Thần tích- thần phả Miếu Đồng Cổ, thôn Nguyên Xá, xã Minh Khai, huyện Từ Liêm, Hà Nội
Trước cứ tưởng chỉ có 1 Miếu Đồng Cổ ở trên Thụy Khê, Tây Hồ. Sau này đi điền dã sưu tầm và dịch vụ nhiều, thì ngay mé Tây kinh thành cũng có 1 miếu Đồng Cổ rất là to ở làng Nguyên Xá(nay là xã Minh Khai), Từ Liêm. Làng xóm xưa giờ thành Phường thành Quận cả chả biết đâu đâu. Nay có bản Thần tích Photo, chữ đá thảo. Dịch rồi mà chưa thấy bản dịch nằm ổ nào. Nay xin đăng tạm lên.
I. Giới thiệu văn bản:
1. Văn bản: Tam Thai Sơn Linh Tích, nguyên bản chữ Hán chép tay. Chữ thảo rất khó đọc, chất liệu giấy Dó cũ. Nguyên văn gồm 12 tờ (24 trang).
Bia ngoài đề: 扶演社阮舍村Phù Diễn xã Nguyễn Xá thôn[2]; Mục lục thần phả .
Hiện trạng nhiều tờ bị sắp xếp lộn xộn không đúng thứ tự, gây khó khăn cho Giám định và phiên dịch.
2. Nội dung: chép sự tích núi thiêng Tam Thai sơn ở huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa, tức thần tích Đền Đồng Cổ. Thần hiển linh từ thời Hùng Vương. Trải các đời đều có công lao giúp nước, rất là linh ứng. Các triều đại đều có sắc phong ban tặng.
3. Chép hầu như gần đủ các đợt sắc tặng từ đời Lý đến đời Lê Trung Hưng. Các sự kiện tra cứu tương đối khớp với Chính sử. Các chữ kiêng húy đời Nguyễn như Hoa華, Thì時 đều không tránh đổi hay bớt nét. Có thể giả định đây chính là bản sao gốc trong giai đoạn cuối thời Lê - đầu Nguyễn[3].
Trước cứ tưởng chỉ có 1 Miếu Đồng Cổ ở trên Thụy Khê, Tây Hồ. Sau này đi điền dã sưu tầm và dịch vụ nhiều, thì ngay mé Tây kinh thành cũng có 1 miếu Đồng Cổ rất là to ở làng Nguyên Xá(nay là xã Minh Khai), Từ Liêm. Làng xóm xưa giờ thành Phường thành Quận cả chả biết đâu đâu. Nay có bản Thần tích Photo, chữ đá thảo. Dịch rồi mà chưa thấy bản dịch nằm ổ nào. Nay xin đăng tạm lên.
I. Giới thiệu văn bản:
1. Văn bản: Tam Thai Sơn Linh Tích, nguyên bản chữ Hán chép tay. Chữ thảo rất khó đọc, chất liệu giấy Dó cũ. Nguyên văn gồm 12 tờ (24 trang).
Bia ngoài đề: 扶演社阮舍村Phù Diễn xã Nguyễn Xá thôn[2]; Mục lục thần phả .
Hiện trạng nhiều tờ bị sắp xếp lộn xộn không đúng thứ tự, gây khó khăn cho Giám định và phiên dịch.
2. Nội dung: chép sự tích núi thiêng Tam Thai sơn ở huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa, tức thần tích Đền Đồng Cổ. Thần hiển linh từ thời Hùng Vương. Trải các đời đều có công lao giúp nước, rất là linh ứng. Các triều đại đều có sắc phong ban tặng.
3. Chép hầu như gần đủ các đợt sắc tặng từ đời Lý đến đời Lê Trung Hưng. Các sự kiện tra cứu tương đối khớp với Chính sử. Các chữ kiêng húy đời Nguyễn như Hoa華, Thì時 đều không tránh đổi hay bớt nét. Có thể giả định đây chính là bản sao gốc trong giai đoạn cuối thời Lê - đầu Nguyễn[3].
II.
Dịch nghĩa và chú
thích:
TAM THAI SƠN LINH
TÍCH
(DẦU THIÊNG NÚI TAM THAI)
Thời Hùng Vương, vua đem
quân đi đánh Chiêm Thành, quân theo đường núi tiến đến chân núi thôn Khả Lao
huyện Yên Định[4]
thì dừng đóng. Đêm vua nằm mơ thấy có vị Thần nhân nói với vua rằng:
“Nguyện đem theo trống đồng,
dùi đồng đi giúp quân vua đánh giặc”.
Vua tỉnh giấc, theo y lời.
Đến khi giao chiến với quân Chiêm, thấy trên không trung như có tiếng kiếm kích
đồng giao tranh nhau. Quân Chiêm thua to, quân vua toàn thắng khải hoàn. Sắc
phong cho thần là: ĐỒNG CỔ TỪ ĐẠI VƯƠNG 銅鼓祠大王(chuyện chép trong sách Di biên[5]).
Đến đời Lý Thái Tông,
khi vua còn là Thái Tử, được vua cha Lý Thái Tổ sai đem quân đi chinh phạt
Chiêm Thành. Khi quân đến Trường Sa, đêm đỗ thuyền nghỉ, khoảng sau canh 3, vua
mộng thấy một người đàn ông mặc võ phục, tay cầm kiếm thưa với vua rằng:
“Tôi là chủ núi Đồng Cổ,
nghe tin chúa thượng Nam
chinh, xin được theo quân lập công”.
Thái Tông mừng mà đồng ý cho theo, quả nhiên
hành quân thu được toàn thắng. Bình được Chiêm Thành, ban sư về kinh, Thái Tông
bèn cho chọn đất tốt trong Kinh thành để lập đền thờ. Còn chưa định được chỗ
nào. [1a]
Đêm lại mộng thấy thần báo, chỗ đất bên phải trong
thành phía sau chùa Thánh Thọ là nơi có duyên trước. Thái Tông y theo mệnh cho
lập đền thần trong Kinh thành mé bên phải chùa Từ Ân[6].
Khi vua cha Thái Tổ băng hà, quần thần xin Thái Tông
lên ngôi. Thần đã sớm báo mộng trước, báo cho Thái Tông biết ba vương là Đông
Chinh vương, Dực Thánh vương, Vũ Đức vương có âm mưu làm chuyện phạm nghịch,
xin vua có chuẩn bị để phòng ngự. Thái Tông tỉnh ra, sai bề tôi trong cung là
Lê Phụng Hiểu chống giữ. Phụng Hiểu vung kiếm xông thẳng đến cửa Quảng Phúc, giết
chết Vũ Đức vương, lấy áo chiến đem về báo công. Nội nạn được dẹp yên, đúng như
điềm thần ứng mộng. Thái Tông lấy làm lạ lắm.
Năm Thiên Thành thứ nhất (1028) ra chiếu ban cho thần
làm Thần chủ việc kết minh trong thiên hạ (Thiên hạ chủ minh天下主盟), ban thêm vương
tước. Mỗi lần làm lễ hội minh trong miếu cho đắp đàn treo kiếm chiến chỗ trước
thần vị, đọc lời thệ rằng: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung,
thần minh tiêu diệt”. Các quan từ cửa Đông Môn đi vào qua trước thần vị làm lễ
uống máu, cứ hàng năm như lệ.
Từ thời Quốc triều ta gây dựng, trước trải các đời Ngô,
Đinh, Lê ba họ ấy [1b] còn chưa tường chính thống kỉ cương, kẻ loạn thần tặc tử
còn ý phản nghịch chưa hết, lòng trung mới thế, nên suy tôn thần vương làm chủ
việc Minh thệ. Người người đều kính sợ linh thần, biết trước được lòng người
ngay chính, nên không dám manh tâm hai lòng phản trắc. (Trích trong sách Quốc sử và các sách Trích quái, U linh).
Đến đời Trần Thái Tông, năm Kiến Trung thứ 2 (1226), vẫn
theo lệ cũ của triều Lý. Hàng năm ngày mùng 4 tháng 4, Tể tướng hội họp bách
quan, từ lúc gà gáy đã tụ ngoài cửa thành. Khi trời còn chưa sáng thì vào trầu,
nhà vua ra ngự phía trái điện Đại Minh. Trăm quan triều phục trầu bái, rồi ra
ngoài cửa tây thành, đến trước đền thần làm lễ hội minh, uống máu ăn thề, lấy
máu viết lời tuyên thệ rằng: “Làm tôi tận trung, làm quan thanh bạch,
có trái lời thề này, thần minh chu diệt”. Tuyên thề xong, quan Tể tướng kiểm duyệt
các quan, thiếu ai thì phạt 5 xâu tiền. Ngày hôm ấy, dân bốn phương tụ hội xem đông
nịch, là một ngày lễ lớn. (Việc trích trong Quốc sử).
Thời vua Trần Nhân Tông, niên hiệu Trùng Hưng, sắc
phong thần làm: Linh Ứng Đại Vương靈應大王. Năm thứ 4 (1288), lại gia phong thêm 2 chữ: Chiêu Cảm昭感. [2a].
Thời vua Trần Anh Tông niên hiệu Hưng Long năm thứ 21
(1313), lại gia phong 2 chữ: Bảo Hựu保佑, vì có công ngầm giúp vậy. (trích trong Việt U Linh Tập).
Thời Lê Thánh Tông Thuần Hoàng đế, năm Hồng Đức thứ nhất
(1470), mùa đông tháng 10, Vua đi đánh Chiêm Thành ở phương nam, có sai quan đến
tế đảo với thần. Khi đánh nhau với giặc, ở trước trận ẩn hiện như có quân binh
đánh giúp quân ta chiến thắng vậy. Khi phá xong Chiêm Thành, đem quân khải
hoàn, vua phong cho thần là: Đồng Cổ Điện
Chủ Minh Đại Vương銅鼓殿主盟大王.
Các triều đều có gia phong:
Dực Chính Thuận Hòa
Thông Tế Lẫm Liệt Hiển Hựu Quảng Đức Chương Tín Mặc Vận Khuông Hóa Phổ Huệ Tĩnh
Nạn Định Quốc Hoằng Phúc Tuy Hưu Trinh Nghị Nhung Công Hộ Quốc Thâm Vật Diên Huệ
Trùng Nhân Phổ Bác Uy Minh Khâm Triết Ưu Nghiêm Hoằng Lễ Đôn Nghĩa Đoan Túc
Cung Ý Tuy Hựu Diễn Khánh Bố Đức[7] (62 chữ, không rõ
phong từ triều nào)
Đầu đời Trung Hưng, năm vua Kính Tông Huệ Hoàng Đế năm
Hoằng Định thứ 2 (1601), ngày mùng 2
tháng 6, gia phong [2b]12 chữ là: Khoan
Hồng Thông Duệ Tuyên Từ Hưng Tường Trợ Thắng寬洪聰睿宣慈興祥助勝. Lời sắc lại rằng:
Ngũ nhạc tinh linh[8],
muôn thửa miếu đường, núi sông tọa trấn. Khí thế hùng tráng muôn nghìn dặm,
xông vượt sóng trào dòng sông sâu. Sắc là Uy
Linh Đại Trợ威靈大助. Ba năm trợ giúp công lớn, đáng được
gia phong.
Ngày 22 tháng 2 năm thứ 12 (1611), có công trừ tai giải
hạn cho dân, có ân với nước khôi phục nước nhà. Thực là nhờ sức thần ủng hộ.
Gia phong 4 chữ là: Quảng Hi Chí Đức廣禧至德. Lời sắc rằng: Khí bẩm tinh anh núi sông hun đúc. Nghe
mà chẳng thấy, nhìn mà chẳng hay[9]. Trí diệu
sâu thay, giải hạn trừ nguy công lao sáng rõ sự nghiệp như nhà Hạ, thờ tự được
nổi như ở đời Ngu[10].
Đời vua Thần Tôn năm Vĩnh Tộ thứ 1 (1619)[12], ngày
25 tháng 6, có lệnh chỉ của chúa Đô Nguyên soái Tổng quốc chính, Thượng phụ
Bình An vương[13]
cho bản xã [3a] có đền được đặt chức Lại thu thuế cung thần, cung Lại.
Người làng Nguyễn Xá[14] có 27
người (cung thần thuế 3 người) để phụng sự việc đền thờ thần.
Ngày 20 tháng Giêng năm thứ 2 (1620), vì có hiển linh
giúp nước. Gia phong 4 chữ: Sùng Huệ Thuần
Hựu崇惠純佑. Lời sắc rằng: Thông minh ngay thẳng,
hương lửa cao bay. Nhìn mà chẳng thấy nghe mà chẳng hay[15]. Mênh
mang như ở trên cao, giải tai trừ họa linh thanh hiển hách, công lao giúp dập
rõ ràng. Lệ đáng bao phong ghi trong tự điển.
Ngày 29 tháng Giêng năm thứ 6 (1624). Chúa thượng là
Nguyên soái Tổng quốc chính Thanh Đô vương[16] có lệnh
chỉ cho dân Nguyễn Xá hàng năm các hạng tiền thuế quý, thuề hộ phân và sưu sai
các thứ được miễn trừ.
Ngày 20 tháng 2, năm thứ 7 (1625)[17], có
công hiển ứng ngầm giúp quốc gia. Được phong 2 chữ: Hiển Linh顯靈. Lời sắc rằng: Đất
trời nên tú khí, núi thiêng dục tinh anh. Bẩm tư chất rất lạ rất thiêng. Lại trắc
giáng lên xuống thường ân thường huệ. Phúc lộc cảm ứng tự nhiên. Ngầm phù mệnh
nước Việt ta, lễ có đăng trật trong tự điển. [3b].
Ngày 24 tháng 2, năm thứ 8 (1626), giặc Mạc đến hàng,
giúp nước có công[18]. Phong cho 4 chữ: Tuyên Từ Huệ Hòa宣慈惠和. Lời sắc rằng: Đất trời dưỡng dục sông núi đúc thành.
Linh thanh hiển hách, mêng mang trên cao, trừ tai đuổi hạn, công lưu sáng rõ.
Thực nhiều công phù hộ, đáng ghi gia bao phong điển lễ.
Ngày 17 tháng 11, năm thứ 9 (1627), chúa Thanh Đô vương
có lệnh chỉ cho bản xã tuyển sái phu 18 người lo việc của bản đền.
Tháng 4 mùa hạ năm Long Đức thứ 1 (1629)[19], có hạn,
mệnh sai quan đến tế cầu được mưa (việc chép trong Quốc sử).
Ngày 26 tháng 7, lại cầu được mưa, gia phong 4 chữ: Tế Thế Đạt Hiếu濟世達孝. Lời sắc rằng: Khí bẩm
ngũ nhạc, trí sáng trăm loài. Đức thịnh ở trên mêng mang rộng lớn. Tế tự hưởng
đến muôn đời. Công giúp dập tỏ linh, mạch nước dài hiển hách trăm năm. Nay lại
cầu được mưa. Đáng ghi bao phong tự điển [4a].
Ngày mùng 6 tháng 8, năm thứ 2 (1630), lệnh chỉ cho Cai
hợp, Lệnh sử, Phó đoán sự, Quế Lĩnh tử Đỗ Đình Khoa, lĩnh Thủy binh thuyền đưa
đồ tế khí đến cho dân Nguyễn Xá giữ gìn việc tế tự.
Ngày mùng 2 tháng 10 năm ấy (1630), chúa Thanh Vương thấy
điện miếu bị hư hại, lệnh chỉ cho Văn chức chỉ huy Thiêm sự Nhân Thọ nam Nguyễn
Tất Thủ, Xá nhân Chỉ huy Đồng tri Lương Thụy tử Nguyễn Đăng Dụ, Tướng thần Tự
thừa Khánh Nham nam Nguyễn Bá Phùng đốc suất dân đinh trong huyện Yên Định kiếm
gỗ lim, tìm ngói miếng, để làm 5 gian chính đường của điện miếu và nhà Xuyên đường
hình chữ Công 3 gian, một tòa nghi môn, 6 gian Túc yết[20] và Trù
phòng[21] cùng tường
bao 4 bên, làm cho thật bền chắc.
Ngày 29 tháng 3, năm thứ 4 (1632), vì triều thần bàn luận
chuyện lập Thế tử để trọng quốc thể. Là việc lớn trọng đại. Nên gia phong cho 4
chữ: Dương Vũ Phù Tộ揚武扶祚. Lời sắc rằng: Mêng
mang trên cao, hiển hách linh thiêng, nhìn mà không thấy, nghe mà không hay. Đức
thần cực lớn lao thay [4b]
Đảo thì ứng cầu thì đạt. Như cảm ắt thông. Các đời thế
thần gìn giữ[22],
lễ phong trong Tự Điển[23], văn
chép cử hành.
Năm ấy, phong Sùng Quận Công Trịnh Kiều làm Tiết Chế
Sùng Quốc Công[24],
lại gia phong 4 chữ là : Hậu Trạch Trọng
Nhân厚澤重仁.
Ngày 27 tháng 5 năm thứ 5 (1633), muốn thu khí hòa của
trời đất, nên trai giới sảnh cung khắc kỷ thực ý cầu đảo, gia phong 4 chữ là: Dực Vận Tán Trị翊運贊治. Lời sắc rằng: Thực không kém với cái đức lớn của thần,
nhiều lần chống tai đuổi hạn gắng công, muôn đời uy linh có công giúp dân giữ
nước. Trăm năm miếu tế, mạch nước sâu dầy trợ chép lễ văn đề cử. Bao phong.
Ngày 24 tháng 5 năm thứ 6 (1634), thành tâm cầu đảo được
ứng mưa lành[25].
Gia phong 4 chữ là: Cương Nghị Hùng Đoán剛毅雄斷. Lời sắc rằng: Dấu tích của tạo hóa, tinh linh của Âm
Dương, hun đúc bởi Ngũ nhạc Tam quang[26], được
chính khí, diệu hóa bách vi, thông vạn loại[27]. Nghiệm
hữu hiển linh, nay nhân thời cảm thông, ghi điển bao phong.
Ngày 27 tháng 3 năm Dương Hòa 3 (1637), nghiệm có linh ứng
giúp nước cứu dân, lại gia phong [5a]
bốn chữ : Tuy Lộc
Diễn Phúc綏祿衍福. Lời sắc rằng: Đức lớn thịnh thay,
thực không quá với sự linh nhìn không thấy, nghe không hay[28], mêng
mang như ở trên cao, cảm ắt thông, cầu ắt ứng điều nguyện, linh hiển giúp dập
có công nên đề cử bao phong, gia phong 6 chữ: Tích Mưu Khuông Quốc Hựu Dân 積謀匡國佑民.
Ngày 28 tháng 12 năm thứ 8 (1642), có việc đem quân
đánh đảng giặc, thu phục lại biên cương. Có công giúp đại quân toàn thắng[29]. Gia phong
6 chữ: Bảo Dân Trợ Thuận Uy Anh保民助順威英. Lời sắc rằng: Đất
trời dựng dục, sông núi kết tinh. Bẩm linh khí chất thiêng từ trời, anh linh
khôn đoán. Giúp nước vững bền bằng Thái Sơn, ngầm trợ hiển linh thần, hưởng tế
tự còn lưu trong Hoàng điển[30].
Đời vua Chân Tông Thuận Hoàng đế, năm Quý Mùi niên hiệu
Phúc Thái thứ 1 (1643), ngày mùng 2 tháng 12, có sắc chỉ cấp cho bản xã, binh
dân các hạng. [5b]
Phụng sự đền miếu của làng Nguyễn Xá được miễn thuế quý[31] và các
việc phu dịch. Lại ban cho thuế ngạch Quan điền[32], thuế đất
bãi dâu vàng (Hoàng Tang châu thổ)[33], thuế
đò, chợ các hạng để cung tiến việc hương khói (Nay vẫn còn bia đá bên đây[34]).
Ngày 17 tháng 7 năm Ất dậu thứ 3 (1645), hiện rõ linh ứng
có công giúp mệnh nước, tăng vương thọ, giữ yên ngôi kế vị của nước nhà. Gia
phong 6 chữ: Hoằng Mô Quảng Nghiệp Phong
Công宏謨廣業豊功. Lại tăng thêm 4 chữ là: Kính Thiên Pháp Tổ敬天法祖. Lại thêm 6 chữ: Anh Linh Bảo Dân Trợ Uy英靈保民助威. Lời sắc ở trên rằng:
Linh thông hiển hách, mênh mang trên cao, tai giải hoạn trừ, bảo cảnh một phương.
Cầu tất ứng đảo tất thông. Phụng tế trăm năm, công lao giúp nước. Lễ đáng gia
phong. Lại gia phong 6 chữ: Thịnh Đức Hiển
Thông Diệu Cảm盛德顯通妙感 (do bản chính sắc
bị khuyết[35]).
[6a]
Ngày mùng 2 tháng 10 năm Mậu Tý, thứ 6 (1648), hiển
linh trừ gian khử ác. Cầu được như ý, giúp nước có công. Gia phong 4 chữ: Thần Thánh Tán Thành神聖贊成. Lời sắc rằng: Đức bẩm thông minh, tư kiêm chính trực[36]. Hương
khói lẫy lừng. Rõ mà không thấy không nghe[37]. Hiển
hiện vi diệu, nhiều phen giải ách trừ tai có công. Mệnh nước được tăng cường, Tự
điển chép ghi đáng được gia phong.
Ngày 28 tháng 2 năm Ất sửu, thứ 7 (1649). Nhờ Hoàng
thiên quyến mệnh, bảo hộ Vương gia, hiệp giúp Đế thất sinh được Hoàng tử. Khiến
dòng giống được thịnh dài mãi mãi. Thực nhờ lực thần phù trì, đáng gia phong.
Gia phong 6 chữ: Khoát Đạt Khoan Nhân
Minh Trí豁達寬仁明智. Lời sắc rằng: Tính hay chính trực
đức vốn thông minh. Được tinh anh của hai khí, thăng giáng khôn đo. Giúp tông
xã nối phúc dài muôn ức vạn năm. Có công giúp giập nên đáng bao phong. [6b] [38]
Lại đổi cho 10 chữ là: Thịnh Đức Hiển Thông Diệu Cảm Thần Thánh Tán Thành盛德顯通妙感神聖贊成, thành 6 chữ là: Vĩ Đức Hùng Tài Đại Lược偉德雄才大略.
Đời vua Thần Tông năm Khánh Đức thứ 4 (1652), ngày 29
tháng 2 năm Nhâm Thìn, có công ngầm giúp Vương phủ được Thiên triều tấn phong
Phó Quốc vương[39].
Được nước gia phong 6 chữ: Trung Chính
Túy Tinh Thần Vũ中正粹精神武.
Năm Thịnh Đức thứ 2 (1654), ngày 5 tháng 10 năm Giáp ngọ.
Chúa Thanh Vương thấy điện miếu lâu năm bị sụt hỏng, lệnh dụ cho Thị Nội Giám
tước là Nghĩa Hầu Lê Đình Kiên đốc dân đinh trong huyện lên vùng núi các nơi
tìm mua gỗ lim loại xanh tốt để về dựng điện miếu. Dân hai xã Vệ Quốc, Quốc
Bàng làm khán thủ[40] được miễn
sưu dịch.
Ngày 6 tháng 7 năm Ất mùi, thứ 3 (1655), có công ngầm
giúp hoàng gia thịnh trị, giúp vương thất vững bền, sĩ tốt thêm tăng uy vũ [7a], nhuệ khí trừ đảng gian ác, giúp đại quân thu thắng vạn
toàn, thu phục lại giang sơn nhất thống, rất là linh ứng[41]. Gia
phong 6 chữ: Phù Quốc Tán Mưu Trợ Uy扶國贊謀助威.
Ngày 6 tháng 4 năm thứ 4 (1656), Chúa Thanh Vương lại
ngự ban 3 tòa kiệu và các đồ Tế khí. Giao cho dân làng Nguyễn Xá giữ gìn (hiện
còn bia đá[42]).
Ngày 13 tháng 5 Nhuận năm ấy, có công ngầm giúp đại
quân đánh dẹp yên phương Nam ,
trừ giặc cuồng bạo, thu được toàn thắng, linh nghiệm rõ ràng[43]. Gia
phong 6 chữ: Thông Minh Chính Trực Uy
Linh聰明正直威靈.
Ngày 11 tháng 9 năm Đinh dậu, thứ 5 (1657). Có công
giúp mạch hoàng gia lâu dài, phúc ấm vương thất tiếp nối. Trợ đức vương kế truyền
chính vị, giữ yên thiên hạ, ngầm trợ uy vũ phấn khích sĩ binh tinh nhuệ khí thế
tiếu trừ nghịch đảng. Thu thắng vạn toàn, thống nhất giang sơn. Linh ứng được
gia phong 6 chữ: Hộ Thế Thi Hiệu Hồng
Huân護世施號洪勳. (lại phong nữa)[44] [7b]
Được 10 chữ là: Thuần
Tín Minh Nghĩa Trợ Thắng Đại Đức Thùy Viễn 惇信明義助勝大德垂遠. (nhưng nguyên bản bị rách khuyết).
Đời vua Huyền Tông Mục Hoàng đế, ngày 17 tháng 5 năm
Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Trị thứ 2 (1664). Đại Nguyên soái Chưởng quốc chính,
Thượng sư Tây vương[45] có lệnh
chỉ, cho dân xã Phù Diễn[46] được
trông coi phụng sự đền thần, được miễn trừ các hạng thuế tiền quý, tiền hộ phân
các việc. Nha môn các nơi không được nhũng nhiễu.
Ngày mùng 8 tháng 6 năm ấy, Khâm sai tiết chế các xứ thủy
bộ chư doanh, kiêm Thống quốc vụ Nghi Quốc công[47] ra chỉ,
tha miễn cho dân làng Nguyễn xá các hạng thuế tiền quý, tiền hộ phân các việc.
(Lệnh chỉ và Chỉ ban ra đều có bia đá.)
Ngày 18 tháng 4 năm Canh tuất, thứ 8 (1670), đánh dư đảng
giặc họ Mạc, thu phục bờ cõi thành công, thần hiển oai linh trợ giúp. Được gia
phong 6 chữ: Thông Minh Thần Công Thánh
Đức聰明神功聖德.
Đời vua Gia Tông Mỹ Hoàng đế, ngày 17 tháng 5 năm Nhâm
tý niên hiệu Dương Đức thứ 1 (1672), đem đại binh đánh dẹp giặc cuồng thu phục [8a]giang sơn về một chế độ[48]. Sai
Phó cai ty, Xá nhân Vũ Nhượng tử, trai giới đến kính lễ cáo tế ở trước miếu.
Ngày 29 tháng 7 năm thứ 3 (1674), (là năm Giáp dần, năm
ấy ghi nguyên lịch đã là năm niên hiệu Đức Nguyên năm đầu). Có công giúp hoàng
gia bảo yên xã tắc vương nghiệp ổn định. Mệnh nước nhờ đó được trường cửu. Thật
là linh ứng. Được gia phong 6 chữ là: Hiền
Thánh Nhân Hiếu Công Cao賢聖仁孝功高.
Đời vua Hi Tông Hoàng đế, ngày 27 tháng 3 năm Kỷ mùi,
niên hiệu Vĩnh Trị thứ 4 (1679), chúa Tây Vương thấy đền miếu lâu ngày bị hư hỏng.
Có lệnh dụ cho bọn Thị nội văn chức lang trung Thái Dược bá Đỗ Phúc Miên, Nội
giám Trẩn Lộc bá Ngô Liễn đến khảo sát, chuẩn định công trình. Theo số dân đinh
liệu việc đủ để sửa sang. Ngày 21 tháng 9 năm ấy, lệnh dụ cho bọn Trấn thủ xứ
Thanh Hoa là Thiếu bảo Lĩnh Quận công Ngô Hữu Dụng và Đốc đồng đạo Hưng Hóa,
Giám sát Ngự sử Lê Hữu Trinh, tạm lấy tiền của quan khố 300 quan đến khảo sát.
Nhân dân ở Nguyễn Xá mua lại của các tổng xã huyện Quảng Bình [8b] .
Trách sức cho huyện quan chuẩn bị đẩy đủ các hạng, theo
suất mà phát tiền mua gỗ lim, trụ mộc, ngói miếng, đinh sắt các loại. Đưa về điện
miếu xã Đan Nê thượng[49], rồi chọn
ngày xây sửa. Một gian thượng điện hình chữ Công工, ba gian trung điện hình chữ Công工, ba gian hạ điện
hình chữ Công工 với hai gian Giải
hạ[50]; ba
gian nhà Xuyên đường[51] bên
trái với hai Giải hạ; ba gian nhà thay mã (Dịch Mã đường)[52] với 2
giải hạ, lại tu sửa tường bao bốn bên, chủ cho bền chắc.
Ngày tháng 6 năm Canh Thân, năm thứ 5 (1680), các quan
Tham tụng Nguyễn Mậu Dương, Hồ Sĩ Dương có lời khải tâu rằng: Bọn Thị nội văn
chức lang trung Đỗ Phúc Miên, Nội giám Ngô Liễn đến khám nghiệm khảo sát đền miếu
Đồng Cổ. Các hạng tế khí được trên ban đều đã bị hỏng mọt. Nay kính xin ngự ban
cho được như dấu tích cũ để dân Nguyễn Xá phụng thờ.
Ngày 14 tháng 12 niên hiệu năm Chính Hòa thứ 1 (1680),
chúa Tây vương có lệnh chỉ truyền cho bọn Ty Lễ giám, Đồng tri giám sự Xá Lang
hầu Hoàng Đình Tiến [9a] ,và Trẩn Lộc hầu Ngô Liễn đôn đốc việc làm các đồ tế
khí. Xong việc sai quân chở về điện miếu giao cho dân làng Nguyễn Xá lĩnh giữ
phụng sự các đồ tế khí ấy.
Ngày 20 tháng 3 năm Nhâm tuất, thứ 3 (1682), quan viên
nhân dân, với quan Giám sát đạo Lạng Sơn, Ngự sử Trịnh Minh Lương cùng toàn xã
theo lệ cũ bản đền hàng năm. Lệ tế xuân, trong tổng chỉnh biện lễ Thái lao[53] dê lợn
các bàn đến tế. Năm trước quan huyện cũ
đã chia riêng các xã thôn tế riêng các đền, chỉ để cho 3 xã làm tế nhỏ ở
bản đền. Đến nay quan huyện theo thế mà không sửa. Xin cho theo lệ trước để hợp
lễ trong điển tế tự. Khi Phủ liêu phó cho quan ở Hạ lộ đến tra cứu. Có bọn Tham
chính xứ Thanh Hoa là Nguyễn Viết Đương, Tham nghị Nguyễn Xuân Bỉnh tra xét
đúng sự thực, có khải tâu lên, truyền cho được theo lệ trước.[54]
Ngày 24 tháng 6 nhuận năm Quý hợi, thứ 4 (1683), có
công ngầm giúp Huân Vương Liễn, lên nối nghiệp chúa, năm giữ chính phủ, trông
coi tông xã[55].
[9b]
Vững hồng đồ, thăng lễ bậc. Gia phong 6 chữ: Vọng Trọng Tán Hóa Tương Tòng望重贊化相從.
Ngày 29 tháng 7 năm thứ 19 (1698), Mậu dần, chúa Định
Vương[56] có lệnh
chỉ miễn trừ cho dân Nguyễn Xá các thứ
thuế tiến, thuế hộ cùng sưu sai các hạng.
Ngày 25 tháng 10 năm ấy, Khâm sai Tiết chế kiêm chưởng
quốc chính Thái Úy Tấn Quốc công[57] có chỉ,
cho dân Nguyễn Xá hàng năm được miễn các thức thuế tiền, thuế hộ cùng sưu sai
các hạng.
Đời vua Dụ Tông Hòa Hoàng đế năm Vĩnh Thịnh thứ 6 (1680),
ngày 10 tháng 8. Tự vương được kế thăng vương vị, coi giữ chính phủ, giúp giữ
tông xã, củng cố nghiệp nước. Lễ đáng thăng trật. Gia phong 6 chữ là: Trinh Tường Gia Mỹ Khánh Huệ貞祥嘉美慶惠. Lời sắc rằng: Càn khôn gây dựng, sông núi đúc thành.
Nền đức sung mãn [10a],khôn đoán anh uy. Giúp nước giúp dân vững bền cường thịnh.
Âm chất tỏ tường, nối thừa mệnh lớn. Phong bao ghi trong tự điển. Ngày 26 tháng
ấy, chúa An Đô vương có lệnh chỉ cấp cho dân Nguyễn Xá được miễn các hạng thuế
quý, thuế hộ, đều được miẽn như cũ.
Ngày 23 tháng 9 năm Giáp thìn, niên hiệu Bảo Thái thứ 5
(1724). Chúa An Vương[58] có lệnh
chỉ chuẩn cho bản xã được miễn trừ các hạng tô thuế tiền quý, tiền hộ phân, tiền
thuế quan điền được lượng trừ, lại thêm 20 suất binh để phụng giữ đền miếu.
Ngày 2 tháng 12 năm Canh tuất niên hiệu Vĩnh Khánh thứ
2 (1730), chúa Uy Nam
vương[59] có lệnh
chỉ cho dân làng được chuẩn trừ như trước.
Ngày 10 tháng ấy, Tự vương lên nối ngôi. Có lễ đăng trật, gia phong cho
12 chữ là: Tuấn Đức Long Công Anh Triết
Quả Nghị Quý Huệ Hoằng Dụ俊德隆功英哲果毅貴惠弘裕. Lời sắc rằng: Rạng
rỡ anh linh cùng sông núi, giúp giữ dư đồ thấm [10b]đẹp muôn dân. Ngầm phù ngầm giúp, lẫm liệt như anh
phong còn đó. Mạch nước nối dài, bảo vệ luân thường thuần hậu. Điển sắc đã tường,
ơn trên yêu dưới. Đáng nêu điển cũ.
Đời vua Hiển Tông Vĩnh Hoàng đế, ngày 24 tháng 7 năm
Canh thân niên hiệu Cảnh Hưng thứ 1 (1740), tự vương được lên ngôi báu, coi quyền
chính phủ. Giữ yên tông xã, củng cố nghiệp vua. Có lễ đăng trật đáng gia phong
6 chữ: Văn Đức Vũ Công Anh Triết文德武功英哲 (vì bản chính bị
rách).
Ngày mùng 6 tháng 4 năm Giáp tý, thứ 5 (1744), chúa
Minh vương[60]
có lệnh chỉ chuẩn trừ cho bản xã các hạng thuế tiền quý, tiền hộ phân các việc.
Ngày mùng 8 tháng 8 năm Đinh hợi, thứ 28 (1767), Tự
vương lên nối ngôi, trông coi chính phủ. Có lễ đăng trật. Gia phong 6 chữ: Thần Uy Duệ Toán Hùng Lược神威睿纂雄略. Lời sắc rằng: Trên
cao to lớn, Hiển hách linh thiêng, trừ tai giải họa. Công đức ngầm giúp một thời
[11a], lưu danh lành cho vạn đại. Nay công phù hộ tiếng thơm
đã rõ, sách điển hiệu sáng nên đáng nêu trong điển thờ.
Ngày 28 tháng 9 năm ấy, chúa Tĩnh Đô vương[61] có lệnh
chỉ trừ miễn các hạng thuế tiền quý, tiền hộ phân các việc.
Ngày 13 tháng 10 năm Canh dần, năm thứ 31 (1770), có
công hiển ứng. Gia phong 4 chữ là: Hiệu Linh Dực Thắng.
Ngày 24 tháng 3 năm Tân mão, năm thứ 32 (1771). Chúa
Tĩnh Vương ngạ giá tuần thú về nơi thang mộc ấp. Gia phong 6 chữ là : Bí Sảng Diệu Linh Hiệu Thuận賁爽妙靈號順 (vì bản chính bị
rách nát) [11b].
Ngày 17 tháng 4 năm Bính thân, năm thứ 37 (1776), chúa
Tĩnh Vương có lệnh chỉ lượng trừ 20 suất lính cho lo việc phụng giữ miếu đền.
Ngày 26 tháng 7 năm Quý mão, năm thứ 44 (1783), tự
vương lên ngôi, nắm giữ chính phủ. Có lễ đăng trật. Gia phong 4 chữ: Hiển Đạo Thịnh Đức顯道盛德. Lời sắc rằng:
Ngũ nhạc đúc anh linh, tam quang nuôi tú khí.
Bờ nam cương kỉ vững nghìn năm, giữ cho Ngao trụ[62]
yên bền;
Biên tây linh thiêng dậy muôn thủa, ngầm giúp dân Hồng[63]
khang thái.
Nên tướng[64]
đã thành ơn lạ, bao phong cho đủ điển chương.
Ngày 28 tháng 10 năm Giáp thìn, năm thứ 45 (1784), chúa
Đoan Nam
vương[65] có lệnh
chỉ cho lượng trừ 20 suất lính để cho lo việc phụng giữ miếu đền. Miễn trừ các
hạng hộ dịch khác.[12a]
HẾT.
Khảo sát văn bản, dịch nghĩa chú
thích từ nguyên bản lưu tại đền Đồng Cổ thôn Nguyên Xá, xã Minh Khai, huyện Từ
Liêm, Tp. Hà Nội
Viện nghiên cứu Hán Nôm xác nhận
|
Hà Nội, ngày 4
tháng 6 năm 2009
Người khảo cứu, dịch
chú: Nguyễn Đức Toàn
|
[1]
Núi Tam Thai: tức là núi Khả Lao, có một số
sách chép là núi Đồng Cổ.
[2]
Nguyễn Xá sau đổi thành Nguyên Xá.
[3]
Các sắc phong hiện còn chủ yếu là sắc phong đời
Tây Sơn và đời Nguyễn. Không có sắc đời Lê, có thể bản Thần phả này chép lại từ nguyên văn các sắc phong đời
Lê, trước khi các sắc này bị hư hỏng.
[4]
Nay thuộc tỉnh Thanh Hóa.
[5]
Di Biên chưa rõ là sách nào.
[6]
Có thể là vị trí đền ở bên dòng Tô Lịch, nay là
đền Đồng Cổ, đường Thụy Khuê.
[7]
Đây là các Mỹ tự gia phong cho thần Đồng Cổ. Mỹ
tự là các từ hay từ đẹp xứng với công đức tài
trí của vị thần được thờ phụng. Nên giữ nguyên văn phiên âm Hán Việt và không dịch.
[8]
Ngũ nhạc: 5 ngọn núi lớn, gọi là Ngũ nhạc tinh
linh, ý nói là khi thiêng của núi cao chúng đúc nên Thần.
[9]
Nhìn không thấy, nghe không hay: Chỉ sự linh
thiêng của Thần, dù có nhìn cũng không thể thấy, có nghe cũng không biết. Rất
thiêng, người thường không thể dùng mắt thường tai thường cảm nhận được.
[10] Nhà Hạ (夏) là triều đại của
vua Vũ, được
miêu tả trong các ghi chép sử học cổ đại;
Nhà Ngu, tức triều đại của vua Thuấn (舜) là một vị vua huyền thoại thời Trung
Quốc cổ đại, nằm trong Tam Hoàng Ngũ Đế. Đây ý chỉ nhờ công lao Thần phù hộ cho sự nghiệp của vua ta được yên vững
như nhà Hạ nhà Ngu vậy.
[11]
Đại Việt sử ký toàn thư chép: Tháng 4 năm ấy,
núi Đồng Cổ ở xã Đan Nê thượng, huyện Yên Định bị lở. Sai quan đến cáo tế. Bản Kỷ - Quyển XVIII/tr14a
[12]
Nguyên văn chép là Vĩnh Hựu nguyên niên永祐元年 là 1735, lúc ấy
Bình An vương Trịnh Tùng đã chết từ lâu. Chắc là nhầm của năm Vĩnh Tộ 1(1619),
chúng tôi sửa lại.
[13]
Bình An vương: Chúa Trịnh Tùng.
[14]
Nguyễn Xá: nay là thôn Nguyên Xá.
[15]
Xem chú số 3
[16]
Thanh Vương: Chúa Trịnh Tráng có vương tước là
Thanh Đô vương, gọi tắt là Thanh Vương
[17]
Chữ bị mờ nét, theo thứ tự chúng tôi đoán là
năm thứ 7 (1625).
[18]
Theo sách Việt sử thông giám cương mục thì năm
1625, đem quân đánh Mạc Kính Cung, bắt được đem giết. Cháu Kính Cung là Mạc
Kính Khoan thua chạy, dâng biểu xin hàng, triều đinh y cho trấn giữ ở biên
cương. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục - Chính Biên - Quyển XXXI/ tr690
[19]
Nguyên văn chép là Long Đức nguyên niên (1732),
theo mạch văn chúng tôi cho là chép nhầm của năm Đức Long nguyên niên (1629).
Chúng tôi sửa lại. Đối chiếu thì đúng năm 1629, Mùa hạ, tháng 4, có hạn hán. Đổi niên hiệu là Đức Long năm thứ 1. Đại xá.(Toàn thư Sđd- Bản Kỷ - Quyển XVIII)
[20]
Túc yết: là nhà trai giới sửa soạn trước khi
vào chính điện làm lễ.
[21]
Trù phòng: Nhà bếp.
[22] Đoạn này nguyên văn có mạch chưa rõ. Chúng tôi tạm
theo ý chính để diễn dịch.
[23]
Tự điển: 祀典: tức điển thờ cúng của quốc
gia gọi là Tự điển, chứ không phải là Tự điển để tra chữ tra từ ngày nay.
[24]
“phong Tả tiệp quân dinh Thái phó Sùng
quận công Trịnh Kiều làm Khâm sai tiết chế các xứ thuỷ bộ chư dinh kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự [31a] phó chưởng quốc chính thái uý Sùng quốc công, mở phủ gọi là phủ Hùng Uy” (Toàn thư Sđd- Bản Kỷ - Quyển XVIII)
[25]
Theo Toàn thư thì năm ấy hạn nặng, phải đến đầu thu mới có mưa (Toàn thư Sđd - Bản Kỷ - Quyển XVIII/ tr34a)
[26]
Ngũ nhạc: 5 ngọn núi cao nhất gọi là Ngũ nhạc; Tam
quang tức mặt trời, mặt trăng và sao gọi là Tam
quang. Đây ý nói thần là tinh khí của núi sông trời đất hợp nên. Rất là linh
thiêng
[27]
Bách vi, Vạn loại: Là từ chỉ chung cho muôn vật
trong trời đất. Ý nói Thần là bậc tinh tú hơn hết tất cả.
[28]
Nhìn không thấy, nghe không hay: Chỉ sự linh
thiêng của Thần, dù có nhìn cũng không thể thấy, có nghe cũng không biết. Rất
thiêng, người thường không thể dùng mắt thường tai thường cảm nhận được.
[29]
Theo Toàn thư thì chỉ có năm 1643, có đi đánh Thuận Hóa.
[30]
Hoàng điển: cũng như Tự điển. Nói đền cái sách
lớn của vua, ghi chép những chuyện trọng đại, gọi là Hoàng điển.
[32]
Quan điền: ruộng quan, loại ruộng bị đánh thuế
cao. Nay cũng được miễn.
[33]
Nguyên văn: 黃桑洲土. có thể là chỉ đất trồng
dâu mới khai khẩn ven bãi sông, cũng bị đánh thuế. Nay cũng miễn trừ cho.
[34]
Trước đây ở đền có bia. Nhưng hiện nay đền Đồng
Cổ ở thôn Nguyên Xá, xã Minh Khai, huyện Từ Liêm ngày nay không còn tấm bia
nào. Chúng tôi cần khảo sát thêm. Có thể bia đã được chuyển đi nơi khác.
[35]
Văn bản thường chú những câu như vậy, chứng tỏ
các sắc phong cũ ghi chép đã bị mai một, nhân dân phải chép thêm mỹ hiệu của thần
vào bản Thần phả này.
[36]
Tư chất lại ngay thẳng
[37]
Xem chú số 6 tr4
[38]
Thực chất theo Toàn thư thì năm ấy vua Lê Chân Tông mất, không có con, Thái
thượng hoàng Thần Tông lại phục vị.
[39]
Thiên triều, tức là Trung Quốc. Các vua nước ta
đều chịu sự tấn phong của các thiên tử Trung Quốc. Đây nói việc chúa Trịnh
Tráng được Trung Quốc phong là An Nam Phó Quốc vương. Nhờ oai linh của thần nên
phong cho Thần 6 chữ dưới. Nhưng theo Toàn thư thì nhà Minh phong cho Thanh vương làm Phó Quốc vương là vào tháng 10
năm 1651.
[40]
Khán thủ: chức trông coi đền miếu
[41]
Chỉ việc đánh nhau với quân chúa Nguyễn ở Nghệ
An.
[42]
Xem chú 11 tr5. Hiện tại đền không còn bia. Khi
soạn Thần phả này bia đá hãy còn.
[43]
Tháng 5 nhuận năm 1656, quân nhà Trịnh đánh
nhau với quân chúa Nguyễn ở cửa biển Đại Nại, Nghệ An. Trận ấy quân chúa Trịnh
thắng lớn.
[44]
Năm 1657, chúa Trịnh Tráng mất, chúa Trịnh Căn
lên ngôi, em là Trịnh Toàn ngầm làm phản, bị Trịnh Căn bắt, không nỡ giết, chỉ
an trí trong ngục. Đây nói sự phản loạn bên trong, quân chúa Nguyễn gây sự bên
ngoài, nhờ oai thần mà dẹp yên được cả.
[45]
Tây vương: tức chúa Trịnh Tạc.
[46]
Phù Diễn: có thời kỳ gọi là Phú Diễn. Thôn
Nguyên Xá xưa thuộc Phù Diễn.
[47]
Nguyên văn chép là Tuyên quốc công, chắc là chép nhầm chữ Nghi 宜thành chữ Tuyên 宣 chúng tôi sửa lại
[48] Theo Toàn
thư ghi,
con Trịnh Tạc rước vua Lê Gia Tông ngự giá đi đánh Quảng Nam, sai con là Trịnh
Căn đem đại quân sang sông đánh nhau với quân chúa Nguyễn. Lần ấy cũng thu được
thắng lợi rồi rút quân về.
[49] Xã Đan Nê thượng: nơi đất gốc của Thần Đồng Cổ, cũng
có đền thờ. Theo Toàn thư thì xã này ở huyện Yên Định
tỉnh Thanh Hóa
[50] Nhà Giải hạ: là 2 nhà sắp lễ ở 2 bên cánh.
[54] Lệ tế thần Đồng Cổ là lệ tế lớn của dân trong cả 1 tổng,
sau bị Huyện quan thay đổi thành lễ nhỏ của các xã tế riêng nhau. Nay dân lại
xin làm theo lệ lớn như xưa. Điều tra thấy
đúng sự thực, nên y cho.
[55] Ý nói Trịnh Tạc mất Trịnh Căn lên thay. Trịnh Căn có tước
là Huân Vương ?
[58]
An vương hay An Đô vương: chỉ chúa Trịnh Cương
[62] Ngao trụ: Ý nói nền xã tắc vững bền như trên trụ chân
ngao. Theo truyền thuyết cổ, cả thiên hạ nằm trên các trụ chân của một con ngao
khổng lồ.
[64] Nói việc Thần là tinh anh của sông núi, tụ thành hình tướng.
[65] Đoan Nam vương: tức chúa Trịnh Tông, con trưởng của Trịnh
Sâm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét