Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013

Phật pháp: Bài tựa tỏ ý Kinh Hiền Ngu

Kinh Hiền-Ngu, là một bộ kinh bao-gồm nhiều chuyện-cổ Phật-giáo giảng về lẽ Luân-hồi Báo-ứng từ thời Đức-Phật còn tại-thế, qua lời-kể của các Đệ-tử Đức-Phật. Làm Lành là người-Hiền, tạo Ác là kẻ-Ngu. Sách truyền đến nước-ta thời nào chưa rõ, chỉ phỏng theo bản-in mới trùng-san, lời Tựa của các Cao-tăng nước-nhà. Nhân mùa An cư kiết hạ 2013, Đàn-na Tín-thí công-đức ấn-tống trùng-san nối-bản. Văn-chương nước-nhà về Phật-pháp lại rạng-tỏa. Bản in đẹp, cung-tiến để đạo-hữu gần-xa thưởng-thức cái đại-ý của bản Kinh. Lời dịch đã lâu, mượn lại của đồng đạo xin đưa lên đây, các Chú thích dẫn theo IT. Có gì mạo muội, xin bỏ qua mà bổ khuyết cho.
Hiền Ngu Nhân duyên kinh tự- Lời tựa cho kinh Hiền Ngu nhân duyên






Lúc tôi còn đi giáo hóa ở vùng Nghi Tuyền, chùa Đại Quang. Một hôm nhân giảng bài xong, thấy một vị Sa môn[1] từ ngoài xin yết kiến. Hỏi thăm thì người ấy thưa là: Kẻ ngu vụng con là tòng giả[2] ở chùa Lôi Âm, do nghiêm sư con sưu tập được một bộ Kinh Hiền Ngu, mà nước ta từ xưa chưa hề thấy có bản in này, vậy nên mới sai con đem đến để trình trước bậc tôn đức. Tỏ ý hòa hợp đồng đạo. Đnhững lúc nhàn rỗi duyệt xem cho. Tôi nghe những lời đó mà khắc ghi trong lòng, cũng chẳng biết từ đâu mà Kinh có tên là Hiền Ngu. Bèn kêu lấy nước, rửa tay, chỉnh lại y phục, nâng lên mà xem. Lướt qua đã thấy được những ý vị rất hay, liền sai môn thuộc chép lại đầy đủ để cất giữ, sắp xếp lại tổng cộng gồm chín quyển, trong đó có đầy đủ cả bốn mươi bảy chương. Mỗi kỳ Hạ[3] lại đem ra tụng đọc, thấy nói: Đức Phật ta vì chúng sinh cầu đạo xả thân, thương bọn Lục sư[4] khoe phép thuật mà không biết thẹn, còn những chuyện thiện ác báo ứng, lẽ âm dương không mảy may sai sót. Họa phúc quyền hành, lẽ đất trời không bỏ sót chút nào. Kẻ làm ác thì đời sau báo khổ; người làm thiện thì tái thế được vinh hoa. Có người thì lên cõi trời ưu du vui vẻ, do duyên xưa kết thành thiện niệm; có người bị đọa địa ngục mà chìm đắm trong trầm luân, bởi lẽ ngày trước gieo mầm ác. Còn đến như trộm cắp tà dâm, nói xằng nói bậy, nịnh hót chủ để mong được yêu mến, dấy binh nhung mà cướp đoạt gái đẹp. Ở trần gian này tuy tạo tác khác nhau nhưng báo ứng cũng chỉ có khác hình với bóng. Cứ như vậy mà lúc cùng lúc thông biến hóa, biện luận cát hung. Ấy là ngài Tôn giả A Nan khi đứng hầu đức Phật, xin đức Phật thần thông chỉ dạy. Nhưng mà cái đáng bàn, là mọi Kinh sách đều có phần tự phẩm, dẫn lời các đệ tử trước sau tham khảo vào đó. Còn bộ Kinh này thì không thấy như thế. Ai là người xem thấu được những lưới ngờ đan xen của người ta. Do đó xem kĩ đầu đuôi, thẩm câu rõ ràng, biết rõ là lời Phật dạy trong các kinh, xen lẫn với những giáo lý ở các bộ. Đến đời nhà Ngụy, có ngài Thiền sư Tuệ Giác 慧觉đọc hết Tam tạng, khảo cứu Ngũ thời[5], phàm những thiên về tội phúc thì sao ra mà soạn thành một bộ, xem cái người làm thiện được hưởng phúc há chẳng phải là ở hiền mà được sao! Làm ác mà mắc phải tai ương chẳng phải ngu dốt mà chịu sao! Thu thập lại mà đặt tên là Hiền Ngu để lưu truyền cõi này. Nay ở đất Bách Việt có các vị Tịch Mỹ, Tịch Mạch, Tịch Yên tu đạo hạnh khổ không, tu tâm trai giới. Khi nghe đến lời lời tán về tội phúc phân minh, thì phát tâm thiện niệm, thỉnh về in ấn. Trải khắp những nơi gác tía lầu son, đem tấc lòng giáo hóa tám cõi[6]. Lê gót từ chốn kinh kỳ đến vùng thôn dã, gom vạn thiện vào một nhà, tiền tài đã đủ, tai nải cũng vừa[7]. Sai cho thợ giỏi để san khắc, mua ván mà in lưu tán rộng rãi hai cõi Tăng tục. Để cho hiểu việc tội phúc mà mở mang, chuyển thiện diệt ác, để thoát khỏi ngu muội tiểu nhân, chính tâm mà tu thân, để trở thành hiền minh quân tử. Ai ai cũng được tăng thêm phúc đức, người người dứt hết họa căn. Chứng một đời mà cùng được lên cõi trời, vượt khỏi Cửu hữu[8] mà không sa vào địa ngục. Vậy thôi!
Thời năm Gia Long thứ 11 (1812), ngày lành tháng đầu đông ( tháng 10) năm Nhâm Thân.
Sắc Phong cho Đạo Nguyên Tăng Thông Tỷ Khiêu Thanh Lãng.
Chùa Diên Phúc Tịch Nguyên kính viết.
Đào Nguyễn Viên phụng bái thư.
Các Sa Môn chứng san:
Chùa Diên Trường Tỷ Khiêu tự là Hải Nguyên Thích Bình Bình.
Chùa Nguyệt Quang Tỷ Khiêu tự là Tính Tĩnh Thích Liễu Liễu.
Chùa Từ Quang tự Hải Ngự.
Chùa Giao Tất Trúc Lâm Tuệ Hải Pháp hiệu Nhân Đồng.
Hộ Kinh
Chùa Kim Liên Tỷ Khiêu tự là Tịch Nhiên.
Chùa Sùng Ân tự là Tịch Mỹ.
Chùa Phổ Quang Tỷ Khiêu tự Tịch Khuông.



[1] Dịch từ nguyên văn Viên đỉnh phương bào: đầu tròn áo vuông, chỉ người xuất gia.
[2] Tòng giả: chỉ người theo hầu hạ. Đây khiêm xưng mình là kẻ theo hầu bậc đại sư ở chùa Lôi Âm
[3] Kỳ An Cư Kiết Hạ của chư Tăng Ni Phật giáo, gọi tắt là Kỳ Hạ.
[4] Lục sư: tức là Lục sư ngoại đạo, nói những bậc trí thức ngoài Phật giáo thời Phật mới thành đạo, đem trí tuệ ngoại đạo để biện bạch với Thế tôn mà không hơn được, là các vị: San-xà-da Tì-la-chi-tử (珊闍耶毘羅胝子): chủ trương chủ nghĩa hoài nghi; A-kì-đa Sí-xá-khâm-bà-la (阿耆多翅舍欽婆羅): chủ trương duy vật luận; Mạt-già-lê Câu-xá-lê (末伽梨拘舍梨): chủ trương thuyết định mệnh; Phú-lan-na Ca-diếp (富蘭那迦葉): phủ nhận giá trị chân thật của thiện ác, do vậy không quý trọng đạo đức; Ca-la-cưu-đà Ca-chiên-diên (迦羅鳩馱迦旃延): giải thích sự hiện hữu của thế giới thông qua 7 yếu tố cơ bản; Ni-kiền-đà Nhã-đề-tử (尼乾陀若提子): người sáng lập Kì-na giáo, theo chủ thuyết tương đối.(theo kinh Tạp A-hàm quyển 43, kinh Tiễn mao thuộc Trung A-hàm quyển 57). 
[5] Tức Ngũ thời bát giáo 五時八教5 thời 8 giáo do ngài Trí Khải tông Thiên Thai thành lập. Đại sư Trí Khải căn cứ vào nội dung các kinh điển do đức Phật nói để phân loại, giải thích, rồi theo thứ tự thời gian đức Phật thuyết pháp mà chia làm 5 thời. Lại căn cứ theo phương pháp đức Phật dắt dẫn chúng sinh mà chia giáo pháp của Ngài làm 8 giáo, gọi chung là Ngũ thời bát giáo. I. Ngũ thời: 1. Thời Hoa Nghiêm: Đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày đầu tiên sau khi Ngài thành đạo cho chúng Đại bồ tát Biệt giáo và các vị ưu tú trong Viên giáo nghe. Kinh Hoa Nghiêm có chia ra phần trước và phần sau khác nhau. Phần trước là giáo pháp nói trong 21 ngày đầu, không có hàng Thanh văn tham dự; phần sau như phẩm Nhập pháp giới thì có các vị Thanh văn như ngài Xá lợi phất... (được nói trong khoảng thời gian Phật đi giáo hoá chúng sinh) Nhưng giáo pháp của thời kì này quá cao, hàng Thanh văn đều như điếc như câm nên chưa thể nhận lãnh được hiệu quả lợi ích của sự giáo hoá. 2. Thời Lộc uyển: Trong khoảng 12 năm sau khi đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm, là thời kì Phật nói 4 bộ kinh A hàm trong phạm vi 16 nước lớn. Vì nơi nói pháp đầu tiên trong thời kì này là vườn Lộc dã, nên gọi là thời Lộc uyển (thời vườn nai), lại lấy tên kinh đã nói nên cũng gọi là thời A hàm. 3. Thời Phương đẳng: Thời kì Phật nói các kinh Đại thừa như Duy ma, Tư ích, Thắng man,... trong khoảng 8 năm sau thời Lộc uyển. 4. Thời Bát nhã: Chỉ cho thời kì Phật nói các kinh Bát nhã, trong khoảng 22 năm sau thời Phương đẳng. 5.Thời Pháp hoa Niết bàn: Chỉ cho thời kì làm cho người nghe pháp tiến đến cảnh giới cao nhất và chứng nhập tri kiến Phật. Đây là thời kì đức Phật nói kinh Pháp hoa trong 8 năm sau cùng và nói kinh Niết bàn 1 ngày 1 đêm trước khi Ngài nhập diệt. 
[6] Nguyên văn là Bát Biểu, chỉ tám cõi
[7] Nguyên văn phương huynh chi lai dã hữu phu, yêu tử chi tuyền kì bất phạp
[8]  Chín cõi chỉ là một cách phân chia khác của “ba cõi” hay “sáu nẻo”, đều chỉ cho cái vòng sinh tử luân hồi.
Hiền Ngu Nhân Duyên Kinh Tân Dẫn- Lời dẫn mới cho kinh Hiền Ngu Nhân Duyên




Người xưa nói rằng: thiện ác hai cửa, thấu qua được cửa này thì mới là Hiền Ngu hai thể dạng, mà tỏ được thể dạng của nó được chăng? Thế cho nên kinh rằng: người phàm ở đời chia ra tôn ty sang hèn, giàu nghèo sướng khổ đều do nghiệp đời trước mà có. Thế cho nên mới biết rằng nhân từ, khiêm thuận là người sang, còn bọn hung bạo ác ôn là bọn tiện nhân. Từ đó mà có Hiền và Ngu vậy. Kính nghe lúc đức Phật giảng, lời lời sáng tỏ. Câu Như thị ngã văn/Như tôi được nghe, sang sảng không mờ. Có người thụ Bát quan[1] nguyện được làm quốc vương, có người  chia đồ ăn cho ngạ quỷ mà được lên thiên giới. Gọi là Sa Bà khổ đấy, Sa Bà khổ đấy. Đức Phật nói bỏ thân, bỏ mắt, bỏ đầu, đổi báo thân mà mong lấy Pháp thân. Lấy cái khó xả mà tâm phải xả, nghĩ tới Tây phương là sướng, Tây phương là sướng. Chỉ thẳng về nguồn. Bởi thế bố thí cây, bố thí của cải, bố thí đất. Lấy ác báo mà thay thế hảo báo. Vận số có thể lưu hành, mà chí nguyện thi hành. Trong Lục độ thì bố thí đứng đầu, bỏ của nhà mà làm đồ trai cúng. Tám phúc điền[2] thì xem bệnh là nhất, cắt thịt mình mà làm thuốc cứu tăng. Thần công xoay chuyển, diệu vận không khác. Phép Lục Thông[3] hàng phục ngoại đạo, sức thánh viên dung mà không hề gián cách. Thập thiện giáo hóa dân sinh, Trần Như năm người[4] được biết trước mùi Pháp. Lam bà năm trăm kẻ[5] trông vọng mây lành. Phân giáo bộ làm Tam Thừa. Không quản ngươi là ăn mày. Coi chúng sinh như con một, đâu sót mấy kẻ mù lòa. Không gì là không phải gieo trồng mầm thiện, mà đạt quả ở tương lai đó sao? Nài chi hoa mọc lúc tạnh lúc rườm, đêm dài lắm mộng. Những con ngu giết nhầm cha, nghe mẹ mà chửi sư tăng, thì kiếp trước, kiếp này, kiếp nữa, kiếp lai sinh, oán kết biết bao đời mới cởi bỏ được. Bọn ngoại đạo tranh kì lạ, lũ Lục sư[6] tranh hơn thua, thế nên tướng người tướng ta, tướng thọ, tướng chúng sinh, bốn tướng đó ràng buộc biết bao giờ thôi. Có người nhầm lối tu hành, không xét đến ý này. Có kẻ chỉ biết vục đầu vào cơm nước, cũng không hết một đời. Há có biết được giác tính Bồ Đề lúc nào cũng viên mãn, hay đâu gốc thiện Bát Nhã người người đều có, âý là lòng trời thương xót, mà thoát được mầm mống điên đảo. Cũng biết đó là đại sự nhân duyên. Phá tan hết chướng ngại của vòng luân hồi. Đấng Đại Phạm thiên có 6 lần thỉnh giảng Thủ kinh. Văn chương Năm bộ diệu lưu thông. Dựng sừng thỏ lông rùa[7] làm tiêu chuẩn, nhất tâm cầu đến phẩm cuối cùng để lên cõi trời. Tám đức trong mát[8] tưới phun, tẩy sạch cõi hoang vu nơi Kê Viên, Lộc Uyển[9]. Có khi là Phật Pháp phù trợ, là oai lực của chư thiên đó chăng? Ngu tôi được dự vào hàng tăng lữ, có biết một chút giáo lý, sợ bụi trần mà lấy giới luật nghiêm thân, chỉ lo theo dấu người trước, xét các đời đều lấy sách dạy người. Vậy nên cho san khắc ra mà truyền bá lâu dài. Nay việc đã thành hơn cả chí nguyện. Có mấy lời trong lòng, tự biết tài năng không đủ, mạo muội viết lời tựa này.



[1] Bát quan trai giới là một phép tu hành của người tại gia áp dụng trong một ngày một đêm (24 giờ).Chữ "Quan" là cửa, cửa ngăn chặn 8 điều tội lỗi. Chữ "Trai", tiếng Phạn là Posadha, nghĩa là khi đã qua giờ ngọ (12 giờ trưa) không được ăn nữa. Vậy "Bát quan trai giới" là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 tiếng đồng hồ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗi sau đây:1. Không được sát sanh; 2. Không được trộm cướp; 3. Không được dâm dục; 4. Không được nói dối; 5. Không được uống rượu; 6. Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem múa hát; 7. Không được nằm ngồi giường cao rộng đẹp đẽ; 8. Không được ăn quá giờ ngọ. (http://www.buddhismtoday.com/viet/batdau/gioi-16-batquantrai.htm)
[2] Phúc điền: ruộng Phúc. Theo Phật giáo làm phúc là gieo mầm thiện cho cội phúc lâu dài có 8 loại: Phật điền, Thành nhân điền, Tăng điền, Hòa Thượng điền, Xà Lê điền, Phụ điền, Mẫu điền, bệnh điền. Làm việc phúc đức với các ruộng ấy để thiện báo lâu dài về sau.
[3] Lục thông (六通) nghĩa là Sáu phép thần thông, biểu hiện năng lực trí tuệ của chư Phật và Bồ tát: 1.Thân như ý thông, còn gọi là Thần túc thông: biến hiện tuỳ theo ý muốn, thân có thể bay lên trời, đi trên biển, chui vào trong núi... tất cả mọi động tác đều tuỳ theo ý muốn, không hề chướng ngại. 2. Thiên nhãn thông: nhìn thấy tất cả mọi hình sắc ở gần hay ở xa trong cả thế gian, nhìn thấy mọi hình tướng khổ vui của chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi. 3. Thiên nhĩ thông: nghe và hiểu hết mọi âm thanh trong thế gian, nghe và hiểu hết mọi ngôn ngữ của chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi. 4. Tha tâm thông: biết hết tất cả mọi ý nghĩ trong tâm của chúng sinh trong lục đạo. 5. Túc mệnh thông,  còn gọi là Túc mệnh minh: biết được kiếp trước của chính bản thân mình và của chúng sinh trong lục đạo, từ một đời, hai đời cho đến trăm ngàn vạn đời trước đều biết rõ, nhớ rõ sinh ra ở đâu, cha mẹ là ai, tên gì, làm gì.... 6. Lậu tận thông: lậu tức là kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi. Lậu tận thông là dứt trừ toàn bộ kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi, không còn sinh tử luân hồi trong ba cõi, được giải thoát hoàn toàn. Căn cứ Luận câu xá quyển 27, trong 6 phép thần thông trên, 5 phép thần thông đầu thì mọi người đều có thể đạt được, duy nhất phép thần thông thứ 6 thì chỉ có những bậc thánh mới có thể đạt được. (http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%A5c_th%C3%B4ng)
[4] Năm đại đệ tử đầu tiên của đức Thế Tôn, đứng đầu là Kiều Trần Như và Bạt Đề, Bà Sư Ba, Ma Ha Nam, A Thuyết Thị. 
[5] Nói đến 500 đệ tử theo nghe giảng Pháp của Thế tôn ở Lam bà
[6] Xem chú thích số 4.
[7] Sừng thỏ, lông rùa là các thuật ngữ trừu tượng trong Phật giáo để chỉ cái vi diệu không có trên đời này
[8] Dịch từ Bát công đức thủy: Bát công đức thủy là chỉ cho thứ nước có tám công đức, tám đức tánh, ấy là thứ nước ở trong ao hồ nơi cõi Cực Lạc cũng là nước nơi suối A Na Bà Đạp Đa trong núi Hương sơn ở dãy núi Hy Mã Lạp Sơn ở miền nam Diêm Phù Đề. Tám công đức đó là: Trừng tịnh: Nước lóng sạch; Thanh lãnh: Nước trong mát; Cam mỹ: Nước ngon ngọt; Khinh nhuyễn: Nước uống vào nhẹ nhàng; Nhuận trạch: Nước uống nhuận trơn; An hòa: Nước uống rồi vui vẻ hòa nhã; Trừ cơ cẩn: Nước uống rồi trừ đói khát, bệnh hoạn; Trưởng dưỡng: Nước uống vào thân thể tinh thần, khoan khái định lực tăng trưởng. http://www.hoalinhthoai.com/buddhistdictionary/detail/char-3079/.html
[9] Kê Viên, Lộc Uyển: những địa danh nơi đức Thế Tôn thuyết pháp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét