Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2013

Thơ đề vịnh chùa Trấn Quốc

CHÙA TRẤN QUỐC KHẢO CỨU VÀ TƯ LIỆU HÁN NÔM
Giới thiệu - Biên dịch: TRỊNH KHẮC MẠNH (Chủ biên) - NGUYỄN ĐỨC TOÀN
"... Chùa Trấn Quốc, một ngôi chùa được coi là cổ nhất và nằm ở một vị thế đẹp nhất đất Thăng Long - Hà Nội - trên đảo Kim Ngư, bên cạnh đường Thanh Niên thơ mộng, giữa Hồ Tây quyến rũ. Chùa Trấn Quốc gắn liền với lịch sử xây dựng quốc gia độc lập tự chủ từ thời Lý Nam Đế (544-602). Theo sử sách, chùa xưa tên là Khai Quốc được vua Lý Nam Đế dựng khoảng năm 544 - 548, khi ấy chùa nằm ở ngoài bãi sông Hồng. Vào khoảng những năm thuộc niên hiệu Hoằng Định (1600-1618) mới chuyển vào vị trí hiện nay. Trong chùa hiện còn lưu giữ nhiều tư liệu chữ Hán chữ Nôm: hoành phi, câu đối, văn bia, v.v... đã làm tăng thêm bề dày lịch sử và nét đẹp văn hóa của chùa...
Trấn Quốc xưa và nay có vị trí đặc biệt trong quần thể di tích lịch sử văn hóa Hồ Tây nói riêng cũng như của Hà Nội nói chung. Đã có nhiều sách, nhiều bài báo, nhiều bài thơ ngợi ca ngôi chùa cổ Trấn Quốc. Nhưng tư liệu Hán Nôm ở chùa mới chỉ được khai thác như nguồn tài liệu bổ sung trong các công trình đã viết.
Tập sách này, tiến hành khảo sát, sưu tập tư liệu Hán Nôm để biên tập cuốn chuyên về chùa Trấn Quốc, với các nội dung:
- Lịch sử chùa Trần Quốc.
- Di sản Hán Nôm ở chùa Trấn Quốc.
- Thơ đề vịnh chùa Trấn Quốc".
Sách dày 345 trang, do Nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 2009.
Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc.
Dưới đây xin giới thiệu đôi vần thơ sưu tập về chùa Trấn Quốc:
1.
遊 西 湖 鎮 國 寺[1]
西 湖 湖 上 何 年 寺
古 樹 陰 陰 竹 石 叢
陳 帝 觀 漁 空 此 地
先 王 樂 水 有 名 宮
一 泓 秋 鏡 開 晴 日
十 里 荷 香 送 晚 風
不 用 皈 依 求 頓 悟
來 臨 一 為 撫 孤 松

DU TÂY HỒ TRẤN QUỐC TỰ
Tây Hồ hồ thượng hà niên tự,
Cổ thụ âm âm trúc thạch tùng.
Trần đế quan ngư không thử địa,
Tiên vương nhạo thủy hữu danh cung.
Nhất hoằng thu kính khai tình nhật,
Thập lý hà hương tống vãn phong.
Bất dụng quy y cầu đốn ngộ,
Lai tâm nhất vị vũ cô tùng.

DẠO CHƠI CHÙA TRẤN QUỐC Ở HỒ TÂY
Ngôi chùa bên Hồ Tây có từ bao giờ,
Khóm trúc hòn non dưới bóng cây cổ thụ.
Nơi vua Trần xưa xem đánh cá giờ thành bãi trống,
Là hành cung tiên vương đời trước vui với nước biếc[2].
Một mảnh gương thu trong vắt dưới trời quang,
Mười dặm hương sen thơm đưa lẫn trong gió chiều.
Đâu cần phải quy y để tìm đến sự giác ngộ[3],
Chỉ đến đây làm bạn vỗ về với cội tùng cô đơn.

DẠO CHƠI CHÙA TRẤN QUỐC Ở HỒ TÂY
Chùa cổ Hồ Tây tự bao giờ,
Hòn non khóm trúc bóng cây thơ.
Đánh cá Trần vương xem bãi vắng,
Hành cung nhạo thủy nước xanh mờ.
Gương thu một mảnh trời trong vắt,
Mấy dặm gió chiều hương sen đưa.
Đâu cần quy y cầu đốn ngộ,
Đến đây kết bạn cội tùng cô.

2.
西 湖 秋 水 正 斜 暉
湖 上 高 吟 人 未 歸
卻 笑 兒 童 無 一 事
相 爭 荷 葉 製 荷 衣
Tây Hồ thu thủy chính tà huy,
Hồ thượng cao ngâm nhân vị quy.
Khước tiếu nhi đồng vô nhất sự,
Tương tranh hà diệp chế hà y.
Cảnh nước thu Hồ Tây trong buổi chiều tà,
Du ngoạn trên hồ, thi gia cao hứng ngâm nga chưa về.
Lại cười nhìn lũ trẻ không có việc gì làm,
Tranh nhau lấy lá sen làm áo chơi.

Ánh chiều chiếu rọi nước hồ thu,
Trên hồ thi khách mải ngâm thơ.
Ngắm cười lũ trẻ đương rỗi việc,
Lá sen làm áo tranh nhau đùa.

3.
乘 興 出 西 郭
不 知 天 已 秋
地 偏 景 自 別
身 病 宜 休
湖 影 照 古 梵
荷 香 停 高 樓
清 風 無 舊 識
日 晚 故 相 留
Thừa hứng xuất tây quách,
Bất tri thiên dĩ thu.
Địa thiên cảnh tự biệt,
Thân bệnh nhân nghi hưu.
Hồ ảnh chiếu cổ phạm,
Hà hương đình cao lâu.
Thanh phong vô cựu thức,
Nhật vãn cố tương lưu.
Nhân hứng ra chơi phía tây thành,
Đâu hay trời đã vào tiết thu.
Vùng đất này phong cảnh như riêng biệt,
Cảm thấy thân ốm, người nên nghỉ ngơi.
Nước hồ phản chiếu bóng ngôi chùa cổ,
Hương sen thơm như đọng lại trên lầu.
Gió mát kia vốn chẳng quen biết gì,
Ngày đã muộn vẫn như còn cố giữ ta lại.
Nhân hứng ra thành chơi,
Chẳng biết thu sang rồi.
Chốn này cảnh riêng biệt,
Thân ốm nên nghỉ ngơi.
Chùa cổ soi bóng nước,
Lầu cao hương sen bay.
Gió kia đâu quen biết,
Ngày muộn cứ giữ hoài

4.
木 葉 蕭 蕭 鎮 國 秋
草 花 漠 漠 故 宮 幽
登 臨 一 望 湖 天 晚
荷 葉 中 間 過 小 舟
Mộc diệp tiêu tiêu Trấn Quốc thu,
Thảo hoa mịch mịch cố cung u.
Đăng lâm nhất vọng hồ thiên vãn,
Hà diệp trung gian quá tiểu chu.
Cảnh chùa Trấn Quốc mùa thu cây lá lắt lay,
Cung cũ thâm u hoa cỏ thêm rậm rạp[4].
Tới đây ngắm cảnh hồ trong buổi chiều muộn,
Một chiếc thuyền con rẽ ra từ đám lá sen.
Trấn Quốc trời thu lá lắt lay,
Cung xưa tĩnh mịch cỏ hoa dày.
Chiều muộn ra hồ mà ngắm cảnh,
Rẽ sen thuyền nhỏ hiện ra ngay.
5. 鎮 國 歸 僧[5]
TRẤN QUỐC QUI TĂNG
湖 邊 靜 剎 枕 清 澄
何 處 歸 來 一 老 僧
水 傍 行 吟 移 落 日
叢 花 穿 過    青 藤
留 連 月 竹 看 孤 影
邂 逅 雲 鷗 認 故 朋
回 看 市 域 煩 惱 障
大 千 世 界 獨 超 升

Hồ biên tĩnh sái chẩm thanh trừng,
Hà xứ quy lai nhất lão tăng.
Thủy bạng hành ngâm di lạc nhật,
Tùng hoa xuyên quá phất thanh đằng.
Lưu liên nguyệt trúc khan cô ảnh,
Giải cấu vân âu nhận cố bằng.
Hồi khan thị vưc phiền não chướng,
Đại thiên thế giới độc siêu thăng.
SƯ VỀ CHÙA TRẤN QUỐC
Ngôi chùa yên tĩnh bên hồ gối đầu nơi bờ nước trong xanh,
Một vị tăng già đi từ đâu trở về.
Men theo bờ nước vừa đi vừa ngâm nga cảnh mặt trời lặn,
Xuyên qua khóm hoa khẽ chạm cành mây xanh
Lưu luyến xem bóng cây trúc cô đơn lẫn dưới trăng
Tình cờ gặp gỡ chim âu với mây trời mà nhận ra.
Quay đầu nhìn lại thấy chốn đô thành đầy phiền não
Một mình siêu thăng[6] giữa vũ trụ bao la
TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Ven hồ chùa cổ gối bờ thanh,
Về lại từ đâu vị lão tăng.
Bờ nước ngâm nga vầng ác lặn,
Xuyên hoa khẽ động ngọn mây xanh.
Cô đơn bóng trúc ánh trăng dọi,
Chợt gặp âu trời nhận bạn lành.
Phiền não đô thành đều dứt bỏ,
Một mình siêu thoát giữa mênh mang.

6. 鎮 國 歸 僧[7]
TRẤN QUỐC QUI TĂNG
鎮 國 松 林 暮 紫 凝
棲 棲 行 腳 戀 高 僧
乘 盃 看 盡 湖 中 景
飛 錫 如 來 樓 上 層
聖 觀 鐘 回 聞 隔 岸
仙 湖 月 靜 對 孤 燈
住 持 知 幾 春 秋 許
山 自 依 依 水 自 澄
Trấn Quốc tùng lâm mộ tử ngưng,
Thê thê hành cước luyến cao tăng.
Thừa bôi khan tận hồ trung cảnh,
Phi Tích Như Lai lâu thượng tằng.
Thánh quán chung hồi văn cách ngạn,
Tiên hồ nguyệt tĩnh đối cô đăng.
Trụ trì tri kỷ xuân thu hứa,
Sơn tự y y thủy tự trừng.
SƯ VỀ CHÙA TRẤN QUỐC
Chốn tùng lâm chùa Trấn Quốc khí chiều ngưng tím,
Mến cảnh đẹp nhà sư chầm chậm bước.
Nâng chén ngắm cảnh hồ xa xa,
(Khác nào như) Phi Tích Như Lai[8] bước lên lầu.
Bên bờ đối diện nghe tiếng chuông đền Quán Thánh,
Trên hồ tiên trăng lặng lẽ đối diện với ngọn đèn lẻ loi
Tuổi tác của sư trụ trì biết là bao nhiêu,
Chỉ có núi vẫn xanh và nước vẫn trong.
TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Trấn Quốc tùng lâm sắc tía bày,
Cảnh đẹp thiền sư chậm bước đây.
Nâng chén cảnh hồ ta ngắm hết,
Lên lầu Phi Tích học Như Lai.
Cách bờ Quán Thánh chuông xao động,
Trăng sáng hồ tiên đèn lắt lay.
Trụ trì tuổi tác bao nhiêu vậy,
Núi vẫn như xưa, nước biếc rày.

7.  鎮 國 歸 僧[9]
TRẤN QUỐC QUI TĂNG
繁 華 人 境 半
明 月 歸 來 古 寺 僧
槐 埔 車 塵 回 法 錫
蘇 江 塔 影 定 心 燈
花 棲 宮 鳥 陪 方 丈
鐘 閉 樓 更 演 上 乘
最 是 山 門 千 古 鎮
金 湖 寶 帶 水 澄 澄
Phồn hoa nhân cảnh bán hoàn lăng,
Minh nguyệt quy lai cổ tự tăng.
Hòe phố xa trần hồi Pháp tích,
Tô giang tháp ảnh định tâm đăng.
Hoa thê cung điểu bồi Phương trượng,
Chung bế lầu canh diễn Thượng thằng.
Tối thị sơn môn thiên cổ trấn,
Kim hồ bảo đới thủy trừng trừng.
SƯ VỀ CHÙA TRẤN QUỐC
Cảnh nhân gian phồn hoa trói buộc,
Dưới trăng sáng, nhà sư trở về chùa cổ.
Bụi phố Hòe[10] làm xoay cây Pháp tích[11],
Bóng tháp soi xuống dòng Tô[12] yên định ngọn tâm đăng.
Chốn xưa chim chóc hoa cỏ rậm rạp, giúp việc bậc Phương trượng[13],
Tiếng chuông tàn canh trên gác giảng đạo Thượng thừa[14].
Thật là nơi sơn môn trấn giữ muôn đời,
Cảnh hồ vàng như chiếc thắt lưng (bao quanh chùa) nước trong vắt.
TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Nhân gian cảnh tục vấn vương dây,
Chùa cổ trăng soi thấy bóng thầy.
Phố Hòe bụi xe lui gậy pháp,
Dòng Tô bóng tháp vững lòng đây.
Chim nương hoa thắm hầu Phương trượng,
Chuông dóng lầu canh giảng đạo hay.
Thật nơi muôn thuở sơn môn trấn,
Hồ vàng dây thắt nước trong thay.



8. 遊 鎮 國 寺[15]
DU TRẤN QUỐC TỰ
金 牛 潛 伏 處
鎮 國 聳 然 開
一 自 浮 雲 改
仙 舟 不 復 迴
湖 光 依 舊 在
客 思 正 悠 哉
日 暮 樓 鐘 動
長 歌 歸 去 來
Kim ngưu tiềm phục xứ,
Trấn Quốc tủng nhiên khai.
Nhất tự phù vân cải,
Tiên chu bất phục hồi.
Hồ quang y cựu tại,
Khách tư chính du tai.
Nhật mộ lâu chung động,
Trường ca quy khứ lai.
DẠO CHƠI CHÙA TRẤN QUỐC
Chốn xưa trâu vàng ẩn mình[16],
Nơi ấy chùa Trấn Quốc mọc lên.
Mọi cảnh vật  như mây nổi cứ đổi thay,
Thuyền tiên chẳng quay về[17].
Sắc hồ vẫn như xưa,
Lòng khách thật man mác thay.
Chiều về chuông trên lầu ngân tiếng,
Hát mãi bài Quy khứ lai[18].
DẠO CHƠI CHÙA TRẤN QUỐC
Nơi trâu vàng ẩn náu,
Trấn Quốc mọc chùa này.
Mây nổi cứ đổi thay,
Thuyền tiên không thấy lại.
Ánh hồ còn như cũ,
Lòng khách man mác hoài.
Chiều hôm chuông gác vọng,
Hát mãi Quy khứ lai.
9. 詠 鎮 北 寺[19]
VỊNH TRẤN BẮC TỰ



Qua chơi Trấn Bắc cảnh dãi dầu,
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau.
Mấy tòa sen ngát hơi hương ngự,
Năm thức mây phong nếp áo chầu.
Sóng lớp phế hưng coi vẫn rộng,
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá,
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.

10. 望 西 湖 懷 友[20]
VỌNG TÂY HỒ HOÀI HỮU

Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa,
Người đồng châu[21] trước biết bao giờ.
Nhật Tân đê lở nhưng còn lối,
Trấn Bắc rêu phong vẫn ngấn thơ.
Nọ vực trâu vàng trăng rọi bóng,
Kìa non phượng đất khói tuôn mờ.
Hồ kia thăm thẳm sâu dường mấy,
So dạ hoài nhân chửa dễ vừa.
11. 鎮 國 歸 僧[22]
TRẤN QUỐC QUI TĂNG
柱 持 古 寺 人 衢 老
歷 閱 居 諸 若 弗 勝
鎮 武 伏 前 丞 法 印
文 昌 座 下 照 心 冰
曲 肱 枕 後 全 無 夢
抱 膝 吟 中 只 有 燈
人 問 廢 興 都 不 答
                          聖 何 豈 敢 曰 愚 僧
Trụ trì cổ tự nhân cù lão,
Lịch duyệt cư chư nhược phất thăng.
Trấn Vũ phục tiền thừa pháp ấn,
Văn Xương tòa hạ chiếu tâm băng.
Khúc quăng chẩm hậu toàn vô mộng,
Bão tất ngâm trung chỉ hữu đăng.
Nhân vấn phế hưng đô bất đáp,
Thánh hà khởi cảm viết ngu tăng.
SƯ VỀ CHÙA TRẤN QUỐC
Nhà sư già trụ trì ngôi chùa cổ bên đường,
Không thể tính được là đã bao lâu.
Quán Trấn Vũ nằm phía trước thế giữ ấn báu,
Bên dưới có tòa Văn Xương đế quân soi tỏ tấm lòng băng.
Nằm xuống gấp tay gối đầu, không còn vướng mộng[23],
Chỉ còn một mình với ngọn đèn, ôm gối mà ngâm thơ .
Người đời hỏi chuyện thịnh, suy ta đều chẳng muốn đáp lại,
Bậc thánh nhân thì đâu dám, chỉ dám nhận là kẻ tu hành ngu dốt thôi.

TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Bên đường chùa cổ sư già,
Tu trì chẳng tính được là bao lâu.
Quán Trấn Vũ một tòa ấn báu,
Ngôi Văn Xương soi thấu lòng băng.
Gấp tay gối chẳng mộng nhăng,
Một mình một ngọn cô đăng ngâm sầu.
Người hỏi thịnh suy đều chẳng đáp,
Chỉ đành làm dốt nát tu hành.

12. 鎮 國 歸 僧[24]
TRẤN QUỐC QUI TĂNG
極 樂 壺 中 寶 剎 層
遊 方 何 處 促 歸 僧
衣 拋 卻 塵 緣 去
錫 杖 飛 來 淨 境 登
沙 界 回 觀 輕 一 粟
金 經 看 定 演 三 乘
滔 滔 試 問 利 名 客
誰 會 禪 心 一 點
Cực lạc hồ trung bảo sái tằng,
Du phương hà xứ xúc quy tăng.
Nạp y phao khước trần duyên khứ,
Tích trượng phi lai tĩnh cảnh đăng.
Sa giới hồi quan khinh nhất túc,
Kim kinh khan định diễn Tam thặng[25].
Thao thao thí vấn lợi danh khách,
Thùy hội thiền tâm nhất điểm đăng.
SƯ VỀ CHÙA TRẤN QUỐC
Chùa cổ mấy tầng giữa chốn cực lạc hồ trung[26],
Vị sư ở đây đã đi du ngoạn nơi nào rồi.
Khoác áo cà sa dứt bỏ duyên trần tục,
Cưỡi gậy tích trượng bay lên miền tĩnh cảnh[27].
Quay đầu nhìn lại thế giới sa bà chỉ như một hạt thóc[28],
Kinh báu xem xong để diễn thuyết, giảng đạo Tam thừa[29].
Thao thao thử hỏi khách lợi danh,
Ai hay lòng thiền sáng như một ngọn đèn.

TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Giữa hồ cổ sái mấy tầng cao,
Tăng sư hành cước ở phương nao.
Cà sa áo khoác duyên trần dứt,
Tích trượng bay lên cảnh giới siêu.
Thế giới sa bà như hạt gạo,
Xem qua kinh báu giảng thao thao.
Lợi danh thử hỏi ai nào biết,
Lòng thiền một ngọn sáng như sao.

13. 歸 僧[30]
TRẤN QUỐC QUI TĂNG
叢 林 徹 底 澄
斜 陽 景 裡 見 歸 僧
煙 波 一 徑 初 回 錫
雲 樹 重 樓 正 上 燈
沙 界 回 頭 生 慧 覺
物 花 隨 處 晤 真 乘
寒 鐘 聲 送 入 禪 院
身 在 人 天 第 幾 層
Thủy nhiễu tùng lâm triệt để trừng,
Tà dương cảnh lý kiến quy tăng.
Yên ba nhất kính sơ hồi tích,
Vân thụ trùng lâu chính thượng đăng.
Sa giới hồi đầu sinh tuệ giác,
Vật hoa tùy xứ ngộ chân thằng.
Hàn chung thanh tống nhập thiền viện,
Thân tại nhân thiên đệ kỷ tằng.
SƯ VỀ CHÙA TRẤN QUỐC
Nước bao quanh rừng trong tới tận đáy,
Trong cảnh chiều tà thấy vị sư già trở về.
Một lối đi giữa khói sóng đang chống gậy quay lại,
Lầu cao mây dựng vừa lúc lên đèn.
Thế giới sa bà quay đầu nhìn lại sinh tuệ giác,
Muôn vật khắp nơi giác ngộ đạo chân thừa[31].
Tiếng chuông lạnh lẽo vang đến thiền viện,
Thân đã ở tại cõi nhân thiên thứ mấy tầng[32].

TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Quanh rừng dòng nước xanh trong,
Chiều tà giữa cảnh thấy ông sư già.
Khói sóng một lối đi qua,
Lầu cao mây dựng cũng vừa thượng đăng.
Sa bà giác tuệ thêm tăng,
Khắp nơi cảnh vật nhận chân ngộ thiền.
Hàn chung văng vẳng cửa chiền,
            Thân này đã giữa nhân thiên mấy tầng.
14. 鎮 寺 歸 僧[33]
TRẤN TỰ QUI TĂNG
鎮 國 真 君 已 上 昇
瑞 氣 已 騰 騰
牛 精 不 作 魔 王 怪
鳩 杖 時 歸 佛 子 僧
貝 葉 座 參 宣 法 鼓
蒲 團 入 定 慈 燈
花 木 深 幽 處
一 片 蟾 光 正 上 乘
Trấn Quốc chân quân dĩ thượng thăng,
Phạm cung thụy khí dĩ đằng đằng.
Ngưu tinh bất tác ma vương quái,
Cưu trượng thời quy phật tử tăng.
Bối diệp tòa tham tuyên pháp cổ,
Bồ đoàn nhập định lãng từ đăng.
Thiền quynh hoa mộc thâm u xứ,
Nhất phiến thiềm quang chính Thượng thằng[34].
SƯ VỀ CHÙA TRẤN QUỐC
Vị chân quân chùa Trấn Quốc đã bay đi[35],
Cảnh chùa khí thụy vẫn còn bốc cao.
Tinh trâu vàng chẳng còn tác yêu tác quái[36],
Gậy chim cưu in dấu của các phật tử[37].
Trên tòa lá bối tuyên dương trống pháp[38],
Giữa bồ đoàn nhập định sáng rõ ngọn đèn từ[39].
Phòng thiền giữa chốn hoa cỏ thâm u,
Một mảnh trăng tỏ rạng cùng đạo Thiền.
TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Chân quân Trấn Quốc bay xa,
Cảnh chùa khí thụy nhập nhòa bốc cao.
Trâu vàng nay chẳng tác yêu,
Gậy cưu thường vẫn ra vào sư tăng.
Trên tòa kinh bối trống vang,
Bồ đoàn nhập định sáng choang đèn từ.
Phòng thiền giữa chốn thâm u,
Đạo thiền cùng mảnh trăng thu rạng ngời.
15. 鎮 寺 歸 僧[40]
TRẤN TỰ QUI TĂNG
一 簇 名 藍 瑩 玉 冰
斜 陽 影 帶 暮 歸 僧
沿 湖 杖 倒 千 尋 碧
向 寺 關 通 第 幾 層
貝 葉 夜 宣 人 入 定
松 濤 風 響 月 初 昇
江 湖 城 市 無 多 遠
僧 與 閒 雲 喜 共 朋
Nhất thốc danh lam oánh ngọc băng,
Tà dương ảnh đới mộ quy tăng.
Diên hồ trượng đảo thiên tầm bích,
Hướng tự quan thông đệ kỷ tằng.
Bối diệp dạ tuyên nhân nhập định,
Tùng đào phong hưởng nguyệt sơ thăng.
Giang hồ thành thị vô đa viễn,
Tăng dữ nhàn vân hỷ cộng bằng.
SƯ VỀ CHÙA TRẤN QUỐC
Một tòa danh lam giữa lòng hồ như tâm băng, bầu ngọc,
Ánh tà dương dẫn nhà sư chiều tối trở về.
Chống gậy đi ven hồ giữa muôn tầm sóng biếc,
Hướng tới chùa đường lối cửa thông suốt mấy tầng.
Đêm tụng kinh lá bối người nhập định,
Tiếng gió cành tùng với sóng nước giữa lúc trăng mới lên.
Cảnh thành thị với cảnh sông hồ xa nhau chẳng mấy,
Chỉ có nhà sư với đám mây nhàn du vui vẻ cùng làm bạn.
TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Danh lam cổ sái giữa ngọc hồ,
Trong ánh tà dương bóng thầy tu.
Chống gậy ven hồ muôn tầm biếc,
Cửa chiền thông suốt mấy lần vô.
Tụng kinh lá bối đêm nhập định,
Cành tùng lay gió sóng trăng nhô.
Giang hồ thành thị xa nhau mấy,
Mây nhàn vui bạn với nhà sư.



16. 鎮 寺 歸 僧[41]
TRẤN TỰ QUI TĂNG
烏 含 西 嶺 東 升
鎮 國 歸 來 勸 化 僧
柳 陌 花 衢 猶 故 道
清 風 明 月 是 良 朋
枝 猿 池 東 西 舞
閣 鼓 樓 鐘 次 第 登
自 古 更 深 塵 不 到
禪 心 高 掛 照 心 燈

Ô hàm tây lĩnh thố đông thăng,
Trấn Quốc quy lai khuyến hóa tăng.
Liễu mạch hoa cù do cố đạo,
Thanh phong minh nguyệt thị lương bằng.
Chi viên trì vụ đông tây vũ,
Các cổ chung lâu thứ đệ đăng.
Tự cổ canh thâm trần bất đáo,
Thiền đăng cao quải chiếu tâm đăng.

SƯ VỀ CHÙA TRẤN QUỐC
Mặt trời lặn xuống phía tây, trăng mới nhú phía đông[42],
Vị tăng đi khuyến hóa trở về chùa Trấn Quốc.
Lối hoa đường liễu vẫn như xưa,
Gió mát trăng thanh là bạn tốt.
Vượn trèo chim vỗ nước múa hai bên đông tây,
Lầu chuông gác trống lần lượt leo.
Cảnh trí thâm u từ xưa bụi trần không dính tới,
Lòng thiền treo cao đèn chiếu tâm.

TRẤN QUỐC SƯ VỀ
Non tây ác ngậm thỏ đông lên,
Khuyến hóa tăng về lại cửa chiền.
Dặm liễu đường hoa còn lối cũ,
Trăng thanh gió mát ấy bầu hiền.
Vượn cây cò bãi đông tây múa,
Góc trống lầu chuông lần lượt men.
Tự cổ canh khuya trần chẳng nhiễm,
Đèn tâm cao chiếu giữa lòng thiền

17. 西 湖 感 作[43]
TÂY HỒ CẢM TÁC
荒 樓 古 剎 夕 陽 斜
蕭 瑟 寒 風 落 葉 多
寂 寞 煙 波 秋 色 老
更 無 人 唱 採 薇 歌
Hoang lâu cổ sái tịch dương tà,
Tiêu sắt hàn phong lạc diệp đa.
Tịch mịch yên ba thu sắc lão,
Cánh vô nhân xướng thái vi ca.
CẢM TÁC Ở HỒ TÂY
Lầu hoang chùa cổ bóng chiều tà,
Gió lạnh hiu hắt lá cây rụng nhiều.
Cảnh tịch mịch chốn yên hà sắc thu đã muộn,
Lại không có người hát khúc ca hái rau vi[44].
CẢM TÁC Ở HỒ TÂY
Chùa cổ lầu hoang mấy xế chiều,
Hắt hiu gió lạnh lá rơi nhiều.
Nước mây tịch mịch sắc thu muộn,
Người hát “thái vi” chẳng thấy nào.
18. 鎮 北 寺[45]
TRẤN BẮC TỰ
莊 臨 誰 是 景 中 人
細 細 清 風 扇 扇 薰
水 月 波 籠 蓮 插 茁
香 煙 寶 憩 露 連 雲
洗 空 塵 慮 花 含 態
喚 醒 迷 途 草 亦 春
到 景 令 人 回 首 望
東 南 拂 袖 成 群
Trang lâm thùy thị cảnh trung nhân,
Tế tế thanh phong phiến phiến huân.
Thủy nguyệt ba lung liên sáp truật,
Hương yên bảo khế lộ liên vân.
Tẩy không trần lự hoa hàm thái,
Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc xuân.
Đáo cảnh linh nhân hồi thủ vọng,
Đông nam phất tụ nhạn thành quần.
CHÙA TRẤN BẮC
Trang trọng tới nơi, ai là người trong cảnh,
Nhè nhẹ gió mát quạt từng làn hơi thơm.
Trăng nước sóng vờn sen chen nụ,
Khói hương tàn bám móc liền mây.
Tẩy sạch trần tục phiền não, hoa e ấp,
Đường mê gọi tỉnh, cỏ cây phô sắc xuân.
Gặp cảnh khuyên người quay đầu ngắm,
Hướng đông nam phất áo vẫy nhạn bay thành đàn.
CHÙA TRẤN BẮC
Ai người trang trọng cảnh này đây,
Gió mát đưa thơm nhẹ ngất ngây.
Trăng nước bóng nồng sen cắm nụ,
Đỉnh trần hương khói móc liền mây.
Rửa trôi miền tục hoa e ấp,
Gọi tỉnh đường mê xuân cỏ cây.
Đến cảnh khuyên người quay lại ngắm,
Đông nam vãy áo nhạn bay đầy.
19. 題 鎮 國 寺[46]
ĐỀ TRẤN QUỐC TỰ
梵 宇 巍 峨 氣 色 新
風 光 別 占 鳳 城 春
鳥 啼 古 樹 留 清 韻
魚 躍 晴 湖 見 碧 鱗
風 裡 鐘 聲 如
石 邊 花 色 欲 陵 人
不 知 勝 日 尋 芳 客
多 少 攜 觴 來 問 津

Phạm vũ nguy nga khí sắc tân,
Phong quang biệt chiếm Phượng thành xuân.
Điểu đề cổ thụ lưu thanh vận,
Ngư dược tình hồ kiến bích lân.
Phong lý chung thanh như đảo nguyệt,
Thạch biên hoa sắc dục lăng nhân.
Bất tri thăng nhật tầm phương khách,
Đa thiểu huề trường lai vấn tân.

CHÙA TRẤN QUỐC
Chùa phật nguy nga cảnh sắc như mới,
Phong quang biệt chiếm mùa xuân Phượng thành[47].
Cổ thụ chim kêu lưu giọng hót,
Cá nhảy hồ trong thấy vẩy xanh.
Trong gió tiếng chuông như lay bóng nguyệt trên mặt nước,
Bên bờ đá màu hoa thắm như muốn thúc giục lòng người.
Không biết các vị khách thưởng ngoạn ngày đẹp,
Có bao người cùng nhau nâng chén hỏi thăm đường[48].
CHÙA TRẤN QUỐC
Chùa cổ nguy nga cảnh sắc tân,
Phong quang riêng chiếm góc Phượng thành.
Chim kêu cổ thụ nghe trong trẻo,
Cá nhảy hồ trong lộ vẩy xanh.
Trong gió tiếng chuông lay bóng nguyệt,
Bên bờ hoa cỏ động lòng xuân.
Chẳng hay những khách vui ngày đẹp,
Bao kẻ nâng li hỏi đạo nhân.

20. 遊 鎮 北 寺[49]
DU TRẤN BẮC TỰ
梵 王 金 闕 倚 雲 端
八 面 湖 天 不 厥 看
牛 渚 故 宮 鴉 噪 晚
鳳 城 輦 路 馬 嘶 寒
煙 波 深 處 漁 垂 釣
鼓 聲 中 客 倚 欄
無 相 病 僧 參 妙 諦
向 人 不 肯 與 靈 丹
Phạm vương kim khuyết ỷ vân đoan,
Bát diện hồ thiên bất quyết khan.
Ngưu chử cố cung nha tháo vãn,
Phượng thành liễn lộ mã tê hàn.
Yên ba thâm xứ ngư thùy điếu,
Già cổ thanh trung khách ỷ lan.
Vô tướng bệnh tăng tham diệu đế,
Hướng nhân bất khẳng dữ linh đan.
DẠO CHƠI CHÙA TRẤN BẮC
Cung điện Phạm vương tựa vào mây[50],
Tám phía cảnh tiên ngắm xem không bỏ khuyết.
Bến Ngưu chử cung xưa chỉ còn tiếng quạ kêu muộn[51],
Đường xe cộ qua lại nơi Phượng thành nghe tiếng ngựa kêu tiết lạnh.
Nơi yên hà[52] sóng nước ông chài buông câu,
Chùa cổ nghe tiếng chuông kêu khách dựa lan can.
Sư già bệnh tật vô tướng[53] tham thiền đạo diệu,
Chẳng chịu truyền linh đan[54] cho người đời.
DẠO CHƠI CHÙA TRẤN BẮC
Phạm vương điện báu dựa mây xanh,
Tám phía hồ tiên ngắm rõ rành.
Quạ tối kêu ầm cung Ngưu chử,
Ngựa già hí lạnh lối Long thành.
Chốn sâu khói sóng chài câu cá,
Chùa cổ dóng chuông khách tựa mành.
Vô tướng tăng già tham diệu đạo,
Chẳng trao người tục dược linh đan.

21. 夜 遊 西 湖[55]
DẠ DU TÂY HỒ
月 明 釣 艇 載 銀 壺
村 樹 籠 寒 夜 色 無
風 迺 宜 蠶 砧 力 薄
霜 橫 鎮 國 梵 燈 孤
百 年 煙 景 同 今 夕
千 里 秋 光 泛 一 湖
客 遠 不 知 尋 海 事
日 攜 歌 管 借 歡 娛
Nguyệt minh điếu đĩnh tải ngân hồ,
Thôn thụ lung hàn dạ sắc vô.
Phong nãi Nghi Tàm châm lực bạc,
Sương hoành Trấn Quốc phạm đăng cô.
Bách niên yên cảnh đồng kim tịch,
Thiên lý thu quang phiếm nhất hồ.
Khách viễn bất tri tầm hải sự,
Nhật huề ca quản tá hoan ngu.
DẠO CHƠI ĐÊM Ở HỒ TÂY
Đêm trăng sáng thả thuyền câu chở một bình (rượu) bằng bạc,
Lùm cây đầu thôn trong tiết lạnh nhòe đi trong bóng đêm.
Gió đưa thoang thoảng tiếng chày đập vải từ thôn Nghi Tàm đến[56],
Sương mờ che phủ chùa Trấn Quốc một ngọn lẻ loi.
Trăm năm cảnh mây nước cũng như đêm nay,
Ngàn dặm sắc thu khắp mặt hồ.
Khách chẳng hay biết việc gì tìm kiếm ngoài biển[57],
Ngày tháng chỉ biết mượn đàn sáo làm thú vui.

DẠO CHƠI ĐÊM Ở HỒ TÂY
Thuyền câu hồ bạc đêm thanh,
Bóng đêm nhòa ngọn canh xanh đầu làng.
Tiếng chày đập vải Nghi Tàm,
Sương dăng Trấn Quốc ngọn đèn lắt lay.
Trăm năm nào khác đêm nay,
Trời thu muôn dặm hồ đầy mênh mông.
Chuyện tiên khách chẳng rõ ràng,
Tiêu dao ngày tháng sáo đàn làm vui.

22. 登 鎮 國 寺 望 西 湖[58]
ĐĂNG TRẤN QUỐC TỰ VỌNG TÂY HỒ
湖 景 千 年 在
禪 堂 夕 照 臨
漁 舟 波 共 出
鳳 嘴 草 猶 深
靄 結 連 雲 樹
風 翻 下 渚 禽
幾 回 明 月 夜
載 酒 可 重 尋
Hồ cảnh thiên niên tại,
Thiền đường tịch chiếu lâm.
Ngư chu ba cộng xuất,
Phượng chủy thảo do thâm.
Ái kết liên vân thụ,
Phong phiên hạ chử cầm.
Kỷ hồi minh nguyệt dạ,
Tái tửu khả trùng tầm.
LÊN CHƠI CHÙA TRẤN QUỐC NGẮM TRĂNG
Cảnh hồ nghìn năm như vẫn còn đây,
Thiền đường bóng chiều chiếu rọi.
Sóng vỗ mạn thuyền đánh cá,
Đất mỏ phượng cỏ mọc rậm rì[59].
Mù kết nối cây cao liền mây,
Gió thổi nghiêng những cánh chim sà xuống bến.
Biết trăng sáng được mấy hồi như đêm nay,
Để mang theo rượu đi tìm cảnh đẹp.
LÊN CHƠI CHÙA TRẤN QUỐC NGẮM TRĂNG
Nghìn năm hồ cũ còn đây,
Thiền đường chiếu rọi ánh chầy tà dương.
Thuyền chài ra bến sóng dâng,
Kia là phượng chủy cỏ vương đất dầy.
Sương mờ cây kết liền mây,
Chim nghiêng mặt nước cánh bay gió vời.
Đêm nay trăng sáng đầy vơi,
Lại đem rượu đến vui chơi cảnh này.
23. 鎮國寺[60]
TRẤN QUỐC TỰ
紅 荷 碧 杜 金 苔
空 路 雲 梁 小 徑 開
待 月 吟 殘 鐘 定 夜
煙 霞 有 約 一 漁 來
Hồng hà bích đỗ nhiễu kim đài,
Không Lộ vân lương tiểu kính khai.
Đãi nguyệt ngâm tàn chung định dạ,
Yên hà hữu ước nhất ngư lai.
CHÙA TRẤN QUỐC
Sen hồng đỗ biếc bao bọc lấy tòa vàng,
Nghe nói sư Không Lộ từng mở lối qua đây[61].
Cuộc ngâm thơ đợi trăng đã tàn, tiếng chuông đêm đã điểm,
Một ông chài đến theo ước hẹn tiêu dao mây ráng.
CHÙA TRẤN QUỐC
Sen hồng đỗ biếc bọc kim đài,
Không Lộ cầu mây mở lối này.
Tàn cuộc thơ trăng, chuông đã điểm,
Ráng mây theo hẹn, một ông chài.

24. 鎮 寺 遊 僧[62]
TRẤN TỰ DU TĂNG
寂 寞 禪 關 第 幾 層
優 曇 影 裡 有 遊 僧
湖 聲 靜 寂 傳 清 磬
竹 徑 逍 遙 擁 瘦 藤
空 色 兩 忘 花 底 月
圓 明 一 點 案 前 燈
忘 機 何 限 安 禪 趣
雲 色 波 光 證 上 乘
Tịch mịch thiền quan đệ kỉ tằng,
Ưu đàm ảnh lí hữu du tăng.
Hồ thanh tĩnh tịch truyền thanh khánh,
Trúc kính tiêu dao ủng sấu đằng.
Không sắc lưỡng vong hoa để nguyệt,
Viên minh nhất điểm án tiền đăng.
Vong cơ hà hạn an thiền thú,
Vân sắc ba quang chứng Thượng thằng.
SƯ DẠO CHƠI CHÙA TRẤN QUỐC
Tĩnh mịch cửa thiền biết mấy tầng,
Dưới bóng ưu đàm[63] thấy vị thiền sư.
Cảnh hồ lặng lẽ tiếng khánh vang truyền,
Lối trúc tiêu dao vin sợi mây gầy.
Dưới bóng trăng bên hoa quên hết cả sắc không[64],
Một ngọn đèn tròn sáng trước án.
Vong cơ[65] đâu chỉ hạn chế ở yên thú vui thiền,
Màu mây sắc sóng chứng đạo Thượng thằng[66].
SƯ DẠO CHƠI CHÙA TRẤN QUỐC
Tịnh mịch cửa thiền biết mấy tầng,
Ưu đàm đó có thầy thiền tăng.
Tiếng hồ vắng lặng vang lừng khánh,
Lối trúc tiêu dao sợi móc giằng.
Dưới hoa quên hết sắc không chăng,
Trước án ngọn đèn tròn chấm sáng.
Ngộ thiền dâu chỉ vui thiền thú,
Sắc sóng màu mây chứng Thượng thằng.
25. 鎮 國 樓 望 西 湖[67]
TRẤN QUỐC LÂU VỌNG TÂY HỒ
浪 泊 前 樓 橫 晚 眺
山 光 水 色 望 晴 堯
落 霞 孤 湖 千 頃
尺 練 叢 花 路 數 條
狐 窟 訛 傳 餘 草 翠
龍 舟 邪 事 逐 煙 消
千 村 淹 映 斜 陽 外
幾 個 漁 層 泛 泛 遙
Lãng Bạc tiền lâu hoành vãn diểu,
Sơn quang thủy sắc vọng tình nghiêu.
Lạc hà cô vụ hồ thiên khoảnh,
Xích luyện tùng hoa lộ sổ điều.
Hồ quật ngoa truyền dư thảo thúy,
Long chu tà sự trục yên tiêu.
Thiên thôn yêm ánh tà dương ngoại,
Kỉ cá ngư tằng phiếm phiếm diêu.
TRÊN LẦU TRẤN QUỐC NGẮM CẢNH TÂY HỒ
Trên lầu trước hồ Lãng Bạc[68] ngắm cảnh chiều,
Sắc nước màu non trong buổi trời quang tạnh.
Cánh cò bay lẻ đàn trong ráng chiều trên mặt hồ muôn dặm,
Mấy đường hoa cỏ lượn như dải lụa.
Truyện về hang cáo[69] hoang đường nay chỉ còn đám cỏ xanh,
Truyền thuyết thuyền vua gặp phải tà phép cũng đã tan theo khói[70].
Thôn xóm muôn nhà thấp thoáng ngoài ánh tà dương chiếu rọi,
Mấy chiếc thuyền chài dập dềnh trên sóng nước.

TRÊN LẦU TRẤN QUỐC NGẮM CẢNH TÂY HỒ
Lãng Bạc trên lầu ngắm cảnh chiều,
Màu non sắc nước trời trong veo.
Ráng chiều cò lẻ hồ muôn dặm,
Lối cỏ đường hoa mấy dải điều.
Hang cáo hoang đường còn cỏ biếc,
Thuyền rồng chuyện nhảm khói tan vèo.
Ngàn thôn thấp thoáng ngoài chiều nắng,
Mấy lá thuyền câu sóng dập dìu.

26. [71]
TRẤN QUỐC TỰ

Trung lập càn khôn vững đế đô,
Mảng danh Trấn Quốc ở Tây Hồ.
Xuân thu thêm có mười phần lạ,
Hoa cỏ dành hay một thức phô.
Hây hẩy hương trời thơm nữa xạ,
Làu làu đèn bụt rạng như tô.
Kìa ai đủng đỉnh làm chi đấy,
Một tiếng kình khua một chữ mô.




[1]. Du Tây Hồ Trấn Quốc tự gồm chùm thơ 4 bài (số 1, 2, 3 và số 4) của Phạm Quý Thích, chép trong Thảo Đường thi nguyên tập草堂詩原集, kí hiệu VHv.152. Xem thêm chú thích bài văn bia số 3.
[2]. Tương truyền xưa các vua đời Lý, Trần thường lập hành cung ở ven Hồ Tây để xem đánh cá, và thưởng ngoạn phong cảnh; Nhạo thủy: Luận ngữ có câu: Người nhân vui với núi, người trí vui với nước. Lấy cái ý nhạo thủy là vì thế.
[3]. Nguyên văn ghi là “đốn ngộ”: Chỉ phương thức giác ngộ đạo lập tức của Thiền tông, ngược với “tiệm ngộ” là giác ngộ đạo từ từ.
[4]. Xưa đời Lý cho dựng hành cung Thuý Hoa, đời Trần cho dựng điện Hàm Nguyên trên nền cũ của cung Thuý Hoa.
[5]. Bài thơ của Vũ Tông Phan, chép trong Thăng Long tam thập vịnh 昇龍三十詠, A. 2501. Vũ Tông Phan武宗璠 (1804 - 1862), người xã Hoa Đường huyện Đường An (nay thuộc xã Thúc Kháng huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương), sau di đến ở thôn Tự Tháp phường Báo Thiên huyện Thọ Xương - Hà Nội (nay thuộc quận Hoàn Kiếm thành phố Hà Nội). Có tài liệu ghi ông là Vũ Phan 武璠. Ông hiệu là Lõ Am 魯庵 và Đường Xuyên 唐川, tự là Hoán Phủ 奐甫; thi đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân năm Bính Tuất, niên hiệu Minh Mệnh thứ 7 (1826) đời vua Nguyễn Thánh Tổ. Ông giữ các chức quan như: Tham hiệp tỉnh Thái Nguyên, Đốc học tỉnh Bắc Ninh. Sau ông cáo ốm về nhà mở trường dạy học, học trò theo ông rất đông và nhiều người đỗ đạt. Tác phẩm của ông có: Thăng Long thành hoài cổ thập tứ thủ 昇龍 古十 四首, Tô khê tùy bút tập 蘇溪隨筆集, v.v... và nhiều thơ, văn trong các sách khác.
[6]. Đại thiên thế giới: Thuật ngữ Phật giáo, gọi tắt của Tam thiên đại thiên thế giới. 1000 tiểu thế giới là 1 tiểu thiên thế giới, 1000 tiểu thiên thế giới là 1 trung thiên thế giới, 1000 trung thiên thế giới là 1 đại thiên thế giới.
[7]. Bài thơ chép trong Thăng Long cổ tích khảo 昇龍古跡考, A.1820.
[8]. Phí Tích: Cao tăng đời Đường, Như Lai: Một trong 10 tên gọi của Phật.
[9]. Bài thơ chép trong Thăng Long tam thập vịnh昇龍三十詠, A.1804.
[10] . Hòe phố: Chỉ phố Hòe Nhai. Ý nói cảnh phồn hoa.
[11]. Pháp tích: Cây pháp trượng, một trong 18 vật dụng của Phật giáo, đầu có vòng thiếc “tích” có thể phát ra âm thanh, giúp tăng ni đề phòng dã thú và dùng trong lễ hội
[12] . Dòng Tô: Tức sông Tô Lịch.
[13]. Phương trượng: Phòng chính của Thiền lâm, nơi ở của sư trụ trì gọi là phương trượng.
[14]. Thượng thằng (có âm đọc Thượng thừa): Tức Thượng thừa thiền. Phật giáo có Đại thừa và Tiểu thừa, coi Đại thừa là Thượng thừa, Tiểu thừa là Hạ thừa. Từ khi Thiền tông hưng khởi, tự cho mình vượt lên thừa và tự gọi là Thượng thừa thiền .
[15]. Bài thơ chép trong Tạp kí雜記, A.1716.
[16]. Tương truyền xưa, tinh Trâu vàng từ núi Lạn Kha bị Cao Biền làm phép yểm long mạch, chạy vào ẩn trong hồ.
[17]. Chỉ về sự tích chúa Liễu Hạnh hiển linh ở Hồ Tây cùng Phùng Khắc Khoan và hai người bạn văn chương họ Ngô, họ Lý của ông đối ẩm thưởng trăng, ngâm thơ.
[18]. Quy khứ lai từ: Bài văn nổi tiếng của Đào Uyên Minh (tức Đào Tiềm) người Trung Quốc.
[19]. Bài thơ này về văn bản khá phức tạp. Bài chép trong  Tạp thảo tập雜草集,  A. 3159  và  Xuân Hương thi sao 春香詩抄, AB. 620 , ghi là của Hồ Xuân Hương, như ng khác hai câu đầu: “Qua chơi Trấn Bắc cảnh buồn rầu, ngao ngán tình xưa đã lạnh mầu”. Trong Xuân Hưong thi tuyển 春香詩選, R.97 và Xuân Hương thi kí 春香詩記, R.193 (Thư viện Quốc gia Hà Nội); bài thơ này cũng ghi là của Hồ Xuân Hương, nhưng chỉ có 4 câu giữa. Trong Quốc văn tùng kí 國文叢記, AB.383, ghi là của Bà Huyện Thanh Quan và khác hai câu đầu: “Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu, trạnh niềm kim cổ nghĩ mà đau”.
[20]. Bài thơ chép trong Xuân Hương thi tập春香詩集, VNb. 21. Xem thêm Thơ Hồ Xuân Hương, Đào Thái Tôn (Giới thiệu và tuyển chọn), Nxb. Giáo dục, 2003. 
[21]. Người đồng châu: Chỉ người cùng quê
[22]. Bài thơ chép trong Tây Hồ thắng tích của Lý Văn Phức nằm trong tập Hiếu cổ đường thi tập孝古堂詩集, VHv. 106. Lý Văn Phức 李文馥 (1785 - 1849), người xã Hồ Khẩu huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc quận Ba Đình thành phố Hà Nội). Ông hiệu là Khắc Trai 克齋Tô Xuyên 蘇川, tự là Lân Chi 鄰芝; thi đỗ Cử nhân năm Kỷ Mão, niên hiệu Gia Long thứ 18 (1819) đời vua Nguyễn Thế Tổ. Ông từng làm quan Hàn lâm viện Biên tu, sau thăng Tham tri Bộ Lễ. Tác phẩm của ông có: Dương Tiết diễn nghĩa 陽節演義, Đông hành thi tập 東行詩集, Tây Hồ thắng tích 西湖勝 , Sứ trình tiện lãm khúc 使程便覽曲, Hoàng hoa tạp vịnh 皇華雜詠, Học ngâm tồn thảo 學吟存草, Hồi kinh nhật ký 回京日記, Lý Khắc Trai việt hành thi 李克齋粵行詩, Lý thị gia phả 李氏家譜, Lý Văn Phức di văn 李文馥遺文, Mân hành tạp vịnh thảo 閩行雜詠草, Mân hành thi thoại 閩行詩話, Mân hành thi thoại tập 閩行詩詩集, Tây hành kiến văn kỷ lược 西行見文紀略, v.v... và nhiều thơ, văn trong các sách khác.
[23]. Gấp tay gối: Lấy tích trong Luận ngữ, chỉ việc nhàn tản rỗi rãi không vướng bận lợi danh.
[24]. Bài thơ chép trong Thăng Long tam thập vịnh昇龍三十詠, A1617.
[25] . Còn âm đọc là thừa.
[26]. Cực lạc hồ trung: Thế giới thần tiên trong quả bầu, ám chỉ cảnh tiên. Tích về Phí Trường Phòng trong sách Linh dị kí.
[27] . Cưỡi gậy tích trượng: Thể hiện vị thiền sư tu hành đắc đạo, pháp thuật cao siêu, có thể cưỡi gậy tích trượng mà bay đi.
[28] . Thế giới Sa bà: Thế giới trần gian.
[29] . Đạo Tam thừa: Ba loại phương pháp, đường lối giáo thuyết dẫn đạo chúng sinh đạt tới giải thoát (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát).
[30]. Bài thơ chép trong Hà Thành thi sao河城詩抄, VHb. 319. 
[31]. Chân thừa: Chỉ đạo pháp.
[32]. Nhân thiên: ý nói không còn ở trong cõi phàm nữa, mà đã ở trên cõi tĩnh lặng.
[33]. Bài thơ chép trong Hà Thành thi sao河城詩抄, VHb 319.
[34]. Xem Thượng thằng: chú thích 5 trang 248.
[35]. Chỉ các vị tu hành từng ở chùa Trấn Quốc.
[36]. Tinh trâu vàng: Xem chú thích bài trước.
[37]. Gậy chim cưu: Gậy tích trượng của các phật tử thường khắc hình chim cưu.
[38]. Lá bối: Ngày xưa kinh truyền từ Ấn Độ sang thường viết trên lá bối, nên hay dùng chữ “lá bối” để chỉ kinh điển phật giáo.
[39]. Bồ đoàn: Chỗ các vị tu hành ngồi thiền, làm bằng cỏ bồ.
[40]. Bài thơ chép trong Hà Thành thi sao河城詩抄, VHb. 319.
[41]. Bài thơ chép trong Hà Thành thi sao河城詩抄, VHb. 319.
[42]. Ô: Có nghĩa đen là con quạ, vầng ô chỉ mặt trời, xưa còn gọi mặt trời là con quạ lửa. Thố: Con thỏ, ý chỉ mặt trăng.
[43]. Bài thơ của chép trong Trúc Vân Chu thị thi tập, nằm trong tập Hiếu cổ đường thi tập孝古堂詩集VHv. 106. của Chu Mạnh Trinh (1861 - 1905). Nhưng cũng có chép trong tập 三元探花書池武大人詩集 Tam nguyên Thám hoa Thư trì Vũ đại nhân thi tập (HN301)-Tập thơ của Vũ Phạm Hàm (武范諴1864 - 1906). Có khác một số chữ:

荒 樓 古 剎 夕 陽 斜

蕭 瑟 寒 風 落 葉 多

朝暮揚 波 秋 色 老

更 無 人 唱 採菱   , 

[44]. Thái vi: Xưa Bá Di,  Thúc Tề ẩn ở núi Thú Dương thề không ăn thóc nhà Chu, hái rau vi mà ăn cho đến chết. Sau từ “Thái vi” chỉ về việc lánh đời đi ẩn, không màng thế sự.
[45]. Bài thơ này là của Hồ Xuân Hương chép trong Hương đình cổ nguyệt thi tập 香亭古月詩集 trong tập sách  Tứ gia thi tập 四家詩集, R. 423.
[46]. Bài thơ chép trong Xuyết thập tạp ký 掇拾雜記, A.1792.
[47]. Phượng thành: Cũng gọi đô thành.
[48] . Nguyên văn ghi là “vấn tân”: Hỏi bến đò, tức hỏi đường, hỏi thăm đường tu hành.
[49]. Bài này của Vũ Quang chép trong Hà Thành thi sao 河城詩抄, VHb.319. Vũ Quang (? -?) người Đồng Lạc huyện Thọ Xương, Hà Nội, thi đỗ Cử nhân từng làm Giáo thụ.
[50]. Phạm vương: Chỉ đức Phật, đây chỉ cảnh chùa.
[51] . Ngưu chử: Đầm trâu, cũng giống Ngưu đàm.
[52]. Yên hà: Cảnh nhàn vui cùng sông nước, nơi có khói mờ, sóng biếc.
[53]. Vô tướng: Trái với Hữu tướng. Vô tướng là đã thoát ra khỏi nhận thức hữu tướng của thế tục, đắc được thực tướng của sự vật, cũng như Niết bàn.
[54]. Linh đan: Thuốc tiên.
[55]. Bài thơ của Trương Hảo Hợp chép trong Mộng Mai đình thi thảo trong tập sách Hà Thành thi sao河城詩抄,  VHb. 319. Trương Hảo Hợp (? - ?) người xã Tân Khánh, huyện Tân Long tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh). Ông hiệu là Lượng Trai có sách ghi ông còn có hiệu là Mộng Mai , tự là Quýnh Xuyên , thi đỗ Cử nhân năm Kỷ Mão, niên hiệu Gia Long thứ 18 (1819) đời vua Nguyễn Thế Tổ. Ông từng làm quan Tuần phủ Lạng Bằng, được cử đi sứ Trung Quốc và Nam Dương. Tác phẩm của ông:  Mộng Mai thi thảo 梅詩草, Trương Mộng Mai thi thảo 張夢梅詩草 trong sách Trương Mộng Mai thi tập 張夢梅詩集.
[56]. Nghi Tàm: Một làng ven Hồ Tây có nghề nuôi tằm dệt vải.
[57]. Việc tìm kiếm ngoài biển: Đời Tần Thủy Hoàng, Từ Phúc đem theo các đồng nam đồng nữ ra ngoài biển cầu thuốc trường sinh bất lão. Câu này cũng chỉ việc lánh bỏ trần tục tìm nơi tiên cảnh.
[58]. Bài thơ chép trong Chu Cổ Nguyên tiên sinh thi tập 朱古源先生詩集, A. 443.
[59]. Mỏ phượng: Cao Biền cho rằng Hồ Tây có dáng đất kiểu phượng hoàng uống nước.
[60]. Bài này chép trong  Long Biên bách nhị vịnh 龍編百二詠A. 1310 của Bùi Cơ Túc 裴基肅 (? - ?), hiệu là Liên Khê 蓮溪, quê quán ở đâu chưa rõ. Về thân thế và sự nghiệp của Bùi Cơ Túc hiện cũng chưa rõ, được biết ông sống vào khoảng cuối thế kỷ XIX.
[61]. Tương truyền thiền sư Không Lộ từng ở chùa Trấn Quốc.
[62]. Bài này của Ninh Tốn thơ chép trong Tiền Lê Tiến sĩ Ninh Tốn thi tập前黎進士寧遜詩集, A. 350. Ninh Tốn寧遜 (1743 - ?), người xã Côi Trì huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình. Ông hiệu là Chuyết Sơn Cư sĩ 拙山居士, Mẫn Hiên 敏軒, Chuyết Am 拙庵 và  Song An Cư sĩ 雙安居士; tự là Khiêm Như 謙如 và Hy Chí 希志; thi đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39 (1778) đời vua Lê Hiển Tông. Thời Lê, ông giữ các chức quan như: Tri binh phiên, Phụng tá quân hải lộ, Toản tu quốc sử, Đông các Đại học sĩ, Hữu Thị lang Bộ Hình, Hiệp trấn đạo Thuận Quảng. Thời Tây Sơn, ông từng giữ chức Hàn lâm viện Học sĩ, Thượng thư Bộ Binh, tước Trường Nguyên bá. Tác phẩm của ông: Chuyết Sơn thi tập đại toàn  拙山詩集大全, Tiền Lê Tiến sĩ Ninh Tốn thi tập 前黎進士寧遜詩集, v.v... và  nhiều thơ, văn trong các sách khác.
[63]. Ưu đàm: Hoa ưu đàm, tức hoa cây sung. Phật giáo cho rằng hễ khi cây ưu đàm ra hoa thì như có Phật.
[64] . Sắc không: Thuật ngữ Phật giáo, nói rằng “Sắc tức thị không” cho rằng hết thảy mọi sắc pháp đều là hư ảo.
[65] . Vong cơ: Thuật ngữ  Phật giáo. Chỉ những người đã quên những thói tục, đã giác ngộ cao.
[66]. Xem Thượng thằng: chú thích 5 trang 248
[67]. Bài thơ chép trong Hà Thành thi sao河城詩抄,  VHb. 319.
[68]. Có tài liệu ghi Hồ Tây là hồ Lãng Bạc.
[69]. Hang cáo: Truyền thuyết về hang cáo, ở Hồ Tây xưa là một gò núi có tinh cáo trắng thường hay biến hoá hại người. Long quân dâng nước lên bắt, núi sụt xuống thành hồ.
[70]. Thuyết về việc vua Lý Nhân Tông đi chơi hồ Dâm Đàm bị Thái sư Lê Văn Thịnh dùng phép thuật hóa hổ định làm hại, may nhờ người đánh cá Mục Thận quăng lưới phá phép ấy cứu được nhà vua.
[71]. Bài thơ chép trong Hồng Đức quốc âm thi tập洪德國音詩集, AB. 292. Thời Hồng Đức tên chùa là An Quốc. Tên chùa Trấn Quốc theo ghi chép trong bài văn bia Trấn Quốc tự bi ký do Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính soạn, niên đại năm Dương Hoà thứ 5 (1639) thời vua Lê Thần Tông mới xuất hiện.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét