Thứ Bảy, 15 tháng 4, 2017

Trần Văn Giáp - Lược truyện các tác gia Việt Nam TI. Thế kỷ XIII (Trần) Từ số 28 – 39

Trần Văn Giáp - Lược truyện các tác gia Việt Nam TI.
Thế kỷ XIII (Trần)
Từ số 28 – 39
28. Thường Chiếu Thiền sư 常照禅师(?- 1203)
Thường Chiếu thiền sư, họ Phạm, tên thực là gì không rõ. Pháp hiệu của ông là Thường Chiếu thiền sư. Ông người làng Phù Ninh (Từ Sơn, Bắc Ninh cũ, nay thuộc Hà Bắc). Sinh năm nào không rõ, chỉ biết mất ngày 24 tháng 9 năm Thiên gia Bảo hựu thứ 2 đời Lý Cao Tông, tức ngày 30 tháng 10 năm 1203.
Ông làm quan Lệnh đô tào đời Lý Cao Tông (1176-1210), bỏ quan về, đi tu tại chùa ở Phường Ông Mạc (ô Đống Mác, Hà Nội).
Tác phẩm có: Tại thế vi nhân thân (triết) chép ở Thiền Uyển tập anh ngữ lục (quyển thượng, tờ 28) và 1 số Kệ, …
Nam Tông tự pháp đồ (sử, triết) 1 quyển.
29. Tĩnh Giới Thiền sư静戒禅师(?-1207)
Tĩnh Giới thiền sư, tên họ thực là Chu Hải Ngung, pháp hiệu là Tĩnh Giới thiền sư. Ông người làng Mão (?), không rõ sinh năm nào, mất ngày 7 tháng 7 năm Trị Bình Long ứng đời Lý (2-8-1207).
Thửa nhỏ nhà nghèo ông theo học Nho. Sau vì ốm, ông đi tu liền 6 năm. Năm Trinh phù thứ 2 (1171), vua Lý Cao Tông nghe tiếng ông giỏi Phật học và Nho học nên mời ông đến kinh đô làm quan.
Tác phẩm của ông còn 2 bài kệ: Thuyết đạo và Thu lai  (triết, văn) chép trong Thiền Uyển tập anh ngữ lục.
30.Trần Thái Tông 陈太宗(1218-1277)
Trần Thái tông, tên họ thực là Trần Cảnh, miếu hiệu là Thái Tông, dòng dõi tổ tiên ở làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định cũ, nay thuộc tỉnh Nam Hà, là con Trần Thừa và bà Lê Thị Phong.
Ông sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (10-7-1218), mất năm 1277. Lên 8 tuổi, ông được chú là Trần Thủ Độ cử vào trong cung, hầu Lý Chiêu Hoàng. Sau ông lấy Lý Chiêu hoàng và lên ngôi vua năm 1225, làm vua được 33 năm (1225-1258), thọ 59 tuổi.
Ông mở khoa thi, đặt lễ nghi, định hình luật, tu sửa văn miếu, kế hoạch đều theo ý của Trần Thủ Độ. Khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta lần thứ nhất (1257), ông thân chinh làm tướng, đem quân ra Đông Bộ đầu chống giặc.
Tác phẩm của ông gồm có:
Kiến trung thường lệ (sử) 5 quyển.
Quốc triều thông chế (sử) 20 quyển.
Một số thơ (văn, triết) chép trong Toàn Việt thi lục.
Về sách Quốc triều thông chế của ông, có sách chép lầm là Quốc triều thông phán. Nhiều sách còn chép lầm bộ Khóa Hư tập hay Khóa Hư ngữ lục là của ông, nhưng xét kỹ bộ sách ấy là của Trần Nhân Tông (xem số 32)
31.Trần Thánh Tông(1240-1290)
Trần Thánh tông, tên họ thực là Trần Hoảng, miếu hiệu là Thánh tông, con cả vua Trần Thái tông và bà Thuận Thiên công chúa họ Lý, sinh ngày 25 tháng 9 năm Canh Tý (12-10-1240), mất ngày tháng 5 năm Canh dần, tháng 6 -1290, làm vua được 21 năm (1258-1278), thọ 51 tuổi.
 Sứ nhà Nguyên có lần sang sách nhiễu, ông nhất định không chịu lạy chiếu chỉ của vua Nguyên. Khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta. Ông làm Thái thượng hoàng, cùng bàn kế đánh giặc với các phụ lão trong nước ở Hội nghị Diên Hồng, ai ai cũng đồng thanh quyết chiến.
Tác phẩm của ông gồm có:
Cơ cừu lục (triết)
Di hậu lục (triết)
Hoàng tông ngọc điệp (gia phả nhà Trần )(sử)
Một số thơ nhan đề là Trần Thánh Tông thi tập (văn) chép trong Toàn Việt thi lục.
32. Trần Nhân Tông(1258-1308)
Trần Nhân Tông, tên họ là Trần Khâm, miếu hiệu là Nhân Tông, con vua Trần Thánh Tông và bà Thiên cảm hoàng hậu, sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu ngọ (7-12-1258), và mất ngày 3-11 năm Mậu Thân (16-11-1308), thọ 51 tuổi. Ông làm vua được 14 năm(1279-1293), rồi đi tu ở núi Yên Tử, đạo hiệu là Trúc Lâm đầu đà; đã khai sáng ra phái Trúc Lâm trong Phật Giáo Việt Nam, nên còn gọi là Trúc Lâm đệ nhất tổ.
Khi quân Nguyên xâm lược nước ta, ông phải 2 lần bỏ kinh đô mà rút vào Thanh Hóa. Nhờ được nhân dân ủng hộ và sự lãnh đạo tài tình của Trần Quốc Tuấn, tướng sĩ 1 lòng đánh giặc nên đã đuổi được quân Nguyên ra khỏi bờ cõi. Tác phẩm của ông có: Trung hưng thực lục(sử), Thiền lâm thiết chủy ngữ lục (triết), Đại hương hải ấn thi tập (văn, triết), Tăng già toái sự (Phật), Thạch thất mị ngữ (triết), Trần Nhân tông thi tập (văn, triết), chép trong Trần triều thế phả hành trạng và Toàn Việt thi lục, Khoa Hư tập
33.Trần Quang Khải(1241-1294)
Trần Quang Khải là tôn thất nhà Trần, biệt hiệu Lạc Đạo tiên sinh, người làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định cũ, nay thuộc tỉnh Nam Hà, sinh năm 1241, mất năm 1294. Ông là con thứ vua Trần Thái Tông. Đời vua Trần Thánh tông, ông được phong làm Tướng quốc. Đến đời Nhân tông, ông giữ chức Thượng tướng, đem quân đánh giặc Nguyên; phá được quân của Toa Đô ở bến Chương Dương, thuộc địa phận Thường Tín, Hà Đông. Vua Trần Anh tông phong ông chức Thái Sư. Trần Quang Khải là người học rộng, lại thông hiểu nhiều thứ tiếng.
Tác phẩm của ông có: Lạc đạo tập(văn, triết), Tùy giá về Thăng Long  (văn) chép trong Toàn Việt thi lục
34.Đinh Củng Viên(?-1294)
Đinh Củng Viên là người huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa; không rõ ngày sinh, mất năm 1294. Đời Trần Thánh Tông (1258-1278) ông làm Viên ngoại lang, được cử sang Sứ nhà Nguyên, bàn cãi về cương giới giữa nước ta và Trung Quốc.
Đời Trần Nhân tông, ông làm quan tới chức Hàn Lâm học sĩ, rồi sau làm Thái tử thiếu bảo quan Nội hầu. Ông được rất nhiều người kính trọng, lúc mất được phong tặng chức Thiếu phó.
Tác phẩm của ông có: Cồ Đường đồ (văn), chép trong Việt Âm thi tập và Toàn Việt thi lục.
35.Trần Quốc Tuấn(1226-1300)[1]
Trần Quốc Tuấn là tôn thất nhà Trần, người làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định cũ, nay thuộc tỉnh Nam Hà; sinh năm 1226 và mất năm 1300, là con ông Trần Liễu và cháu vua Trần Thái tông (Trần Cảnh).
Lúc nhỏ, cùng chơi với bạn, Trần Quốc Tuấn thường hay bày trận đánh nhau, lên 6 tuổi, ông đã biết làm thơ. Lớn lên, ông học rất thông minh, hiểu thấu lục thao, tam lược, có tài cưỡi ngựa, bắn cung rất giỏi.
Khi quân nhà Nguyên sang xâm lược nước ta (vào các năm 1284, 1285, 1288), ông được vua phong làm Tiết chế thủy bộ chư quân. Thế giặc lúc mới sang rất mạnh, ông phải cho quân sĩ tạm thời rút lui. Vua Nhân tông lo sợ, bàn với ông “tạm hàng để cứu muôn dân”. Ông khẳng khái trả lời: “Nếu bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sẽ hàng”. Nghe câu đó, Nhân Tông mới yên lòng, quyết tâm chống giặc.
Năm 1282,  Hốt Tất liệt(Hubilai) sai con là Thoát Hoan (Togan) cùng các tướng Toa Đô (Sagatu), Ô Mã nhi (Omar) đem 50 vạn binh sang xâm lược Việt Nam.
Nghe tin báo quân Nguyên đã tập hợp cả ở gần đất An Bang (vùng Hồng Quảng) để kéo sang Việt Nam, Trần Nhân Tông triệu tập các tướng, hạ lệnh đem tất cả Thủy Bộ chư quân đến họp để duyệt và tập trận. Lại cử Trần Quốc Tuấn làm Tiết chế thống lĩnh chư quân.
Tháng 9 -1287, Trần Quốc Tuấn hiệu triệu các vương hầu, tướng sĩ đến hội với quân đội nhà nước ở Đông Bộ đầu, duyệt quân rồi chia ra đóng các nơi hiểm yếu, phòng thủ; tự mình đóng quân ở Vạn Kiếp, để tiếp ứng mọi nơi.
Để động viên thúc đẩy việc huấn luyện quân sĩ, Trần Quốc Tuấn soạn sách Binh Thư yếu lược. Sách này với sáng tạo tính của nó, đã tóm tắt những binh pháo của Tôn, Ngô đời xưa, thành những câu gọn dễ hiểu, lại liên hệ với hoàn cảnh Việt Nam và kèm theo 1 bài Hịch tướng sĩ văn để phát cho các tướng sĩ học tập. Bài hịch nêu cao lòng yêu nước, chí căm thù giặc, đã khích lệ tướng sĩ rất nhiều. có người lấy mực thích vào cánh tay 2 chữ “Sát Thát”(Giết giặc Thát Đát) để tỏ ý căm thù và quyết chiến.
Dưới sự lãnh đạo tài tình của ông, lại được nhân dân cả nước ủng hộ, quân ta đã phá được giặc Nguyên, đuổi quân giặc ra khỏi bờ cõi. Ông được phong tới chức Hưng Đạo đại vương; cho nên người ta thường gọi ông là Trần Hưng Đạo.
Đến đời Trần Anh tông (1293-1314), ông về Vạn Kiếp (sau là xã Vạn Yên, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương cũ, nay thuộc tỉnh Hải Hưng) và mất tại đấy, ngày 20 tháng 8 năm Hưng Long thứ 8 (5-9-1300).
Tác phẩm của ông gồm có:
Binh Thư yếu lược (Binh học), 4 quyển.
Hịch tướng sĩ văn (văn, sử)
Vạn Kiếp bí truyền (?)(Binh học)
36.Trần Ích Tắc(Thế kỷ XIII)[2]
Trần Ích Tắc là con thứ vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh), được phong tước Chiêu Quốc vương, không rõ sinh và mất năm nào. Đời Trần Nhân tông(1279-1293), khi quân Nguyên sang xâm lược, Ích Tắc đem cả gia đình ra hàng với Thoát Hoan; vì thế nên không được công nhận là con cháu họ Trần nữa.
Ích Tắc theo giặc về Yên Kinh, và được Nguyên Thế Tổ lợi dụng, phong làm An Nam Quốc vương. Y được đưa về nước, nhưng nhân dân không công nhận tên vua bù nhìn của địch. Ích Tắc đành trở lại Trung Quốc làm quan với nhà Nguyên và chết ở Hán Dương.
Tác phẩm gồm có: Củng cực lạc ngâm (văn), 16 bài thơ (văn, sử) chép ở Toàn Việt thi lục.
37.Trần Khắc Chung(thế kỷ XIII)
Trần Khắc Chung, người huyện Hiệp Sơn (có người đọc là Giáp Sơn, sau là phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương cũ, nay thuộc tỉnh Hải Hưng), hiệu là Cúc Ẩn, trước nguyên họ Đỗ, sau được vua cho đổi theo họ Trần. Không rõ ông sinh mất năm nào.
Đời Trần Nhân Tông (1277-1293), niên hiệu Thiệu bảo (1279-1284), quân nhà Nguyên sang xâm lược nước ta, ông được lệnh mang thư sang trại giặc, biện luận với tướng Nguyên là Ô mã nhi, lời lẽ rất hùng hồn, khiến tướng Nguyên phải phục tài. Nhân có công đó, ông được Nhân tông cho đổi theo họ nhà vua (họ Trần), và được phong làm Đại hành khiển. Đời Trần Anh tông (1293-1314), ông làm Ngự sử đại phu rồi làm Thượng thư hữu bộ xạ, sang sứ Chiêm Thành, đón Huyền Trân công chúa về nước. Ông mất vào đời vua Hiến Tông (1329-1341) và được phong tặc chức Thiếu sư.
Tác phẩm của ông có: Vịnh cúc (văn), 2 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.
38.Lê Văn Hưu (1229-1322)
Lê Văn Hưu là người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, sinh năm 1229, mất năm 1322, thọ 93 tuổi.
Đời Trần Thái tông, năm 1247 (niên hiệu Thiên ứng chính bình thứ 16), ông đậu Bảng nhãn, làm quan đến chức Binh bộ thượng thư, tước Nhân Uyên hầu. Ông được vua giao soạn bộ Sử ký và sung chức Hàn lâm viện học sĩ, Giám tu viện Quốc sử. Bộ sử của ông chép từ Triệu Vũ đế (207TCN) đến đời Lý Chiêu Hoàng (1224) và là bộ sử đầu tiên của nước ta, rất có giá trị, tiếc nay không còn toàn bộ.
Theo bài tựa của Ngô Sĩ Liên, trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư,  thì bộ sử đó là bộ sử trùng tu, cho nên có người phỏng đoán là có lẽ Lê Văn Hưu đã soạn theo các sử liệu đương thời và các điều tục truyền. Điều này cần nghiên cứu kỹ lại. Dù sao ta vẫn có thể nói rõ bộ sử của Lê Văn Hưu là bộ sử đầu tiên của nước ta.
Tác phẩm của ông có : Đại Việt sử ký (sử) 30 quyển.
39.Nguyễn Thuyên (Còn gọi là Hàn Thuyên) (Thế kỷ XIII)
Nguyễn Thuyên là người làng Vụ Cầu, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ cũ, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phú (theo Cương mục chính biên, quyển 7 tờ 2b; ông là người làng Thanh Lâm, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương cũ, nay thuộc tỉnh Hải Hưng. Không rõ ông sinh và mất năm nào).
Đời Trần Thái tông (1225-1258), niên hiệu Thiên ứng Chính Bình thứ 16 (1247), ông đậu Thái học sinh và làm quan đến chức Công bộ thượng thư. Đời Trần Nhân Tông (1279-1293), năm 1282 (niên hiệu Thiệu bảo thứ 4), tục truyền có cá Sấu vào sông Lô, vua sai ông làm bài văn tế cá Sấu, ném xuống sông, cá Sấu bỏ đi. Việc đuổi cá Sấu giống việc làm của Hàn Dũ đời Đường nên vua khen thưởng và cho ông theo họ Hàn. Ông là người có tài làm văn thơ Nôm và là người đầu tiên dùng luật thơ Đường vào thơ Nôm, nên đời sau gọi thơ Nôm theo Đường luật là Hàn luật. Cũng vì thế có nhiều người hiểu lầm cho chữ Nôm của ta là bắt đầu có từ Hà Thuyên.
Tác phẩm của ông có Phi sa tập(văn), 1 quyển (theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí. Trong tập này có nhiều thơ Nôm: sách này đã bị quân nhà Minh lấy mất).





[1] Sách Trần triều thế phả hành trạng (trang 22) nói ông sinh năm Nguyên Phong Nhâm tí (1252) là sai. Đây theo Toàn thư.
[2] Xin xem thêm Việt Kiệu thư đã phân tích ở trên, phần tài liệu cơ sở số 5

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét