Phồn thể僞辯
Ngụy:
- Dối
trá. Như hư ngụy 虛僞
giả dối.
- Trộm
giữ lấy. Như kẻ loạn thần lên cướp ngôi của chúa gọi là ngụy triều 僞朝.
Biện:
http://soi.today/?p=9235
Chúng ta uyên bác hay
ngụy biện? 25.
07. 10 - 10:41 am
Hoa Nguyen gửi bài
Gửi SOI và các bạn: Chắc lại phải phiền SOI
đăng nguyên bài viết này. Tôi nghĩ, nó giúp ích cho nhiều người. Giúp chúng ta
tránh được các lỗi khi tranh luận trên diễn đàn. Bài viết này tôi xin phép copy
từ trang: www.chungta.com, là một trang mạng chia sẻ tri thức khá hay
và hữu ích. Dưới đây là nội dung bài viết với tiêu đề “Thói ngụy biện ở người
Việt”:
*
Thói ngụy biện ở người Việt Tranh luận trên các diễn đàn công
cộng là một hình thức trao đổi ý kiến không thể thiếu được trong một xã hội văn
minh. Ở nhiều nước, lưu lượng của những tranh luận cởi mở và nghiêm túc được
xem là một dấu hiệu của một xã hội lành mạnh.
Ở các nước phương Tây, hầu như ngày nào báo chí cũng có những
bài của những cây bỉnh bút tranh luận về một vấn đề nóng nào đó. Trên tivi cũng
có những cuộc tranh luận trực tiếp giữa hai hay nhiều người về những chủ đề từ
“đại sự” đến những vấn đề tưởng như nhỏ nhất. Trong các hội nghị khoa học,
trước một vấn đề còn trong vòng nghi vấn, người ta cũng có những chuyên gia
tranh luận dưới dạng những bài giảng khoa học. Nhưng thế nào là tranh luận
nghiêm túc?
Nói một cách ngắn gọn, cũng như trong một cuộc đấu võ, một tranh
luận nghiêm túc là một cuộc tranh luận có qui tắc, mà trong đó người tham gia
không được, hay cần phải tránh phạm luật chơi. Những qui tắc chung và căn bản
là người tham gia chỉ phát biểu bằng cách vận dụng những lí lẽ logic, với thái
độ thành thật và cởi mở, chứ không phát biểu theo cảm tính, lười biếng, hay
biểu hiện một sự thiển cận, đầu óc hẹp hòi.
Để đạt những yêu cầu này, người tranh luận nghiêm túc trước khi
phát biểu hay đề xuất ý kiến, đưa ra lời bình phẩm của mình, cần phải xem xét
tất cả các trường hợp khả dĩ, phải cân nhắc những quan điểm và những cách giải
thích khác nhau, phải đánh giá ảnh hưởng của sự chủ quan và cảm tính, phải tập
trung vào việc tìm sự thật hơn là muốn mình đúng, phải sẵn sàng chấp nhận những
quan điểm không được nhiều người ưa chuộng, và phải ý thức được định kiến và
chủ quan của chính mình.
Khi tranh luận phải nhất quán là chỉ xoay quanh chủ đề bàn luận,
luận điểm bàn luận chứ không đi lạc đề. Không công kích vào cá nhân và nhân
thân của người tham gia tranh luận. Đó là những đòi hỏi khó khăn cho một cuộc
tranh luận nghiêm túc có ý nghĩa, và không phải ai cũng có khả năng đạt được
những yêu cầu này, nhất là đối với người Việt vốn chưa quen với văn hóa tranh
luận. Do đó, không mấy ai ngạc nhiên khi thấy có quá nhiều trường hợp chất
lượng của những cuộc tranh luận giữa người Việt rất thấp.
Chỉ cần xem qua những cái-gọi-là “tranh luận” trên các diễn đàn
báo chí (và nhất là các “chat room” hay blog), người ta có thể thấy đó không
phải là tranh luận, mà là những cuộc đụng độ giũa các cá nhân tham gia tranh
luận, những cuộc chửi bới, chẳng có lí luận của người tranh luận.
Ngoài ra, đối với một số người tham gia bình luận về một câu
chuyện nào đó là một cuộc dàn xếp, một sự đóng kịch, nhằm tung hỏa mù hoặc lên
lớp, hoặc a dua theo đám đông. Đó là những kịch bản ngớ ngẩn đến tội nghiệp.
Ngớ ngẩn là vì người xuất hiện chẳng nói được gì cho đầy đủ, mà cũng chẳng phân
tích một vấn đề gì cho đến nơi đến chốn. Thật vậy, rất nhiều trường hợp, những
cuộc tranh luận giữa người Việt chỉ là những cuộc chửi lộn, mà trong đó người
ta tha hồ vung vít, ném liệng vốn liếng chữ nghĩa qua lại một cách hỗn độn mà
chẳng cần để ý đến logic hay các nguyên tắc của tranh luận là gì. Hơn nữa, rất
dễ dàng nhận thấy rằng trong các cuộc tranh luận đó người ta nhắm vào mục tiêu
là nhân thân, cá nhân của người tranh luận chứ không nhắm vào quan điểm và lí
lẽ của người đó. Thay vì tranh luận thẳng vào vấn đề, người ta tìm cách gắn cho
đối phương một nhãn hiệu, và từ đó làm lu mờ đi quan điểm của họ.
Trong hầu như những tranh luận, nhiều người cố tìm hay tạo cho
mình một vị trí đạo cao đức trọng cả bằng cách gắn cho đối phương những danh từ
và tính từ mang tính miệt thị, một thủ đoạn có khả năng làm cho một cuộc tranh
luận trở nên một cuộc ẩu đã ngôn từ đinh tai nhức óc thay vì là một trao đổi
khoa học. Thực ra, đó là một hình thức ngụy biện, một lỗi lầm cơ bản nhưng
nghiêm trọng trong tranh luận. Nói một cách đơn giản, ngụy biện là những nhầm
lẫn trong lí luận và suy luận. Ngụy biện khác với logic. Logic, nói một cách
ngắn gọn trong trường hợp này, là những qui ước quản lí tính nhất quán trong
việc sử dụng ngôn ngữ.
Giới triết học Tây phương đã bỏ khá nhiều công sức để phân biệt
thế nào là logic và thế nào là ngụy biện. Aristotle có lẽ là một nhà logic học
đầu tiên có công phát triển các qui tắc và hệ thống suy luận. Trong quá trình
làm việc, ông phát hiện ra nhiều lỗi lầm mà sau này người ta quen gọi là những
“ngụy biện.”
Mặc dù Aristotle là một nhà nhà logic học đầu tiên có công liệt
kê và phân loại những loại ngụy biện, thầy của ông (Plato) mới xứng đáng được
vinh danh như là một nhà triết học đầu tiên đã có công sưu tầm những ví dụ về
ngụy biện. Kể từ khi Plato và Aristotle, đã có khá nhiều nhà triết học và logic
học như John Locke, John Stuart Mill, Jeremy Bentham, và Arthur Schopenhauer
cũng có nhiều cống hiến quan trọng trong việc nghiên cứu về ngụy biện.
Điều đáng chú ý là những lỗi lầm về ngụy biện ở người Việt lại
hay thấy trong giới có học. Chỉ cần điểm qua báo chí, websites, blog, v.v…
chúng ta dễ dàng thấy rất nhiều cái-gọi-là “tranh luận” thật ra chỉ là ngụy
biện. Tuy nhiên, nhiều người vẫn chưa biết đó là những ngụy biện, mà thậm chí
còn hết lời khen ngợi kẻ ngụy biện là … uyên bác! Điều này cho thấy trong những
người Việt học cũng có người rất lười biếng suy nghĩ và chẳng phân biệt được
thật và giả, không có khả năng nhận dạng được ngụy biện. Phải ghi nhận một điều
là internet đã rất tuyệt vời, vì qua những “tranh luận” và chửi bới của những
kẻ tham gia trên internet, chúng ta biết được bộ mặt xấu xí đằng sau những
người mang nhãn mác “trí thức” hay “có học”. Những kẻ này tương đối nguy hiểm,
vì với cái nhãn mác “có học” đó, họ có cơ hội làm lũng đoạn xã hội và trở thành
những con vi khuẩn làm nhiễm trùng nền học thuật nước nhà. Do đó, cần phải giúp
họ nhận ra đâu là ngụy biện và đâu là logic.
Thực ra, nhận dạng ngụy biện không phải là một việc làm khó
khăn. Nói chung chỉ với một lương năng bình dân, người ta có thể phân biệt một
phát biểu mang tính ngụy biện với một phát biểu logic. Tuy nhiên, cũng có nhiều
dạng thức ngụy biện mà vẻ bề ngoài hay mới nghe qua thì rất logic, nhưng thực
chất là phi logic. Những loại ngụy biện núp dưới hình thức “khoa học” này không
dễ nhận dạng nếu người đối thoại thiếu kiến thức về logic học hay thờ ơ với lý
lẽ. Do đó, một điều quan trọng trong tranh luận là cần phải phát hiện và nhận
dạng những hình thức ngụy biện, và quan trọng hơn, cần phải hiểu tại sao chúng
sai. Có thể phân loại ngụy biện thành nhiều nhóm khác nhau liên quan đến việc
đánh lạc vấn đề, lợi dụng cảm tính, thay đổi chủ đề, nhầm lẫn trong thuật qui
nạp, lý luận nhập nhằng, phi logic, và sai phạm trù.
Trong khuôn khổ giới hạn, người viết bài này không có tham vọng
trình bày tất cả những loại ngụy biện một cách chi tiết (vì việc này đã được hệ
thống hóa trong nhiều sách về logic học), mà chỉ muốn liệt kê ra những loại
ngụy biện thường hay gặp trong báo chí và truyền thông, hầu giúp bạn đọc có thể
phân biệt giữa chân và giả. Liệt kê sau đây là một loạt những ngụy biện phổ
biến hay thấy ở người Việt. Những ngụy biện này có thể phân thành 7 nhóm như
sau:
• Đánh tráo chủ đề.
• Lợi dụng cảm tính và đám đông.
• Làm lạc hướng vấn đề.
• Qui nạp sai.
• Nhập nhằng đánh lận con đen.
• Phi logic.
• Các nhầm lẫn khác.
• Lợi dụng cảm tính và đám đông.
• Làm lạc hướng vấn đề.
• Qui nạp sai.
• Nhập nhằng đánh lận con đen.
• Phi logic.
• Các nhầm lẫn khác.
NHÓM 1: ĐÁNH TRÁO CHỦ ĐỀ
1. Công kích cá nhân (ad hominem): Đây là một loại ngụy biện phổ biến nhất, thấp kém nhất,
nguy hiểm nhất, nhưng có “công hiệu” nhất, vì nó tấn công vào cá nhân của người
tranh luận, và tìm cách trốn tránh luận điểm của cá nhân đó. Hình thức ngụy
biện này thường xuất hiện dưới dạng: Ông A phát biểu về một vấn đề; ông B tấn công vào cá nhân ông A,
và làm cho người ta nghi ngờ luận điểm của ông A. Tuy nhiên, có thể không có mối liên hệ nào
giữa cá nhân và luận điểm của ông A.
Có hai hình thức thuộc loại ngụy biện này. Thứ nhất là dưới hình
thức sỉ nhục, hay chửi rủa. Khi bất đồng ý kiến, người ngụy biện chỉ việc công
kích vào cá nhân của người phát biểu. Chẳng hạn như “Ông nói là những người vô
thần có đạo đức, vậy mà chính ông là người từng li dị với vợ con,” hay “Ông là
người làm kinh tế, không biết gì về khoa học, mà nói chuyện khoa học”. Đây là
một ngụy biện, bởi vì sự thật của phát biểu không tùy thuộc vào cá nhân của
người phát biểu, mà là logic của lời phát biểu. Cũng nằm trong loại ngụy biện
này là thói dùng một đặc điểm của một vật thể nào đó để ứng dụng cho một cá
nhân hay một vật thể khác. Ví dụ: “Anh học của Tây có vài chữ mà đã quay lại
chửi bới đồng nghiệp à? Anh là con ông cháu cha, anh không hiểu gì về sự nghèo
khổ của chúng tôi.”
2. Lợi dụng quyền lực (ad verecundiam): Đây là loại ngụy biện dùng những nhân vật nổi tiếng hay
được nhiều người ái mộ để tìm sự ủng hộ cho luận điểm của mình. Chẳng hạn như “Isaac Newton là một
thiên tài, và ông tin vào Thượng đế,” làm như ông Newton là người có thẩm quyền để chúng ta tin vào
Thượng đế. Thẩm quyền không thuyết phục được ai; chỉ có sự thật, lí lẽ và logic
mới quan trọng và có khả năng thuyết phục.
3. Lợi dụng nặc danh: Trong trường hợp này, người ngụy biện không nêu danh tính người
có thẩm quyền, và vì không ai biết tên người có thẩm quyền nên không ai có thể
kiểm chứng sự chính xác của lời phát biểu. Một loại ngụy biện khác có quan hệ
với loại này là dùng lời đồn đại để làm cơ sở lập luận. Giới công an hay sử
dụng ngụy biện này, ví dụ như “Một viên chức tình báo cho biết chính anh từng
hoạt động cho địch.”
4. Lợi dụng tác phong: Loại ngụy biện này dùng tác phong hay cách làm việc hay một đặc
tính nào đó của đối tượng để cố thuyết phục về tính hợp lí của phát biểu. Tiêu
biểu cho loại ngụy biện này là những phát biểu như “Nixon thất cử vì ông
ta thường hay ra mồ hôi trên trán,” hay “Tại sao anh không nghe theo lời khuyên của anh chàng ăn mặc bảnh
bao đó?” Thực ra, “bảnh bao”
và “mồ hôi trên trán” chẳng có dính dáng gì đến vấn đề đang bàn thảo.
5. Luận điệu cá trích: Loại ngụy biện này thường hay được ứng dụng khi một người nào đó
đưa vào những phát biểu không dính dáng gì đến vấn đề đang tranh luận, nhằm mục
đích đánh lạc hướng vấn đề. Ví dụ: “Anh có thể nói rằng tử hình là một hình thức
không có hiệu quả trong việc chống lại tội phạm, nhưng còn nạn nhân của tội
phạm thì sao? Gia đình của nạn nhân sẽ nghĩ gì khi họ thấy tên sát nhân người
thân của họ bị giam giữ trong nhà tù bằng đồng tiền của chính họ. Họ có nên
nuôi dưỡng những tên sát nhân như thế không?”
6. Luận điệu ngược ngạo: Bằng chứng luôn luôn là gánh nặng của
người phát biểu. Do đó, tìm cách chuyển gánh nặng đó cho một người khác là một
thủ đoạn của những người ngụy biện. Chẳng hạn như trong câu này “Anh nói rằng ăn nhiều
mỡ không liên quan đến cholesterol, nhưng anh có thể chứng minh điều đó không?” Đáng lẽ người phát biểu phải chứng minh,
nhưng công việc đó lại được chuyển cho người đối thoại!
NHÓM 2: LỢI DỤNG CẢM TÍNH VÀ ĐÁM ĐÔNG:
7. Dựa vào bạo lực (ad baculum): Ngụy biện dựa vào bạo lực thực chất là một sự đe dọa, nhằm mục
đích gây áp lực cho người đối thoại phải chấp nhận một kết luận nào đó. Loại
ngụy biện này thường được giới chính khách dùng, và có thể tóm gọn bằng một câu
“chân lí thuộc về kẻ mạnh”. Sự đe dọa không hẳn chỉ xuất phát từ người phát
biểu, mà có thể từ một người khác. Ví dụ như “Những ai không tin vào chính sách của Nhà nước
sẽ phải trả giá đắt”, hay “Được rồi, tôi đã biết
số điện thoại của anh và biết anh đang ở đâu. À, tôi có nói cho anh biết là tôi
mới mua một cây súng ngắn chưa nhỉ?”
8. Lợi dụng lòng thương hại (ad
misericordiam): Đây là một loại ngụy biện dựa vào lòng trắc ẩn
của người đối thoại để người đối thoại chấp nhận lí lẽ của mình. Ví dụ như “Anh ấy không có giết
người bằng búa. Làm ơn đừng tuyên án anh ấy có tội, anh ấy đang trải qua một
giai đoạn khủng hoảng tinh thần,” hay “Tôi hi vọng anh sẽ chấp nhận đề nghị này, chúng ta đã tiêu ra ba
tháng nay để bàn rồi đấy.”
9. Lợi dụng hậu quả (ad consequentiam): Ngụy biện loại này thường được biểu hiện qua cách phát biểu “A hàm ý B, B là sự
thật, do đó A là sự thật”.
Ví dụ: “Nếu vũ trụ được một đấng chí tôn thượng đế tạo nên, chúng ta có
thể thấy những hiện tượng được tổ chức một cách thứ tự. Và hiện tượng chung
quanh chúng ta quả rất thứ tự, vậy đấng chí tôn thượng đế chính là người tạo
nên vũ trụ,” hay “Anh phải tin vào Đảng
Cộng hòa, chứ nếu không cuộc đời này sẽ chẳng có ý nghĩa” (hay là nói một cách ngược lại: cuộc sống
này chẳng có ý nghĩa gì nếu không có Đảng cộng hòa!)
10. Lạm dụng chữ nghĩa: Đây là một loại ngụy biện dựa vào dùng những chữ mang cảm tính
cao để gắn một giá trị đạo đức vào một đề nghị hay một câu phát biểu. Chẳng hạn
như trong câu “Bất cứ một người có lương tri nào cũng phải đồng ý rằng về Việt
Nam ăn Tết là làm lợi cho cộng sản,” chữ “lương tri” được cài vào nhằm cho người đối thoại phải
nghiêng theo những người có lương tri.
11. Dựa vào quần chúng (ad numerum): Loại ngụy biện này tin rằng nếu có nhiều người ủng hộ một đề
nghị nào đó, thì đề nghị đó phải đúng. Ví dụ như “Đại đa số người dân
trong cộng đồng ủng hộ ông Minh, vậy phát biểu của ông Minh ắt phải đúng.”
NHÓM 3: LÀM LẠC HƯỚNG VẤN ĐỀ
12. Lí lẽ chẻ đôi: Loại ngụy biện này thường phân định một vấn đề thành hai giá
trị: trắng và đen, bạn và thù, có và không, v.v.. dù trong thực tế, có hơn hai
lựa chọn. Chẳng hạn như “Hoặc là anh hợp tác với tôi hoặc là anh chống tôi, anh chọn
hướng nào, yes hay là no?”
13. Lí lẽ ngờ nghệch (ad ignorantiam): Loại ngụy biện này, như tên gọi ám chỉ, xuất phát từ sự ngớ
ngẩn. Một trong những cách nói thông thường nhất trong loại ngụy biện này mà
giới ngụy biện hay dùng là nếu một điều gì đó chưa được chứng minh là sai (hay
giả) thì điều đó là đúng (hay thật). Ví dụ: “Bởi vì các nhà khoa học chưa chứng minh dioxin
có thể gây ra dị thai, do đó dioxin không thể gây ra dị thai,” hay kiểu lí luận của “Nền kinh tế phát triển
và xã hội ổn định mấy năm nay, không có lý do gì phải cần đến dân chủ”.
14. Lí luận lươn trạch: Loại ngụy biện này cho rằng nếu một sự kiện xảy ra, các sự kiện
có hại khác sẽ xảy ra. Chẳng hạn như “Nếu chúng ta hợp pháp hóa cần sa, công chúng
sẽ bắt đầu hút cần sa, và chúng ta cũng sẽ phải hợp pháp hóa á phiện. Rồi chúng
ta sẽ là một quốc gia với những người ăn bám vào xã hội. Do đó, chúng ta không
thể hợp pháp hóa á phiện”.
Hay một đoạn ví dụ khác: “Tiếc thay một cuộc cải cách về kinh tế, bình bị, tài chánh, xã
hội, nông nghiệp như vậy, đang trên đường thành công rực rỡ: bị tan vỡ, bị huỷ
bỏ chỉ vì tham vọng đánh Đại việt của Vương An Thạch. Mà đau đớn biết bao, khi
người phá vỡ chỉ là một thiếu phụ Việt ở tuổi ba mươi. Giá như Thạch không chủ
trương Nam xâm, chỉ cần mười năm nữa, toàn bộ xã hội Trung quốc thay đổi; rồi
với cái đà đó, thì Trung quốc sẽ là nước hùng mạnh vô song, e rằng cứ muôn đời
mặt trời vẫn nở phương Đông chứ không ngả về Tây như hồi thế kỉ 18 cho đến nay
bao giờ.”
15. Mệnh đề rời rạc: Đây là loại ngụy biện dùng hai (hay nhiều hơn hai) mệnh đề chẳng
dính dáng gì với nhau để làm thành một phát biểu hay kết luận. Ví dụ: “Anh ủng hộ tự do dân
chủ và quyền mang vũ khí hay không?” hay “Anh đã ngưng làm ăn trái phép chưa?” Câu hỏi sau thực ra hỏi hai vấn đề “Anh từng làm ăn trái
phép?” và “Anh đã ngừng hoạt động
hay chưa?”
16. Đơn giản hóa: Đây là một loại ngụy biện mà người phát biểu cố tình biến
một quan niệm trừu tượng thành một điều cụ thể để bắt lấy thế thượng phong
trong đối thoại (nhưng là ngụy biện). Ví dụ: “Tôi để ý thấy anh mô tả ông ta là một người
quỉ quyệt. Vậy tôi hỏi anh cái ‘quỉ quyệt’ đó nó nằm ở đâu trong bộ não? Anh
không chỉ ra được cho tôi; do đó, tôi có thể nói cái quỉ quyệt không có thực.”
NHÓM 4: QUI NẠP SAI
17. Khái quát hóa vội vã: Loại ngụy biện này cũng khá phổ biến. Nó dùng một ví dụ hay
trường hợp nhỏ và từ đó khái quát hóa cho một cộng đồng. Chẳng hạn như “Ông ấy là một tay đạo
đức giả. Do đó, các bạn bè của ông ấy cũng giả dối.”
18. Khái quát hóa không đúng chỗ: Đây là loại ngụy biện mà người sử dụng chúng thường áp dụng một
qui luật chung cho một tình huống hay một cá nhân. Chẳng hạn như “Người cộng sản là vô
thần. Anh là người theo chủ nghĩa cộng sản, vậy anh chắc chắn là một người vô
thần.”
19. Kéo dài tính tương đồng: Trong loại ngụy biện này, người dùng nó đề nghị một điều lệ
chung chung, rồi áp dụng nó cho mọi trường hợp và cá nhân. Ví dụ: “Tôi tin rằng chống
luật pháp bằng cách phạm luật pháp là một điều sai trái”, hay “Nhưng quan điểm đó ghê tởm lắm, vì nó ám chỉ
rằng anh sẽ không ủng hộ tôi,” hay “Anh muốn nói rằng luật về mật mã cũng có tầm quan trọng tương
đương với phong trào giải phóng sao? Sao anh dám nói thế?”
20. Lí lẽ quanh co: Loại ngụy biện này thường luẩn quẩn trong vài giả định và kết
luận. Chẳng hạn như “Những người đồng tính luyến ái nhất định không thể nắm chính
quyền. Do đó, phải tống khứ những viên chức chính phủ đồng tính luyến ái. Vì
thế, những người đồng tính luyến ái sẽ làm mọi cách để dấu diếm hành tung của
họ, và họ có nguy cơ bị tống tiền. Do vậy, những người đồng tính luyến ái không
được giữa chức vụ gì trong chính phủ.” Tức là trong một lí giải như thế, cả hai giả thuyết và kết
luận đều giống nhau.
21. Đảo ngược điều kiện: Loại ngụy biện này thường được biểu hiện qua hình thức “Nếu A xảy ra thì B sẽ
xảy ra, do đó, nếu B xảy ra thì A sẽ xảy ra.” Ví dụ: “Nếu tiêu chuẩn giáo dục bị hạ thấp, chất lượng tranh luận sẽ bị
tồi đi. Do đó, nếu chúng ta thấy chất lượng tranh luận suy đồi trong những năm
sắp đến, thì điều đó cho thấy tiêu chuẩn giáo dục của ta bị xuống cấp.”
22. Lợi dụng rủi ro: Ngụy biện này thường dùng một qui luật chung và áp dụng nó cho
một trường hợp cá biệt. Ví dụ: “Luật giao thông không cho anh chạy quá 50
km/h. Cho dù cha anh sắp chết anh cũng không được chạy quá tốc độ đó.”
23. Lợi dụng trường hợp cá biệt: Ngụy biện này thường dùng một trường hợp cá biệt để đem ra ứng
dụng cho một đám đông. Ví dụ: “Chúng ta cho phép bệnh nhân sắp chết dùng á
phiện, chúng ta nên cho phép mọi người dùng á phiện.”
24. Kết luận lạc đề: Loại ngụy biện này thường xuất hiện khi một kết luận chẳng dính
dáng gì đến lí lẽ mà người biện luận trình bày. Một ví dụ tiêu biểu cho trường
hợp ngụy biện này là: “Độ nhiễm arsenic trong nước ở Việt Nam chưa cao và còn trong mức
độ cho phép. Dữ kiện của Bangladesh cho thấy tình trạng nhiễm arsenic ở Việt
Nam rất trầm trọng.”
25. Ngụy biện rơm: Loại ngụy biện này cố tình xuyên tạc, bóp méo quan điểm hay phát
biểu của người khác, để làm luận điểm tấn công. Đây là một ngụy biện, vì nó
không đương đầu với cái lí lẽ đang bàn. Chẳng hạn như: “Chúng ta nên ủng hộ
chế độ cưỡng bách quân dịch. Người ta không thích tòng quân vì họ không muốn
cuộc sống bị đảo lộn. Nhưng họ cần nhận thức rằng có nhiều điều quan trọng hơn
tiện nghi trong cuộc sống.”
NHÓM 5: NGUYÊN NHÂN GIẢ TẠO
26. “Post hoc”: Loại ngụy biện này phát biểu rằng hai sự kiện xảy ra, một trước
và một sau, có quan hệ với nhau như nguyên nhân và hậu quả. Ví dụ: “Liên Xô sụp đổ sau khi
nhà nước theo chủ nghĩa vô thần. Do đó, chúng ta phải từ bỏ chủ nghĩa vô thần
để khỏi bị suy sụp.”
27. Ảnh hưởng liên đới: Một sự kiện được cho là có ảnh hưởng đến một sự kiện khác, nhưng
thực chất thì cả hai sự kiện đều có cùng một nguyên nhân. Đây cũng chính là một
trường hợp ngụy biện dưới dạng “post hoc”. Ví dụ: “Chúng ta đang chứng
kiến một tình trạng thất nghiệp rất cao, vì do thiếu nhu cầu của người tiêu
thụ.” (Nhưng có thể cả hai
sự kiện có nguyên nhân từ tiền lời quá cao.)
28. Ảnh hưởng không đáng kể: Đây là một loại ngụy biện mang tính phóng đại từ một ảnh hưởng
rất nhỏ. Chẳng hạn như “Hút thuốc gây ra ô nhiễm môi trường ở Sydney” là một phát biểu đúng, nhưng ảnh hưởng của
thuốc lá đến môi trường rất khiêm tốn khi so với ảnh hưởng của khói xe và các
hãng xưởng.
29. Ảnh hưởng ngược chiều: Mối quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả bị đảo ngược chiều để
tìm đến một kết luận mang tính ngụy biện. Ví dụ: “Ung thư gây ra thói
quen hút thuốc lá”.
30. Nguyên nhân phức tạp: Một sự kiện xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng
người ngụy biện có thể đơn giản hóa thành một liên hệ đơn giản. Chẳng hạn như “Tai nạn xe cộ là do
đường xá xấu” có thể đúng, nhưng
tai nạn cũng có thể do người lái xe ẩu trong một điều kiện xấu.
31. Nguyên nhân sai (Non causa pro causa): Loại ngụy biện này xảy ra khi một điều nào đó được cho là nguyên
nhân của một sự kiện, nhưng nó chưa thực sự được chứng minh là nguyên nhân. Ví
dụ: “Tôi uống một viên aspirin và cầu nguyện thượng đế, và tôi không
còn bị nhức đầu. Như vậy thượng đế đã chữa trị tôi khỏi nhức đầu.”
NHÓM 6: PHI LOGIC (NON SEQUITUR) VÀ NHẦM LẪN
TRONG TAM ĐOẠN LUẬN
32. Phi logic: Ngụy biện phi logic thường xảy ra trong trường hợp một lí lẽ mà
kết luận được rút ra từ những tiêu đề không dính dáng gì với nhau. Chẳng hạn
như “Người Ai Cập đã từng làm nhiều khai quật để xây dựng những kim
tự tháp, họ chắc chắn phải rất thạo về cổ sinh vật học.”
33. Loại bỏ tiền đề: Ngụy biện loại này thường xảy ra dưới hình thức “nếu A thì B, không
phải A thì không phải B.”
Ví dụ: “Nếu tôi ở Sydney thì tôi đang ở New South Wales. Tôi hiện không
ở Sydney, do đó, tôi không ở New South Wales”.
34. Nhét chữ vào miệng người khác: Đây là một loại ngụy biện bằng cách dùng kĩ thuật phỏng vấn. Một
trường hợp cổ điển là “Ông đã ngưng đánh vợ chưa?” Tức là một câu hỏi với một giả định rằng người được hỏi từng
hành hung vợ. Đây là một mẹo mà giới luật sư thường hay dùng trong thẩm vấn. “Ông giấu tiền ăn cắp
đó ở đâu?” Giới chính khách
cũng thích mẹo này, đại khái như “Bao giờ thì nhóm EU này sẽ không còn xâm phạm
vào công việc của chúng ta?”
35. Ngụy biện tứ ngữ. (Một tiêu chuẩn của tam
đoạn luận gồm có 3 chữ): Ví dụ như trong câu phát biểu “Tất cả chó là thú vật,
và tất cả mèo là loài động vật có vú, do đó tất cả chó là loài động vật có vú,” có bốn chữ: chó, mèo, động vật, và động vật
có vú.
36. Đứt đoạn: Hai sự vật riêng biệt được xem là có liên hệ nhau nếu chúng có
chung đặc tính. Người ngụy biện lợi dụng chữ giữa của một phát biểu để đưa đến
một kết luận sai. Chẳng hạn như trong câu “Tất cả người Nga là nhà cách mạng, và tất cả
những người theo chủ nghĩa vô chính phủ cũng là nhà cách mạng, do đó, tất cả
những người theo chủ nghĩa vô chính phủ là người Nga,” chữ chính giữa là “nhà cách mạng”. Nhưng kết luận này sai, vì dù những người
theo chủ nghĩa vô chính phủ và người Nga là những người cách mạng, nhưng họ có
thể là hai nhóm cách mạng khác nhau.
NHÓM 7: CÁC NHẦM LẪN KHÁC
37. Dẫn chứng bằng giai thoại: Một trong những ngụy biện phổ biến nhất và đơn giản nhất là dựa
vào những câu chuyện có tính vụn vặt, hay giai thoại. Chẳng hạn như “Có hàng khối bằng
chứng cho thấy thượng đế hiện hữu và vẫn ban phép mầu hàng ngày. Mới tuần rồi
đây, tôi có đọc được một câu chuyện về một cô gái sắp chết vì ung thư, cả gia
đình cô đi cầu nguyện trong nhà thờ, và chỉ vài ngày sau cô hết bệnh.” Dùng kinh nghiệm cá nhân để minh họa cho một
luận điểm là một điều hoàn toàn hợp lí, nhưng dùng những giai thoại như thế sẽ
chẳng chứng minh gì. Một anh bạn có thể cho rằng anh từng gặp Elvis ở một siêu
thị nào đó, nhưng những người chưa gặp Elvis bao giờ thì cần nhiều bằng chứng
xác thực hơn.
38. Lợi dụng cổ tích: Đây là một loại ngụy biện cho rằng những gì đúng hay tốt chỉ đơn
giản vì chúng là cổ xưa, và những người theo cách ngụy biện này thường nói “hồi nào đến giờ ai
cũng vậy.” Chẳng hạn như “Hàng trăm năm nay, Úc
chịu dưới sự cai trị của Hoàng gia Anh, và là một nước thịnh vượng. Một thể chế
tồn tại lâu dài như thế ắt phải là một thể chế ưu việt.”
39. Dựa vào cái mới (ad novitatem): Ngược lại với loại ngụy biện dựa vào cái cũ, ngụy biện dựa vào
cái mới cho rằng một điều gì đó tốt hơn và đúng hơn đơn giản chỉ vì nó mới hơn
cái khác. “Windows 2000 phải tốt hơn Windows 95, Windows 2000 mới được
thiết kế lại năm ngoái.”
40. Lí lẽ của đồng tiền: Loại ngụy biện này thường dựa vào một niềm tin duy nhất rằng
đồng tiền là một tiêu chuẩn của sự đúng đắn. Những người có nhiều tiến có khả
năng đúng hơn những người ít tiền. Chẳng hạn như “Nhu liệu của hãng
Microsoft đương nhiên là tốt hơn; nếu không thì làm sao Bill Gates có thể trở
nên tỉ phú như thế”.
41. Dựa vào cái nghèo: Ngược lại với ngụy biện dựa vào sự giàu có, có một loại ngụy
biện khác dựa vào sự nghèo khổ. Chẳng hạn như “Các vị sư có khả năng
hiểu thấu được ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì họ từ bỏ mọi xa hoa của cuộc sống.”
42. Điệp khúc (ad nauseam): Loại ngụy biện này cho rằng một lí lẽ càng được lặp đi lặp lại
nhiều chừng nào thì nó sẽ được người ta chấp nhận là đúng. Do đó, người ngụy
biện thường chỉ lặp đi lặp lại những phát biểu, bất kể đúng sai ra sao, cho đến
khi người đối thoại mệt mỏi không còn muốn nghe nữa, như “Đảng lãnh đạo, nhân
dân làm chủ, nhà nước quản lí”.
43. Lạm dụng thiên nhiên: Đây là một ngụy biện rất thông thường trong giới chính trị gia,
mà trong đó họ tìm cái tương đồng giữa một kết luận nào đó và một khía cạnh của
thế giới tự nhiên, rồi từ đó phát biểu rằng kết luận đó là không thể tránh
khỏi. Chẳng hạn như “Đặc điểm của thế giới tự nhiên là cạnh tranh; động vật đấu tranh
chống nhau để làm chủ tài nguyên thiên nhiên. Chủ nghĩa tư bản, một hình thức
cạnh tranh để làm chủ tư liệu, chỉ đơn giản là một phần của con người sống
trong thế giới tự nhiên. Đó cũng là cách mà thế giới tự nhiên vận hành.” Một hình thức khác của lạm dụng thiên nhiên
là lí luận cho rằng bởi vì con người là sản phẩm của thế giới tự nhiên, chúng
ta phải bắt chước hành động theo những gì chúng ta thấy trong thế giới tự
nhiên, và làm khác đi là “phi tự nhiên”. Ví dụ: “Đồng tính luyến ái dĩ
nhiên là không tự nhiên.”
44. Ngụy biện “anh cũng vậy”: Đây là một trong những ngụy biện rất phổ biến. Nó dựa vào lí lẽ
rằng một hành động có thể chấp nhận được bởi vì người đối nghịch đã làm. Chẳng
hạn như “Anh là một người lừa dối.” “Rồi sao? Anh cũng là một tay lừa dối vậy.”
45. Lạm dụng thống kê: Thống kê thường được giới ngụy biện sử dụng tối đa, vì theo họ
thống kê có thể dùng để “chứng minh” bất cứ điều gì. Người ta có thể vặn vẹo
hai con số 1 và 3 điểm để sản xuất những phát biểu như “khác nhau 2 điểm”, “cao
gấp 3 lần”, hay “tăng 200%”; người ta có thể dựa vào ý kiến đồng tình của 4
người trong 5 người để cho là “80% người được thăm dò”, hay thậm chí “đa số
cộng đồng” đồng ý với một luận điểm nào đó. Tức là những khái quát hoá một cách
vội vã, hay dựa vào một mẫu số cực kỳ thấp, thấp đến độ nó không có nghĩa lí
gì.
Thực ra, thống kê không chứng minh điều gì cả. Thống kê chỉ là
một phương tiện hay thuật toán dùng để loại bỏ những trường hợp khả dĩ hay
không khả dĩ. Vì có quá nhiều ngụy biện thống kê, nên vấn đề này sẽ được bàn
tiếp trong một dịp khác.
NHẬN XÉT
Có thể nói những loại ngụy biện trên đây có những đặc điểm
chung là (a) phát biểu không dựa vào lí lẽ logic; (b) các định đề không vững để
đi đến một kết luận; và (c) đưa ra giả định không đúng. Ngụy biện, do đó, nói
cho cùng, là một sản phẩm của sự lười biếng suy nghĩ. Và hầu như trong chúng
ta, ai cũng có ít nhất là một lần lười suy nghĩ. Do đó, nếu điểm qua những loại
ngụy biện trên đây, chúng ta tự cảm nhận rằng trong quá khứ mình chắc cũng có
lần phạm vào lỗi lầm của ngụy biện. Điều này có thể đúng, và không nên lấy làm
ngạc nhiên, vì các nhà thông thái, và ngay cả giới có huấn luyện về logic học
cũng đôi khi, vì cố ý hay vô tình, ngụy biện.
Giới chính trị gia và truyền thông là những người cực kì nổi
tiếng về ngụy biện. Nhưng tại sao những ngụy biện vẫn còn có mặt trên báo chí?
Theo tôi, bởi vì chúng vẫn có khách hàng. Vẫn có người, dù ít hay nhiều, tin
tưởng vào ngụy biện, vì nó thuận nhĩ, trơn tru, và nhất là không thách thức. Sờ
một hòn đá trơn tru đem lại cho chúng ta một cảm giác khoan khoái dễ chịu hơn
là sờ một hòn đá lởm chởm, hay ngồi trên một cái ghế ghồ ghề. Người ta thích sự
trơn tru, bởi vì trơn tru là dấu hiệu của sự khoan khoái, dễ chịu, là cái
khoảng thời gian giải lao, không cần sự thách thức. Có lẽ, ở một khía cạnh nào
đó, điều này cũng không đến nỗi tệ, bởi vì những ngụy biện phản ánh sự thành
công [hay có người nói sự phong phú] của ngôn ngữ trong việc tách rời giữa
những gì thô thiển, gồ ghề với những gì hoàn thiện, mĩ miều.
Nhưng sự trơn tru của các vật thể và ngôn ngữ ngày nay đem lại
cho chúng ta một cảm giác giả tạo về thế giới thực của các vật thể. Những kì
kẹt xe trên đường xá mới để lộ trái tim phức tạp của một thành phố. Tương tự,
một sự cố của internet sẽ nhắc nhở chúng ta về tình trạng hỗn mang và phức tạp
của hệ thống thông tin điện tử. Sự hỗn mang và phức tạp là thực. Trơn tru, tròn
trĩnh có thể là giả tạo. Những câu văn ngụy biện có thể chỉ là những lời phát
biểu lém lỉnh thay vì lịch thiệp, hàm chứa mánh khóe thay vì thân thiện. Có thể
nói, ngụy biện là những lối sáo ngữ liến thoắng nhằm vào mục đích lôi cuốn
người nghe/đọc, thay vì cung cấp cho họ một sự thực. Bởi vì ngụy biện là những
lí lẽ mà bề ngoài có vẻ logic, nên chúng có khả năng thuyết phục những người
không chịu khó suy nghĩ, nhất là những người còn mang nặng cảm tính. Điều này
giải thích tại sao nhiều người tiếp nhận một cách thụ động quá nhiều những điều
quái gở về thế giới chung quanh, kể cả những niềm tin tôn giáo, những mê tín dị
đoan, những triết lí quái đảng, những thông tin sai lạc, v.v..
Cái tác hại của việc tiếp nhận thụ động này là nó làm cho người
ta trở nên nô lệ với cảm tính, và dễ dàng trở thành những tín đồ cuồng tín của
những người “lãnh đạo” chính trị hay tôn giáo. Để không trở thành những nô lệ,
cần phải suy nghĩ nghiêm túc. Suy nghĩ nghiêm túc là một quá trình hoạt động
tri thức nhằm ý niệm hóa, ứng dụng, phân tích, tổng hợp, và đánh giá những
thông tin được thu thập từ quan sát, kinh nghiệm, phản ánh, lí luận, hay liên
lạc, như là một niềm tin cho hành động.
Cần phải dựa vào những giá trị tri thức với những đặc điểm như
trong sáng, chính xác, nhất quán, có liên hệ, bằng chứng tốt, lí lẽ hợp lí, có
chiều sâu, và công bằng. Tức là, trước một câu phát biểu hay một đề nghị, cần
phải thẩm định lại kết cấu và nguyên tố của phát biểu hay đề nghị đó. Những kết
cấu và nguyên tố này là: mục đích, vấn đề, giả định, quan niệm, bối cảnh, kết
luận, ngụ ý, hậu quả, phạm vi tham khảo, và quan điểm khác. Người Việt chúng ta
thường rất tự hào về những đối thoại [mà chúng ta cho là “thông minh”] giữa
Trạng Quỳnh và Chúa Trịnh ngày xưa. Nhưng nói một cách công bằng và theo tiêu
chuẩn của lí luận logic, thì những trao đổi của Trạng Quỳnh hay tương tự chỉ là
những ngụy biện ở trình độ thô sơ nhất. Nhưng có điều đáng buồn là những đối
thoại kiểu Trạng Quỳnh, mà trong đó sự hơn thua nhau từng câu nói, bắt bẽ nhau
từng chữ, vặn vẹo ý nghĩa của từng câu văn, v.v… lại đi vào sử sách, như thể để
làm gương cho thế hệ sau này. Mà làm gương thật. Cho đến ngày nay, có người vẫn
còn cho đó là một biểu tượng của sự thâm thúy, thông minh của dân tộc, là phản
ánh sự phong phú của ngôn ngữ Việt, và đem ra ứng dụng trong tranh luận.
Theo dõi báo chí, chúng ta thấy những hình thức tấn công cá nhân
(thay vì tấn công vào luận điểm), xuyên tạc ý tưởng, chụp mũ, suy luận theo cảm
tính, mỉa mai, đơn giản hóa vấn đề, v.v… xuất hiện hầu như hàng ngày, có khi
hàng giờ. Vì những tần số của những loại ngụy biện xuất hiện quá nhiều như thế,
nó thành một sự rập khuôn. Theo thời gian, rập khuôn trở thành “truyền thống”.
Hậu quả của cái truyền thống này là những ai ra ngoài cái khuôn sáo của ngụy
biện đều có thể bị xem là phi chính thống, dẫn đến một lối suy nghĩ và phán xét
kì quặc kiểu “anh/chị không thuộc nhóm của tôi, vậy thì anh/chị thuộc nhóm bên
kia,” “anh chê ‘quốc gia’,
vậy anh phải là cộng sản”,
“anh
khen Việt Nam, vậy anh là cộng sản” “giọng nói anh ‘Bắc kỳ 75’, vậy anh là cộng sản” hay “Nhà nước cho anh ra ngoài này trình diễn, chắc
anh là cộng sản đi tuyên truyền”… Anh ở phía này, tôi bên kia. Nói tóm lại, đó là một lối phân
định theo hai giá trị: xấu và tốt, đen và trắng, hay địch và ta một cách cứng
nhắc. Cách phân định này thể hiện một sự nghèo nàn về trí tuệ, hay lười biếng
suy nghĩ. Chỉ cần đặt vấn đề ngược lại một chút, hay phát triển vấn đề xa hơn
một chút, ai cũng có thể thấy lối phân chia có/không này không thể đem đến một
đáp số cho một vấn đề nào cả.
Trong cái sự thực phức tạp, mờ mờ ảo ảo của vấn đề, có cái đẹp
riêng. Không phải cái đẹp trơn tru, tròn trĩnh, nhưng là cái đẹp khắt khe của
sự thật. Tương tự, một lời phát biểu nghịch lí có cái đẹp của nó, vì nó có thể
đánh thức chúng ta về một thế giới phức tạp, một thế giới không nằm gọn trong
đúng/sai, tốt/xấu, bạn/thù. Có lẽ đã đến lúc chúng ta nên vượt qua chính mình
bằng cách cho các tế bào trí tuệ có cơ hội làm việc.
*
( Bài viết trên do tác giả BTĐ sưu tầm, tuy
hơi dài và lấy nhiều dẫn chứng ngoài Việt Nam, nhưng là một bài viết nghiên cứu
nghiêm túc và khách quan. Hi vọng các bạn bỏ thời gian để đọc một lần
trước khi tham gia tranh luận).
Cám ơn mọi người.
Hoa Nguyen)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét