn quân.
(4) Bài này không rõ vì lý do gì thiếu mất hai câu, có thể do người chép quên, sót mất hai câu này.
其二十三
何處風光不眼前
好花爭奈夕陽天
雙金未比三千字
錦瑟無端五十弦
豈有蛟龍曾失水
本來吟鳥在林泉
好垂范蠡扁舟興
買取蘇君負郭田
Phiên âm:            Nhị thập tam
Hà xứ phong quang bất nhãn tiền,
Hảo hoa tranh nại tịch dương thiên.
Song kim vị tỉ tam thiên tự,
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền.
Khởi hữu giao long tằng thất thủy,
Bản lai ngâm điểu tại lâm tuyền.
Hiếu thùy Phạm Lãi thiên chu hứng,
Mãi thủ Tô quân phụ Quách điền.
Dịch nghĩa:                  
Bài hai mươi ba
Phong cảnh nơi nao chẳng hiện rõ như đang trước mắt,
Hoa tươi sao chịu được ánh nắng gắt lúc chiều.
Vàng tốt(1) chẳng thể bì được áng văn hay ba nghìn chữ(2),
Đàn sắt(3) không biết cớ gì những năm mươi dây cung.
Há có biết rồng thiêng cũng có lúc nguy nan vì mất nước(4),
Vốn đã như con chim hót nơi suối rừng.
Muốn theo học Phạm Lãi(5) thả một lá thuyền trôi đi du ngoạn,
Lại mong mua được ruộng tốt của Tô Tần để tự cày cấy(6).
Dịch thơ:
Phong cảnh nơi đâu chả nhãn tiền,
Hoa tươi sao đọ ánh tà xiên.
Vàng quý chưa bằng ba nghìn chữ,
Đàn sao vô cớ mấy giây phiền.
Há cảnh giao long nguy mất nước,
Vốn là chim hót chốn lâm tuyền.
Muốn theo Phạm Lãi thuyền một lá,
Lại hướng Tô quân một khoảnh điền.
Chú thích:
(1) Vàng tốt: Song kim雙金: tức雙南金chỉ loại vàng tốt ; (ĐTCS): 今者詩遠寄雖南金之責未可此似Nay viết thơ gửi đi xa, tuy rằng có vàng tốt quý cũng chẳng sánh bằng.
(2)Tức Tam thiên tự三千字: chỉ thơ văn trước tác nói chung.
(3) Nguyên văn là Cẩm sắt錦瑟: đàn sắt có tô vẽ như gấm gọi là cẩm sắt.Ngũ thập huyền: Tích trong Sử ký. Phong Thiền thư: Thái đế sai tố nữ gảy đàn sắt 50 dây, tiếng nghe buồn thảm, đế bèn phá đàn làm 25 dây, về sau dùng điển này để tả khúc điệu bi thương, ai oán.
(4) Rồng thiêng mất nước: Giao long thất thuỷ鮫龍失水: chỉ người tài bị rơi vào thế hiểm nghèo, sa cơ lỡ bước hay bị thất thế.
(5) Phạm Lãi thiên chu笵蠡扁舟: chỉ muốn học theo Phạm Lãi sau khi diệt Ngô từ bỏ danh lợi cưỡi thuyền đi ngao du giang hồ.
(6) Ruộng tốt của Tô quân:  Tô quân phụ quách điền蘇君負郭田: Sử ký. Tô Tần liệt truyện. Có đoạn: “蘇秦嘆曰:旦使我有雒陽負郭田二頃吾豈能佩之國相印乎Tô Tần than rằng: giả sử cho ta 2 khoảnh ruộng tốt ở gần thành Lạc Dương, thì ta há có thể được đeo ấn tướng của 6 nước ư”.負郭田: Ruộng tốt nằm ở gần thành. (ĐTCS): Sao có thể có được vàng tốt mà mua lấy 2 mảnh ruộng màu mỡ của Tô quân để tự cày cấy vui vẻ không phí hoài mà phải vào nghiệp khác.

其二十四

[7]寞襟懷酒半醒
木魚金鑰鎖重城
光陰自旦還將暮
滯雨通霄又徹明
十畝芳菲為舊業
五湖煙景有誰爭
不知芳草情何恨
誰為梅花怨未平
Phiên âm:            Kỳ nhị thập tứ
Sách mịch khâm hoài tửu bán tinh,
Mộc ngư kim thược tỏa trùng thành.
Quang âm tự đán hoàn tương mộ,
Trệ vũ thông tiêu hựu triệt minh.
Thập mẫu phương phi vi cựu nghiệp,
Ngũ hồ yên cảnh hữu thuỳ tranh.
Bất tri phương thảo tình hà hận,
Thùy vị mai hoa oán vị bình.
Dịch nghĩa:                  
Bài hai mươi bốn
Lòng ôm một nỗi buồn lặng lẽ, chính lúc đang nửa tỉnh nửa say,
Tín phù hình cá(1) treo nơi khóa sắt khóa mấy tầng thành.
Bóng thời gian trôi qua, sáng lại sang tối,
Mưa nước đọng suốt đêm lại đến sáng.
Ruộng tốt mười mẫu, hoa cỏ thơm tươi đấy là nghiệp cũ,
Cùng vui thú với cảnh sương khói Ngũ hồ(2), có ai tranh được.
Cỏ xanh hữu tình vô hạn biết bao,
Ai vì mai rụng mà bày tỏ nỗi oán hờn(2).
Dịch thơ:
Lòng buồn một khối nửa tỉnh say,
Chìa vàng mõ cá khóa thành này.
Thời gian suốt sáng đến chiều muộn,
Mưa đọng qua đêm lại sáng ngày.
Mười mẫu ruộng nương là nghiệp cũ,
Ngũ hồ sương khói có ai hay.
Biết đâu cỏ biếc tình vô hạn,
Mai rơi ai hiểu nỗi oán này.
Chú thích:
(1) Tín phù hình cá : Mộc ngư kim thược木魚金鑰Theo Phong tục thông: ở trên khoá có hình cá nằm, ý muốn khoá chặt lại”. (ĐTCS).
(2) Thuỳ vi mai... vị bình: Lý Bạch có thơ: 黃鶴樓中吹玉笛,江城五月洛梅花Trên lầu Hoàng Hạc thổi sáo ngọc, thành bên sông mới tháng năm hoa mai đã rụng. ĐTCS: Ai vì hoa mai sớm tàn mà bày tỏ lòng oán hờn.
其二十五
更無消息到如今
坐臥閑房春草深
清水莫教波浪濁
玉書應念素塵侵
重斯匹馬吟紅葉
誰畫騶虞發素琴
羌管一聲何處笛
西風吹動故山心
Phiên âm:Kỳ nhị thập ngũ
Cánh vô tiêu tức đáo như câm,
Tọa ngọa nhàn phòng xuân thảo thâm.
Thanh thủy mạc giao ba lãng trọc,
Ngọc thư ưng niệm tố trần xâm.
Trùng tê sất mã ngâm hồng điệp,
Thùy họa Sô ngu phát tố cầm.
Khương quản nhất thanh hà xứ địch,
Tây phong xuy động cố sơn tâm.
Dịch nghĩa:                  
Bài hai mươi nhăm
Đến nay đã chẳng có chút tin tức gì,
Trong phòng nhàn rỗi nằm ngồi mặc ý ngắm cỏ xuân mọc.
Nước trong xin chớ để vầy lẫn sóng đục,
Sách ngọc(1) bị bụi phủ dày xin hãy nhớ lấy.
Trên lưng ngựa hí vang ngâm khúc Hồng điệp(2),
Ai là người viết nên khúc Sô Ngu(3) để gảy đàn cầm đây.
Một tiếng sáo Khương nơi đâu vẳng đến,
Gió tây thổi lộng khiến lòng người lại nhớ đến núi non quê nhà.
Dịch thơ:
Đã không tin tức đến hôm nay,
Nằm ngồi phòng vắng cỏ xuân đầy.
Nước trong chớ để vầy sóng đục,
Sách ngọc phải chăm khỏi bụi bay.
Kìa đây tiếng ngựa câu lá thắm,
Ai soạn Sô Ngu khúc buồn này.
Sáo Khương một tiếng nơi đâu vẳng,
Thổi động lòng quê cơn gió Tây.
Chú thích:
(1) Ngọc thư玉書: Chỉ sách của trời ban; Chỉ sách bàn về ngọc; Chỉ kinh sách của Đạo gia. ở đây dùng nghĩa như sách quý, chỉ sự thanh tịnh cao khiết.
(2) Hồng điệp紅葉: ý tức hồng điệp chi thi -thơ chép trên lá đỏ. Tích xưa đời Đường có Lư ốc nhặt được ở nơi ngự câu một chiếc lá đỏ có đề thơ của một cung nhân, về sau duyên tình cờ lại được gặp lại người ấy, hai người nên nghĩa phu thê. Về sau dùng tích này để tả nỗi khuê oán, cũng để chỉ chuyện tình duyên kỳ ngộ.
(3) Sô Ngu騶虞: ĐTCS chú rằng:“Theo Thái Bình chính nhạc: Khúc Sô Ngu do người con gái nước Mân làm ra, thương cho đạo nước suy vi trăm họ oán khổ.. buồn thương vì không gặp thời nên mượn đàn cầm mà ca nỗi ai oán”.


 

其二十六

飛鳥空慚倦未還
乾坤千里水雲間
封題錦字凝新思
擲下離觴指亂山
舊里若為歸去好
算來寧淂此身閑
且安懷抱莫懤悵
天上洪鑪帝鑄顏
Phiên âm:            Kỳ nhị thập lục
Phi điểu không tàm quyện vị hoàn,
Càn khôn thiên lí thủy vân gian.
Phong đề cẩm tự ngưng tân tứ,
Trịch hạ li trường chỉ loạn sơn.
Cựu lý nhược vi quy khứ hảo,
Toán lai ninh đắc thử thân nhàn.
Thả an hoài bão mạc trù trướng,
Thiên thượng hồng lô đế chú Nhan.
Dịch nghĩa:                  
Bài hai mươi sáu
Chim bay chẳng ngại, lúc mỏi vẫn chưa biết quay về(1),
Ngắm cảnh đất trời mây nước muôn dặm ngay trước mắt.
Thư đề trên gấm(2) ngưng kết ý sầu mới,
Đặt chén dứt lòng tiễn biệt hướng núi xa.
Quê cũ nếu được về thì thật tốt không có gì bằng,
Tính ra thân này nên được hưởng an nhàn.
Lại còn an ủi lòng hoài bão đừng có buồn phiền,
Trên cao lò tạo trời sẽ tạo đúc nên người hiền như Nhan Hồi.
Dịch thơ:
Chim bay mỏi cánh chửa quay về,
Muôn dặm đất trời mây nước mê.
Thư đề chữ gấm ngưng ý mới,
Đặt chén li trường hướng núi quê.
Làng cũ được về mới hay tốt,
Tính ra thân vậy được nhàn ghê.
Cứ yên hoài bão đừng lo lắng,
Trời cao Nhan tử sẵn khuôn đe./ Tài cao trời đã sẵn khuôn đe.
Chú thích:
(1) Quyện vị hoàn惓未還: lấy ý trong bài Quy khứ lai từ của Đào Uyên Minh: 鳥惓飛而知還Chim bay mỏi còn biết về.(2) Cẩm tự錦字: Đời Tần có Đậu Thao bị tội biếm đi xa, vợ là Tô Thị viết thư thêu trên gấm theo kiểu Hồi văn toàn đồ thi để gửi cho Thao, về sau gọi tắt là “cẩm tự” đề chỉ thư vợ gửi cho chồng ở xa tỏ lòng nhớ.
(3) Trú nhan鑄顏: Theo Pháp ngôn của Dương Hùng có đoạn: “Hỏi: người ta có thể đúc tạo nên được chăng? Đáp: Khổng tử đúc được Nhan Hồi vậy”. Ý nói Khổng tử rèn luyện, đào tạo Nhan Hồi để thành đại khí, cũng dùng phiếm chỉ việc bồi dưỡng nhân tài. Nhưng cũng có ý nói tài cao đức hậu, không được đắc dụng có khi cũng chết sớm như Nhan Hồi. Vì Nhan Hồi mất sớm.
其二十七
邊城夜靜月初上
江頭日煥花正開
看春又過清明節
潦倒新停濁酒杯
早識臥龍應有分
潛聽喜鵲望歸來
酣歌自適逃名久
肯信愁腸日九迴
Phiên âm:   Kỳ nhị thập thất
Biên thành dạ tĩnh nguyệt sơ thướng,
Giang đầu nhật hoán hoa chính khai.
Khán xuân hựu quá thanh minh tiết,
Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi.
Tảo thức Ngọa Long ưng hữu phận,
Tiềm thính hỉ thước vọng quy lai.
Hàm ca tự thích đào danh cửu,
Khẳng tín sầu trường nhật cửu hồi.
Dịch nghĩa:                  
Bài hai mươi bảy
Nội biên thùy, đêm khuya vắng tĩnh lặng trăng mới nhô,
Bến sông nắng ấm chiếu hoa đang nở rộ.
Người ngắm cảnh xuân đã quá mất tuổi xanh,
Nơi Tân Đình chán ngán với ly rượu đục.
Sớm đã biết Ngọa long(1) đã có số phận định trước,
Ngầm lắng nghe tiếng chim hót, mừng mà mong người đi trở lại.
Ở đây say sưa chốn đời tự thích chí,
Mới tin rằng lòng buồn bã một buổi hết mấy lần.
Dịch thơ:
Biên thành đêm vắng ánh trăng nhô,
Đầu sông nắng chiếu cánh hoa phô.
Ngắm xuân chơi quá thanh minh tiết,
Lảo đảo đình xa rượu một bầu.
Sớm biết Ngọa Long đà có phận,
Ngầm nghe chim hót vọng lối về.
Lánh đời tự thỏa khúc say mãi,
Dạ buồn một buổi mấy lần vo.
Chú thích:
(1) Ngoạ long臥龍: dụ chỉ người có tài cao mà ẩn dật chưa lộ diện. Ngọa long cũng là hiệu của Gia Cát Lượng.ĐTCS : Vốn sớm biết anh cũng như Ngoạ Long chẳng thể ẩn mình lâu được.

其二十八

城頭旭日炤欄杆
酌酒與君又自寬
芳草有情皆礙馬
碧桃何處更驂鸞
黃花冷落不[8]
青鳥慇勤為探看
舉世莫能無默識
暫回風水不應難
Phiên âm:            Kỳ nhị thập bát
Thành đầu húc nhật chiếu lan can,
Chước tửu dữ quân hựu tự khoan.
Phương thảo hữu tình giai ngại mã,
Bích đào hà xứ cánh tham loan.
Hoàng hoa linh lạc bất thành diễm,
Thanh điểu ân cần vi thám khan.
Cử thế mạc năng vô mặc thức,
Tạm hồi phong thủy bất ưng nan.
Dịch nghĩa:                  
Bài hai mươi tám
Đầu thành mặt trời buổi sớm chiếu rọi lan can,
Rót rượu cùng bạn bạn hãy khoan thai thưởng thức.
Cỏ xanh hữu tình đều ngại ngựa,
Ở nơi nào có đào biếc, lại có thêm xe loan nữa đây(1).
Hoa vàng rơi rụng chẳng tạo nên vẻ đẹp,
Chim xanh(2) ân cần tìm đưa tin tức.
Ngẩng đầu xem việc đời chẳng thể nào lẳng lặng,
Tạm phải quay về với sóng gió cũng(vui vẻ) không cho là vất vả, gian nan.
Dịch thơ:
Đầu thành nắng chiếu rọi lan can,
Rót rượu mời anh cứ tự chàn.
Cỏ biếc hữu tình đều tránh ngựa,
Đào non đâu chốn lại người tiên.
Hoa vàng rơi rụng đâu đẹp nữa,
Chim xanh ân cần ướm hỏi tin.
Sự đời đâu thể câm lặng mãi,
Tạm về sông nước chẳng gian nan.
Chú thích:
(1) Bích đào碧桃: chỉ đào tiên; Tham loan驂鸞: tham loan cũng ý chỉ lên xe loan, là xe của thần tiên.
(2) Thanh điểu: sứ giả của Tây Vương Mẫu. Về sau nhiều khi để ám chỉ sứ giả.

其二十九

清江依舊遶孤城
紅葉颼颼競鼓聲
祇道府中持簡牘
還聞世上有功名
物情多與閑相稱
鄉思撩人撥不平
君意如鴻高的的
可堪春雨滯飛鳴

Phiên âm:            Kỳ nhị thập cửu
Thanh giang y cựu nhiễu cô thành,
Hồng điệp sưu sưu cạnh cổ thanh.
Chỉ đạo phủ trung trì giản độc,
Hoàn văn thế thượng hữu công danh.
Vật tình đa dữ nhàn tương xứng,
Hương tứ liêu nhân phát bất bình.
Quân ý như hồng cao đích đích,
Khả kham xuân vũ đái phi minh.

Dịch nghĩa:                  
Bài hai mươi chín
Dòng sông trong vẫn bao bọc lấy tòa thành đơn lẻ,
Gió thổi lá hồng vù vù bay lẫn tiếng trống kêu vang.
Thà chỉ ở trong nhà mà đọc sách,
Lại còn biết ở trên đời này còn có công danh.
Tình trạng của sự vật cùng với việc nhàn phần nhiều là tương xứng,
Lay động đến lòng nhớ quê hương mà không được bình yên trở về.
Chí của anh còn muốn bay cao tựa cánh chim hồng,
Chẳng thể vui được nghe tiếng mưa xuân chảy róc rách.
Dịch thơ:
Thành côi bao bọc nhiễu bờ xanh,
Lá thắm bay bay lẫn  trống canh.
Thà ở trong nhà mà đọc sách,
Lại biết trên đời có công danh.
Sự thể với nhàn hay tương xứng,
Lòng quê lay động dậy bất bình.
Tráng chí như hồng dương cánh vẫy,
Mưa xuân róc rách có nghe chăng.

其三十

一年人住豈無情
休向津頭問去程
且盡綠醅消舊恨
可堪紅嘴強分明
清風江上秋天遠
白玉堆邊蔣逗橫
達士猶來知道在
應看名利似浮萍
Phiên âm:            Kỳ tam thập
Nhất niên nhân trụ khởi vô tình,
Hưu hướng tân đầu vấn khứ trình.
Thả tận lục phôi tiêu cựu hận,
Khả kham hồng chủy cưỡng phân minh.
Thanh phong giang thượng thu thiên viễn,
Bạch Ngọc đôi biên tưởng kính hoành.
Đạt sĩ do lai tri đạo tại,
Ưng khan danh lợi tự phù bình.
Dịch nghĩa:                  
Bài ba mươi
Một năm cư trú ở đây há lại không chút tình gì sao,
Chớ hướng về phía bến sông mà hỏi lộ trình(1).
Chỉ thêm cạn chén rượu nồng để tiêu vơi nỗi sầu muộn,
Lại còn cam chịu làm con chim mỏ đỏ biết nói.
Trên sông xanh gió lặng trời thu thăm thẳm,
Bên gò Bạch Ngọc(2)  cày vài ba luống rau như họ Tưởng(3)
Là bậc đạt sĩ, vốn tự biết đạo ở  trong bản thân mình,
Nên xem danh lợi như bèo bọt mà thôi.
Dịch thơ:
Một năm cư trú há vô tình,
Chớ hướng đầu sông hỏi lộ trình.
Đã  hết men nồng tiêu hận cũ,
Còn cam đỏ mỏ giảng phân minh.
Gió mát sông trong trời thu vắng,
Bên gò Bạch ngọc luống rau xanh.
Đạt sĩ vẫn hay thân có đạo,
Nên xem danh lợi tựa bèo duềnh.
Chú thích:
(1) Vấn tân問津: ý là hỏi đường đi, (Luận ngữ. Vi tử. có đoạn Khổng tử sai Tử Lộ đi hỏi đường Trường Thư, Kiệt Nhược, về sau phiếm chỉ con đường cầu học cũng gọi là “vấn tân”. Những chưa từng học tự khiêm là chưa từng hỏi đường vậy”. (未嘗問津).
(2) Bạch ngọc đôi: Địa danh, ở Đạo Châu, Tưởng Hủ đời Hán tự là Nguyên Khanh nhân Vương Mãng soán nghịch mà cáo bệnh lui về ở ẩn ở đó, vỡ ba luống đất tự trồng trọt, cày cấy.
(3) Tưởng kính蔣徑: cũng như “tam kính三徑”: tức chỉ 3 luống đất của Tưởng Hủ.




[1] Ngờ là nhầm của chữ Thủ取 (lấy; tranh thủ ) ra chữ Cảm敢 (dám)
[2] Ngờ là nhầm chữ Tức 即 ra chữ Lang 郎
[3] Ngờ là nhầm âm đọc chữ Vị 未 thành chữ Vị 為
[4] Ngờ là nhầm chữ Dục 欲  thành chữ Khước 卻
[5] Ngờ là chữ Thiên 天  nhầm thành chữ Yêu 夭
[6] Ngờ là nhầm âm đọc chữ Thiên 千  thành chữ Thiên 天
[7] Ngờ là nhầm chữ Tố 素  ra chữ Sách 索
[8] Nhầm chữ Thành 成  ra chữ Thành 城 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét