Thứ Hai, 5 tháng 8, 2013

Tiểu luận: Lịch sử Văn Hoá Việt Nam

Tiểu luận môn: Lịch sử Văn Hoá Việt Nam


1.     Hoàn cảnh xã hội thế kỷ thứ X
- Thế kỷ X, trải qua các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, trong 100 năm ấy, việc võ bị còn cần thiết, triều đình chưa chú ý nhiều đến việc học hành. Việc học còn do các nhà sư đảm nhiệm. Họ dạy chữ Hán để đọc kinh Phật, nhưng không phải chỉ để đọc có kinh Phật mà còn đọc sử sách khác của Trung Quốc, xướng hoạ với các nhà thơ Trung Quốc. Đủ thấy họ vượt ra ngoài phạm vi Phật giáo. Nhiều vị đã được cử giữ những trọng trách quan trọng trong triều đình.
- Sang đời Lý, triều đình mới đưa học hành vào nền nếp, làm khuôn mẫu cho các đời sau. Với chủ trương thi hành Nho giáo, đào tạo quan lại những người trung thành với chế độ phong kiến.
- Phật giáo tuy vẫn là quốc giáo, thực hiện các chức năng: dẫn dắt tư tưởng, giáo dục (nhà chùa giảng cả tri thức của  Nho gia). Nhưng, Phật giáo không phải là công cụ quản lý xã hội, cai trị đất nước. Vai trò của Nho giáo đã dần ổn định và tỏ rõ năng lực trong việc điều hành và quản lý đất nước trong thời kỳ độc lập tự chủ hoàn toàn về phương diện lãnh thổ.
II. Vai trò của Nho giáo trong môi trường hành chức chính trị thời bấy giờ
- Trước đây việc học hành do tăng lữ phụ trách chính, nay dần chuyển chức năng này cho tầng lớp Nho sĩ trí thức. Triều đình cho lập học quan cho con em quan lại và những học trò chăm chỉ, thông minh trong dân gian.
- Nhà nước quan tâm nhiều hơn để đề cao đạo Nho. Năm 1070, Lý Thánh Tông dựng Văn Miếu. Năm 1076, lại đặt nhà Quốc Tử Giám chọn các quan có văn học giảng dạy cho con em quan lại và con em thường dân thông minh tuấn tú “chọn quan viên văn chức, người nào biết chữ cho vào Quốc Tử Giám” (sđd).
- Đặc biệt, năm 1075 mở khoa thi đầu tiên gọi chung là thi Tam trường chọn những người Minh Kinh Bác Học, tức là những người hiểu rõ kinh truyện, học rộng có tài thơ phú với những tri thức tư tưởng rút từ kinh truyện ra. Người đỗ đầu là Lê Văn Thịnh cho vào hầu vua học. Năm 1085, “thi người có văn học trong nước, sung vào làm ở Hàn Lâm viện” (sđd). Sử cũ chép rằng các năm 1086 (Lý Nhân Tông), 1152, 1165 (Lý Anh Tông), 1185, 1193 (Lý Cao Tông) đều có mở những khoa thi như thế. Sang đến năm 1195 đời Lý Cao Tông thì cho mở khoa thi Tam giáo, tức Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Thấy rõ một xã hội có nền văn hoá được hoà đồng bởi ba luồng tư tưởng.
III. Sự chuyển đổi trên mô thức văn hóa
- Qua những bước biến đổi trong chính sách văn hoá quan trọng dưới triều Lý, chứng tỏ đạo Nho tuy đã được quan tâm, song chưa có được địa vị độc tôn, những người có kiến thức để giúp vua trong việc thống trị không chỉ là nhà Nho. Phật giáo và Đạo giáo đang thịnh hành. Thi Tam giáo còn được kéo dài cho đến đời Trần. Sự nhận thức về môi trường hành chức của tam giáo trong giai đoạn này:
- Phật: dẫn dắt tâm linh.
- Đạo: phục vụ những hoạt động trong đời sống dân gian.
- Nho: thực hiện việc trị lý xã hội.
Đây là một sự phân công hợp lý.
- Các vua nhà Lý đã nhận thức được rằng Nho học là tri thức cần thiết cho công cuộc quản lý xây dựng đất nước độc lập. Tuy nhiên, giai đoạn này sự ảnh hưởng của Phật, Đạo vẫn đang chiếm vị trí quan trọng, có ảnh hưởng không nhỏ tới xã hội nước ta thế kỷ X, nên không thể không dựa vào nó để điều hành đưa xã hội vào quỹ đạo bình ổn về các mặt tư tưởng, văn hoá, tôn giáo. Từ đó hình thành được mô hình văn hoá Tam giáo đồng nguyên thời Lý Trần.
- Càng ngày, Nho gia trở thành một vũ khí tư tưởng để khẳng định chủ quyền của Đại Việt đưa Đại Việt hoà nhập vào vòng ảnh hưởng của văn hoá Hán một cách độc lập.
- Việc tuyển chọn quan lại cũng theo những tiêu chuẩn của Nho giáo.
- Nắm được hoạt động chính trị (cấu trúc thượng tầng xã hội), từ đây Nho gia dần dần mở rộng phạm vi và môi trường hành chức của mình để ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống xã hội. Văn hoá Nho giaó kết hợp với văn hoá bản địa, mà trong đó có sự góp mặt của Phật giaó và Đạo giáo để tạo thành nền văn hóa Đại Việt thống nhất.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét