Thứ Hai, 13 tháng 3, 2017

Văn bản Tập Đường Thuật Hoài của Vũ Phạm Hàm

Năm 20 mười mấy, có dịp hồi quốc, cũng đem những tập cũ đã từng làm ra chụp lại để chờ đăng lên Blog. Sách cũ chụp vội cũng không được rõ. Nguyên là sách giấy Dó, đã bị Bản Viện đem đi sao chụp. Giờ chỉ cầm được bản Photcopy (Nhiều khi nghĩ cũng kỳ. Viện Hán Nôm chụp sách, soát sách, rồi chỉ khảo được qua bản Foto). Nhưng có phần đánh máy chế bản và phiên dịch kèm theo. Làm rườm mắt người đọc. Hôm nay xin đăng lên. 
............................................................................

Văn bản Tập Đường thuật hoài
Nguyen Duc Toan
Vien nghien cuu Han Nom

1.Giới thiệu văn bản:

Tập Đường thuật hoài do Thám hoa Vũ Phạm Hàm soạn, mang số ký hiệu A.2354, có đóng dấu của Viện Viễn đông Bác cổ. Sách dày 13 tờ, có đánh số bằng chữ Hán ở mép, sách khổ 28 x 16, viết trên loại giấy dó thường, bìa quét sơn.

Tờ đầu tiên có dòng đề “集唐述懷三十首Tập Đường thuật hoài- tam thập thủ” phía dưới có hàng chữ nhỏ gồm 5 chữ “探花武范諴 Thám hoa Vũ Phạm Hàm”. Sách không có đề tựa bạt, chữ viết chân phương, nét chữ đều tay chứng tỏ do một người chép.

Nội dung gồm 30 bài thơ thể hiện lòng chán ghét danh lợi, mơ ước sống cảnh điền viên thanh nhàn... Các bài không có tiêu đề gì mà chỉ chia ra theo thứ tự: Kỳ nhất, kỳ nhị, kỳ tam.. (Bài 1, bài 2..) cho đến bài thứ 30 (kỳ tam thập).

Thơ thể thất ngôn bát cú, mỗi bài tám câu, mỗi câu bảy chữ, dưới mỗi câu đều có ghi tên tác giả của câu đó, ghi bằng cỡ chữ nhỏ hơn. Đặc biệt riêng bài thứ 22 chỉ còn có 6 câu thiếu mất 2 câu cuối không rõ nguyên nhân.

Cuối bài thứ 30 có chép thêm “集唐人成句-四首Tập Đường nhân thành cú - tứ thủ”, dưới đề là: “舉人阮其楠Cử nhân Nguyễn Kỳ Nam”, gồm 4 bài thơ, kết cấu cũng chia ra các bài 1, 2, 3, 4 (kỳ nhất, kỳ nhị, kỳ tam, kỳ tứ). Phần này chép liền một mạch tiếp phần trước. Nét chữ ở phần này cũng hài hoà ăn khớp với nét chữ của phần trước, chứng tỏ là do cùng một người chép chứ không phải người sau chép tiếp nối vào.

2. Khảo sát văn bản:

Qua phần giới thiệu tác giả cùng đối chiếu các từ điển nhân vật ta thấy rằng rõ ràng Vũ Phạm Hàm có làm một tập thơ nhan đề là Tập Đường thuật hoài. Văn bản này mang ký hiệu A.2354 hiện có tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm là văn bản duy nhất.

Theo kết cấu của văn bản ta thấy đây là một bản do một người khác, hoặc do mến mộ tài thơ của cụ Vũ, hoặc do yêu thích lối thơ tập cổ nên đã chép lại từ một bản khác( cũng có thể là do các cụ chép sách cho viện Bác Cổ chép), bởi những lý do sau đây:

- Nếu là thi tập do chính tay cụ Vũ thủ bút, hoặc bằng hữu hay con cháu của cụ chép ắt sẽ đề tên hiệu của cụ (là Mộng Hồ chủ nhân hoặc Mộng Hải tiên sinh hay Thư Trì) vào dòng đề tên người soạn chứ không đề là “Thám hoa”, vì các cụ ta thường hay xưng tên hiệu, tên quê hay chức danh chứ rất ít khi xưng thẳng tên. Người chép lại văn bản này hẳn phải là người thuộc thế hệ sau cụ Vũ nên mới dám xưng thẳng tên cụ là “Thám hoa - Vũ Phạm Hàm”.

- Chính vì là người khác chép lại nên mới có thể lý giải sự thiếu của 2 câu cuối ở bài 22. Bởi vì người chép vì lý do nào đó quên bỏ sót không chép 2 câu này. Hơn nữa khi so với Đường thi cổ suý唐詩鼓吹  bản in thì thấy có một số chữ chép nhầm do tự dạng giống nhau, chỉ có chép lại nên mới có hiện tượng nhầm như thế.

- Từ tờ thứ 11b trở đi có chép “Tập Đường nhân thành cú- Tứ thủ集唐人成句、四首 của Cử nhân Nguyễn Kỳ Nam(người xã Nam Dư, Thanh Trì, Hà Nội), chứng tỏ tập này phải được chép ít ra là từ sau khi Nguyễn Kỳ Nam đỗ cử nhân. Theo “Các Trạng nguyên, Hương cống Việt Nam triều Nguyễn[1] thì Nguyễn Kỳ Nam đỗ Cử nhân năm Canh Tý Thành Thái thứ 12 (1900), thi đỗ năm 51 tuổi. Nghĩa là lúc này Vũ Phạm Hàm mới 36 tuổi và đã làm quan được một thời gian.

3. So sánh đối chiếu tìm xuất xứ của câu thơ và xác định tên tác giả :

 1.Sau khi sơ bộ khảo sát tác phẩm, chúng tôi nhận thấy vấn đề văn bản của Tập Đường thuật hoài có những điểm lưu ý như sau:

- Thứ nhất đây là một tác phẩm độc bản, không có dị bản nên không thể tiến hành khảo sát tỉ mỉ, đối chiếu để tìm ra bản nào là bản tốt, gần gũi nhất với tác giả được.

- Thứ hai, tác phẩm không đề năm tháng, không có tựa bạt gì nên việc căn cứ vào các thông tin của tác phẩm truyền tải để tiến hành khảo sát là cực kỳ khó khăn, mà chỉ có thể dựa vào gia phả và các ghi chép tản mát trong các thi tập văn tập của chính tác giả hay người cùng thời với tác giả mà thôi.

- Thứ ba do đặc thù của kiểu thơ “Tập cú” là mỗi câu lại trích dùng câu nguyên của một người khác cho nên tuy gọi là độc bản nhưng thực ra lại có dị cú. Dị cú ở đây có nghĩa là từ các câu thơ của các thi nhân đời Đường được tác giả trích dùng, qua tay người khác sao chép nên dẫn đến sai ngộ về câu chữ và tên tác giả (câu của người này lại gán cho của người khác). Ta có thể đối chiếu văn bản tác phẩm với các tập thơ Đường in lối cổ hoặc sách in của Trung Quốc để tìm ra những chỗ bất đồng đó. Nhưng thực tế, công việc này đòi hỏi nhiều công phu và rất khó khăn, những khó khăn trong quá trình đối chiếu, khảo dị tìm ra xuất xứ của câu thơ được trích dùng để “tập cổ”, vì bản thân các tập thơ Đường, kể cả sách in theo lối cổ lẫn sách của Trung Quốc cũng đều có những chỗ chép khác nhau. Ngoài ra, việc tìm kỹ được câu nào của tác giả nào, bài nào trong các tập Đường thi lại là công việc khó khăn gấp bội, vì Đường thi là cả một thế giới bao la với “hơn 48.900 bài thơ của hơn 2.200 tác giả”[2]   

Từ những thực tế công việc vừa được nêu ra, chúng tôi xin được giới hạn phạm vi đối chiếu trong khuôn khổ cho phép, là lấy các tập thơ Đường in lối cổ, có niên đại cùng thời với Vũ Phạm Hàm làm bản điều tra, đối chiếu. Chúng tôi xin chọn bản Đường thi cổ suý tiên chú 唐詩鼓吹箋註ký hiệu VHv 1533/1-2 in năm Tự Đức 4(1851)tại nhà in Phúc Văn Đường; Đường thi hợp tuyển tường giải唐詩合選詳解ký hiệu AC 215/1-2 in năm Minh Mệnh 15 (1834) tại Liễu Trai Đường, hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm làm bản đối chiếu chính, vì 2 tác phẩm này được in vào thời điểm Vũ Phạm Hàm còn chưa ra đời. Điều đó có nghĩa là, một người học rộng như Vũ Phạm Hàm chắc chắn đã từng đọc qua 2 tập sách này(biết đâu chính Vũ Phạm  Hàm lại chơi “tập cổ” từ những quyển này). Hơn nữa, sau khi đối chiếu chúng tôi nhận thấy tỷ lệ câu được cụ Vũ Phạm Hàm trích dùng hầu hết đều tìm thấy trong tập Đường thi cổ suý tiên chú này. Tập Đường thuật hoài gồm 30 bài thơ , mỗi bài 8 câu, trong đó có 1 bài bị thiếu 2 câu, tổng cộng 238 câu. Trong Đường thi cổ suý tiên chú đối chiếu được 232 câu (khoảng 90%),  trong Đường thi hợp tuyển tường giải đối chiếu được 3 câu (câu 7 bài 9, câu 3 bài 11, câu 6 bài 19) còn 3 câu còn lại không tìm được (câu 1, câu 4 bài 19, câu 4 bài 27) .

Từ những bước đối chiếu trên, chúng tôi nhận thấy:

Văn bản Tập Đường thuật hoài là một văn bản tương đối hoàn chỉnh, cho dù ở bài 22 bị thiếu mất 2 câu, sự sai khác của văn bản chỉ là sự nhầm lẫn do tự dạng chữ giống nhau, âm đọc giống nhau, người chép viết chữ dị thể hoặc sử dụng chữ gần nghĩa với nhau mà thôi, chữ sai hoàn toàn cả tự dạng, âm-nghĩa là rất ít, hơn nữa có thể xác minh được.

 2. Về vấn đề câu chữ trong văn bản có những điểm đồng dị đáng lưu ý :

+ Vấn đề về chữ huý: Trong văn bản tỉ lệ chữ kiêng huý là ít, chỉ có tr­ường hợp chữ “thì” viết cải ra chữ “thần” nh­ ở câu 3 bài 5, câu 6 bài 8, câu 4 bài 12, câu 4 bài 13, câu 3 bài 16, câu 6 bài 17. Như­ng lại có chỗ viết chữ “thì” nguyên dạng như­ ở câu 7 bài 7.

Còn đối với tr­ờng hợp chữ “hoa” là một chữ bị kiêng huý khá phổ biến dư­ới thời Nguyễn, th­ường phải viết bớt nét thì lại không có thay đổi gì. Từ đó chúng tôi nhận thấy rằng trư­ờng hợp chữ “thì” viết cải thành chữ “thần” chẳng qua là do người chép bị ảnh hưởng lối dạy viết chữ Hán kiêng huý ở thời Nguyễn quen tay nên viết ra như vậy chứ không có dụng ý kiêng huý.

+ Chữ dị thể có các trường hợp dùng chữ dị thể như các trường hợp ở bản Đường thi cổ suý tiên chú thì dùng chữ này mà bản Tập Đường thuật hoài lại dùng chữ khác hoặc ngược lại mà 2 chữ ấy giống nhau về mặt nghĩa.

Để tiện theo dõi, chúng tôi đã so sánh như sau:

Đường thi cổ suý tiêu chú
Tập Đường thuật hoài
Vị trí
thường -
câu 2 bài 3
tạm
câu 2 bài 5
nhĩ
câu 5 bài 7
câu 5 bài 13
thán
 
câu 5 bài 12
thính
câu 3 bài 15
quân
 
câu 6 bài 16
nhàn
câu 4 bài 17
nộn
lại  
câu 5 bài 18
sất
câu 5 bài 25
hoãn
câu 2 bài 27
do
 
câu 8 bài 4
phi 
câu 8 bài 29
kính
câu 6 bài 30

+ Trường hợp dùng chữ gần nghĩa:

Đường thi cổ suý
Tập Đường thuật hoài
Vị trí
Ghi chú
Cái(Quan cái)
đái  (quan đái)
C4b1
Nghĩa của từ không khác nhau là mấy
hồi
Hồi
C41
thông nghĩa
Giao
Giao
C1b4
Thông nhau
Yên
An
C5b4
chức năng ngữ pháp như nhau(có dị bản chép là chữ “hà-”)
Huyền
hoài
C4b6
nghĩa câu thơ biến đổi không nhiều
Cổ lai
Tự cổ
C5b7
nghĩa không đổi
lữ
bạn
C3b9
cùng chỉ bạn bè
dụng
Nhậm
C7b15
đều có nghĩa là dùng, nhậm dụng
đào   
ba
C7b16
đều có nghĩa là sóng
Danh(danh hoạn)
(sĩ hoạn)
C6b7
Câu dịch không đổi nghĩa

+ Trường hợp chép nhầm do tự dạng giống nhau và do đồng âm nên chép sai

Đường thi cổ suý
Tập Đường thuật hoài
Vị trí
Ghi chú
tiển
C3b2
Tự dạng
sử使
lại
C2b3
tự dạng
tôn
Tôn
C4b5
đồng âm
huề thủ
hồi thủ
C7b5
nt
khai
quan   
C5b8
Tự dạng
lãng
lãng 
C6b9
đồng âm
tỉnh
khán
C8b17
Tự dạng
Thì 
Thuỳ
C4b10
đồng vận
hạ
ngoại
C4b10
đồng vận
Mạc
Mộ
C1b16
Tự dạng
ngạc
sính
C4b17
Nt
ân
C3b21
Nt
quan
cung
C8b21
Nt
mịch
mạc
C1b24
Nt
hạn
hận
C7b24
Nt
phong
phong
C5b30
nt
Hành
Thành
C2b16
đồng vận
Tỉnh
Khán
C8b17
Tự dạng
Hoàng
Hàn
C3b15
đồng vận

 

+ Trường hợp chép lộn thứ tự:

Đường thi cổ suý tiêu chú
Tập Đường thuật hoài
Vị trí
khai hoa
hoa khai
câu 1 bài 10
Cống Vũ
Vũ Cống
câu 4 bài 11

+ Trường hợp sai hẳn:

Đường thi cổ suý tiêu chú
Tập Đường thuật hoài
Vị trí
vương
xuất
câu 8 bài 13
câu 3 bài 3
khả
mạc
câu 7 bài 28
phong thanh
câu 2 bài 29

2. 4.Về đối chiếu tác giả nguyên của câu thơ chúng tôi thấy có một số nhầm lẫn. Trong văn bản dưới mỗi câu thơ đều có đề tên tác giả của câu đó, trong lúc đối chiếu chúng tôi nhận thấy có sự nhầm lẫn về tên các nhà thơ ở một số câu.

Đường thi cổ suý
Tập Đường thuật hoài
Vị trí
Trịnh Cốc
Bão Phóng
C7b4
Lý Bạch
Hoàng Phủ Nhiễm
C5b7
Đỗ Phủ
Đàm Dụng Chi
C6b9
Lý Thương ẩn
Lã Động Tân
C8b10
Đỗ Phủ
Hứa Hồn
C3b11
Vương Duy
Vương Hùng
C5b11
Liễu Tông Nguyên
Triệu Hỗ
C3;4b12
Đường Phu
Lưu Vũ Tích
C2b16
Vương Xương Linh
Đỗ Mục
C6b19
Đàm Dụng Chi
Ôn Đình Quân
C7b21
Lưu Vũ Tích
Trần Thượng Mỹ
C3b22
Tiết Phùng
Lý Thương ẩn
C3;4b24
Ôn Đình Quân
Tiết Triệu Năng
C7b25

 Từ những kết quả thu được chúng tôi nhận thấy bản chép tay Tập Đường thuật hoài của Vũ Phạm Hàm, ký hiệu A.2354 VNCHN là một bản do người khác chép lại, văn bản có chỗ chép các câu chưa chính xác có bài thiếu mất 2 câu, nhiều chỗ nhầm tên tác giả. Qua những tìm hiểu, so sánh, đối chiếu chúng tôi đã cố gắng khôi phục những điểm nhầm lẫn đó để giới thiệu một tập thơ tương đối hoàn chỉnh, đặc biệt của nhà khoa bảng Vũ Phạm Hàm. Qua đó có thể tìm hiểu được tâm tư tình cảm của tác giả, góp phần tìm hiểu cuộc đời của tác giả (nhất là giai đoạn làm quan), được kỹ càng.


[1] Các Trạng nguyên, Hương cống Việt Nam. Bùi Hạnh Cẩn-Cao Việt Anh, NXB Thanh niên, H. 2001
[2] Đường thi tuyển dịch, Lê Nguyễn Lưu, NXB Thuận Hoá. H. 1997













Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét