Thứ Hai, 13 tháng 3, 2017

Vũ Phạm Hàm với Tập Đường thuật hoài 武范言咸 - 集 唐 述 怀

Vũ Phạm Hàm với Tập Đường thuật hoài 武范言咸 - 集 唐 述 怀
(Nguyen Duc Toan
Vien nghien cuu Han Nom)

I. Đôi nét về nhà khoa bảng Vũ Phạm Hàm:

Vũ Phạm Hàm, tự là Mộng Hải và Mộng Hồ, hiệu Thư Trì người xã Đôn Thư, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Nội (nay thuộc tỉnh Hà Tây). Ông là vị Thám hoa cuối cùng của triều Nguyễn và của nền khoa cử phong kiến Việt Nam(1). “Đương thời giới trí thức rất hâm mộ tài học và đức độ của ông”, “thơ văn của ông được truyền tụng nhiều vì nội dung nghệ thuật sâu sắc, có nhiều hình tượng nghệ thuật mà giới yêu thơ thán phục”(2).

Theo ghi chép của Mộng Hồ gia tập(3)- (gia phả họ Vũ Phạm), thì tổ tiên của họ Vũ nguyên là họ Phạm, đến đời tổ thứ 2, được người họ Vũ nuôi dưỡng nhận làm con nuôi nên từ đó đổi ra họ Vũ, hoặc kiêm dùng cả chữ “Phạm” để lấy họ là “Vũ Phạm”, thế nên gia phả ghi là “Phạm Vũ thị phả” có ý không quên gốc.

Ông sinh năm Giáp Tý niên hiệu Tự Đức thứ 17 (1864). Năm ông 13 tuổi được quan Đốc học Vũ Nhự 武 汝 hiệu Đông Phần 東 汾 rất chú ý, yêu mến nhận làm con nuôi, đích thân dạy dỗ. Đến khi cụ Đông Phần được thăng làm Tham tri, vào làm quan trong kinh thành Huế, ông lại sang học với quan Nam ngư Phạm Hy Lượng 南 漁 范 熙 亮. Năm Kiến Phúc nguyên niên (1883) đi thi Hương đậu ngay Giải nguyên, năm sau (1884) vào thi Hội nhưng bị hỏng. Ông ở lại kinh thành để chờ khoa sau, và nhận làm gia sư dạy học cho con cháu trong phủ quan Hộ bộ Thượng thư Phạm Thận Duật 范 慎 遹. Nhưng ngay năm ấy kinh thành xảy ra sự biến, quân Pháp tấn công kinh thành, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở - Quảng Trị, nên việc thi cử bị bỏ bễ. Đến năm Thành Thái Nhâm Thìn (1892) ông lại tái ứng thí, lần này đỗ đầu Hội nguyên và Đình nguyên, Đệ nhất giáp Tiến sĩ đệ tam danh, tức là Tam nguyên Thám hoa(4), trở thành “một trong 3 người thi đỗ đầu cả ba kỳ thi Hương, Hội và thi Đình của nhà Nguyễn”(5) (Vị Xuyên Trần Bích San; Yên Đổ Nguyễn Khuyến; Đôn Thư Vũ Phạm Hàm)(6). Đến năm Thành Thái 18 (1906) thăng Án sát Hải Dương, nhưng trong năm ấy ông bị bệnh nặng mất tại quê nhà, thọ 43 tuổi. Những trước tác chính của ông:

Kinh sử thi tập, Hưng Hóa tỉnh phú, Tuyên Quang tỉnh phú, Hương Sơn phong cảnh phú, Thám hoa văn tập, Thư Trì thi tập, Tập Đường thuật hoài, Mộng Hồ gia tập, Mộng Hồ thi tuyển, Cầu Đơ tỉnh nhân đinh phong tục tổng sách. Trong các tác phẩm của ôngmà trong đó có Tập Đường thuật hoài là tác phẩm mà chúng tôi đang quan tâm.

II. Tập Đường, lối vận dụng ngôn từ đặc sắc

“Tập Đường”, là lối thơ rất độc đáo, làm theo lối chơi chữ, mà chỉ có những bậc điêu luyện hay thơ mới có thể làm được. Tập Đường thuật hoài, các thư mục nghiên cứu đều ghi nhận tập thơ này là của Vũ Phạm Hàm. “Tập Đường” cũng gọi là “tập cổ” hay “tập cú”, tức là tập hợp thơ của người đời xưa để thành câu. Tra theo Từ nguyên thì chỉ có mục “tập cú - 集 句” và “tập tự - 集 字”, nhưng cách thức của thơ Tập Đường cũng chính là cách thức được giải thích trong 2 mục từ trên.

Tập tự - 集 字: 集 他 人 文 賦 中 字 以 成 詩- Tập hợp chữ trong thơ văn của người khác thành thơ.

Tập cú - 集 句: 集 古 人 句 以 為 詩 - Tập hợp các câu thơ của người xưa lại thành thơ. Thơ “Tập Đường” của Vũ Thám hoa chính là tập hợp các câu thơ của các nhà thơ đời Đường để thành một bài thơ. Vậy kiểu chơi thơ như thế đã có ở đâu và bắt đầu từ khi nào? Mục “Tập cú” trong Từ nguyên giải thích:

...晉 傅 咸 毛 詩 一 篇 為 集 句 之 始. 後 來 文 人 有 從 經 史 成 語 摘 為 對 句 者 成 為 文 字 游 戲 之 一 種. 王 安 石 晚 年 喜 為 集 句, 有 多 至 百 韻 者, 文 天 祥 集 杜 詩 亦 至 二 百 首 清 黃 之 巂 有 香 屑 集 皆 集 唐 人 之 句 為 香 奩 詩 凡 古 今 體 九 百 三 十 餘 首...

“... Một thiên Mao thi của Phó Hàm(7) đời Tấn là khởi đầu của kiểu thơ tập cú, về sau các văn nhân trích lấy các câu thành ngữ từ kinh sử để làm câu đối, thành một loại chơi chữ. Vương An Thạch(8) lúc cuối đời rất thích làm thơ tập cú có lúc nhiều đến trăm vận, Văn Thiên Tường(9) tập theo Đỗ thi (thơ Đỗ Phủ) cũng đến 200 bài. Hoàng Chi Tuấn(10) đời Thanh có tập thơ Hương Tiêu, đều là tập hợp các câu của người đời Đường làm thành Hương Xu thể thi(11) (thơ của phụ nhân) phàm cổ kim thể các kiểu hơn 930 bài...”

Qua đó có thể thấy lối thơ “tập cú” này đã có ở Trung Quốc từ trước. Thực tế, trong thơ văn cổ của ông cha ta trường hợp các cụ chơi “tập cú” cũng khá nhiều, tập hợp thơ của người khác ghép lại thành bài, mà phải hợp vận và trong tổng thể vẫn thể hiện ý tứ của mình, không gò ép, thất luật. Tuy là “tập” của người khác để thành câu, nhưng qua đó người đọc vẫn cảm thấy rất thú vị và tài tình. Hơn nữa “tập cú” không chỉ là tập lặp lại câu chữ của người trước mà còn “tập” cả ý thơ, cả điển tích nữa. Các điển tích về tu kỷ, trị nhân trong Kinh, Sử, Tử, Tập, hay các điển về ẩn dật, vui thú điền viên được sử dụng nhiều. Trong kho sách Hán Nôm hiện nay còn có Tập cú sử luận(12), là cuốn sách biên soạn theo kiểu “tập cú” rút từ kinh điển, luận về lịch sử Trung Quốc. Mỗi câu là một câu trích các kinh trong Thập tam kinh(13), chép từ họ Phục Hy trở đi, dạng như:

“Quyết sơ sinh dân (Thi, Đại nhã, Sinh dân), thủ cơ triệu tổ (Nhĩ NhãThích Hỗ), kỳ mệnh đại hạo (, Nguyệt lệnh), thịnh đức tại mộc (, Nguyệt lệnh)...”

Thăng Long tam thập lục vịnh(15) có một số bài ở cuối sách cũng “tập” theo lối này, “tập” thơ của Đào Uyên Minh đời Tấn, các thi nhân đời Đường..., dưới có đề xuất xứ câu đó như: Đào thi, Lý thi, Đỗ thi,...

Từ kiểu chơi ngôn từ như thế, các cụ ta xưa đã áp dụng nó vào thể thơ riêng của dân tộc là thể thơ lục bát, với trước tác tiêu biểu là Truyện Kiều
 để hình thành nên lối thơ “tập Kiều”và “lẩy Kiều”, mà đến tận bây giờ vẫn còn nhiều người biết đến. “Tập Kiều” thì đúng như cách thức của “tập cú”, là “mượn nguyên văn từng câu lục hoặc câu bát trong Kiều và ghép lại với nhau thành một bài lục bát không thay đổi một từ nào và không được lấy liền cả hai câu lục bát”(16).

Thi sĩ Tản Đà rất tài tình về Tập Kiều:
Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
Con tằm đến thác hãy còn vương tơ.
Thiếp từ ngộ biến đến giờ,
Dám xa xôi mặt mà thơ thớt lòng.
Cắn răng bẻ một chữ “đồng”,
Sâm Thương chẳng vẹn chữ “tòng” tại ai?
Hay như :
Đau đớn thay phận đàn bà,
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.
Lửa hương chốc để lạnh lùng,
Nào người tiếc lục tham hồng là ai?[1]

[1] Nguyễn Khắc Hiếu,Tản Đà vận văn, Á Châu xuất bản, 1944, tr182
Còn “lẩy Kiều” là mượn từng câu trong Kiều có sửa đổi đi ít nhiều rồi ghép lại thành một bài thơ cho hợp với nội dung sự việc định nói, không bắt buộc phải giữ nguyên văn”(17). 
Trong “Tập Đường thuật hoài” của Vũ Phạm Hàm thì cụ tập 30bài thơ chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú, mỗi một câu là lại tập của một câu trong một bài của một nhà thơ đời Đường, mà kết cấu, niêm luật của bài thơ vẫn giữ được hài hoà cân đối. Điều này chứng tỏ phải là người đọc và hiểu thơ Đường như thế nào mới có thể vận dụng ngôn từ  được tài tình như thế.
III. Văn bản Tập Đường thuật hoài:

Tập Đường thuật hoài kí hiệu Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm A.2354, không có đề tựa bạt, nội dung gồm 30 bài thơ thể hiện lòng chán ghét danh lợi, mơ ước sống cảnh điền viên thanh nhàn... dưới mỗi câu đều có tên tác giả của câu đó, ghi bằng cỡ chữ nhỏ hơn. Riêng bài thứ 22 chỉ còn có 6 câu thiếu mất 2 câu cuối. Cuối tập có chép thêm 集 唐 人 成 句 四 首 舉 人 阮 其 南“ 4 bài thơ tập cú thơ Đường của Cử nhân Nguyễn Kỳ Nam”, chép liền một mạch tiếp phần trước.

So sánh đối chiếu tìm xuất xứ của câu thơ và xác định tên tác giả ta thấy do đặc thù của kiểu thơ “tập cú” là mỗi câu lại trích dùng câu nguyên của một người khác cho nên tuy gọi là độc bản nhưng thực ra lại có dị cú. Dị cú ở đây có nghĩa là từ các câu thơ của các thi nhân đời Đường được tác giả trích dùng, qua tay người khác sao chép nên dẫn đến sai nhầm về câu chữ và tên tác giả (câu của người này lại gán cho của người khác). Ta có thể đối chiếu văn bản tác phẩm với các tập thơ Đường in lối cổ hoặc sách in của Trung Quốc để đính chính những chỗ bất đồng đó. Công việc này đòi hỏi nhiều công sức, vì việc tìm kỹ được câu nào của tác giả nào, bài nào trong các tập Đường thi lại là công việc khó khăn gấp bội, vì Đường thi là cả một thế giới bao la với “hơn 48.900 bài thơ của hơn 2.200 tác giả”(17).

Chúng tôi xin được giới hạn phạm vi đối chiếu trong khuôn khổ cho phép, là lấy các tập thơ Đường in lối cổ, có niên đại cùng thời hoặc gần thời với Vũ Phạm Hàm làm bản điều tra, đối chiếu. Vì tác gia sống trong khoảng thời gian này thì thường có thể tiếp xúc được những loại văn bản gần với thời mình là chính. Chúng tôi xin chọn bản Đường thi cổ súy tiên chú in năm Tự Đức 4 (1851); Đường thi hợp tuyển tường giải in năm Minh Mệnh 15 (1834) làm bản đối chiếu. Trong Đường thi cổ súy tiên chú đối chiếu được 232 câu (khoảng 90%), trong Đường thi hợp tuyển tường giải đối chiếu được 3 câu (câu 7 bài 9, câu 3 bài 11, câu 6 bài 19) còn 3 câu còn lại không tìm được (câu 1, câu 4 bài 19, câu 4 bài 27). Sự sai khác của văn bản chỉ là sự nhầm lẫn do tự dạng chữ giống nhau, âm đọc giống nhau, người chép viết chữ dị thể hoặc sử dụng chữ gần nghĩa với nhau mà thôi, chữ sai hoàn toàn cả tự dạng, âm - nghĩa là rất ít, hơn nữa có thể xác minh được. Trong văn bản dưới mỗi câu thơ đều đề tên tác giả của câu đó, trong lúc đối chiếu chúng tôi nhận thấy có sự nhầm lẫn về tên các nhà thơ ở một số câu. Chúng tôi đã đính sửa lại trong bảng đối chiếu kèm theo.

IV. Giá trị nội dung:

Qua những áng thơ tập cú, thể hiện niềm hoài cảm ấy, ta càng thấy rõ hơn tâm tư, tình cảm của của Vũ Phạm Hàm. Một nhà Nho, sống trong cảnh đất nước đổi thay, cái tân học ngày càng lấn lướt thay thế cái cựu học đã tồn tại hơn nghìn năm ở nước ta, hẳn cụ rất cảm xúc và có nhiều hoài niệm. Các bài thơ tuy bày tỏ nỗi niềm chán ghét danh lợi, ước mơ một cuộc sống điền viên, nhưng trong đó dường như còn ẩn chứa một nỗi ưu tư, một niềm day dứt giữa cái đạo xuất xử của Nho gia.

Lúc bấy giờ, thực dân Pháp đã chiếm được nước ta, các quan lại của Nam triều thực chất đã trở thành tay sai. Bị hạn chế bởi hệ tư tưởng Nho giáo phong kiến lỗi thời, nên Vũ Phạm Hàm cũng không thể làm gì hơn, tự nhận là một kẻ “vô tài” (b1, b5)(18), ông chỉ biết phản ứng lại bằng những vần thơ chán ghét danh lợi, thị phi: “Đường danh lợi tiếng vang huyên náo” (b2); “Việc đời vinh hiển cùng suy lạc đều phó gửi đám mây nổi” (b8); “Hối tiếc vì danh, vì lợi mà lụy thân vào những việc đâu đâu” (b9).

Vũ Phạm Hàm lúc ấy cũng đang làm quan, ông tỏ ra chán chường đường công danh, muốn quay đầu lui về với cuộc sống điền viên để giữ khí tiết, một lời than của ông để tỏ lòng: “Sao chẳng nắm tay nhau cùng lui ẩn, Kết bạn với anh chài vui vẻ sông nước” (b5), rồi phó mặc công danh sự nghiệp: “Từ nay an nhàn vấn khăn sừng vui vẻ, Đâu cần biết công danh sự nghiệp được ai ghi lại”(b13), và chỉ mong làm một cánh chim âu vô sầu muộn ngắm nhân thế tranh đua.

Nhưng trớ trêu thay cho cuộc đời ông, đã đỗ Thám hoa, không dứt được đường làm quan: “Vốn sẵn lòng quy ẩn từ lâu treo nơi đầu ngựa, Biết đâu lại đến bến Long tân” (b4), ông muốn về ẩn từ lâu, nhưng đâu biết số phận lại dẫn đường cho ông đến với quan trường. Toàn bộ 30 bài thơ của ông trong Tập Đường thuật hoài là những nỗi day dứt trong lẽ xuất - xử này. Ông muốn học theo các bậc tiên triết của đời xưa “tiến tắc kiêm thiện thiên hạ, thoái tắc độc thiện kỳ thân”, nhưng không được: “Mưa xuân chính vào lúc đẹp mà chẳng được về, Đường quan trường trước mắt vẫn phải đi” (b19); “Ngẩng đầu thấy việc đời, không thể nào lẳng lặng được. Đành phải quay về với sóng gió cũng không ngại gian nan” (b28); “Anh hỏi ngày nào về tôi còn chưa biết được là khi nào” (b10). Ông hổ thẹn chẳng bằng được cánh chim âu trên sóng nước: “Cá Lư đang ngon mà chẳng về được, quay đầu lại thẹn với cánh âu trên sông” (b18).

Rõ ràng là lòng quy ẩn đã sẵn, nhưng trong tâm tư Vũ Phạm Hàm vẫn còn một niềm hoài vọng. Trong tập thơ, nhiều lần Vũ Phạm Hàm đã nhắc đến nỗi niềm ưu quốc: “Trường đình xa ngắm non sông trong dạ thêm bồi hồi” (b1); “Xem xét phong tục của nhân dân để cùng vui nền chính hóa mới” (b2) hay “Sớm ra đi trong đám cờ bay, mong để thi hành chính lệnh” (b5); “Nhớ tới hưởng lộc vua như con sâu ăn quế, nên chẳng quay đầu về nơi thâm sơn làm gì cho tóc thêm bạc” (b21). Nhưng cuối cùng, Vũ Phạm Hàm vẫn bất lực trước thời thế, cái học “Kinh truyện” của ông cha ta không thể đối chọi được với cái kỹ nghệ tây dương. Ông chỉ còn biết giữ “một tấm lòng băng khiết như bầu ngọc”, như nước trong không để lẫn dòng đục, như sách quý không để bụi bám, và gửi niềm u hoài vào ý thơ.

Tóm lại, do bị hạn chế bởi hệ tư tưởng Nho giáo, Vũ Phạm Hàm cũng như các nhà nho khác, bất lực trước thời cuộc, chỉ biết gửi tâm tình của mình vào lời thơ. Bài thơ thứ 12 ông nói: “Ướt đầm vạt áo than thở chuyện thế gian, Nhưng là kẻ tiểu ẩn sao quên được tình đời”. Tuy chưa từ quan để về ẩn dật nơi thâm sơn cùng cốc, song ý tứ của tập thơ cho ta thấy ông như một bậc “Đại ẩn”, giữa chốn quan trường danh lợi xem phú quý như bèo nổi, xem vinh hoa như phù vân, không ẩn ở nơi lâm tuyền mà ẩn ngay nơi thành thị, không ẩn thân chốn đời mà ẩn ngay ở trong tim.

Phụ lục:

Xuất xứ, tác giả các câu thơ được Vũ Phạm Hàm dùng để tập cổ. (Phần này đối chiếu theo tên tác giả chép trong Tập Đường thuật hoài với Đường thi cổ súy. Vd:1.Tiết Phùng. Đồng Quan dịch đình. C.6. Tức là: Bài 1, câu1 là lấy của Tiết Phùng trong bài Đồng Quan dịch đình, câu thứ 6)

Bài 1: 
Câu 1. Tiết Phùng. Đồng quan dịch đình. C.6
Câu 2. Hoàng Phủ Nhiễm. Thu nhật đông giao. C.2
Câu 3. Cao Biền. Y vận phụng thù Lý Địch. C. 5
Câu 4. Hứa Hồn. Đề Từ Hạo miếu. C.8
Câu 5. Thôi Lỗ. Xuân nhật Trường An tức sự. C.3
Câu 6. Hàn Ác. Bán túy. C.4
Câu 7. Thôi Hiệu. Hoàng Hạc lâu. C.7
Câu 8. Ngô Dung. Bành Môn dụng bình hậu kinh Biện lộ. C.1

Bài 2: 
Câu 1. Lục Quy Mông. Ký Hoài Nam Trịnh Tân thư ký. C.8
Câu 2. Tào Tùng. Bồi Hồ Nam Lý trung thừa chương yến ẩn khê. C.1
Câu 3. Thôi Động. Đề Đồng Quan Lý Minh phủ thư xá. C.5
Câu 4. Đàm Dụng Chi. Nguyệt dạ hoài ký hữu nhân. C.4
Câu 5. Lý Viễn. Thất hạc. C.3
Câu 6. Đỗ Mục. Tự Tuyên Thành phó quan thượng kinh. C.2
Câu 7. Chương Ngại. Tống Tạ Tiến sĩ quy Mân. C.7
Câu 8. Tiết Phùng. Kinh thu. C.4

Bài 3: 
Câu 1. Hoàng Phủ Nhiễm. Đồng Ôn Đan Đồ đăng Vạn Tuế lâu. C.2
Câu 2. Vương Duy. Thù Quách cấp sự. C.4
Câu 3. Trương Duyệt. U Châu tân tuế tác. C.3
Câu 4. Hàn Ác. Tị địa hàn thực. C.8
Câu 5. Tô Quảng Văn. Dạ quy Hoa sơn nhân ký Mạc phủ. C.3
Câu 6. Hứa Hồn. Chỉ mệnh Nam Hải trí Lư Lăng phùng biểu huynh quân tốt phụng sứ Hoài Hải biệt hậu khước lý. C.6
Câu 7. Lý Thương Ẩn. Họa Lưu bình sự Vĩnh Lạc nhàn cư kiến ký. C.7
Câu 8. Đỗ Mục. Cửu nhật Tề sơn đăng cao. C.6

Bài 4: 
Câu 1. Lục Quy Mông Mông. Hòa Trương xử sĩ thư. C.4
Câu 2. Đàm Dụng Chi. Thu dạ đồng hữu nhân thoại cựu. C.8
Câu 3. Tần Thao Ngọc. Trường An thư hoài. C3
Câu 4. Lý Thương Ẩn. Xuân nhật ký hoài. C.8
Câu 5. Hàn Ác. Tặng Dịch bốc Thôi Giang xử sĩ. C.7
Câu 6. Lý Phủ. Ngụ hoài. C.8
Câu 7. Trịnh Cốc. Kết thụ Cao Huy Nhiếp phủ thự ngẫu hữu tự vịnh. C.7
Câu 8. Bão Phóng. Tống Tiết Bổ khuyết nhập triều. C.8

Bài 5: 
Câu 1. Đàm Dụng Chi. Ký hữu nhân. C.2
Câu 2. Quyền Đức Dư. Tống Trương Cái Lão trung thừa trì tiết sách điếu Hồi Hột. C.8
Câu 3. Lưu Vũ Tích. Tảo xuân đối vãn phụng ký Phong Châu Nguyên lang trung. C.3
Câu 4. Trương Tân. Tiền Đường dạ yến lưu biệt quân thú. C.2
Câu 5. Lưu Trường Khanh. Đăng Dư Vu cổ thành. C.3
Câu 6. Vương Duy. Trước tiểu dữ Bùi Địch. C.6
Câu 7. Đàm Dụng Chi. Thu dạ đồng hữu nhân thoại cựu. C.7
Câu8. Hứa Hồn. Bá Thượng phùng Nguyên Cửu xử sĩ đồng quy. C.8

Bài 6: 
Câu 1. Tư Không. Đinh Tị Trùng dương . C.2
Câu 2. Hứa Hồn. Lăng Cao đài tống Vi Tú tài. C.2
Câu 3. Lý Ích. Hại tước lâu. C.7
Câu 4. Tiền Khởi. Tặng khuyết Cai Hạ Bùi Diêm xá nhân. C.6
Câu 5. Đỗ Mục. Đông Chái ngẫu kinh sử phát ký xá đệ. C.1
Câu 6. Đàm Dụng Chi. Ký Từ thập di. C.1
Câu 7. Hồ Túc. Xung Hư quán. C.7
Câu 8. Bì Nhật Hưu. Ký đề La Phù Hiên Viên tiên sinh sổ cư. C.2

Bài 7: 
Câu 1. Tư Không Đồ. Triết thượng. C.4
Câu 2. Ôn Đình Quân. Xuân nhật ngẫu thành. C.8
Câu 3. Tiết Phùng. Vi Thọ Bác thư trai. C.7
Câu 4. Tư Không Đồ. Trần tật. C.2
Câu 5. Lý Bạch. Tương tiến tửu. C.17
Câu 6. Hoàng Phủ Nhiễm. Tống Khổng Sào phủ phó Hà Nam quân. C.8
Câu 7. Đàm Dụng Chi. Di Nam Khang Trần xử sĩ. C.7
Câu 8. Đàm Dụng Chi. Sơn trung xuân vãn ký Giả Viên ngoại. C.2

Bài 8: 
Câu 1. La Ẩn. Xuân nhật đề Thiền Trí tự. C.4
Câu 2. Tiết Phùng. Lục Nhai trần. C.1
Câu 3. Hứa Hồn. Thường du Tống Bổ khuyết thu tịch du Luyện Hồ Nam đình, kim phục đăng thưởng thương nhiên hữu cảm. C.5
Câu 4. Hàn ác. Cấm trung tác. C.2
Câu 5. Dương Cự Nguyên. Tương quy Đông Đô ký Lệnh Hồ xá nhân. C.3
Câu 6. Hứa Hồn. Đăng Úy Đà lâu. C.6
Câu 7. Lý Thương Ẩn. Hòa Lưu bình sự Vĩnh Lạc nhàn cư kiến ký (kỳ tứ). C.7
Câu 8. Hứa Hồn. Tống Nam viện Lư Phán quan bãi chức quy Hoa Âm sơn cư. C.8

Bài 9: 
Câu 1. Chu Loan. Yến Dương phụ mã sơn đình. C.4
Câu 2. Liễu Tử Hậu. Liễu Châu ký hữu nhân Chu Thiều Châu. C.4
Câu 3. Quyền Đức Dư. Tống Lý xử sĩ Qua Dương sơn cư. C.7
Câu 4. Tiết Phùng. Ngũ Phong ẩn giả. C.8
Câu 5. Bì Nhật Hưu. Thứ vận khan yến tân phôi. C.7
Câu 6. Lý Thương Ẩn. Trịnh Châu hiến tòng thúc xá nhân. C.1
Câu 7. Đỗ Phủ. Tống Khổng Sào phủ tạ bệnh quy du Giang Đông kiêm trình Lý Bạch. C.9
Câu 8. Đàm Dụng Chi. Cảm hoài trình sổ tri. C.8

Bài 10: 
Câu 1. Lý Hân. Đề Lư công cựu cư. C.8
Câu 2. Tư Không Đồ. Ngũ thập. C.8
Câu 3. Cao Biền. Khiển hứng. C.7
Câu 4. Tiết Phùng. Tống Cù Châu Thôi viên ngoại. C.2
Câu 5. Hoàng Phủ Nhiễm. Đồng Ôn Đan Đồ đăng Vạn Tuế lâu. C.3
Câu 6. Vương Duy. Thụ vũ Võng Xuyên trang thượng. C.8
Câu 7. Lã Động Tân. Tặng nhân. C.7
Câu 8. Lý Thương Ẩn. Dạ vũ ký thác. C.1

Bài 11: 
Câu 1. Bao Kiết. Tặng Lư sơn Bạch Hạc quán Lưu tôn sư. C.2
Câu 2. Lưu Vũ Tích. Tảo xuân đối vân phụng ký Phong Châu Nguyên lang trung. C.6
Câu 3. Đỗ Phủ. Đường thành. C.7
Câu 4. Hứa Hồn. Bá Thượng phùng Nguyên Cửu xử sĩ đông quy. C.4
Câu 5. Vương Duy. Trước tửu dữ Bùi Ðịch. C.3
Câu 6. Hàn Ác. Trung thu cấm trực. C.2
Câu 7. Hàn Ác. Bán túy. C.7
Câu 8. Lý Thương Ẩn. Vô đề. C.1 (kỳ ngũ)

Bài 12: 
Câu 1. Lý Gia Hựu. Đề biệt Nghiêm Sĩ Nguyên. C.8
Câu 2. Lư Luân. Vãn thứ Ngạc Châu. C.6
Câu 3. Liễu Tông Nguyên. Liễu Châu động manh. C.7
Câu 4. Liễu Tông Nguyên. Hành Dương dữ Mộng Đắc phân lộ tặng biệt. C.6
Câu 5. Triệu Hỗ. Hựu ức Sơn Dương. C.3
Câu 6. Cao Biền. Ký Hu Đỗ Lý Toại Lương xử sĩ. C.1
Câu 7. La Nghiệp. Bộc Xạ pha vãn vọng. C.7
Câu 8. Lục Quy Mông. Khan yếm tân phôi ký hoài Tập Mỹ. C.6

Bài 13: 
Câu 1. Quyền Đức Dư. Tống Lý xử sĩ Qua Dương sơn cư. C.6
Câu 2. Đỗ Mục. Tề An quận vãn thu. C.2
Câu 3. Vương Duy. Xuân nhật dữ Bùi Địch quá Tân Phong lý phỏng Lữ dật nhân bất ngộ. C.3
Câu 4. Lý Thương Ẩn. Hoà Lưu bình sự Vĩnh Lạc nhàn cư kiến ký. C.8
Câu 5. Bì Nhật Hưu. Thứ vận Lỗ vọng dĩ trúc hiệp tất kiến ký. C.7
Câu 6. Cao Biền. Y vận phụng thù Lý Địch. C.6
Câu 7. Thôi Lỗ. Hựu xuân vãn Nhạc Dương thành xuân hoài. C.5
Câu 8. Tào Đường. Tặng Nam Nhạc Phùng xử sĩ nhị thủ. C.8

Bài 14: 
Câu 1. Tiết Phùng. Cung từ. C.4
Câu 2. Lục Quy Mông. Nhàn thư. C.2
Câu 3. Dương Cự Nguyên. Tống Chương Hiếu Tiêu. C.5
Câu 4. Tần Thao Ngọc. Bần nữ. C.2
Câu 5. Đỗ Mục. Ký Triết tây Lý Phán quan. C.3
Câu 6. Tư Không. Hoa hạ. C.8
Câu 7. Tiết Phùng. Kinh thu. C.7
Câu 8. Vi Trang. Hòa nhân mộ xuân thư sự ký Thôi tú tài. C.8

Bài 15: 
Câu 1. Hàn Ác. Tam nguyệt. C.2

Câu 2. Lục Quy Mông. Biệt thự hoài quy. C.4
Câu 3. Hàn Ác. Cấm trung tác. C.3
Câu 4. Lục Quy Mông. Phụng họa ký Dương xá nhân. C.8
Câu 5. Trương Mật. Đề Hoa Nghiêm tự mộc tháp. C.5
Câu 6. Vi Trang. Trường An thanh minh. C.8
Câu 7. Tiết Phùng. Thượng Lại bộ Thôi tường công. C.7
Câu 8. Đàm Dụng Chi. Ký Tả tiên bối. C.8

Bài 16: 
Câu 1. Lưu Vũ Tích. Tống Lý Sửu tiên bối phó tuyển. C.3
Câu 2. Ðường Phu. Tặng Ôn Đình Quân. C.6
Câu 3. Lưu Vũ Tích. Khốc Bàng kinh triệu. C.3
Câu 4. Cao Biền. Lưu biệt Chương Đức quân tòng sự Phạm hiệu thủ. C.2
Câu 5. Đỗ Mục. Đãng Trì hâu Cửu Hoa phong ký Trương Hựu. C.5
Câu 6. Lý Sơn Phủ. Ngụ hoài. C.6
Câu 7. Thôi Đồ. Anh Vũ Châu xuân diểu. C.7
Câu 8. Lưu Vũ Tích. Hán Thọ thành xuân vọng. C.8

Bài 17: 
Câu 1. Thôi Lỗ. Quá man Khê độ. C.1
Câu 2. Lai Bằng. Uyển Lăng tống Lý Minh phủ bãi nhậm quy Giang Châu. C.2
Câu 3. Lý Thương Ẩn. Nhị nguyệt nhị nhật. C.5
Câu 4. Lục Quy Mông. Phụng tống Triết Đông Đức sư thị ngự bãi phủ tây quy. C.2
Câu 5. La Nghiệp. Lạc thủy. C.3
Câu 6. Lý Thương Ẩn. Cẩm sắt. C.8
Câu 7. Tiết Phùng. Lục Nhai trần. C.7
Câu 8. Lý Thương Ẩn. Dã Cúc. C.6

Bài 18: 
Câu 1. Trịnh Cốc. Thục trung xuân mộ. C.1
Câu 2. Đỗ Mục. Đăng Trì Châu Cửu Hoa phong ký Trương Hựu. C.6
Câu 3. Ôn Đình Quân. Xuân nhật tương dục đông du ký Miêu Thân. 
Câu 4. Lý Thương Ẩn. Vô đề (kỳ nhất). C.1
Câu 5. Tiết Phùng. Trường An xuân nhật. C.7
Câu 6. Quyền Đức Dư. Đoan Công. C.4
Câu 7. Triệu Hỗ. Trường An vãn thu. C.7
Câu 8. Triệu Hỗ. Hựu ức Sơn Dương. C.4

Bài 19: 
Câu 1. Hàn Ác. Chưa rõ xuất xứ
Câu 2. Hàn Ác. An bần. C.2
Câu 3. La Nghiệp. Bộc xạ pha vãn vọng
Câu 4. La Nghiệp. Chưa rõ xuất xứ
Câu 5. Đỗ Mục. Tống Lưu tú tài quy Giang Lăng. C.7
Câu 6. Vương Xương Linh. Phù Dung lâu tống Tân Tiệm. C.4
Câu 7. Ngô Dung. Ức sơn tuyền. C.7
Câu 8. Dương Cự Nguyên. Ký Giang Châu Bạch Tư mã. C.8

Bài 20: 
Câu 1. Hồ Túc. Phù Dung hồ phiếm chu. C.8
Câu 2. Đái Thúc Luân. Thù Cảnh Thiếu phủ kiến ký. C.4
Câu 3. Tư Không. Thoái thê. C.7
Câu 4. Trương Mật. Biên thương. C.8
Câu 5. Lý Quần Ngọc. Tương dục Nam hành bồi Thôi Nhập yến Hải Lựu đình. C.7
Câu 6. Vi Trang. Lộc Châu lưu biệt Trương ngoại lang. C.6
Câu 7. Lục Quy Mông. Phụng họa ký Dương xá nhân. C.7
Câu 8. Vi Trang. Quan hà đạo trung. C.6

Bài 21: 
Câu 1. Hứa Hồn. Đồ kinh Ly sơn. C.4
Câu 2. Hứa Hồn. Đăng Lạc Dương cố thành. C.6
Câu 3. Bì Nhật Hưu. Bệnh Khổng tước. C.5
Câu 4. Chương Ngại. Tống Tạ Tiến sĩ quy Mân. C. 8
Câu 5. Lục Quy Mông. Biệt thự hoài quý. C.5
Câu 6. Đàm Dụng Chi. Tống Đinh đạo sĩ quy Nam Trung. C.8
Câu 7. Đàm Dụng Chi. Vị thành xuân vãn. C.7
Câu 8. Ôn Đình Quân. Đồ trung ngẫu tác. C.8

Bài 22: 
Câu 1. Dương Cự Nguyên. Thù Vu phụ mã. C.1
Câu 2. Hàn Ác. Tặng tăng. C.2
Câu 3. Lưu Vũ Tích. Huyền Đô quán đào hoa. C.3
Câu 4. Trần Thượng Mĩ. Hàm Dương hoài cổ. C.6
Câu 5. Lưu Vũ Tích. Kinh Môn đạo hoài cổ. C.7
Câu 6. Trịnh Cốc. Kết thụ Giao Huy Nhiếp phủ thự ngẫu hữu tự vịnh. C.4
Câu 7. Khuyết
Câu 8. Khuyết

Bài 23: 
Câu 1. Vương Biểu. Thành minh nhật đăng thành xuân vọng ký Vương sứ quân. C.2
Câu 2. Trương Mật. Xuân nhật lữu bạc Quế Châu. C.4
Câu 3. Dương Sĩ Ngạc. Thù Tây Xuyên Độc Cô thị ngự kiến ký. C.7
Câu 4. Lý Thương Ẩn. Cẩm sắt. C.1
Câu 5. Lý Thương Ẩn. Trùng hữu cảm. C.5
Câu 6. Đàm Dụng Chi. Tống Tăng Trung Phù Nam quy. C.8
Câu 7. Thương Hạo. Túc Sơn dịch. C.7
Câu 8. Lục Quy Mông. Biệt thự hoài quy. C.8

Bài 24: 
Câu 1. Hàn Ác. Ký Hồ Nam tòng sự. C.1
Câu 2. Tào Đường. Trường An xuân xá tự Thiệu Lăng cựu yến hoài Vĩnh môn Tiêu sứ quân nhị thủ. C.1
Câu 3. Tiết Phùng. Điếu cổ. C.5
Câu 4. Tiết Phùng. Trường An dạ vũ. C.1
Câu 5. Lục Quy Mông. Xương Hạp thành bắc hữu mại hoa ông thảo xuân chi sĩ vãng vãng tạo yên nhân chiêu Nhật Hưu. C.3
Câu 6. Thôi Đồ. Xuân tịch lữ thứ. C.8
Câu 7. Vi Trang. Hòa nhân mộ xuân thư sự ký Thôi Tú tài. C.3
Câu 8. Đàm Dụng Chi. Giang thượng vãn địch. C.1

Bài 25: 
Câu 1. Lý Viễn. Thất hạc. C.8
Câu 2. Lý Hiệt. Đề Duệ công sơn trì. C.6
Câu 3. Tiết Phùng. Bát nguyệt nhất nhật giá hạnh Diên Hỉ lâu khan quan đái hàng nhung. C.7
Câu 4. Quần Ngọc. Tốn Tần luyện sư quy Sầm Công Sơn. C.4
Câu 5. Triệu Cổ. Trường An nguyệt dạ dữ hữu nhân thoại cố sơn. C.5
Câu 6. Dụng Chi. Ký Từ thập di. C.2
Câu 7. Ôn Đình Quân. Dương liễu. C.5
Câu 8. Tiết Năng. Thu dạ lữ xá ngụ hoài. C.2

Bài 26: 
Câu 1. Thôi Lỗ. Hựu xuân vãn Nhạc Dương thành ngôn hoài. C.6
Câu 2. Thôi Ban. Nhạc Dương lâu vãn vọng. C.1
Câu 3. Tống Ung. Chức Nữ hoài Khiên ngưu. C.3
Câu 4. Chương Ngại. Xuân biệt. C.1
Câu 5. Vi Trang. Tư quy. C.7
Câu 6. Ngô Dung. Tân An đạo trung ngoạn lưu thủy. C.4
Câu 7. La Nghiệp. Hạ đệ thư trình hữu nhân. C.7
Câu 8. Đỗ Mục. Đạo nhất Đại Doãn Tồn chi Đình Mỹ nhị học sĩ giản vu thánh minh tự trí tiêu hán mục chi li cùng tụng thiết ư nhất huy thủ mĩ ca thi kiêm tự ngôn chí trình thượng tam quân tử. C.6

Bài 27: 
Câu 1.Đàm Dụng Chi. Vị thành xuân vãn. C.3
Câu 2. La Ẩn. Khúc giang xuân cảm. C.1
Câu 3. Đậu Thường. Hàn thực đồ thứ Tùng Tư độ ký Lưu Viên ngoại. C.5
Câu 4. Thôi Đồ. chưa rõ xuất xứ
Câu 5. Lưu Vũ Tích. Lạc trung tống Dương Xử Hậu nhập quan tiện du Thục. C.7
Câu 6. Lý Thân. Giang Nam mộ xuân ký gia. C.8
Câu 7. Tư Không. Quang Khai tứ niên xuân Mậu Thân. C.7
Câu8. Thôi Lỗ. Xuân nhật Trường An tức sự. C.8

Bài 28: 
Câu 1. Tiết Phùng. Bát nguyệt nhất nhật giá hạnh Diên Hỉ lâu khan quan đái hàng nhung.C.1
Câu 2. Vương Duy. Trước tửu dữ Bùi Địch. C.1
Câu 3. La Ẩn. Miên Cốc hồi ký Sái thị Côn Trọng. C.3
Câu 4. Tiết Phùng. Hán Vũ cung từ. C.6
Câu 5. Lý Hậu Chủ. Cửu nguyệt thập nhật ngẫu thư. C.3
Câu 6. Lý Thương Ẩn. Vô đề (Kỳ ngũ). C.8
Câu 7. Hàn Ác. An bần. C.7
Câu8. Tiết Phùng. Thướng Lại bộ Thôi tướng công. C.8

Bài 29: 
Câu 1. Trịnh Cốc. Chư cung loạn hậu tác. C.4
Câu 2. Lý Hậu Chủ. Cửu nguyệt thập nhật ngẫu thư. C.4
Câu 3. Lục Quy Mông. Phụng họa Tập Mỹ kiến phỏng bất ngộ. C.3
Câu 4. Vương Kiến. Chu gia khê đình. C.8
Câu 5. Lưu Uy. Du Đông Hồ Hoàng xử sĩ viên lâm. C.7
Câu 6. Tần Thao Ngọc. Trường An thư hoài. C.2
Câu 7. Đỗ Mục. Tuyên Châu tống Bùi Thản phán quan vãng Thư Châu thời mộc dụ quy kinh. C.5
Câu 8. Lục Quy Mông. Phụng họa Nhật Hưu bệnh trung khổng tước. C.4

Bài 30: 
Câu 1. Đỗ Mục. Đắc tiến hậu di cư Tra Khê quán. C.4
Câu 2. Tư Không. Triết thượng (Kỳ nhị) C.8
Câu 3. Đường Phu. Tặng Ôn Đình Quân. C.5
Câu 4. Tần Thao Ngọc. Anh Vũ. C.4
Câu 5. Cao Thích. Tống Lý thiếu phủ biếm Giáp Trung, Vương thiếu phủ biếm Trường Giang. C.5
Câu 6. Đàm Dụng Chi. Di Nam Khang Trần xử sĩ. C.1
Câu. Trịnh Cốc. Quyện khách. C.5
Câu 8. Đàm Dụng Chi. Nhàn cư ký... sơn phân. C.8

Chú thích:
(1) Theo Các nhà khoa bảng Việt Nam, Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. Văn học. H. 1993, thì sau khoa thi của Vũ Phạm Hàm (1892) thì không còn ai đỗ Thám hoa.
(2) Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nguyễn Quang Thắng - Nguyễn Bá Thế, Nxb. KHXH, 1991.
(3) 夢 湖 家 集 - HV58 - Viện Sử học.
(4) 探 花 文 集 - VHv.528 - Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
(5) Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn, Phạm Đức Thành Dũng chủ biên, Nxb. Thuận Hóa, H. 2001.
(6) Vị “Tam khôi” cuối cùng. Nguyễn Duy Cách, Nhân Dân cuối tuần số 35 (709) / 1-9-2002.
(7) Phó Hàm (239-294) tự là Trường Ngu, người Thiểm Tây, sống ở thời Tây Tấn, từng giữ các chức Thượng thư tả thừa, Ti bỉnh hiệu úy thời Vũ Đế và Huệ Đế, giỏi thơ văn, có thi tập còn truyền.
(8) Vương An Thạch (1021-1086) tự là Giới Phủ, hiệu Bán Sơn, người Vũ Châu, Tể tướng thời Tống Thần Tông. Ông học rộng, văn chương chuộng thực dụng, giúp đời.
(9) Văn Thiên Tường (1236-1283) tự là Tống Thụy hiệu Văn Sơn, bị quân Nguyên bắt, bất khuất không phục, có truyện chép trong Tống sử.
(10) Hoàng Chi Tuấn (1668-1748) đậu Tiến sĩ thời Khang Hi, là người yêu thích sách, nhà có hơn 2 vạn quyển sách.
(11) Hương Xu thể thi là thơ của phụ nữ, về các đức tốt đáng được ngợi khen.
(12) 集 句 史 論- VHv.1761/1-3 Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
(13) Thập tam kinh: Là 13 bộ sách kinh điển của Nho gia: Dịch, Thi, Thư, Lễ, Xuân Thu, Chu lễ, Nghi lễ, Công dương, Cốc lương, Hiếu kinh, Luận ngữ, Nhĩ Nhã, Mạnh Tử.
(14) 昇 龍 三 十 六 詠. A.378 - Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
(15) Tìm hiểu các thể thơ, Lạc Nam, Nxb. Văn học, H.1993, tr.45.
(16) Tìm hiểu các thể thơ, sđd, tr.47.
(17) Đường thi tuyển dịch, Lê Nguyễn Lưu, Nxb. Thuận Hóa, H. 1997.
(18) b1,b5: là chỉ vị trí câu trích dẫn trong bài 1 và bài 5 của Tập Đường thuật hoài.

Thư mục sách tham khảo
1. Các nhà khoa bảng Việt Nam, Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. Văn học, 1993.
2. Đường thi tuyển dịch, Lê Nguyễn Lưu, Nxb. Thuận Hóa, 1997.
3. Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà vận văn, Á Châu xuất bản, Sài Gòn, 1944.
4. Nguyễn Khắc Phi - Trần Đình Sử: Về thi pháp thơ Đường, Nxb. Đà Nẵng, 1997.
5. Nguyễn Khắc Phi: Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc, Nxb. Giáo dục, 2001.
6. Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn, Phạm Đức Thành Dũng chủ biên, Nxb. Thuận Hóa, 2001.
7. Lạc Nam: Tìm hiểu các thể thơ, Nxb. Văn học, 1993.
8. Trạng nguyên - Tiến sĩ, Hương cống Việt Nam, Bùi Hạnh Cẩn - Cao Việt Anh, Nxb. Thanh niên, 2001.
9. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nguyễn Quang Thắng - Nguyễn Bá Thế, Nxb. KHXH, 1991.
10. Lược truyện các tác gia Việt Nam, Trần Văn Giáp, Nxb. KHXH, 1971.
11. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Trần Văn Giáp, Nxb. Văn hóa thông tin, 1984.
12. Từ điển điển cố văn học, Nguyễn Thạch Giang - Lữ Huy Nguyên, Nxb. Văn học, 1999.
13. Thư mục Hán Nôm - Mục lục tác giả, Ban Hán Nôm, H. 1977.
14. Làng mỹ tục Hà Tây, Nguyễn Tá Nhí, Sở VHTT Hà Tây, 2000.
15. Hà Tây làng nghề làng văn, Phượng Vũ chủ biên, Tập 2, Sở VHTT, 1994.
16. Văn học Hán Nôm Hà Tây 10 thế kỷ, Nguyễn Tá Nhí - Phượng Vũ chủ biên, Sở VHTT Hà Tây, 1997.
17. Người Hà Tây trong làng khoa bảng, Sở VHTT Hà Tây, 2001.
18. Trịnh Khắc Mạnh: Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam, Nxb. KHXH, 2002.
19. 夢 湖 家 集. HV.58 - Viện Sử học.
20. 武 范 諴 李 曆. HV.471 - Viện Sử học.
21. 集 唐 述 懷 . A..2354 - Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
22. 集 句 史 論 . VHv.1761/1-3 - Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
23. 唐 詩 古 吹 箋 註. VHv.1533/1- 2 - Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
24. 唐 詩 合 選 祥 解. AC.215/1-2 - Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(Tạp chí Hán Nôm, Số 1 (74) 2006; Tr.35-47)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét