Chủ Nhật, 23 tháng 4, 2017

Tờ Khải Nôm của dân các xã Tổng Sài Trang, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng(Hưởng ứng nông dân Đồng Tâm - Mỹ Đức)/ Dương Văn Hoàn dịch

https://www.facebook.com/notes/nh%C3%A2n-m%C3%A3/h%C6%B0%E1%BB%9Fng-%E1%BB%A9ng-n%C3%B4ng-d%C3%A2n-%C4%91%E1%BB%93ng-t%C3%A2m-m%E1%BB%B9-%C4%91%E1%BB%A9c/1994139984143073/
Hình: Ảnh chụp tấm biển sơn son thếp vàng đề 3 chữ “Trung nghĩa dân” hiện được treo tại đầu hồi gian tả đình Thượng thôn Nghĩa Trang, thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Ảnh chụp năm 2010, người chụp: Dương Văn Hoàn.
Lời dịch giả: Nhà tôi là nông dân chính hiệu, nên rất thấu hiểu vai trò của tấc đất. Nhân vụ việc nóng về đất đai ở Đồng Tâm (tháng 4 - 2017), xin chia sẻ bài khải chữ Nôm từ 250 năm về trước của chức sắc tổng Sài Trang dâng lên chúa Trịnh năm 1767, trình bày về nỗi oan của dân khi không được triều đình ghi nhận, đáp đền công lao một cách xứng đáng, đúng mực, ngược lại còn tráo trở, khiến dân phải ngửa mặt than trời như trong câu cụ Tích Trung hầu nêu:
Những nghĩ thái bình hội gặp, mưa huệ dành tưới đến chồi khô;
Nào hay trời bể bóng xa, hơi xuân bỗng rót nơi hang khuất.
Ít nhiều lệ cũ lại tăng;
Mảy chút công xưa chẳng kể.
Biển rỡ rỡ chữ còn thương bạch, bài Viên cai đã đốc xúc tơi bời;
Lệnh rành rành ấn chửa phai son, biện xã chánh đã thôi câu lẩn quất.
Câu “khoát miễn” ra câu “bất miễn”, miễn một điều vác dựa nhổ chông;
Chữ “đồng trừ” nên chữ “vô trừ”, trừ những việc đưa lương, hướng đạo.
Khu khu lòng mọn, khôn thấu vầng son;
Lớp lớp trời cao, chăng soi chậu úp”.

(Toàn văn đã được in giới thiệu trong cuốn Tục lệ Hưng Yên tập I, Thư viện tỉnh phát hành năm 2015, tr.685-696)

Bài khải của sắc mục các xã thuộc tổng Sài Trang:

Thượng Hồng phủ Đường Hào huyện Sài Trang tổng các xã sắc mục Đỗ Đình Hoàn, Phạm Đình Quý, Phạm Đạo Túc, Ngô Tất Nghiễm, Trần Công Luân, Nguyễn Trần Huân, Trương Phú Nhiêu, Đỗ Đình Quang đồng bản tổng cẩn khải minh vi trần tình lai lịch, cung khất đỗng chiếu, chẩn cập vi lao miễn oan ức sự.
Do lai bản tổng chúng tôi sở cư chi địa, hạnh thời lân tiếp cộng Tử Dương ngoại hương. Từ năm Canh Thân, tặc đồ tốt khởi cử phương chi dân nhi tặc. Bấy giờ bản tổng chúng tôi rốt có chú Tích Trung hầu tôi với sắc mục chúng tôi nhủ nhau dốc lòng trung nghĩa, có khải đỗng đạt ban phụng truyền chú Tích tôi củ lấy chúng tôi phân tùy quan quân truy thảo, gia cư tịnh vị tặc đồ phần hủy. Tân Dậu niên đãng bình Nguyễn tặc, chúng tôi thiểu hữu thốn công, phụng đắc thưởng ban Sắc lệnh ngoài năm mươi đạo.
Nhâm Tuất niên, He Chất đẳng nó lại khiếu tụ dấy lên phần phá phương dân, thì chúng tôi lại thiết đồn tự thủ, dữ tặc tương cự từ Quý Hợi chí Tân Mùi, phàm cửu niên dư. Chúng tôi lại cung phụng truyền giản trạch cường tráng tam bách nhân trí vi Hùng Trang đội, ban cho chú Tích tôi cai [123] lấy, tự biện tư lương, lịch tùy Thống lĩnh đẳng quan sai bắt điều khiển đông chinh tây thảo bách chiến gian quan, mỗi trận tiền khu, đạo nguy lý hiểm, hạnh nhi trảm đắc tặc cừ, tặc đảng phu hoạch tặc tốt tặc khỏa toán lai thậm chúng. Gian thừa Thống lĩnh, Đốc lĩnh đẳng quan, lũy kỳ bảo cử trông ân Đại đức tuất cập vi trung. Giáp Tý niên vâng ban cho chúng tôi vi Trung nghĩa dân, có chữ ban rằng giá hệ: “để trụ hoành lưu, sở đương tinh thưởng, chuẩn các xã vi Trung nghĩa dân, tùy tòng công thảo, đãi thanh bình hậu, chuẩn trừ phú dịch”. Đến năm Ất Sửu, tặc thế xương cuồng, thừa Kiêm Thống lĩnh đẳng quan lũy kỳ bảo cử lại ban phụng truyền cho chú tôi với chúng tôi rằng hệ: “tinh thục đương quy thụ chi phong thanh, chiếu đắc y tổng tự Canh Thân niên gian, đào oánh nghịch đồ dịch tao ư quận cảnh, ngọ hào hiệt khỏa phiến khởi ư huyện trung. Vô lại chi đồ suất đa ảnh phụ, nãi độc phù huề tỵ trọc, kiều lữ đãi thanh, tỷ cập tương suất quy lai, phi kinh cức nhận thôn trang, cánh bị He Chất đồ đảng thiết tụ tứ bàng phân sao bách xuất, phàm ký hồi phục tùy diệc lưu di, khước năng thệ chí đồng cừu, kiên tâm hướng nghĩa. Quân tử tùy phương nhi khai hiểu tiểu dân, suất lực nhi thính tòng; … sản … nhi thiện lũy vong cơ; giáp sinh sắt nhi đãi ưu mạo hiểm. Chí thử phân nhương chi địa, tiệm thành can tịnh chi hương, hựu kiêm lũy tùy quan quân tiến chiến, ngải hoang di hiểm, trảm tướng kiển kỳ, nhất cảnh để ninh, quyết công đa tại, cố tư khái tiết thù khả tinh dương. Tư phụng chuẩn vi Trung nghĩa lý, tứ biển thương ngân. Kỳ viên mục chư viên, các thăng nhất thứ, tính khoát miễn tô dung, tính điệu, cộng phân binh, phân hộ, phân sưu sai các dịch tịnh giai khoát miễn, vụ nghi cố danh tư nghĩa, đồ duy quyết chung, tỷ thùy vĩnh viễn chi mỹ danh, cộng hưởng thăng bình chi hậu phúc”. Năm ấy lại vâng ban cho chúng tôi được phần ấy chữ, dĩ tống Thuộc cung quan trừ lệ. Đến năm Bính Dần phụng kiến ngự giá vây bủa cánh giặc tại Phù Lỗ đồn, trừu Kiêm thống lĩnh quan dữ bản đạo các đồn phụng truyền. Bấy giờ He Chất đẳng tặc nó lại hợp chúng xương cuồng, phần phá Gia Lâm Văn Giang cập chư đồn lũy, còn một bản đồn chúng tôi dữ tặc tương cự xuất, vạn tử ư nhất sinh chi gian, hạnh nhi bảo cố, lại vâng thấy Phụng sai quan Hân Trung hầu có truyền cho chúng tôi rằng: “Cung phụng Đại đức đã chúc chiếu cho xem trong bốn trấn Đường Ngoài, chẳng dân nào giữ được vẹn trung, có một đồn Sài Trang giữ được, lại có công truy tùy quan quân tiến thảo. Năm trước đã phụng ban cho vi Trung nghĩa lý, đồng trừ các dịch, thì kỳ này, các thăng trạc”, lại gia ban bạch chỉ, bạch sắc, bạch lệnh các nhất đạo, phát gia đinh, kỳ viên mục chúng tôi các thăng nhất thứ. Dân chúng tôi ban hứa hệ hữu sai hành phát hứa nguyệt lương, dữ ưu binh đồng dĩ thị kích khuyến để cho thiên hạ xem vào ấy dân Trung nghĩa hữu công thì thế.
Mậu Thìn niên, lại vâng Đức Quốc Thánh mẫu ban cho Kiêm Thống lĩnh Việp quận công truyền cho chú Tích tôi suất dĩ bản đồn chúng tôi làm đồn lũy liên lạc bao lấy Tử Dương ngoại hương, với Tôn lăng phủ từ để chiêu dân phục hồi. Thị niên, tặc thế xương cuồng, lại vâng ban cho chú Tích tôi suất Chánh quản Hùng Trang vi Chấp hiệu tuần thủ địa phương tác công bản điền, chiêu nhân dân hồi phục, tùy Thống lĩnh sai bắt, thì chúng tôi lại vâng tùy Kiêm Thống lĩnh quan sai hành các dịch, phả hữu thốn công, vâng thấy Thống lĩnh quan gia thưởng cho chú Tích tôi Chánh quản Tiền Tuấn tao đội. Thị niên cử kiến Chấn Hậu đồn tại Nhị Mễ địa đầu bị giặc phá mất, lại vâng Thống lĩnh quan ban cho chú Tích tôi Thiêm quản y đội, chiêu tập tàn tốt tham dự Hùng Trang chúng tôi giữ lấy tại thử địa phương, tác công bản điền dĩ vi cửu kế, trấn áp tặc tình trong ngu dân, lạm phái sai hành, công lao là thế, trông ân Đại đức chúc chiếu ban tứ thưởng cho đã vạn vạn bội. Đến năm Kỷ Tỵ vâng thấy Kiêm Thống lĩnh quan Việp quận công tiễu trừ He Chất đẳng tặc đào thoán tha phương, dư giả quy hàng sổ thiên nhân bối, bấy giờ mới được nhờ phúc thái bình, nhất phương chi dân dữ tùy tam bách nhân tự biện tư lương tùy Kiêm thống lĩnh quan sai bắt hạnh nhờ hồng phúc, chúng tôi cũng được chút thốn công. Chí Tân Mùi niên, giá ngự hoàn cung thì chúng tôi mới được hồi gia phục nghiệp. Chí Quý Dậu niên, thiên hạ thanh bình, phụng sắc Vệ binh dân chúng tôi mới được phụng xá.
Giáp Tuất niên, vâng thấy Phụng sai quan vãng khám bản xứ chiếu bổ tô dung, thì bản tổng chúng tôi nhất khái chiếu bổ dữ bản xứ thừa Hộ phiên quan bất tra Trung nghĩa bằng tích chuẩn trừ tái cấp hứa sở trưng thu tô dung như cố, thậm ư oan ức. Đến thượng niên, lại vâng thấy phụng bổ bản xứ gia tô, điệu tiền, lại bổ chúng tôi cùng như bản xứ, dân chúng tôi tiền hậu cùng như các dân chiêu tập thủy hồi, chẳng được chuẩn trừ. Giá sự thậm ư oan ức. Tái ư thượng niên, đông khấu phỉ đồ phục khởi, dao động địa phương, chúng tôi thực là hoàng khủng vô nhai, bất tri sở vị tư ngu. Chúng tôi trong hai mươi năm thu cố khắng khi đang thế tung hoành, đại binh vị chí, thời chúng tôi cô đồn tứ diện đọ địch. Kì đồn trung nam phụ lão thiếu vô bất mãn xoang trung nghĩa, thệ bất dữ tặc câu sinh, hạnh nhi bảo cố, quan quân tiện dĩ vi trú chát chi sở; binh mã đắc tiện dĩ vi lương thảo thông hành chi đồ. Chí ư truy tùy quan quân tiến thảo, thì Hùng Trang chúng tôi tam bách dư suất tự Đinh Mão chí Tân Mùi, phàm ngũ niên dư tịnh giai sở đắc, mà khi sai hành thì chúng tôi xuất tiền nhập hậu, thỉ thạch mạo xung trí tử giả, tam bách dư nhân tiên hậu trận vong vô số, ngôn mỗi thứ thiết niệm ngọ hoài, giá đẳng sự tình thậm ư oan ức. Vị thử khấu chung mạo trần cẩn khải, cung vọng đại đức hồng từ, thùy tình khoan tuất, chẩn cập trung nghĩa tiểu dân, phó phụng Phụng sai quan thủ hứa thốn lao, nhưng hứa rành rành thứ đắc ngưỡng hà hồng triêm, phó phó vạn vạn vọng.
Cảnh Hưng nhị thập lục niên ngũ nguyệt nhị thập nhật.
Diễn Nôm[1]:
Sắc mục các xã của tổng Sài Trang huyện Đường Hào phủ Thượng Hồng là Đỗ Đình Hoàn, Phạm Đình Quý, Phạm Đạo Túc, Ngô Tất Nghiễm, Trần Công Luân, Nguyễn Trần Huân, Trương Phú Nhiêu, Đỗ Đình Quang cùng [dân chúng] bản tổng kính cẩn dâng khải kêu về việc trình bày lai lịch, kính xin [nhà chúa] soi xét, xót thương đến dân vất vả oan ức.
Do bởi đất bản tổng chúng tôi ở bấy giờ may mắn liền kề với quê ngoại Tử Dương. Từ năm Canh Thân (1740), lũ giặc chợt nổi lên khiến dân địa phương (nhiều kẻ) theo giặc[2]. Bấy giờ, bản tổng chúng tôi, rốt cuộc có chú Tích Trung hầu tôi [là Nguyễn Trọng Danh tức Phạm Trọng Danh] với sắc mục chúng tôi nhủ nhau dốc lòng trung nghĩa, đã có khải thưa bày lên. Triều đình ban lệnh vâng truyền cho chú Tích tôi đốc suất [lãnh đạo] lấy chúng tôi, phân theo quan quân đi đánh dẹp giặc. Nhà cửa của chúng tôi đều bị lũ giặc đốt phá. Năm Tân Dậu (1741) dẹp yên giặc Nguyễn [Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ], chúng tôi có chút ít công lao, vâng được ban thưởng cho hơn 50 đạo sắc lệnh.
Đến năm Nhâm Tuất (1742), đám giặc He (Nguyễn Hữu Cầu), Chất (Hoàng Công Chất) nó lại kêu gọi dấy lên đốt phá nhân dân địa phương, thì chúng tôi lại lập đồn tự giữ, chống nhau với giặc từ năm Quý Hợi (1743) đến năm Tân Mùi (1751) vào hơn 9 năm. Chúng tôi lại kính vâng lệnh truyền cho chọn lấy 300 người khỏe mạnh đặt làm đội Hùng Trang, ban cho chú Tích tôi cai quản lấy, tự lo liệu quân lương, trải theo các quan Thống lĩnh sai bắt điều khiển đánh đông dẹp bắc trăm trận nhọc nhằn. Mỗi trận tiến trước, giẫm đạp hiểm nguy may mà chém được đầu sỏ giặc, đảng giặc, bắt làm tù binh lũ lính giặc rất là nhiều, nên bấy giờ các quan Thống lĩnh, Đốc lĩnh nhiều lần tiến cử trông ơn Đại đức nhà chúa thương xót đến tấm lòng trung nghĩa. Năm Giáp Tý, vâng ban cho chúng tôi là dân “Trung nghĩa”, có bài chế viết chữ rằng đây là “đá cột chặn ngang dòng, cho nên đáng được nêu cao ban thưởng, chuẩn cho các xã là dân trung nghĩa, đi theo đánh giặc, đợi đất nước thanh bình, chuẩn cho miễn trừ tô thuế và phu phen tạp dịch”. Đến năm Ất Sửu (1754), thế giặc hung hăng dữ đội, các quan Kiêm Thống lĩnh nhiều lần tiến cử, nhà chúa lại ban lệnh truyền cho chú [Nguyễn Trọng Danh] tôi với chúng tôi rằng là: “tinh thục đương quy[3] gây nên tiếng tốt. Xét thấy tổng ấy từ khoảng năm Canh Thân (1740), lũ giặc nghịch kết bè nơi cõi ấy, bọn hào hiệt[4] thổi bùng trong huyện này, lũ vô lại lắm kẻ hùa theo, riêng các người dắt nhau lánh đục, đoàn kết chờ trong, thì mới đưa nhau trở lại, rỡ rào gai, ừ cho thôn trang bị đồ đảng giặc He, Chất tụ tập vây kín bốn bề, cắt chia mọi ngả. Phàm đã trở về, cũng phải theo dời đi, khó có thể quyết chí chung thù, một lòng hướng nghĩa. Người quân tử theo phương sách hiểu dụ, kẻ tiểu dân dốc sức nghe theo. … nở ra muỗi vắt nhưng vẫn sửa chữa đồn lũy quên đi đói khát, áo giáp sinh chấy rận nhưng vẫn vác bừa mạo hiểm cấy cày. Khiến cho vùng đất rách bươm, dần thành làng quê yên tĩnh. Lại kiêm nhiều phen theo quan quân đánh dẹp, sướng khổ khắp nơi, chém tướng phất cờ, khiến cho một cõi yên bình, xét công cũng nhiều, đoái nhìn tiết nghĩa, đáng được biểu dương. Nay vâng chuẩn cho là làng “Trung nghĩa”, ban biển mạ bạc”, còn các viên Viên mục đều được thăng chức một bậc, cùng là miễn hết tiền tô dung và tiền điệu, với lại các tạp dịch như bắt lính, sưu sai,… cũng đều miễn hết, cốt phải trông danh vọng mà nghĩ đến nghĩa, nghĩ suy cho đến cùng, lưu để tiếng thơm mãi mãi, cùng hưởng phúc lớn thăng bình”. Năm ấy lại vâng ban cho chúng tôi được phần ấy chữ, đã đưa cho quan Thuộc cung trừ miễn lệ. Đến năm Bính Dần (1746), vâng thấy ngự giá nhà chúa vây bủa cánh giặc ở đồn Phù Lỗ, rút quan Kiêm thống lĩnh [đến đó], ban phụng truyền cho các đồn thuộc bản đạo [được biết]. Bấy giờ các giặc He, Chất nó lại liên kết với nhau hoành hành dữ dội, đốt phá các huyện Gia Lâm, Văn Giang, và các đồn lũy, còn mỗi một bản đồn của chúng tôi là ra chống nhau với giặc, rơi vào hoàn cảnh muôn chết một sống, may mà giữ được. Lại vâng thấy quan Phụng sai Hân Trung hầu có truyền cho chúng tôi rằng: “Kính vâng Đại đức đã soi xét, xem trong bốn trấn Đường [Đàng] Ngoài, chẳng dân nào giữ được trọn vẹn trung nghĩa, chỉ có mỗi đồn Sài Trang là giữ được, lại có công đi theo đánh dẹp. Năm trước (1745) đã vâng ban cho là làng “Trung nghĩa”, cùng là miễn trừ các tạp dịch, thì kỳ này đều cho thăng bậc”, rồi lại ban thêm cho bạch chỉ, bạch sắc, bạch lệnh mỗi loại một đạo, phát cho các gia đinh, còn viên mục chúng tôi đều được thăng lên một bậc; còn dân chúng tôi thì được ban là nếu có sai đi làm việc gì thì đều phát cho lương tháng, ngang với ngạch ưu binh là để khuyến khích động viên, để nêu gương cho thiên hạ xem vào, mới biết là dân trung nghĩa có công thì sẽ được ban thưởng cho như thế đấy. Năm Mậu Thìn (1748), lại vâng Đức Quốc thánh mẫu (bà Thái phi Vũ thị) ban cho quan Kiêm Thống lĩnh Việp quận công (Hoàng Ngũ Phúc) truyền cho chú Tích tôi đốc suất bản đồn chúng tôi làm đồn lũy liên lạc bao lấy quê ngoại (chúa ở) Tử Dương, với đền phủ tôn lăng để chiêu dân trở về. Năm ấy, thế giặc hung hăng, lại vâng ban cho chú Tích tôi giữ chánh quản cơ Hùng Trang làm chấp hiệu cho quân đi tuần và phòng giữ địa phương, cầy ruộng công bản, chiêu nhân dân trở về, khi theo quan Thống lĩnh sai bắt thì chúng tôi lại vâng theo quan Thống lĩnh sai đi làm các việc, cũng có chút công lao, vâng thấy quan Thống lĩnh ban thưởng cho chú Tích tôi làm Chánh quản đội thuyền Tiền Tuấn. Năm ấy, khi thấy đồn Chấn Hậu ở địa phận xã Nhị Mễ bị giặc phá mất, lại vâng lệnh của quan Thống lĩnh ban cho chú Tích tôi cai quản thêm đội ấy, chiêu tập lính sót lại tham dự đội Hùng Trang chúng tôi giữ lấy ở địa phương ấy, làm ruộng công bản để làm kế lâu dài, trấn áp giặc ở trong ngu dân, lạm phái sai đi làm việc, công lao là thế, mong ơn Đức lớn nhà chúa soi xét ban thưởng cho gấp nhiều lần. Đến năm Kỷ Tỵ (1749), vâng thấy quan Kiêm thống lĩnh Việp quận công tiễu trừ, bọn giặc He Chất trốn chạy đi nơi khác, còn lại đầu hàng đến nghìn người, bấy giờ mới được nhờ phúc thái bình, dân một phương và 300 người tự làm lương ăn theo quan Kiêm thống lĩnh sai bắt điều khiển may nhờ phúc lớn, chúng tôi cũng có được chút công lao. Đến năm Tân Mùi (1751), ngự giá nhà chúa về cung thì chúng tôi được trở về phục nghiệp. Đến năm Quý Dậu (1753), thiên hạ thanh bình, vâng theo sắc cho vệ binh dân chúng tôi mới được tha về. Năm Giáp Tuất, vâng thấy quan Phụng sai về khám đạc bản xứ để chiếu bổ tô dung, thì bản tổng chúng tôi đại khái bị chiếu bổ như bản xứ, mà quan Hộ phiên cũng không tra xét bằng cớ chứng tích chúng tôi là dân trung nghĩa được chuẩn cho miễn trừ nên cứ bắt trưng thu tiền tô dung như trước đây, rất là oan ức. Đến năm vừa rồi, lại vâng thấy bổ tiền gia tô, điệu của bản xứ và lại bổ chúng tôi cùng như bản xứ, dân chúng tôi trước sau giống như các dân mới chiêu tập về, chẳng được chuẩn trừ gì cả. Việc này rất là oan ức. Cũng lại vào năm vừa rồi, giặc phỉ vùng phía Đông lại nổi dậy, kinh động địa phương, chúng tôi thực là sợ hãi vô cùng, không biết bày tỏ những điều lo lắng. Chúng tôi trong 20 năm cố gắng chống chọi với giặc khi đang ở thế tung hoành, mà đại binh chưa đến, nên đồn chúng tôi rơi vào thế cô lập bị bao vây bốn phía mà vẫn chống chọi với địch. Trong đồn trai gái già trẻ ai nấy đều hết lòng trung nghĩa, thề không cùng sống với giặc, may mà bảo vệ được đồn, làm nơi trú đóng tiện lợi cho quan quân triều đình, làm con đường thông hành vận chuyển lương thảo cho binh mã. Đến như đi theo quan quân đánh dẹp, thì đội Hùng Trang chúng tôi hơn 300 lính từ năm Đinh Mão đến năm Tân Mùi là vào hơn 5 năm đều giành thắng lợi, mà khi sai làm các việc thì chúng tôi đi trước về sau, lăn xả chốn đạn tên dẫu chết cũng thôi, hơn 300 người trước sau mất mạng vô số, mỗi lần nhắc đến lòng thấy bùi ngùi, những việc như thế rất là oan ức. Chính vì vậy cúi lạy mạo muội kính cẩn dâng bài khải thưa bày, kính mong đấng đại đức hồng từ rủ lòng thương xót đến đám tiểu dân trung nghĩa chúng tôi, gửi gắm quan Phụng sai lấy cho chút công lao khó nhọc ban rõ rõ ràng, ngõ hầu được ngửa đội ơn đức lớn lao, mong mỏi ngóng trông lắm lắm!]

Bài khải của cụ Phạm Trọng Danh

Sài Trang đồn Cựu Tiền Tuấn cập Hùng Trang tính Chấn Hậu, Thuận Hữu đẳng đội thuyền Chấp hiệu, Đô tổng binh sứ, Tích Trung hầu Nguyễn Trọng Danh cẩn khải[5].
Rộng lạy bề trên muôn muôn năm.
Tôi vâng thấy đức bề trên:
Tư trời nhân hiếu; lượng bể bao hàm.
Sơ chính[6] như vầng đỏ vừa lên; xử tâm[7] bằng gương trong chẳng bụi.
Noi lệ cũ sửa sang đường trị, trăm họ đều đội đức phủ tuy[8]; theo dấu xưa trau truốt nền bình, bốn phương lại nhớ ơn căng dục[9].
Trên tuy đà thứ sự duy khang[10], dưới lại muốn quần tinh tất đạt.
Vậy khi, đồ trị chi sơ[11] ban bố phụng truyền cho chúng tôi thực phong trực ngôn vô ẩn[12].
Hổ[13] tôi nay:
Nghề chủ chẳng quen, nghề đinh chưa biết[14].
Ngày Phụng thị[15], kể mấy thu ứng vụ, việc cần lao đã lần trải sáu phiên[16];
Thuở tòng nhung, dư trăm trận gian quan, bề lao khổ cũng theo đòi chư tướng.
Thu Tiệp Hữu, suất Hậu Tượng, quản Chấn Hậu, cai Tiền Tuấn[17], khi sai hành đã lũy thứ đổng nhung;
Củ gia đinh, chiêu hàng tướng, hành công bản[18], phủ lưu dân, dư đồn ngự cũng nhiều phen hiệu lực.
Bao ngờ chim Hán suất khơi; bỗng thấy cung Hàn đã cách.
Quân xá nên người dật quản[19]; chế mưu những tiếng cố dân[20].
Không việc lỗi ra kỷ trù[21], nhưng phụng thị lệ tai dầy mặt hổ;
Cổ vắn[22] khôn thông muôn trượng[23], thấm lòng ngay bao thấu chín lần cao.
Vốn nghĩ mình suy lão tài hèn, đã đành phận ngựa già nhai cỏ áy[24];
Song xót kẻ cần lao công chút, thổn xót mai hang thẳm đượm hơi dương[25].
Vậy dám trần kỳ sở kiến[26]; gọi là bộc bạch ngu trung.
Từ năm Dậu tết sang, bốn phương binh dậy.
Loài nghịch mệnh tơi bời miền Đông Bắc, chốn dân bình nên riêng chịu lửa than;
Quân tiễu trừ lần lữa tiết thu đông[27], miền đồng nội bỗng hóa ra năn lác[28].
Én bay ác đỗ, nào chốn thanh bình[29];
Ong dậy hùm đua, những loài bội nghịch[30].
Kẻ hung hãn chẳng nép vào phép nước, kết đoàn lùa chúng, đem lửa tàn làm nát hại gần xa;
Người thiện dân khôn nẻo giữ nghiệp nhà, kéo trẻ phù già[31] tìm nẻo vắng để dựa nương ngày tháng.
Nhiều kẻ nhất tâm hướng tặc; mấy người quyết chí cần vương.
Bấy giờ dân Sài Trang chúng tôi:
Dốc lòng trung nghĩa, quyết chí đồng cừu[32].
Rỡ cót làm đồn, phá tiền đánh dựa[33]
Người quân tử lấy lời nhủ bảo;
Kẻ tiểu nhân xuôi lòng thuận nghe.
Rủ nhau lũ bảy lũ ba, xương lầm lũy thịt;
No đói bữa lưng bữa vực, bụng tỏ lòng trung.
Ang cô dung ba ván rêu in;
Áo chiến giáp mấy lần gió lạnh.
Khi ở nhà ngự tặc[34], già giữ lều, trẻ vần đá, chí đồng cừu thù chẳng đội trời;
Thuở vâng mệnh tòng quân, chồng vác dựa, vợ đem cơm, lòng địch khái quyết không chung đất.
Đi tiên về hậu, bao quản nhọc nhằn;
Chỉ nẻo[35] đem lương, chẳng từ nguy hiểm.
Chuột làm canh, khoai làm gạo[36], người dật dờ bụng lỏng cái ve;
Muỗi là bạn, giặc là thù, đêm đồng vọng hồn lòe con bác[37].
Trong một lữ dân đinh nhẩm kể;
Ngoài hai trăm trận cố[38] thêm thương.
Phất phơ phách lẩn gió thu, tưởng đòi đoạn[39] dễ sa nước mắt;
Lạnh lẽo sương pha cỏ lục, nghĩ nhiều phen thêm chạnh trong lòng.
Phúc may dao trượng thần uy[40]; lại được bảo toàn cảnh thổ.
Quan Thống lĩnh nhiều lần đỗng đạt[41]; triều đình đã chúc chiếu cô trung[42].
Biển “Trung nghĩa” hai chữ ban cho; bản đồn được nhiều trừ các dịch[43].
Những nghĩ thái bình hội gặp, mưa huệ dành tưới đến chồi khô;
Nào hay trời bể bóng xa, hơi xuân bỗng rót nơi hang khuất.
Ít nhiều lệ cũ lại tăng;
Mảy chút công xưa chẳng kể.
Biển rỡ rỡ chữ còn thương bạch, bài Viên cai đã đốc xúc tơi bời;
Lệnh rành rành ấn chửa phai son, biện xã chánh[44] đã thôi câu[45] lẩn quất.
Câu “khoát miễn”[46] ra câu “bất miễn”[47], miễn một điều vác dựa[48] nhổ chông;
Chữ “đồng trừ”[49] nên chữ “vô trừ”[50], trừ những việc đưa lương, hướng đạo.
Khu khu lòng mọn, khôn thấu vầng son;
Lớp lớp trời cao, chăng soi chậu úp.
Cũng có chốn vi lao năm bảy trận, rốt đà nên các dịch tịnh trừ[51];
Cũng có nơi tiểu hiệu một hai năm, sẵn dịp được nhất giai quyên miễn[52].
Oan chi dân chúng tôi:
Trước sau hai mươi tám thu dư, mếm mật nhổ đòng[53] , triều đình trú trát[54] lấy chúng tôi, lương thảo thông hành[55] lấy chúng tôi, một chúng tôi đi đón về đưa, để đại quân được tiện đường công thảo[56];
Nguy hiểm kể dư trăm trận lẻ, đạp gai lội vũng, đình chùa dỡ dốt cũng mặc nó, hòa cốc phá hủy cũng mặc nó[57], quyết với nó tan xương nát thịt, miễn cô trung cho vẹn chữ thủy chung.
Bây giờ một vẻ một chẳng tày[58], ai chăng biết chín lần thấu chăng? Chẳng thấu!
Vậy phải cẩn khải đỗng đạt, ngửa xin: sái[59] đức tuy hoài, mở lòng khoan tuất.
Soi phép Thuấn, chữ chí công lồng lộng, người huân lao[60] dầu mảy chút chẳng quên;
Sáng gương Nghiêu, lòng bác thí bừng bừng, kẻ oan ngỏ[61] đặc dân đen nhờ đức.
Kỳ thổn may chăng đượm ơn nhiều ít, tỏ dãi lòng ngay, trông đức cao sâu ngửa mong chiếu chúc.
Cảnh Hưng nhị thập bát niên bát nguyệt….nhật [Ngày … tháng 8 năm Cảnh Hưng thứ 28 (1767)]
Thập tứ nhật thực phong đệ nạp tại Điếm Lâm đãi tống Mật sự chấp lưu hàm.
Bản nguyệt thập thất nhật Phó thủ Hộ phiên Thiều Trung hầu dĩ phó lệnh truyền phó tra, hậu phụng truyền.
Thử kỳ thiên hạ, thiên hạ nạp ngũ thập nhất bản đắc nhất bản doãn phó hậu tiên.
Bản nguyệt nhị thập tứ nhật nạp trần do tính bằng tích phụng truyền tính phiếu tích tại Mật sự, phó Hữu binh, Tri Hình quan khởi hậu.
[Trên đây là đoạn viết bằng chữ Hán, vậy xin] dịch như sau:
Ngày 14 tờ khải được dán kín đưa nộp ở Điếm Lâm đợi chuyển lên Viện Mật sự nhận bỏ vào hòm lưu giữ.
Ngày 17 tháng này (tháng 8) quan Phó thủ Hộ phiên là Thiều Trung Hầu đã giao phó lệnh truyền để kiểm tra rồi sau đó phụng truyền.
Kỳ ấy trong thiên hạ nộp 51 bản, 1 bản được chấp thuận, sau đó cho làm trước.
Ngày 24 tháng ấy, nạp tờ trình cùng là hồ sơ, văn bằng, chứng cớ, tờ phụng truyền kiêm phiếu ghi việc ở Mật sự viện. Giao cho quan Hữu (Thị lang) bộ Binh, Tri Hình phiên giải quyết]
[1] Trên đây là phần phiên Nôm bài khải của sắc mục các xã thuộc tổng Sài Trang dâng lên chúa Trịnh vào năm Cảnh Hưng thứ 26 (1767). Tuy bài khải này được viết bằng chữ Nôm, là tiếng nói của dân tộc, song do trải thời gian dài, ngôn ngữ dân tộc đã biến đổi, nhiều người ngày nay đọc gần như không hiểu. Chính vì thế, chúng tôi xin diễn dịch bài khải trên ra ngôn ngữ hiện tại để đa số người đọc đều có thể hiểu được.
[2] Nguyên văn: “cử phương chi dân nhi tặc” hởi khó hiểu, ngờ là sao chép có sự sai sót gì chăng? Song chúng tôi cứ mạn phép diễn dịch theo mặt chữ như trên.
[3] Đương quy: cây thuốc có tác dụng chữa bệnh.
[4] Hào hiệt: cường hào, kiệt hiệt, tức những người có thế lực mạnh mẽ.
[5] Khải của Đô tổng binh, Tích trung hầu Nguyễn Trọng Danh, ở đồn Sài Trang, làm Chấp hiệu chỉ huy các đội thuyền Tiền Tuấn, Hùng Trang, Chấn Hậu, Thuận Hữu trước đây (dâng lên chúa Trịnh).
[6] Sơ chính: mới lên ngôi chúa.
[7] Giữ lòng.
[8] Phủ tuy: vỗ về.
[9] Căng dục: nuôi nấng, thương yêu.
[10] Thứ sự duy khang: mọi việc yên ổn, tốt đẹp
[11] Đồ trị chi sơ: lúc mới mưu đồ xây dựng nền thịnh trị.
[12] Trực ngôn vô ẩn: nói thẳng thắn không che đậy.
[13] Hổ: xấu hổ, hổ thẹn.
[14] Tức học hành ít, một chữ “đinh” cũng chẳng biết.
[15] Phụng thị: chức quan nhỏ giúp việc ở các phiên trong phủ chúa.
[16] Phiên: tương đương bộ bên vua Lê.
[17] Trên đây là tên các đơn vị mà ông đã chỉ huy.
[18] Tức công bản điền: là ruộng vốn chung sở tại, được giao cho binh lính cấy cày.
[19] Dật quản: cai quản một cách nhàn tản.
[20] Cố dân: dân bền chắc.
[21] Lỗi ra kỷ trù: một số biện pháp đưa ra bừa.
[22] Cổ vắn: cổ ngắn, ý nói phận con ong cái kiến, thấp cổ bé họng, khó có thể đề đạt lên nhà chúa.
[23] Thấp cổ bé họng không đề đạt được lên cao
[24] Tức cỏ già, héo úa.
[25] Ý nói nơi hang thẳm cũng có ánh mặt trời soi tới
[26] Trình bày ý kiến của mình
[27] (hết thu lại sang đông).
[28] Năn lác: tên hai thứ cỏ, ý nói vì loạn lạc mà ruộng đồng bỏ hoang cho cỏ mọc.
[29] Ý nói chim chóc cũng không sống yên.
[30] Ý nói quân giặc nổi dậy như ong.
[31] Tức dắt trẻ cõng già.
[32] Đồng cừu: cùng chung kẻ thù.
[33] Đánh dựa: rèn dao to.
[34] Tức chống giặc.
[35] Chỉ nẻo: dẫn đường.
[36] Ý nói ăn uống thiếu thốn khổ sở.
[37] Bác: tên một loại vũ khí cổ (súng nhồi thuốc).
[38] Tức chết trận.
[39] Đòi đoạn: nhiều lúc, nhiều khi.
[40] Dao trượng thần uy: xa nhờ oai thần.
[41] Tức đề đạt lên trên được thấu tỏ.
[42] Tức soi thấu lòng trung.
[43] Nhiều trừ các dịch: miễn trừ nhiều việc phu phen tạp dịch.
[44] Xã chánh: sắc mục địa phương thời ấy, là người đứng đầu một xã, tức như người đứng đầu một làng hoặc một vài làng hiện nay.
[45] Tức đòi bắt.
[46] Khoát miễn: miễn cả.
[47] Bất miễn: không miễn trừ gì hết.
[48] Dựa: dao to.
[49] Đồng trừ: cùng được miễn trừ.
[50] Vô trừ: không được miễn trừ gì.
[51] Cả câu ý nói có nơi thì chỉ cần có chút công nhỏ mà cuối cùng các phu phen tạp dịch đều được miễn trừ cho hết.
[52] Cả câu này ý nói có nơi chỉ đóng góp nhỏ trong vài năm, trong dịp này lại được miễn trừ tất cả.
[53] Đòng: là cây giáo
[54] Tức đóng đồn.
[55] Tức vận chuyển lương thảo.
[56] Công thảo: đánh dẹp giặc.
[57] Tức thóc lúa hoa màu bị lũ giặc phá hủy cũng mặc kệ.
[58] Chẳng tày: không bằng.
[59] Sái: tưới.
[60] Huân lao: công lao.
[61] Oan ngỏ: oan trái?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét