DI SẢN HÁN NÔM VÀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU TRUYỀN
THỐNG
Trần
Nghĩa
Nguồn T/c Hán Nôm
Chưa bao giờ việc nghiên cứu truyền
thống lại đặt ra một cách khẩn thiết đối với chúng ta như hiện nay. Một là vì
phương Tây đang đổ xô sang nghiên cứu phương Đông, chuẩn bị hành trang tư duy
cho họ khi bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ “Châu Á - Thái Bình Dương” mà họ rất
quan tâm. Hai là vì chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, trong đó việc
mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài phải kết hợp hài hoà với việc giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Việc nghiên cứu truyền thống ở nước ta trước đây không phải không có. Nhiều nữa là khác. Nhưng đáng tiếc, việc nghiên cứu đó còn có phần dễ dãi, hời hợt, chưa thực sự khoa học và có chiều sâu. Chẳng hạn một dạo ta hay nói Việt Vậy thì nên nghiên cứu truyền thống như thế nào và dựa vào đâu để nghiên cứu, đó là những vấn đề cốt lõi mà bài viết này muốn đi sâu.
*
Trước hết, cần nói qua một chút
truyền thống là gì. Đây nguyên là một từ nảy sinh trong phong trào Khải mông ở
châu Âu vào các thế kỷ XVII, XVIII(1). Từ này sau đó lan ra khắp thế giới,
hàm nghĩa thường được giải thích, cải biên lại cho phù hợp với hoàn cảnh nơi
du nhập(2).** Trong giai đoạn hiện nay, ta có thể hiểu truyền thống là những tư tưởng, đạo đức, phong tục, nghệ thuật, chế độ v.v. do lịch sử truyền lại. Nói một cách bao quát, đó là những “ngôn” (lời nói), “hành” (việc làm) mang tính xã hội sâu sắc, được trao chuyển từ đời này qua đời khác(3) . Về đại thể, truyền thống có các đặc điểm đáng chú ý sau đây: - Tính quá khứ: Truyền thống phải là cái đã qua. Nếu mới nảy sinh trong hiện đại, cái đó không thể coi là truyền thống. - Tính xã hội: Truyền thống lại phải có khả năng tập hợp, cố kết mạnh mẽ đối với các thành viên của cộng đồng. Nếu chỉ đơn thuần tác động đến một thiểu số cá lẻ, cái đó không thể coi là truyền thống. - Tính quyền uy: Do được cộng đồng tiếp nhận như một đạo lý hiển nhiên, không cần suy ngẫm, bàn cãi, truyền thống dần dần trở thành thiêng liêng, quyền uy, đôi lúc dẫn người ta đi đến chỗ mù quáng. Chính ba đặc điểm vừa nêu - tính quá khứ, tính xã hội và tính quyền uy - đã quy định các nội dung cụ thể sau đây của việc nghiên cứu truyền thống, đặc biệt là mảng truyền thống được ghi lại trên sách vở, tức tư liệu văn hiến, là đối tượng khảo sát chủ yếu của bài viết này(4): 1. Nguyên bản của truyền thống. Việc đầu tiên là phải lần tìm cho được nguyên bản của truyền thống, cùng các điều kiện cụ thể theo đó nguyên bản ra đời. Nó khác đi, cần tìm hiểu người khởi xướng (câu nói hay việc làm), kẻ tiếp nhận (câu nói hay việc làm của người khởi xướng) và hệ tham chiếu của nguyên bản (tức hoàn cảnh ra đời của nó). Để dễ hình dung, ta có thể lấy “tư tưởng nhân nghĩa” làm một thí dụ. Nếu đúng đây là một truyền thống của dân tộc Việt - Việc nhân nghĩa, cốt ở yên dân... (Nhân nghĩa chi cử, vụ tại an dân). - Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, Lấy chí nhân thay cường bạo. (Dĩ đại nghĩa nhi diệt hung tàn, Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo). Người khởi xướng là Nguyễn Trãi, vị tham mưu chủ chốt của nghĩa quân Lam Sơn. Kẻ tiếp nhận là nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của anh hùng dân tộc Lê Lợi. Hệ tham chiếu là dã tâm tái chiếm Đại Việt của nhà Minh được che đậy dưới chiêu bài “nhân nghĩa” giả hiệu; cuộc sống cay cực của nhân dân ta dưới ách thống trị tàn bạo của nhà Minh và quyết tâm giải phóng đất nước, khôi phục chủ quyền dân tộc của người Đại Việt v.v. 2. Từ nguyên bản đến truyền bản. Cùng với thời gian và lịch sử, nguyên bản nào được xã hội tiếp nhận, coi như chân lý vĩnh hằng, thì nó sẽ thành niềm tin, góp phần thắt chặt quan hệ cộng đồng và như vậy, nguyên bản đã từng bước trở thành truyền thống. Quá trình này có thể diễn ra theo các bước sau đây: |
Các yếu tố
tiên hành |
==>
|
Nguyên bản
|
==>
|
Truyền bản
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét