CHÙA TRẤN QUỐC KHẢO CỨU VÀ TƯ LIỆU HÁN NÔM
Giới thiệu - Biên dịch: TRỊNH KHẮC MẠNH (Chủ biên) - NGUYỄN ĐỨC TOÀN
"... Chùa Trấn Quốc, một ngôi chùa được coi là cổ nhất và nằm ở một vị thế đẹp nhất đất Thăng Long - Hà Nội - trên đảo Kim Ngư, bên cạnh đường Thanh Niên thơ mộng, giữa Hồ Tây quyến rũ. Chùa Trấn Quốc gắn liền với lịch sử xây dựng quốc gia độc lập tự chủ từ thời Lý Nam Đế (544-602). Theo sử sách, chùa xưa tên là Khai Quốc được vua Lý Nam Đế dựng khoảng năm 544 - 548, khi ấy chùa nằm ở ngoài bãi sông Hồng. Vào khoảng những năm thuộc niên hiệu Hoằng Định (1600-1618) mới chuyển vào vị trí hiện nay. Trong chùa hiện còn lưu giữ nhiều tư liệu chữ Hán chữ Nôm: hoành phi, câu đối, văn bia, v.v... đã làm tăng thêm bề dày lịch sử và nét đẹp văn hóa của chùa...
Trấn Quốc xưa và nay có vị trí đặc biệt trong quần thể di tích lịch sử văn hóa Hồ Tây nói riêng cũng như của Hà Nội nói chung. Đã có nhiều sách, nhiều bài báo, nhiều bài thơ ngợi ca ngôi chùa cổ Trấn Quốc. Nhưng tư liệu Hán Nôm ở chùa mới chỉ được khai thác như nguồn tài liệu bổ sung trong các công trình đã viết.
Tập sách này, tiến hành khảo sát, sưu tập tư liệu Hán Nôm để biên tập cuốn chuyên về chùa Trấn Quốc, với các nội dung:
- Lịch sử chùa Trần Quốc.
- Di sản Hán Nôm ở chùa Trấn Quốc.
- Thơ đề vịnh chùa Trấn Quốc".
Sách dày 345 trang, do Nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 2009.
Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc.
Dưới đây xin giới thiệu đôi vần thơ sưu tập về chùa Trấn Quốc:
1.
西 湖 湖 上 何 年 寺
古 樹 陰 陰 竹 石 叢
陳 帝 觀 漁 空 此 地
先 王 樂 水 有 名 宮
一 泓 秋 鏡 開 晴 日
十 里 荷 香 送 晚 風
不 用 皈 依 求 頓 悟
來 臨 一 為 撫 孤 松
|
DU TÂY HỒ TRẤN QUỐC TỰ
Tây Hồ hồ thượng hà niên tự,
Cổ thụ âm âm trúc thạch tùng.
Trần đế quan ngư không thử địa,
Tiên vương nhạo thủy hữu danh
cung.
Nhất hoằng thu kính khai tình nhật,
Thập lý hà hương tống vãn phong.
Bất dụng quy y cầu đốn ngộ,
Lai tâm nhất vị vũ cô tùng.
|
DẠO CHƠI CHÙA TRẤN QUỐC Ở HỒ TÂY
Ngôi chùa bên Hồ Tây có từ bao giờ,
Khóm trúc hòn non dưới bóng cây cổ thụ.
Nơi vua Trần xưa xem đánh cá giờ thành bãi trống,
Là hành cung tiên vương đời trước vui với
nước biếc[2].
Một mảnh gương thu trong vắt dưới trời quang,
Mười dặm hương sen thơm đưa lẫn trong gió
chiều.
Đâu cần phải quy y để tìm đến sự giác ngộ[3],
Chỉ đến đây làm bạn vỗ về với cội tùng cô đơn.
|
DẠO CHƠI CHÙA TRẤN QUỐC Ở HỒ TÂY
Chùa cổ Hồ
Tây tự bao giờ,
Hòn non
khóm trúc bóng cây thơ.
Đánh cá Trần
vương xem bãi vắng,
Hành cung
nhạo thủy nước xanh mờ.
Gương thu
một mảnh trời trong vắt,
Mấy dặm
gió chiều hương sen đưa.
Đâu cần
quy y cầu đốn ngộ,
Đến đây kết
bạn cội tùng cô.
|
2.
西 湖 秋 水 正 斜 暉
湖 上 高 吟 人 未 歸
卻 笑 兒 童 無 一 事
相 爭 荷 葉 製 荷 衣
|
Tây Hồ thu thủy
chính tà huy,
Hồ thượng cao
ngâm nhân vị quy.
Khước tiếu
nhi đồng vô nhất sự,
Tương tranh
hà diệp chế hà y.
|
Cảnh nước thu Hồ Tây trong buổi chiều tà,
Du ngoạn trên hồ, thi gia cao hứng ngâm nga
chưa về.
Lại cười nhìn lũ trẻ không có việc gì làm,
Tranh nhau lấy lá sen làm áo chơi.
|
Ánh chiều chiếu rọi nước hồ thu,
Trên hồ thi khách mải ngâm thơ.
Ngắm cười lũ trẻ đương rỗi việc,
Lá sen làm áo tranh nhau đùa.
|
3.
乘 興 出 西 郭
不 知 天 已 秋
地 偏 景 自 別
身 病 人 宜 休
湖 影 照 古 梵
荷 香 停 高 樓
清 風 無 舊 識
日 晚 故 相 留
|
Thừa hứng xuất tây quách,
Bất tri thiên dĩ thu.
Địa thiên cảnh tự biệt,
Thân bệnh nhân nghi hưu.
Hồ ảnh chiếu cổ phạm,
Hà hương đình cao lâu.
Thanh phong vô cựu thức,
Nhật vãn cố tương lưu.
|
Nhân hứng ra
chơi phía tây thành,
Đâu hay trời
đã vào tiết thu.
Vùng đất này
phong cảnh như riêng biệt,
Cảm thấy thân
ốm, người nên nghỉ ngơi.
Nước hồ phản
chiếu bóng ngôi chùa cổ,
Hương sen
thơm như đọng lại trên lầu.
Gió mát kia vốn
chẳng quen biết gì,
Ngày đã muộn
vẫn như còn cố giữ ta lại.
|
Nhân hứng ra thành chơi,
Chẳng biết thu sang rồi.
Chốn này cảnh riêng biệt,
Thân ốm nên nghỉ ngơi.
Chùa cổ soi bóng nước,
Lầu cao
hương sen bay.
Gió kia đâu quen biết,
Ngày muộn cứ giữ hoài
|
4.
木 葉 蕭 蕭 鎮 國 秋
草 花 漠 漠 故 宮 幽
登 臨 一 望 湖 天 晚
荷 葉 中 間 過 小 舟
|
Mộc diệp tiêu
tiêu Trấn Quốc thu,
Thảo hoa mịch
mịch cố cung u.
Đăng lâm nhất
vọng hồ thiên vãn,
Hà diệp trung
gian quá tiểu chu.
|
Cảnh chùa Trấn Quốc mùa thu cây lá lắt lay,
Tới đây ngắm cảnh hồ trong buổi chiều muộn,
Một chiếc thuyền con rẽ ra từ đám lá sen.
|
Trấn Quốc trời thu lá lắt lay,
Cung xưa tĩnh mịch cỏ hoa dày.
Chiều muộn ra hồ mà ngắm cảnh,
Rẽ sen
thuyền nhỏ hiện ra ngay.
|
TRẤN QUỐC QUI TĂNG
湖 邊 靜 剎 枕 清 澄
何 處 歸 來 一 老 僧
水 傍 行 吟 移 落 日
叢 花 穿 過 拂 青 藤
留 連 月 竹 看 孤 影
邂 逅 雲 鷗 認 故 朋
回 看 市 域 煩 惱 障
大 千 世 界 獨 超 升
|
Hồ biên tĩnh
sái chẩm thanh trừng,
Hà xứ quy lai
nhất lão tăng.
Thủy bạng hành
ngâm di lạc nhật,
Tùng hoa
xuyên quá phất thanh đằng.
Lưu liên nguyệt
trúc khan cô ảnh,
Giải cấu vân
âu nhận cố bằng.
Hồi khan thị
vưc phiền não chướng,
Đại thiên thế
giới độc siêu thăng.
|
SƯ VỀ CHÙA TRẤN QUỐC
Ngôi chùa yên tĩnh bên
hồ gối đầu nơi bờ nước trong xanh,
Một vị tăng già đi từ đâu trở về.
Men theo bờ nước vừa
đi vừa ngâm nga cảnh mặt trời lặn,
Xuyên qua khóm hoa khẽ chạm cành mây xanh
Lưu luyến xem bóng cây trúc cô đơn lẫn dưới
trăng
Tình cờ gặp gỡ chim âu với mây trời mà nhận
ra.
Quay đầu nhìn lại thấy chốn đô thành đầy
phiền não
|
TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Ven hồ chùa cổ gối bờ thanh,
Về lại từ đâu vị lão tăng.
Bờ nước ngâm nga vầng ác lặn,
Xuyên hoa khẽ động ngọn mây xanh.
Cô đơn bóng trúc ánh trăng dọi,
Chợt gặp âu trời nhận bạn lành.
Phiền não đô thành đều dứt bỏ,
Một mình siêu thoát giữa mênh mang.
|
TRẤN QUỐC QUI TĂNG
鎮 國 松 林 暮 紫 凝
棲 棲 行 腳 戀 高 僧
乘 盃 看 盡 湖 中 景
飛 錫 如 來 樓 上 層
聖 觀 鐘 回 聞 隔 岸
仙 湖 月 靜 對 孤 燈
住 持 知 幾 春 秋 許
山 自 依 依 水 自 澄
|
Trấn Quốc
tùng lâm mộ tử ngưng,
Thê thê hành
cước luyến cao tăng.
Thừa bôi khan
tận hồ trung cảnh,
Phi Tích Như
Lai lâu thượng tằng.
Thánh quán
chung hồi văn cách ngạn,
Tiên hồ nguyệt
tĩnh đối cô đăng.
Trụ trì tri kỷ
xuân thu hứa,
Sơn tự y y thủy
tự trừng.
|
SƯ VỀ CHÙA TRẤN QUỐC
Chốn tùng lâm chùa Trấn Quốc khí chiều
ngưng tím,
Mến cảnh đẹp nhà sư chầm chậm bước.
Nâng chén ngắm cảnh hồ xa xa,
Bên bờ đối diện nghe tiếng chuông đền Quán
Thánh,
Trên hồ tiên trăng lặng lẽ đối diện với ngọn
đèn lẻ loi
Tuổi tác của sư trụ trì biết là bao nhiêu,
Chỉ có núi vẫn xanh và nước vẫn trong.
|
TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Trấn Quốc tùng lâm sắc tía bày,
Cảnh đẹp thiền sư chậm bước đây.
Nâng chén cảnh hồ ta ngắm hết,
Lên lầu Phi Tích học Như Lai.
Cách bờ Quán Thánh chuông xao động,
Trăng sáng hồ tiên đèn lắt lay.
Trụ trì tuổi tác bao nhiêu vậy,
Núi vẫn như xưa, nước biếc rày.
|
TRẤN QUỐC QUI TĂNG
繁 華 人 境 半 紈 綾
明 月 歸 來 古 寺 僧
槐 埔 車 塵 回 法 錫
蘇 江 塔 影 定 心 燈
花 棲 宮 鳥 陪 方 丈
鐘 閉 樓 更 演 上 乘
最 是 山 門 千 古 鎮
金 湖 寶 帶 水 澄 澄
|
Phồn hoa nhân
cảnh bán hoàn lăng,
Minh nguyệt
quy lai cổ tự tăng.
Hòe phố xa trần
hồi Pháp tích,
Tô giang tháp
ảnh định tâm đăng.
Hoa thê cung
điểu bồi Phương trượng,
Chung bế lầu
canh diễn Thượng thằng.
Tối thị sơn
môn thiên cổ trấn,
Kim hồ bảo đới
thủy trừng trừng.
|
SƯ VỀ CHÙA TRẤN QUỐC
Cảnh nhân gian phồn hoa trói buộc,
Dưới trăng sáng, nhà sư trở về chùa cổ.
Thật là nơi sơn môn trấn giữ muôn đời,
Cảnh hồ vàng như chiếc thắt lưng (bao quanh
chùa) nước trong vắt.
|
TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Nhân gian cảnh tục vấn vương dây,
Chùa cổ trăng soi thấy bóng thầy.
Phố Hòe bụi xe lui gậy pháp,
Dòng Tô bóng tháp vững lòng đây.
Chim nương hoa thắm hầu Phương trượng,
Chuông dóng lầu canh giảng đạo hay.
Thật nơi muôn thuở sơn môn trấn,
Hồ vàng
dây thắt nước trong thay.
|
DU TRẤN QUỐC TỰ
金 牛 潛 伏 處
鎮 國 聳 然 開
一 自 浮 雲 改
仙 舟 不 復 迴
湖 光 依 舊 在
客 思 正 悠 哉
日 暮 樓 鐘 動
長 歌 歸 去 來
|
Kim ngưu tiềm phục xứ,
Trấn Quốc tủng nhiên khai.
Nhất tự phù vân cải,
Tiên chu bất phục hồi.
Hồ quang y cựu tại,
Khách tư chính du tai.
Nhật mộ lâu chung động,
Trường ca quy khứ lai.
|
DẠO CHƠI CHÙA TRẤN QUỐC
Chốn xưa trâu vàng ẩn mình[16],
Nơi ấy chùa Trấn Quốc mọc lên.
Mọi cảnh vật như mây nổi cứ đổi thay,
Thuyền tiên chẳng quay về[17].
Sắc hồ vẫn như xưa,
Lòng khách thật man mác thay.
Chiều về chuông trên lầu ngân tiếng,
Hát mãi bài Quy khứ lai[18].
|
DẠO CHƠI CHÙA TRẤN QUỐC
Nơi trâu
vàng ẩn náu,
Trấn Quốc
mọc chùa này.
Mây nổi cứ
đổi thay,
Thuyền
tiên không thấy lại.
Ánh hồ còn
như cũ,
Lòng khách man mác hoài.
Chiều hôm chuông gác vọng,
Hát mãi Quy khứ lai.
|
VỊNH TRẤN BẮC TỰ
|
Qua chơi Trấn Bắc cảnh dãi dầu,
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau.
Mấy tòa sen ngát hơi hương ngự,
Năm thức mây phong nếp áo chầu.
Sóng lớp phế hưng coi vẫn rộng,
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá,
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.
|
VỌNG TÂY HỒ HOÀI HỮU
Phong cảnh
Tây Hồ chẳng khác xưa,
Người đồng
châu[21]
trước biết bao giờ.
Nhật Tân
đê lở nhưng còn lối,
Trấn Bắc
rêu phong vẫn ngấn thơ.
Nọ vực
trâu vàng trăng rọi bóng,
Kìa non
phượng đất khói tuôn mờ.
Hồ kia
thăm thẳm sâu dường mấy,
So dạ hoài
nhân chửa dễ vừa.
|
TRẤN QUỐC
QUI TĂNG
柱 持 古 寺 人 衢 老
歷 閱 居 諸 若 弗 勝
鎮 武 伏 前 丞 法 印
文 昌 座 下 照 心 冰
曲 肱 枕 後 全 無 夢
抱 膝 吟 中 只 有 燈
人 問 廢 興 都 不 答
聖 何 豈 敢 曰 愚 僧
|
Trụ trì cổ
tự nhân cù lão,
Lịch duyệt
cư chư nhược phất thăng.
Trấn Vũ phục
tiền thừa pháp ấn,
Văn Xương
tòa hạ chiếu tâm băng.
Khúc quăng
chẩm hậu toàn vô mộng,
Bão tất
ngâm trung chỉ hữu đăng.
Nhân vấn
phế hưng đô bất đáp,
Thánh hà
khởi cảm viết ngu tăng.
|
SƯ VỀ CHÙA
TRẤN QUỐC
Nhà sư già trụ trì ngôi chùa cổ
bên đường,
Không thể tính được là đã bao lâu.
Quán Trấn Vũ nằm phía trước thế giữ
ấn báu,
Bên dưới có
tòa Văn Xương đế quân soi tỏ tấm lòng băng.
Nằm xuống gấp tay gối đầu, không còn vướng mộng[23],
Chỉ còn một mình với ngọn đèn, ôm gối mà ngâm thơ .
Người đời hỏi chuyện thịnh, suy ta đều chẳng
muốn đáp lại,
Bậc thánh nhân thì đâu dám, chỉ dám nhận là kẻ tu hành ngu dốt
thôi.
|
TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Bên đường
chùa cổ sư già,
Tu trì chẳng
tính được là bao lâu.
Quán Trấn Vũ
một tòa ấn báu,
Ngôi Văn
Xương soi thấu lòng băng.
Gấp tay gối
chẳng mộng nhăng,
Một mình một
ngọn cô đăng ngâm sầu.
Người hỏi
thịnh suy đều chẳng đáp,
Chỉ đành
làm dốt nát tu hành.
|
TRẤN QUỐC QUI TĂNG
極 樂 壺 中 寶 剎 層
遊 方 何 處 促 歸 僧
衲 衣 拋 卻 塵 緣 去
錫 杖 飛 來 淨 境 登
沙 界 回 觀 輕 一 粟
金 經 看 定 演 三 乘
滔 滔 試 問 利 名 客
誰 會 禪 心 一 點 燈
|
Cực lạc hồ trung bảo sái tằng,
Du phương hà xứ xúc quy tăng.
Nạp y phao khước trần duyên khứ,
Tích trượng phi lai tĩnh cảnh
đăng.
Sa giới hồi quan khinh nhất túc,
Kim kinh khan định diễn Tam thặng[25].
Thao thao thí vấn lợi danh khách,
Thùy hội thiền tâm nhất điểm đăng.
|
SƯ VỀ CHÙA TRẤN QUỐC
Chùa cổ mấy tầng giữa chốn cực lạc hồ trung[26],
Vị sư ở đây đã đi du ngoạn nơi nào rồi.
Khoác áo cà sa dứt bỏ duyên trần tục,
Cưỡi gậy tích trượng bay lên miền tĩnh cảnh[27].
Quay đầu nhìn lại thế giới sa bà chỉ như một hạt thóc[28],
Kinh báu xem xong để diễn thuyết, giảng đạo
Tam thừa[29].
Thao thao thử hỏi khách lợi danh,
Ai hay lòng thiền sáng như một ngọn đèn.
|
TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Giữa hồ cổ
sái mấy tầng cao,
Tăng sư
hành cước ở phương nao.
Cà sa áo
khoác duyên trần dứt,
Tích trượng
bay lên cảnh giới siêu.
Thế giới
sa bà như hạt gạo,
Xem qua
kinh báu giảng thao thao.
Lợi danh
thử hỏi ai nào biết,
Lòng thiền
một ngọn sáng như sao.
|
TRẤN QUỐC QUI TĂNG
水 遶 叢 林 徹 底 澄
斜 陽 景 裡 見 歸 僧
煙 波 一 徑 初 回 錫
雲 樹 重 樓 正 上 燈
沙 界 回 頭 生 慧 覺
物 花 隨 處 晤 真 乘
寒 鐘 聲 送 入 禪 院
身 在 人 天 第 幾 層
|
Thủy nhiễu tùng lâm triệt để trừng,
Tà dương cảnh lý kiến quy tăng.
Yên ba nhất kính sơ hồi tích,
Vân thụ trùng lâu chính thượng
đăng.
Sa giới hồi đầu sinh tuệ giác,
Vật hoa tùy xứ ngộ chân thằng.
Hàn chung thanh tống nhập thiền viện,
Thân tại nhân thiên đệ kỷ tằng.
|
SƯ VỀ CHÙA TRẤN QUỐC
Nước bao quanh rừng trong tới tận đáy,
Trong cảnh chiều tà thấy vị sư già trở về.
Một lối đi giữa khói sóng đang chống gậy quay lại,
Lầu cao mây dựng vừa lúc lên đèn.
Thế giới sa bà quay đầu nhìn lại sinh tuệ giác,
Muôn vật khắp nơi giác ngộ đạo chân thừa[31].
Tiếng chuông lạnh lẽo vang đến thiền viện,
Thân đã ở tại cõi nhân thiên thứ mấy tầng[32].
|
TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Quanh rừng
dòng nước xanh trong,
Chiều tà
giữa cảnh thấy ông sư già.
Khói sóng
một lối đi qua,
Lầu cao
mây dựng cũng vừa thượng đăng.
Sa bà giác
tuệ thêm tăng,
Khắp nơi cảnh
vật nhận chân ngộ thiền.
Hàn chung
văng vẳng cửa chiền,
Thân này đã giữa nhân thiên mấy tầng.
|
TRẤN TỰ QUI TĂNG
鎮 國 真 君 已 上 昇
梵 宮 瑞 氣 已 騰 騰
牛 精 不 作 魔 王 怪
鳩 杖 時 歸 佛 子 僧
貝 葉 座 參 宣 法 鼓
蒲 團 入 定 烺 慈 燈
禪 扃 花 木 深 幽 處
一 片 蟾 光
正 上 乘
|
Trấn Quốc chân quân dĩ thượng thăng,
Phạm cung thụy khí dĩ đằng đằng.
Ngưu tinh bất tác ma vương quái,
Cưu trượng thời quy phật tử tăng.
Bối diệp tòa tham tuyên pháp cổ,
Bồ đoàn nhập định lãng từ đăng.
Thiền quynh hoa mộc thâm u xứ,
Nhất phiến thiềm quang chính Thượng thằng[34].
|
SƯ VỀ CHÙA TRẤN QUỐC
Vị chân quân chùa Trấn Quốc đã bay đi[35],
Cảnh chùa khí thụy vẫn còn bốc cao.
Tinh trâu vàng chẳng còn tác yêu tác quái[36],
Gậy chim cưu in dấu của các phật tử[37].
Trên tòa lá bối tuyên dương trống pháp[38],
Giữa bồ đoàn nhập định sáng rõ ngọn đèn từ[39].
Phòng thiền giữa chốn hoa cỏ thâm u,
Một mảnh trăng tỏ rạng cùng đạo Thiền.
|
TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Chân quân
Trấn Quốc bay xa,
Cảnh chùa
khí thụy nhập nhòa bốc cao.
Trâu vàng
nay chẳng tác yêu,
Gậy cưu
thường vẫn ra vào sư tăng.
Trên tòa
kinh bối trống vang,
Bồ đoàn nhập
định sáng choang đèn từ.
Phòng thiền
giữa chốn thâm u,
Đạo thiền
cùng mảnh trăng thu rạng ngời.
|
TRẤN TỰ QUI TĂNG
一 簇 名 藍 瑩 玉 冰
斜 陽 影 帶 暮 歸 僧
沿 湖 杖 倒 千 尋 碧
向 寺 關 通 第 幾 層
貝 葉 夜 宣 人 入 定
松 濤 風 響 月 初 昇
江 湖 城 市 無 多 遠
僧 與 閒 雲 喜 共 朋
|
Nhất thốc
danh lam oánh ngọc băng,
Tà dương ảnh
đới mộ quy tăng.
Diên hồ
trượng đảo thiên tầm bích,
Hướng tự
quan thông đệ kỷ tằng.
Bối diệp dạ
tuyên nhân nhập định,
Tùng đào
phong hưởng nguyệt sơ thăng.
Giang hồ
thành thị vô đa viễn,
Tăng dữ
nhàn vân hỷ cộng bằng.
|
SƯ VỀ CHÙA TRẤN QUỐC
Một tòa danh lam giữa lòng hồ như tâm băng, bầu ngọc,
Ánh tà dương dẫn nhà sư chiều tối trở về.
Chống gậy đi ven hồ giữa muôn tầm sóng biếc,
Hướng tới chùa đường lối cửa thông suốt mấy tầng.
Đêm tụng kinh lá bối người nhập định,
Tiếng gió cành tùng với sóng nước giữa lúc
trăng mới lên.
Cảnh thành thị với cảnh sông hồ xa nhau chẳng mấy,
Chỉ có nhà sư với đám mây nhàn du vui vẻ
cùng làm bạn.
|
TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Danh lam cổ
sái giữa ngọc hồ,
Trong ánh
tà dương bóng thầy tu.
Chống gậy
ven hồ muôn tầm biếc,
Cửa chiền
thông suốt mấy lần vô.
Tụng kinh
lá bối đêm nhập định,
Cành tùng
lay gió sóng trăng nhô.
Giang hồ
thành thị xa nhau mấy,
Mây nhàn
vui bạn với nhà sư.
|
TRẤN TỰ QUI TĂNG
烏 含 西 嶺 兔 東 升
鎮 國 歸 來 勸 化 僧
柳 陌 花 衢 猶 故 道
清 風 明 月 是 良 朋
枝 猿 池 鶩 東 西 舞
閣 鼓 樓 鐘 次 第 登
自 古 更 深 塵 不 到
禪 心 高 掛 照 心 燈
|
Ô hàm tây lĩnh thố đông thăng,
Trấn Quốc quy lai khuyến hóa tăng.
Liễu mạch hoa cù do cố đạo,
Thanh phong minh nguyệt thị lương
bằng.
Chi viên trì vụ đông tây vũ,
Các cổ chung lâu thứ đệ đăng.
Tự cổ canh thâm trần bất đáo,
Thiền đăng cao quải chiếu tâm
đăng.
|
SƯ VỀ CHÙA TRẤN QUỐC
Mặt trời lặn xuống phía tây, trăng mới nhú phía đông[42],
Vị tăng đi khuyến hóa trở về chùa Trấn Quốc.
Lối hoa đường liễu vẫn như xưa,
Gió mát trăng thanh là bạn tốt.
Vượn trèo chim vỗ nước múa hai bên đông tây,
Lầu chuông gác trống lần lượt leo.
Cảnh trí thâm u từ xưa bụi trần không dính tới,
Lòng thiền treo cao đèn chiếu tâm.
|
TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Non tây ác ngậm thỏ đông lên,
Khuyến hóa tăng về lại cửa chiền.
Dặm liễu đường hoa còn lối cũ,
Trăng thanh gió mát ấy bầu hiền.
Vượn cây cò bãi đông tây múa,
Góc trống lầu chuông lần lượt men.
Tự cổ canh khuya trần chẳng nhiễm,
Đèn tâm cao chiếu giữa lòng thiền
|
TÂY HỒ CẢM TÁC
荒 樓 古 剎 夕 陽 斜
蕭 瑟 寒 風 落 葉 多
寂 寞 煙 波 秋 色 老
更 無 人 唱 採 薇 歌
|
Hoang lâu cổ sái tịch dương tà,
Tiêu sắt hàn phong lạc diệp đa.
Tịch mịch yên ba thu sắc lão,
Cánh vô nhân xướng thái vi ca.
|
CẢM TÁC Ở HỒ TÂY
Lầu hoang chùa cổ bóng chiều tà,
Gió lạnh hiu hắt lá cây rụng nhiều.
Cảnh tịch mịch chốn yên hà sắc thu
đã muộn,
Lại không có người hát khúc ca hái
rau vi[44].
|
CẢM TÁC Ở HỒ TÂY
Chùa cổ lầu
hoang mấy xế chiều,
Hắt hiu
gió lạnh lá rơi nhiều.
Nước mây tịch
mịch sắc thu muộn,
Người hát
“thái vi” chẳng thấy nào.
|
TRẤN BẮC TỰ
莊 臨 誰 是 景 中 人
細 細 清 風 扇 扇 薰
水 月 波 籠 蓮 插 茁
香 煙 寶 憩 露 連 雲
洗 空 塵 慮 花 含 態
喚 醒 迷 途 草 亦 春
到 景 令 人 回 首 望
東 南 拂 袖 鴈 成 群
|
Trang lâm thùy thị cảnh trung
nhân,
Tế tế thanh phong phiến phiến
huân.
Thủy nguyệt ba lung liên sáp truật,
Hương yên bảo khế lộ liên vân.
Tẩy không trần lự hoa hàm thái,
Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc xuân.
Đáo cảnh linh nhân hồi thủ vọng,
Đông nam phất tụ nhạn thành quần.
|
CHÙA TRẤN BẮC
Trang trọng tới nơi, ai là người trong cảnh,
Nhè nhẹ gió mát quạt từng làn hơi thơm.
Trăng nước sóng vờn sen chen nụ,
Khói hương tàn bám móc liền mây.
Tẩy sạch trần tục phiền não, hoa e ấp,
Đường mê gọi tỉnh, cỏ cây phô sắc xuân.
Gặp cảnh khuyên người quay đầu ngắm,
Hướng đông nam phất áo vẫy nhạn bay thành đàn.
|
CHÙA TRẤN BẮC
Ai người
trang trọng cảnh này đây,
Gió mát
đưa thơm nhẹ ngất ngây.
Trăng nước
bóng nồng sen cắm nụ,
Đỉnh trần
hương khói móc liền mây.
Rửa trôi
miền tục hoa e ấp,
Gọi tỉnh
đường mê xuân cỏ cây.
Đến cảnh
khuyên người quay lại ngắm,
Đông nam
vãy áo nhạn bay đầy.
|
ĐỀ TRẤN QUỐC TỰ
梵 宇 巍 峨 氣 色 新
風 光 別 占 鳳 城 春
鳥 啼 古 樹 留 清 韻
魚 躍 晴 湖 見 碧 鱗
風 裡 鐘 聲 如 擣 月
石 邊 花 色 欲 陵 人
不 知 勝 日 尋 芳 客
多 少 攜 觴 來 問 津
|
Phạm vũ nguy nga khí sắc tân,
Phong quang biệt chiếm Phượng
thành xuân.
Điểu đề cổ thụ lưu thanh vận,
Ngư dược tình hồ kiến bích lân.
Phong lý chung thanh như đảo nguyệt,
Thạch biên hoa sắc dục lăng nhân.
Bất tri thăng nhật tầm phương
khách,
Đa thiểu huề trường lai vấn tân.
|
CHÙA TRẤN QUỐC
Chùa phật nguy nga cảnh sắc như mới,
Phong quang biệt chiếm mùa xuân Phượng thành[47].
Cổ thụ chim kêu lưu giọng hót,
Cá nhảy hồ trong thấy vẩy xanh.
Trong gió tiếng chuông như lay bóng nguyệt
trên mặt nước,
Bên bờ đá màu hoa thắm như muốn thúc giục
lòng người.
Không biết các vị khách thưởng ngoạn ngày đẹp,
Có bao người cùng nhau nâng chén hỏi thăm đường[48].
|
CHÙA TRẤN QUỐC
Chùa cổ
nguy nga cảnh sắc tân,
Phong
quang riêng chiếm góc Phượng thành.
Chim kêu cổ
thụ nghe trong trẻo,
Cá nhảy hồ
trong lộ vẩy xanh.
Trong gió
tiếng chuông lay bóng nguyệt,
Bên bờ hoa
cỏ động lòng xuân.
Chẳng hay
những khách vui ngày đẹp,
Bao kẻ
nâng li hỏi đạo nhân.
|
DU TRẤN BẮC TỰ
梵 王 金 闕 倚 雲 端
八 面 湖 天 不 厥 看
牛 渚 故 宮 鴉 噪 晚
鳳 城 輦 路 馬 嘶 寒
煙 波 深 處 漁 垂 釣
笳 鼓 聲 中 客 倚 欄
無 相 病 僧 參 妙 諦
向 人 不 肯 與 靈 丹
|
Phạm vương kim khuyết ỷ vân đoan,
Bát diện hồ thiên bất quyết khan.
Ngưu chử cố cung nha tháo vãn,
Phượng thành liễn lộ mã tê hàn.
Yên ba thâm xứ ngư thùy điếu,
Già cổ thanh trung khách ỷ lan.
Vô tướng bệnh tăng tham diệu đế,
Hướng nhân bất khẳng dữ linh đan.
|
DẠO CHƠI CHÙA TRẤN BẮC
Cung điện Phạm vương tựa vào mây[50],
Tám phía cảnh tiên ngắm xem không
bỏ khuyết.
Bến Ngưu chử cung xưa chỉ còn tiếng
quạ kêu muộn[51],
Đường xe cộ qua lại nơi Phượng
thành nghe tiếng ngựa kêu tiết lạnh.
Nơi yên hà[52]
sóng nước ông chài buông câu,
Chùa cổ nghe tiếng chuông kêu
khách dựa lan can.
Sư già bệnh tật vô tướng[53]
tham thiền đạo diệu,
Chẳng chịu truyền linh đan[54]
cho người đời.
|
DẠO CHƠI CHÙA TRẤN BẮC
Phạm vương điện báu dựa mây xanh,
Tám phía hồ tiên ngắm rõ rành.
Quạ tối kêu ầm cung Ngưu chử,
Ngựa già hí lạnh lối Long thành.
Chốn sâu khói sóng chài câu cá,
Chùa cổ
dóng chuông khách tựa mành.
Vô tướng
tăng già tham diệu đạo,
Chẳng trao
người tục dược linh đan.
|
DẠ DU TÂY HỒ
月 明 釣 艇 載 銀 壺
村 樹 籠 寒 夜 色 無
風 迺 宜 蠶 砧 力 薄
霜 橫 鎮 國 梵 燈 孤
百 年 煙 景 同 今 夕
千 里 秋 光 泛 一 湖
客 遠 不 知 尋 海 事
日 攜 歌 管 借 歡 娛
|
Nguyệt minh điếu đĩnh tải ngân hồ,
Thôn thụ lung hàn dạ sắc vô.
Phong nãi Nghi Tàm châm lực bạc,
Sương hoành Trấn Quốc phạm đăng
cô.
Bách niên
yên cảnh đồng kim tịch,
Thiên lý
thu quang phiếm nhất hồ.
Khách viễn
bất tri tầm hải sự,
Nhật huề
ca quản tá hoan ngu.
|
DẠO CHƠI
ĐÊM Ở HỒ TÂY
Đêm trăng sáng thả thuyền câu chở
một bình (rượu) bằng bạc,
Lùm cây đầu
thôn trong tiết lạnh nhòe đi trong bóng đêm.
Gió đưa thoang thoảng tiếng chày đập
vải từ thôn Nghi Tàm đến[56],
Sương mờ che
phủ chùa Trấn Quốc một ngọn lẻ loi.
Trăm năm cảnh mây nước cũng như
đêm nay,
Ngàn dặm sắc thu khắp mặt hồ.
Khách chẳng hay
biết việc gì tìm kiếm ngoài biển[57],
Ngày tháng chỉ biết mượn đàn sáo
làm thú vui.
|
DẠO CHƠI ĐÊM Ở HỒ TÂY
Thuyền câu
hồ bạc đêm thanh,
Bóng đêm
nhòa ngọn canh xanh đầu làng.
Tiếng chày
đập vải Nghi Tàm,
Sương dăng
Trấn Quốc ngọn đèn lắt lay.
Trăm năm
nào khác đêm nay,
Trời thu
muôn dặm hồ đầy mênh mông.
Chuyện
tiên khách chẳng rõ ràng,
Tiêu dao
ngày tháng sáo đàn làm vui.
|
ĐĂNG TRẤN QUỐC TỰ VỌNG TÂY HỒ
湖 景 千 年 在
禪 堂 夕 照 臨
漁 舟 波 共 出
鳳 嘴 草 猶 深
靄 結 連 雲 樹
風 翻 下 渚 禽
幾 回 明 月 夜
載 酒 可 重 尋
|
Hồ cảnh thiên niên tại,
Thiền đường tịch chiếu lâm.
Ngư chu ba cộng xuất,
Phượng chủy thảo do thâm.
Ái kết liên vân thụ,
Phong phiên hạ chử cầm.
Kỷ hồi minh nguyệt dạ,
Tái tửu khả trùng tầm.
|
LÊN CHƠI CHÙA TRẤN QUỐC NGẮM TRĂNG
Cảnh hồ nghìn năm như vẫn còn đây,
Thiền đường bóng chiều chiếu rọi.
Sóng vỗ mạn thuyền đánh cá,
Đất mỏ phượng cỏ mọc rậm rì[59].
Mù kết nối cây cao liền mây,
Gió thổi nghiêng những cánh chim sà xuống bến.
Biết trăng sáng được mấy hồi như đêm nay,
Để mang theo rượu đi tìm cảnh đẹp.
|
LÊN CHƠI CHÙA TRẤN QUỐC NGẮM TRĂNG
Nghìn năm
hồ cũ còn đây,
Thiền đường
chiếu rọi ánh chầy tà dương.
Thuyền
chài ra bến sóng dâng,
Kia là phượng
chủy cỏ vương đất dầy.
Sương mờ
cây kết liền mây,
Chim
nghiêng mặt nước cánh bay gió vời.
Đêm nay
trăng sáng đầy vơi,
Lại đem rượu
đến vui chơi cảnh này.
|
TRẤN QUỐC TỰ
紅 荷 碧 杜 遶 金 苔
空 路 雲 梁 小 徑 開
待 月 吟 殘 鐘 定 夜
煙 霞 有 約 一 漁 來
|
Hồng hà bích đỗ nhiễu kim đài,
Không Lộ vân lương tiểu kính khai.
Đãi nguyệt ngâm tàn chung định dạ,
Yên hà hữu ước nhất ngư lai.
|
CHÙA TRẤN QUỐC
Sen hồng đỗ biếc bao bọc lấy tòa vàng,
Nghe nói sư Không Lộ từng mở lối qua đây[61].
Cuộc ngâm thơ
đợi trăng đã tàn, tiếng chuông đêm đã điểm,
Một ông chài đến theo ước hẹn tiêu
dao mây ráng.
|
CHÙA TRẤN
QUỐC
Sen hồng đỗ biếc bọc kim đài,
Không Lộ cầu
mây mở lối này.
Tàn cuộc
thơ trăng, chuông đã điểm,
Ráng mây
theo hẹn, một ông chài.
|
TRẤN TỰ DU TĂNG
寂 寞 禪 關 第 幾 層
優 曇 影 裡 有 遊 僧
湖 聲 靜 寂 傳 清 磬
竹 徑 逍 遙 擁 瘦 藤
空 色 兩 忘 花 底 月
圓 明 一 點 案 前 燈
忘 機 何 限 安 禪 趣
雲 色 波 光 證 上 乘
|
Tịch mịch thiền quan đệ kỉ tằng,
Ưu đàm ảnh lí hữu du tăng.
Hồ thanh tĩnh tịch truyền thanh
khánh,
Trúc kính tiêu dao ủng sấu đằng.
Không sắc lưỡng vong hoa để nguyệt,
Viên minh nhất điểm án tiền đăng.
Vong cơ hà hạn an thiền thú,
Vân sắc ba quang chứng Thượng thằng.
|
SƯ DẠO CHƠI CHÙA TRẤN QUỐC
Tĩnh mịch cửa thiền biết mấy tầng,
Dưới bóng ưu đàm[63]
thấy vị thiền sư.
Cảnh hồ lặng lẽ tiếng khánh vang truyền,
Lối trúc tiêu dao vin sợi mây gầy.
Dưới bóng trăng bên hoa quên hết cả sắc
không[64],
Một ngọn đèn tròn sáng trước án.
Vong cơ[65]
đâu chỉ hạn chế ở yên thú vui thiền,
Màu mây sắc sóng chứng đạo Thượng thằng[66].
|
SƯ DẠO CHƠI CHÙA TRẤN QUỐC
Tịnh mịch
cửa thiền biết mấy tầng,
Ưu đàm đó
có thầy thiền tăng.
Tiếng hồ vắng
lặng vang lừng khánh,
Lối trúc
tiêu dao sợi móc giằng.
Dưới hoa
quên hết sắc không chăng,
Trước án
ngọn đèn tròn chấm sáng.
Ngộ thiền
dâu chỉ vui thiền thú,
Sắc sóng
màu mây chứng Thượng thằng.
|
TRẤN QUỐC LÂU VỌNG TÂY HỒ
浪 泊 前 樓 橫 晚 眺
山 光 水 色 望 晴 堯
落 霞 孤 鶩 湖 千 頃
尺 練 叢 花 路 數 條
狐 窟 訛 傳 餘 草 翠
龍 舟 邪 事 逐 煙 消
千 村 淹 映 斜 陽 外
幾 個 漁 層 泛 泛 遙
|
Lãng Bạc tiền lâu hoành vãn diểu,
Sơn quang thủy sắc vọng tình
nghiêu.
Lạc hà cô vụ hồ thiên khoảnh,
Xích luyện tùng hoa lộ sổ điều.
Hồ quật ngoa truyền dư thảo thúy,
Long chu tà sự trục yên tiêu.
Thiên thôn yêm ánh tà dương ngoại,
Kỉ cá ngư tằng phiếm phiếm diêu.
|
TRÊN LẦU TRẤN
QUỐC NGẮM CẢNH TÂY HỒ
Trên lầu trước hồ Lãng Bạc[68]
ngắm cảnh chiều,
Sắc nước màu non trong buổi trời quang tạnh.
Cánh cò bay lẻ đàn trong ráng chiều trên mặt
hồ muôn dặm,
Mấy đường hoa cỏ lượn như dải lụa.
Truyện về hang cáo[69] hoang đường
nay chỉ còn đám cỏ xanh,
Truyền thuyết thuyền vua gặp phải tà phép cũng đã tan theo khói[70].
Thôn xóm muôn nhà thấp thoáng ngoài ánh tà dương chiếu rọi,
Mấy chiếc thuyền chài dập dềnh trên sóng nước.
|
TRÊN LẦU TRẤN
QUỐC NGẮM CẢNH TÂY HỒ
Lãng Bạc
trên lầu ngắm cảnh chiều,
Màu non sắc
nước trời trong veo.
Ráng chiều
cò lẻ hồ muôn dặm,
Lối cỏ đường
hoa mấy dải điều.
Hang cáo
hoang đường còn cỏ biếc,
Thuyền rồng
chuyện nhảm khói tan vèo.
Ngàn thôn
thấp thoáng ngoài chiều nắng,
Mấy lá
thuyền câu sóng dập dìu.
|
TRẤN QUỐC TỰ
Trung lập
càn khôn vững đế đô,
Mảng danh
Trấn Quốc ở Tây Hồ.
Xuân thu
thêm có mười phần lạ,
Hoa cỏ
dành hay một thức phô.
Hây hẩy
hương trời thơm nữa xạ,
Làu làu
đèn bụt rạng như tô.
Kìa ai đủng
đỉnh làm chi đấy,
Một tiếng
kình khua một chữ mô.
|
[1]. Du Tây Hồ Trấn Quốc tự gồm chùm
thơ 4 bài (số 1, 2, 3 và số 4) của Phạm Quý Thích, chép trong Thảo Đường thi nguyên tập草堂詩原集, kí
hiệu VHv.152. Xem thêm chú thích bài văn bia số 3.
[2]. Tương truyền xưa các vua đời Lý, Trần
thường lập hành cung ở ven Hồ Tây để xem đánh cá, và thưởng ngoạn phong cảnh;
Nhạo thủy: Luận ngữ có câu: Người nhân vui với núi, người trí vui với nước.
Lấy cái ý nhạo thủy là vì thế.
[3]. Nguyên văn ghi là “đốn ngộ”: Chỉ phương thức giác ngộ đạo lập tức của Thiền
tông, ngược với “tiệm ngộ” là giác ngộ đạo từ từ.
[4]. Xưa đời Lý cho dựng hành cung Thuý Hoa, đời Trần cho dựng điện Hàm Nguyên
trên nền cũ của cung Thuý Hoa.
[5]. Bài thơ của Vũ Tông Phan, chép trong Thăng
Long tam thập vịnh 昇龍三十詠, A. 2501. Vũ Tông Phan武宗璠 (1804 - 1862), người xã Hoa Đường huyện Đường An (nay thuộc xã Thúc Kháng
huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương), sau di đến ở thôn Tự Tháp phường Báo Thiên
huyện Thọ Xương - Hà Nội (nay thuộc quận Hoàn Kiếm thành phố Hà Nội). Có tài liệu
ghi ông là Vũ Phan 武璠. Ông hiệu là Lõ Am 魯庵 và Đường Xuyên 唐川, tự là Hoán Phủ 奐甫; thi đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân năm Bính Tuất, niên hiệu Minh Mệnh
thứ 7 (1826) đời vua Nguyễn Thánh Tổ. Ông giữ các chức quan như: Tham hiệp tỉnh
Thái Nguyên, Đốc học tỉnh Bắc Ninh. Sau ông cáo ốm về nhà mở trường dạy học, học
trò theo ông rất đông và nhiều người đỗ đạt. Tác phẩm của ông có: Thăng Long thành hoài cổ thập tứ thủ 昇龍 城 懷 古十 四首, Tô khê tùy bút tập 蘇溪隨筆集, v.v... và nhiều thơ, văn trong các sách khác.
[6]. Đại thiên thế giới: Thuật ngữ Phật giáo, gọi tắt của Tam thiên đại thiên
thế giới. 1000 tiểu thế giới là 1 tiểu thiên thế giới, 1000 tiểu thiên thế giới
là 1 trung thiên thế giới, 1000 trung thiên thế giới là 1 đại thiên thế giới.
[8]. Phí Tích: Cao tăng đời Đường, Như Lai: Một trong 10 tên gọi của Phật.
[10] . Hòe phố: Chỉ phố Hòe Nhai. Ý nói cảnh phồn hoa.
[11]. Pháp tích:
Cây pháp trượng, một trong 18 vật dụng của Phật giáo, đầu có vòng thiếc “tích”
có thể phát ra âm thanh, giúp tăng ni đề phòng dã thú và dùng trong lễ hội
[12] . Dòng Tô: Tức sông Tô Lịch.
[13]. Phương trượng:
Phòng chính của Thiền lâm, nơi ở của sư trụ trì gọi là phương trượng.
[14]. Thượng thằng
(có âm đọc Thượng thừa): Tức Thượng thừa thiền. Phật giáo có Đại thừa và Tiểu
thừa, coi Đại thừa là Thượng thừa, Tiểu thừa là Hạ thừa. Từ khi Thiền tông hưng
khởi, tự cho mình vượt lên thừa và tự gọi là Thượng thừa thiền .
[16]. Tương truyền xưa, tinh Trâu vàng từ núi Lạn Kha bị Cao
Biền làm phép yểm long mạch, chạy vào ẩn trong hồ.
[17]. Chỉ về sự tích chúa Liễu Hạnh hiển linh ở Hồ Tây cùng
Phùng Khắc Khoan và hai người bạn văn chương họ Ngô, họ Lý của ông đối ẩm thưởng
trăng, ngâm thơ.
[18]. Quy khứ lai từ: Bài văn nổi tiếng
của Đào Uyên Minh (tức Đào Tiềm) người Trung Quốc.
[19]. Bài thơ này về văn bản khá phức tạp. Bài chép trong Tạp thảo
tập雜草集, A. 3159 và Xuân
Hương thi sao 春香詩抄, AB. 620 ,
ghi là của Hồ Xuân Hương, như ng khác hai câu đầu: “Qua chơi Trấn Bắc cảnh buồn
rầu, ngao ngán tình xưa đã lạnh mầu”. Trong Xuân
Hưong thi tuyển 春香詩選, R.97 và Xuân Hương thi kí 春香詩記, R.193 (Thư viện Quốc gia Hà Nội); bài thơ này cũng ghi là của Hồ Xuân
Hương, nhưng chỉ có 4 câu giữa. Trong Quốc
văn tùng kí 國文叢記, AB.383, ghi là của Bà Huyện
Thanh Quan và khác hai câu đầu: “Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu, trạnh niềm kim
cổ nghĩ mà đau”.
[20]. Bài thơ chép trong Xuân Hương thi tập春香詩集, VNb. 21. Xem thêm Thơ Hồ Xuân Hương, Đào Thái Tôn (Giới thiệu
và tuyển chọn), Nxb. Giáo dục,
2003.
[21]. Người đồng châu: Chỉ người cùng quê
[22]. Bài thơ chép trong Tây Hồ thắng
tích của Lý Văn Phức nằm trong tập Hiếu
cổ đường thi tập孝古堂詩集, VHv. 106. Lý Văn Phức 李文馥 (1785 - 1849), người xã Hồ Khẩu
huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc quận Ba Đình thành phố Hà Nội). Ông hiệu là Khắc Trai 克齋
và Tô Xuyên 蘇川, tự là Lân Chi 鄰芝; thi đỗ Cử nhân năm Kỷ Mão, niên
hiệu Gia Long thứ 18 (1819) đời vua Nguyễn Thế Tổ. Ông từng làm quan Hàn lâm viện
Biên tu, sau thăng Tham tri Bộ Lễ. Tác phẩm của ông có: Dương Tiết diễn
nghĩa 陽節演義,
Đông hành thi tập 東行詩集, Tây Hồ thắng tích 西湖勝 跡, Sứ trình tiện lãm khúc
使程便覽曲,
Hoàng hoa tạp vịnh 皇華雜詠, Học ngâm tồn thảo 學吟存草, Hồi kinh nhật ký 回京日記, Lý Khắc Trai việt hành thi 李克齋粵行詩, Lý thị gia phả 李氏家譜, Lý Văn Phức di văn 李文馥遺文, Mân hành tạp vịnh thảo
閩行雜詠草,
Mân hành thi thoại 閩行詩話, Mân hành thi thoại tập 閩行詩詩集, Tây hành kiến văn kỷ lược 西行見文紀略, v.v... và nhiều thơ, văn trong các sách khác.
[23]. Gấp tay gối: Lấy tích trong Luận ngữ, chỉ việc nhàn tản rỗi rãi
không vướng bận lợi danh.
[25] . Còn âm đọc
là thừa.
[26]. Cực lạc hồ trung: Thế giới thần tiên trong quả bầu, ám
chỉ cảnh tiên. Tích về Phí Trường Phòng trong sách Linh dị kí.
[27] . Cưỡi gậy tích trượng: Thể hiện vị thiền sư tu hành đắc
đạo, pháp thuật cao siêu, có thể cưỡi gậy tích trượng mà bay đi.
[28] . Thế giới Sa bà: Thế giới trần gian.
[29] . Đạo Tam thừa: Ba loại phương pháp, đường lối giáo thuyết dẫn đạo chúng
sinh đạt tới giải thoát (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát).
[31]. Chân thừa: Chỉ đạo pháp.
[32]. Nhân thiên: ý nói không còn ở trong cõi phàm nữa, mà đã ở trên cõi tĩnh lặng.
[34]. Xem Thượng
thằng: chú thích 5 trang 248.
[35]. Chỉ các vị tu hành từng ở chùa Trấn Quốc.
[36]. Tinh trâu vàng: Xem chú thích bài trước.
[37]. Gậy chim cưu: Gậy tích trượng của các phật tử thường khắc
hình chim cưu.
[38]. Lá bối: Ngày xưa kinh truyền từ Ấn Độ sang thường viết
trên lá bối, nên hay dùng chữ “lá bối” để chỉ kinh điển phật giáo.
[39]. Bồ đoàn: Chỗ các vị tu hành ngồi thiền, làm bằng cỏ bồ.
[42]. Ô: Có nghĩa đen là con quạ, vầng ô chỉ mặt trời, xưa còn gọi mặt trời là
con quạ lửa. Thố: Con thỏ, ý chỉ mặt trăng.
[43]. Bài thơ của chép trong Trúc
Vân Chu thị thi tập, nằm trong tập Hiếu
cổ đường thi tập孝古堂詩集VHv. 106. của Chu Mạnh Trinh朱 孟 楨 (1861 - 1905). Nhưng cũng có chép trong tập 三元探花書池武大人詩集 Tam nguyên Thám hoa Thư trì Vũ đại nhân
thi tập (HN301)-Tập thơ của Vũ Phạm Hàm (武范諴, 1864 - 1906). Có khác một số chữ:
荒 樓 古 剎 夕 陽 斜
蕭 瑟 寒 風 落 葉 多
朝暮揚 波 秋 色 老
更 無 人 唱 採菱 歌 ,
[44]. Thái vi: Xưa Bá Di, Thúc Tề ẩn ở
núi Thú Dương thề không ăn thóc nhà Chu, hái rau vi mà ăn cho đến chết. Sau từ
“Thái vi” chỉ về việc lánh đời đi ẩn, không màng thế sự.
[45]. Bài thơ này là của Hồ Xuân Hương chép trong Hương đình cổ nguyệt thi tập 香亭古月詩集 trong tập sách Tứ gia
thi tập 四家詩集, R. 423.
[47]. Phượng thành: Cũng gọi đô thành.
[48] . Nguyên văn ghi là “vấn tân”: Hỏi bến đò, tức hỏi đường, hỏi thăm đường
tu hành.
[49]. Bài này của Vũ Quang chép trong Hà
Thành thi sao 河城詩抄, VHb.319. Vũ Quang (? -?)
người Đồng Lạc huyện Thọ Xương, Hà Nội, thi đỗ Cử nhân từng làm Giáo thụ.
[50]. Phạm vương: Chỉ đức Phật, đây chỉ cảnh chùa.
[51] . Ngưu chử: Đầm trâu, cũng giống
Ngưu đàm.
[52]. Yên hà: Cảnh nhàn vui cùng sông nước,
nơi có khói mờ, sóng biếc.
[53]. Vô tướng: Trái với Hữu tướng. Vô tướng là đã thoát ra
khỏi nhận thức hữu tướng của thế tục, đắc được thực tướng của sự vật, cũng như
Niết bàn.
[54]. Linh đan: Thuốc tiên.
[55]. Bài thơ của Trương Hảo Hợp chép trong Mộng
Mai đình thi thảo trong tập sách Hà Thành thi sao河城詩抄, VHb. 319. Trương Hảo Hợp 張 好 合 (? - ?) người xã Tân
Khánh, huyện Tân Long tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh). Ông hiệu là Lượng Trai 亮 齋 và có
sách ghi ông còn có hiệu là Mộng Mai 夢 梅, tự là Quýnh Xuyên 炯 川, thi đỗ Cử nhân năm Kỷ Mão, niên hiệu Gia Long thứ 18 (1819) đời vua Nguyễn Thế
Tổ. Ông từng làm quan Tuần phủ Lạng Bằng, được cử đi sứ Trung Quốc và Nam
Dương. Tác phẩm của ông: Mộng Mai thi
thảo 夢
梅詩草,
Trương Mộng Mai thi thảo 張夢梅詩草 trong sách Trương Mộng Mai thi tập 張夢梅詩集.
[56]. Nghi Tàm: Một làng ven Hồ Tây có nghề nuôi tằm dệt vải.
[57]. Việc tìm kiếm ngoài biển: Đời Tần Thủy Hoàng, Từ Phúc đem theo các đồng
nam đồng nữ ra ngoài biển cầu thuốc trường sinh bất lão. Câu này cũng chỉ việc
lánh bỏ trần tục tìm nơi tiên cảnh.
[59]. Mỏ phượng: Cao Biền cho rằng Hồ Tây có dáng đất kiểu phượng hoàng uống nước.
[60]. Bài này chép trong Long Biên bách nhị vịnh 龍編百二詠, A. 1310 của Bùi Cơ Túc 裴基肅 (? - ?), hiệu là Liên Khê 蓮溪, quê quán ở đâu
chưa rõ. Về thân thế và sự nghiệp của Bùi Cơ Túc hiện cũng chưa rõ, được biết
ông sống vào khoảng cuối thế kỷ XIX.
[61]. Tương truyền thiền sư Không Lộ từng ở chùa Trấn Quốc.
[62]. Bài này của Ninh Tốn thơ chép trong Tiền
Lê Tiến sĩ Ninh Tốn thi tập前黎進士寧遜詩集, A. 350. Ninh Tốn寧遜
(1743 - ?), người xã Côi Trì huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình. Ông hiệu là Chuyết Sơn Cư sĩ 拙山居士, Mẫn
Hiên 敏軒, Chuyết Am 拙庵
và Song An Cư sĩ 雙安居士; tự là Khiêm Như 謙如 và Hy Chí 希志; thi đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh
Hưng thứ 39 (1778) đời vua Lê Hiển Tông. Thời Lê, ông giữ các chức quan như:
Tri binh phiên, Phụng tá quân hải lộ, Toản tu quốc sử, Đông các Đại học sĩ, Hữu
Thị lang Bộ Hình, Hiệp trấn đạo Thuận Quảng. Thời Tây Sơn, ông từng giữ chức
Hàn lâm viện Học sĩ, Thượng thư Bộ Binh, tước Trường Nguyên bá. Tác phẩm của
ông: Chuyết Sơn thi tập đại toàn 拙山詩集大全, Tiền Lê Tiến sĩ Ninh Tốn thi tập 前黎進士寧遜詩集,
v.v... và nhiều thơ, văn trong các sách
khác.
[63]. Ưu đàm: Hoa ưu đàm, tức hoa cây sung. Phật giáo cho rằng
hễ khi cây ưu đàm ra hoa thì như có Phật.
[64] . Sắc không: Thuật ngữ Phật giáo, nói rằng “Sắc tức thị
không” cho rằng hết thảy mọi sắc pháp đều là hư ảo.
[65] . Vong cơ: Thuật ngữ Phật giáo. Chỉ
những người đã quên những thói tục, đã giác ngộ cao.
[66]. Xem Thượng thằng: chú thích 5 trang 248
[68]. Có tài liệu
ghi Hồ Tây là hồ Lãng Bạc.
[69]. Hang cáo:
Truyền thuyết về hang cáo, ở Hồ Tây xưa là một gò núi có tinh cáo trắng thường
hay biến hoá hại người. Long quân dâng nước lên bắt, núi sụt xuống thành hồ.
[70]. Thuyết về việc vua Lý
Nhân Tông đi chơi hồ Dâm Đàm bị Thái sư Lê Văn Thịnh dùng phép thuật hóa hổ định
làm hại, may nhờ người đánh cá Mục Thận quăng lưới phá phép ấy cứu được nhà vua.
[71]. Bài thơ chép trong Hồng Đức quốc âm thi tập洪德國音詩集, AB. 292. Thời Hồng Đức tên chùa là An Quốc.
Tên chùa Trấn Quốc theo ghi chép trong bài văn bia Trấn Quốc tự bi ký do Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính soạn, niên đại
năm Dương Hoà thứ 5 (1639) thời vua Lê Thần Tông mới xuất hiện.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét