Thủ bút của Trần Trọng Kim
gửi
Hoàng Xuân Hãn năm 1947
Nguyễn
Đức Toàn
Viện nghiên cứu Hán Nôm
Trần Trọng Kim (1887-1953) là một nhà giáo,
một nhà nghiên cứu văn học, sử học có tiếng trong giới trí thức nước ta thời cận
đại. Ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị, như Nho giáo, Việt Nam sử lược, có đóng góp cho tri thức và nghiên cứu lịch sử văn hóa nước nhà. Trong khi tiếp xúc với văn bản Nam quốc địa dư chí, tôi phát hiện ra bức thư này nằm giữa tờ bìa ngoài gấp đôi đã
bị phết hồ dán kín lại, do thời gian lâu ngày lớp hồ khô đi, trong lúc kiểm tra
văn bản bức thư vô tình rơi ra. Được biết một số sách Hán Nôm có nguồn gốc từ thư viện riêng của gia đình GS. Hoàng Xuân Hãn. Bức thư này có
lẽ đã đến tay cụ Hoàng và được cụ Hoàng dấu kín vào tờ bìa của cuốn Nam quốc địa dư chí, mà sau này
được hiến tặng lại cho thư viện. Đối chiếu
với tập hồi ký Một cơn gió bụi của cụ
Trần đã được xuất bản trong những năm 60, chúng tôi nhận định đây chính xác là
bút tích và giọng văn của cụ Lệ thần - Trần Trọng Kim, vì những nhân vật trong
thư nhắc đến đều là những gương mặt trí thức chính trị đương thời với cụ. Ngày
tháng, sự kiện, giọng văn và tư tưởng trong bức thư hoàn toàn phù hợp với ngày
tháng, sự kiện, giọng văn, tư tưởng của cụ Trần trong tập hồi ký đã nêu trên.
Chúng
tôi xin được giới thiệu nội dung bức thư như một phần di cảo bút tích của một
nhà giáo, một học giả uyên bác và đức hạnh, một nhà nghiên cứu Nho giáo tân học
cuối cùng, sau hơn nửa thế kỷ nằm im lìm trong một tập sách cũ. Thấy rõ thêm mối
quan hệ giữa hai gương mặt trí thức lớn của nước ta trong lịch sử cận đại. Bên
cạnh đó, đặt ra vấn đề thận trọng và nghiêm túc trong công tác bảo quản các tư
liệu Hán Nôm của chúng ta hiện nay.
Bức thư gồm 2 tờ viết 2 mặt.
Nội dung như
sau :
Ông Hãn2
Hôm ông Phan văn Giáo3 đưa cái
thư của ông vào cho tôi, tôi không gặp ông ấy. Tôi xem thư của ông, nhất là đoạn
viết bằng chữ nôm, tôi biết rõ sự tình và tôi đã phiên dịch ra quốc-ngữ, gửi
sang để Ngài4 xem.
Gần đây tôi
lại được thư khác của ông, do ông Giáo gửi lại cho tôi, đại khái cũng như thư
trước. Cái tình thế nước ta bây giờ, tôi cũng hiểu đại khái như ông, cho nên
trước khi tôi về, tôi đã dặn Ngài : Trừ khi có bằng-chứng chắc-chắn, thì ngài
chớ nghe ai mà về. Sau khi tôi đã về đây rồi tôi lại viết thư ra nhắc lại lời dặn
của tôi. Vậy sự ngài về chắc là không có.
Tôi sở dĩ về đây là vì Ngài và tôi ở bên ấy5,
hoang-mang chẳng biết rõ gì cả, nhân có ông Cousseau6 do ông
D’argenlieu7 sai sang gặp Ngài và tôi, nói Pháp sẵn lòng đổi thái-độ
để cầu hoà-bình. Ngài thấy thế bảo tôi về tận nơi xem thái độ người Pháp có thật
không, và nhân tiện xem ý tứ người Việt ta thế nào. Nếu làm được việc gì ích lợi
cho nước và để cho dân đỡ khổ, thì ta cố làm cho trọn nghĩa-vụ của mình, nếu
không thì lương-tâm ta cũng yên, vì đã cố hết sức mà không làm được8.
Tôi về đây hôm 6 tháng hai tây9,
không gặp ông D’argenlieu, vì ông ấy sắp về Pháp. Ông ấy cho người bảo tôi chờ
ông ấy sang sẽ nói chuyện. Tôi có gặp mấy người có chủ nhiệm về việc chính trị,
nói chuyện thì tử-tế lắm và đồng ý hết cả. Nhưng xét ra họ nói một đường, làm một
nẻo, toàn là những việc mưu-mô lừa dối cả. Lúc đầu tôi có xin cho tôi dược gặp
ông, ông Hiền10 và Khiêm11, họ hứa sẽ cho vào ngay, nhưng
mãi chẳng thấy ai vào. Tôi biết ý [tr1]
cũng không hỏi nữa.
Tôi xem việc người Pháp làm, không thấy gì
là chân thực. Họ thấy tôi giữ cái thái-độ khảng khái không chịu để họ lợi dụng,
họ phao ra rằng tôi nhu-nhược và đa nghi không làm được việc. Họ cho những người
Nam
thân tín của họ đến nói muốn gặp tôi, tôi từ chối không gặp ai cả. Cũng vì thế
tôi không muốn gặp ông Giáo. Tôi có nói với người Pháp rằng : Tôi về đây, là
tin ở lời hứa hẹn của ông Cousseau là đại biểu của Thượng xứ Pháp, nay công việc
không xong, thì cho tôi trả ra để bảo cho Ngài biết. Họ nói : Việc ấy cố nhiên
rồi, nhưng ông hãy thong-thả chờ ít lâu. Họ nói thế, nhưng tôi biết là họ không
cho tôi ra với Ngài, và họ lại cho người khác nói chuyện với Ngài12.
Dù sao, tôi cũng không ân-hận vì việc tôi về
đây. Có về đây mới biêt rõ sự thực. Biết rõ sự thực thì cái bụng tôi yên không
áy náy như khi ở ngoài kia. Bây giờ tôi nhất định không làm gì cả. Nếu thời cục
yên-ổn thì tôi về ngoài Bắc, néu không tì xoay xở ở tạm trong này, chờ khi khác
sẽ liệu.
Còn về phương diện người mình, thì tôi thấy
không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng-nhăng chẳng đâu vào đâu cả. Ai cũng
nói vì lòng ái-quốc, nhưng cái lòng ái-quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi,
nhưng kỳ thực là vì địa-vị và quyền-lợi, thành ra tranh dành nhau, nghi-kỵ nhau
rồi lăng-mã lẫn nhau. Tôi về đây chỉ gặp Thảo13, Hoè14 và
Sâm15. Tôi bảo Sâm nên tìm cách đoàn kết nhau thành khối, thì mới có
thể đối phó với người ta được. Sâm cũng cho ý kiến ấy là phải. Song một độ thấy
bẵng đi, không đến gặp tôi, rồi bất thình-lình xuất hiện ra Mặt trận quốc gia16,
mà không cho tôi biết. Mãi mấy hôm nay mới đến nói rằng vì sự đi lại khó khăn,
nên không kịp nói cho tôi biết việc ấy. Tôi bảo hắn rằng : Việc ông làm đó, là
việc nên làm, nhưng trước hết phải xếp đặt cho chu-đáo, phải có đủ các cơ-quan
tuyên truyền và bênh-vực việc làm của mình. Nhất là phải giao-thông với Mặt trận
kháng chiến17, họ [tr2]
có đồng ý, thì việc ông làm hoạ may mới có hiệu-quả. Nay việc chưa xếp đặt ra
gì cả mà ông đã vội-vàng xướng xuất ra như thế, tôi e khó thành được. Hắn nói :
Việc đã trót rồi, đã ném lao thì phải theo lao.
Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó khăn quá,
mà minh thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ cái dịa vị
bàng-quan mà thôi, thật là:
身 在 南 蕃 無 所 預
心 懐 百 憂 復 千 慮
(Thân tại Nam phiên vô sở dự,
Tâm hoài bách ưu phục thiên
lự.
=
Thân ở cõi Nam
không tham dự việc chính trị,
Lòng
đã ôm trăm mối lo lắng lại thêm nghìn điều ưu lự)
Tôi
vẫn biết việc chống với Pháp chỉ có V.M. mới làm nổi, nhưng vì chỉ tiếc họ quá
thiên về chủ-nghĩa cọng-sản quá. Họ chỉ có một mục-đích là thi hành chủ nghĩa
của họ, họ dùng đủ phương diện để đưa người ta vào cái chòng của họ. Sự
hành-động của họ ở bên ta cũng như bọn cọng sản đã dùng ở bên Tàu và ở các nước
khác, đều theo một lối đúng nhau như hệt. Họ không cần quốc-gia, không cần
đạo-đức, nhưng có nhiều người tin ở nghĩa quốc-gia, thì họ lợi dụng cái nghĩa
quốc-gia để đạt cái chủ-nghĩa của họ. Lừa dối xảo-quyệt đủ đường, cho nên người
ta dễ mắc lừa lắm.
Nay
V.M. đứng vào cái địa-vị chống Pháp, tất là có cái thanh-thế rất mạnh. Nếu họ
biết đổi cái thái-độ hung tàn bạo ngược đi, và tìm cách thu dụng các đảng phái
khác, để lập thành một khối, không khuynh hướng hẳn về Cọng sản, thì có cơ
thành công được, nhưng bảo con chó sói trở nên con cừu, thì có thể được không?
Dù sao, đối với viêc nước mình, V.M phải chịu cái tiếng 功 之 首 罪 之 魁(Công chi thủ tội chi
khôi = Công đứng đầu mà tội cũng đứng đầu). Đó là ý kiến riêng của tôi, còn
các ông nghĩ thế nào tôi không biết.
Khi
tôi ở Hương- cảng, ông Cousseau có cho tôi biết tin ông Oánh18 bị
Tây giết, tôi thương ông Oánh quá, có làm bài tuyệt- cú gửi về, nhờ ông đem
điếu ông ấy:
Khóc bạn
Nguyễn Băng Hồ
Đất khách mơ - màng những thở -
than,
Mảng tin bác bị lũ hung tàn.
Ngắn dài giọt lệ lòng thương bạn,
Căm giận quân thù đã tím gan.
Ông
Oánh sinh thời là một người trung hậu ngay chính, ở đời này thật là ít có.
Chẳng may vì duyên nghiệp mà phải cái nạn tai bay vạ gió. Thôi [tr3] thì cũng là một cách ông ấy trả
nợ nước.
Tôi
muôn nhờ ông một tí việc, khi tôi đi, tôi còn một bản đánh máy tập Vũ
trụ đại quân19 gửi ông Oánh, nhờ ông thử hỏi nhà ông
Oánh xem tập ấy có còn nữa không. Nếu còn, thì ông làm ơn giữ lấy cho tôi, kẻo
công trình mất mấy năm trời mà mất đi, thì tiếc quá.
Nhờ ông nói với Khiêm, nhờ hắn đến qua chỗ nhà tôi ở Nhà
Rượu20, xem có ai coi giữ cái nhà đã bị đốt21 đó không.
Nếu có người coi, thì nhờ Khiêm thử vào trong nhà xem những sách vở có còn gì
nữa, thì nhờ hắn nhặt đem về giữ lấy cho tôi. Còn cái nhà bên cạnh mà không hư
hỏng lắm thì nhờ hắn xem có thể chữa sửa được không. Giá có thể chữa lại it
nhiều rồi cho người ta tạm thuê để lấy tiền và cốt nhất là khi nào tôi có về
được, mong còn có chỗ che sương che nắng.(Việc này không cần nữa, vì tôi đã gặp Khiêm ở đây rồi.)22
Ông
có biết tin ông Bùi Kỷ23 bây giờ ở đâu không. Tôi về đây không có
tin tức gì về đường nhà ông Bảng cả.
Nhà
tôi và Chương24 đều có lời chúc ông bà được mạnh khoẻ. Tôi có lời
thăm ông Hiền, Khiêm và Hoè và tất cả các bạn. Ông Hoè hôm ra Hà-nội có đến gặp
tôi, nhưng vội quá, không viết được thư. Bây giờ ông Hoè ở đâu và làm gì?
Sau
này ông có gửi thư cho tôi, nên để chờ khi nào có người chắc chắn vào đây, đưa
đến cho tôi thì hơn. Không nên gửi người không được chắc chắn.
Nay
kính thư
Trần
Trọng Kim [tr4]
Chú thích :
1.
8/5/1947 : ngày viết thư. Một cơn gió bụi
có ghi việc Cao uỷ Pháp là Bollaert ra Bắc : “ngày 8/5 mấy hôm trước khi
ông Bollaert ra Bắc, ông Didier Michel hẹn đến gặp tôi”. Bức thư có lẽ được cụ
Trần nhờ Didier Michel gửi hộ.
2.
Ông Hãn: Chỉ Hoàng Xuân Hãn, nguyên Bộ trưởng bộ giáo dục và Mỹ thuật của chính
quyền Trần Trọng Kim trước Cách mạng tháng 8. Năm 1947 Hoàng Xuân Hãn còn đang
ở Hà Nội.
3.
Phan văn Giáo: Dược sĩ, chủ hiệu thuốc lớn ở Thanh Hoá, là nhà Tư sản nổi tiếng
có tư tưởng thân Pháp. Bị bắt trong Cách mạng tháng 8, sau được thả ra. Sau năm
1945 tiến hành nhiều cuộc vận động để khôi phục chính thể quân chủ ở miền Nam .
4.
Ngài : Chỉ vua Bảo Đại - Vĩnh Thuỵ, lúc này đã thoái vị. Sau được chính quyền
cách mạng cử đi công cán Trung Quốc, thì ở lại không về và sang ở Hương Cảng.
(Trần Trọng Kim; Phạm Khắc Hoè, sđd)
5.
Bên ấy : Khi Cách mạng tháng 8 nổ ra thì Trần Trọng Kim đang ở Huế. Bảo Đại
thoái vị, ông về ở làng Tại Thế gần thôn Vĩ Dạ, đóng cửa đọc sách không ra
ngoài. Đầu năm 1946 thì về Hà Nội, không tham gia việc gì nữa. Sau khi Bảo Đại
đi sang Trung Quốc, rồi ở lại không về. Cuối tháng 5/1946, quân Tầu Tưởng rút
dần về nước. Tháng 6/1946, Trần Trọng Kim theo một số người của Quốc Dân đảng
sang Trung Quốc tìm bắt liên lạc với Bảo Đại, và gặp nhau ở Hương Cảng.
6.
Cousseau : Quan cai trị, từng làm Công sứ ở nhiều tỉnh tại Bắc Kỳ, là người móc
nối dàn xếp đưa Bảo Đại từ Hương Cảng về nước để thành lập chính phủ theo ý
người Pháp. (Phạm Khắc Hoè. sđd)
7.
D’argenlieu : Cao uỷ Pháp tại Đông Dương lúc bấy giờ. Năm 1947 thì về nước cho
Bollaert sang thay. (sđd)
8.
Trần Trọng Kim, sđd, tr166, 167...
9.
hôm 6 tháng 2 tây : ngày Trần Trọng Kim về đến Sài Gòn. Một cơn gió bụi có ghi : “ngày 5 đến Sài Gòn, nhưng đến sáng mùng 6
mới lên bờ.”
10.
ông Hiền : Luật sư Vũ Văn Hiền, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng
Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tài chính. Bị quân Pháp bắt giữ sau ngày toàn quốc
kháng chiến năm 1946 ở Hà Nội cùng với Phạm Khắc Hoè, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn
Xuân Chữ, ... sau được thả ra. (Phạm Khắc Hoè, sđd)
11.
Khiêm : Có thể là Phạm Duy Khiêm, người cùng tham gia với Trần Trọng Kim soạn
sách “Việt Nam văn phạm”.
12.
Trần Trọng Kim lúc này đã không còn giá trị. Người Pháp muốn tách ông ra khỏi
Bảo Đại để không thể gây ảnh hưởng, cản trở ý đồ thành lập một chính phủ theo ý
muốn của người Pháp.
13.
Thảo : Luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1986), luật sư toà Thượng thẩm Sài Gòn, là
một luật sư rất có uy tín, thường đứng ra bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao
động cấp dưới, từng tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức
Bộ trưởng bộ Tư pháp, Phó chủ tịch hội đồng cố vấn chính phủ lâm thời miền Nam
Việt Nam. Sau ra chiến khu tham gia thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc
dân chủ hoà bình Việt Nam, đi nhiều nước vận động chấm dứt chiến tranh tại Việt
Nam, Uỷ viên trung ương mặt trận tổ quốc, Đại biểu quốc hội.
14.
Hoè : Phạm Khắc Hoè, giữ chức Đổng chưởng lý văn phòng Ngự tiền của vua Bảo
Đại. Sau này đi theo kháng chiến, bị Thực dân Pháp bắt đưa về miền Nam dụ dỗ
quay trở lại phục vụ Bảo Đại không thành, phải thả ông ra ở Hà Nội, ông tìm
cách trốn khỏi thành phố lên chiến khu, có viết tập hồi ký “Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc”.
Tập hồi ký này có nhắc đến việc ngày 16/4/1947, Phạm Khắc Hoè có đến chào từ
biệt Trần Trọng Kim trước khi ra Hà Nội. Thư này viết sau khi Phạm Khắc Hoè đi
Hà Nội gần một tháng (8/5/1947). (Phạm Khắc Hoè, sđd)
15.
Sâm : Nguyễn Văn Sâm, Chủ tịch hội ký giả Nam Kỳ. Bị Thực dân Pháp an trí ở Sóc
Trăng vì những hành động chống Pháp. Năm 1945, tham gia chính quyền Trần Trọng
Kim, Hội viên hội đồng dự thảo Hiến pháp. Sau được phái đi làm Khâm sứ Nam Kỳ
để tiếp thu Nam Kỳ được Nhật trao trả, chưa kịp thực hiện thì cách mạng tháng 8
bùng nổ. Là người tham gia thành lập Mặt trận quốc gia Việt Nam ở miền Nam ,
là thủ lĩnh đảng Việt Nam
quốc dân độc lập, ông bị ám sát chết cuối năm 1947. (Nguyễn Quang Thắng, sđd)
16.
Mặt trận quốc gia : Ngày
17-2-1947, Nguyễn Hải Thần, ông Nguyễn Tường Tam cùng một số nhân sĩ đã tiếp xúc với Bảo Đại và đã thành lập một Mặt Trận mệnh danh là Mặt Trận
Quốc Gia nhóm tại Hương Cảng gồm: Việt Nam Cách Mạng Đồng
Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Chủ Xã Hội Đảng, Việt Nam
Quốc Gia Thanh Niên Đoàn có mục đích lợi dụng Bảo Đại để tranh thủ độc lập
nhưng Bảo Đại cũng như các nhà thực dân khác không
chịu được sự "khó tính" của Mặt trận này nên đã gạt khéo Mặt trận ra ngoài
và sau này, Bảo Đại về lập chính phủ chỉ có nhân viên của các nhóm tư bản và của
đế quốc cộng tác mà thôi. Với những thành phần "Nam
kỳ quốc" và bọn
tay chân của đế quốc, Pháp tạo ra các chiêu bài
độc lập, tính đánh lừa dân chúng Việt Nam nhưng đã thất bại. Nguyễn Văn Sâm chắc cũng tham gia trong mặt trận
này.
17. Mặt trận kháng chiến : Chỉ Mặt trận
kháng chiến của nhân dân miền Nam (?)
18. ông Oánh : Tức Nguyễn Quang Oánh
(1888-1946), anh ruột Nguyễn Văn Ngọc (hiệu Ôn Như). Làm Thanh tra các trường
Sơ học, Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền Trần Trọng Kim, từng
cùng Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ biên soạn sách Tiểu học Việt Nam văn phạm giáo khoa thư. Toàn quốc kháng chiến,
ông bị giặc Pháp ập vào nhà bắn chết ngày 22/12/1946. (Trần Văn Giáp, sđd);
Nguyễn Băng Hồ : Chỉ tên hiệu của ông Nguyễn Quang Oánh là Băng Hồ.
19. Vũ trụ đại quan : Một trong các công
trình nghiên cứu của Trần Trọng Kim. (Trần Văn Giáp, sđd)
20. Nhà Rượu : Trần Trọng Kim có nhà ở khu vực
gần Nhà máy Rượu Hà Nội (phố Nguyễn Công Trứ). Tức là căn nhà 41 phố Hàng Chuối
(Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb.Vĩnh
Sơn, S., 1969)
21. “Cái
nhà của tôi ở phố nhà Rượu cũng bị quân tự vệ đốt cháy. Thành ra bao nhiêu sách
vở của tôi, có lắm quyển rất cổ rất quý, tích trữ trong mấy chục năm, đều hoá
ra tro tất cả. Tôi vẫn chưa hiểu vì lẽ gì mà họ đốt nhà tôi, hoặc là vì đốt nhà
bên cạnh mà cháy lây sang, hoặc vì Việt Minh thấy tôi bỏ đi, họ giữ không được,
họ cho lệnh đốt nhà cho bõ tức”. Trần Trọng Kim, sđd.
22. Tác
giả tự đánh dấu, và ghi chú sang bên cạnh thư, nhắc việc này thôi vì đã nhờ được
rồi.
23. Bùi Kỷ : Tức cụ Phó bảng Bùi Kỷ
(1887-1960), Hội viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền Trần Trọng
Kim, cùng Trần Trọng Kim biên soạn nhiều tác phẩm : Truyện Thuý Kiều, Việt Nam
văn phạm, Nho giáo. Chủ tịch Hội văn hoá kháng chiến liên khu 3, uỷ viên Hội
Liên Việt liên khu, Chủ tịch hội hữu nghị Việt- Trung. (Trần Văn Giáp, sđd)
24. Chương: Tên người, lúc đầu tôi chỉ tra cứu được 1 người tên Chương là Luật sư Trần Văn Chương, từng
tham gia Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Ngoại
giao. Đến hôm 9.2.2014, bài viết nhận được phản hồi từ bà Phạm Thị Lệ Hương, 1 Việt kiều Mỹ cung cấp thông tin sửa sai cho, tên Chương là tên con gái cụ Trần Trọng Kim, tức bà "Trần Thị Diệu Chương, vì trong thư Cụ Kim thường kêu các Cụ ngang tuổi là Ông… mà không nói tên trống không như thế này, vả lại Cụ viết “nhà tôi [tức là vợ của Cụ] và Chương đều có lời chúc ông bà…” thì chắc chắn phải là người trong gia đình Cụ. Con gái độc nhất của cụ tên là Trần Thị Diệu Chương, vẫn còn sống ở Pháp, năm nay cỡ 90 hay trên 90 tuổi 1 chút (ngang tuổi ông Bùi Diễm là con trai Cụ Bảng Bùi Kỷ là first cousin của bà Trần Diệu Chương, vì Cụ Bùi Kỷ là anh của Cụ bà Trần Trọng Kim).] Sở dĩ tôi dám quả quyết như thế này là vì tôi là người trong họ của Cụ bà Trần Trọng Kim, nên tôi đọc thư của Cụ Kim viết cho Cụ Hoàng Xuân Hãn tôi hiểu như thế. Tôi có hỏi thêm những người trong họ thì mấy nguời đó cũng nghĩ như tôi viết cho anh ở trên." (trích thư phản hồi của bà Phạm). Tôi xin sửa lại chú thích này theo ý kiến phản hồi của bà Phạm và xin trân trọng cám ơn bà.
Thư mục tham khảo
1.Lệ thần - Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb Vĩnh Sơn, S,. 1969
2. Phạm Khắc Hoè, Từ
triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, H,.1986
3. Nguyễn Quang Thắng, Từ
điển nhân vật lịch sử Việt Nam .
S,.1982
4. Trần Văn Giáp, Lược
truyện các tác gia Hán Nôm II. H.,1987
5. La Sơn Yên Hồ -
Hoàng Xuân Hãn. Nxb GD, H,. 1998 (2t)
Phụ lục ảnh nguyên văn
Oh! Tài liệu quý quá!
Trả lờiXóaNhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóaTai lieu quy qua, va cho ta hieu them ve tu tuong cua Cu Tran- con nguoi co mot nhan quan chinh tri thau suot thoi dai- dang tiec cho lich su Dan-Toc:
Trả lờiXóa"Cái chủ nghĩa cộng sản về đườn luận thuyết cũng có điều bảo thủ, như là muốn chữa những điều bất công trong xã hội, nhưng về đường kinh tế, thì lại áp chế quá, làm lắm điều hà khốc và dùng những thủ đoạn quỷ quyệt giả dối, khiến người ta mất lòng tin cậy. Ðem cái bất công bình nọ mà phá cái bất công bình kia thì dù có thắng lợi đi nữa, cũng không chắc đã vững bền."
Chừng nào cụ Trần Trọng Kim mới được ngươi ta hiểu hết về cái tâm cũng như tài trí của ông đây
Trả lờiXóaNói đúng mà chẳng ai nghe. Giờ vẫn vậy
Trả lờiXóaqwa hay, va qwa qui !! that la mot nguoi 1 long voi dat nuoc !!
Trả lờiXóacai nay su that thi fu fang "Ai cũng nói vì lòng ái-quốc, nhưng cái lòng ái-quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa-vị và quyền-lợi, thành ra tranh dành nhau, nghi-kỵ nhau rồi "
va qwa dung "Công đứng đầu mà tội cũng đứng đầu"
Phải nhân bản để nhân ta rõ sự thật này
Trả lờiXóaĐọc xong thấy cái văn hóa "Được làm vua mà chẳng may thua thì thành ra bù nhìn" nó rõ ràng quá. Cho đến hôm nay XH ta vẫn chưa thoát thai khỏi cái mũ Bình thiên.
Trả lờiXóaMặt khác nó cũng cho thấy nguyên khí quốc gia nó đọng ở cái giai tầng nào.
kể ra thì sách giáo khoa lịch sử viết cụ trần là tay sai cho bọn nhật,được nhật dựng lên làm bù nhìn,ai biết được rằng cụ cũng có tinh thần yêu nước chống thực dân pháp,chỉ là mỗi người mỗi đường,mỗi tư tưởng chính trị khác nhau,không lẽ vì không theo chủ nghĩa cộng sản mà bị chụp mũ là phản động hay sao.cụ nói rất đúng muốn biến ''con chó sói thành con cừu có thể được không''
Trả lờiXóaBức thư cho biết một vài suy nghĩ của cụ Trần Trọng Kim lúc đã thất thế.
Trả lờiXóaSuy cho cùng cụ cũng chỉ là một kẻ sĩ đã chấp nhận thua trận trên trường chính trị, muốn đứng ngoài bàng quang nhưng không tránh khỏi thốt lên "chỉ tiếc..., nếu..."
Nếu ai chưa đọc "Một cơn gió bụi" thì nên tìm đọc cho biết...
Cảm ơn bác Toàn vể bài viết hay này. Có điều này muốn hỏi lại: trong chú thích 5. Bên ấy : Khi Cách mạng tháng 8 nổ ra thì Trần Trọng Kim đang ở Huế. Bảo Đại thoái vị, ông về ở làng Tại Thế gần thôn Vĩ Dạ, đóng cửa đọc sách không ra ngoài.
Trả lờiXóaTôi ở Huế gần khu vưc Vỹ Dạ, nhưng không nhe địa danh TẠI THẾ. Hơn nữa theo tôi cái tên này nghe không được hay lắm. Phải chăng địa danh này là thôn LẠI THẾ, xã PHÚ THƯỢNG huyện PHÚ VANG, TTH.
TÀI LIỆU LỊCH SỬ
Trả lờiXóaCần gì búa lớn đao to
Cần gì hò hét một thời cũng qua
Cần gì sách báo hằng hà
Chỉ cần chút xíu thiết tha tấm lòng
Vẫn là tài liệu hào hùng
Nếu còn để được cho đời mai sau
Hỏi ai trong thế giới này
Không ngờ một chút cỏn con thế kìa
Bảy mươi năm đã qua rồi
Vẫn hoài cứ sáng khác gì vì sao
Nước nhà một thuở lao đao
Một Cơn Gió Bụi lẽ nào ai hay
Tờ thư hoen ố tháng ngày
Còn nguyên gấp xếp vừa đầy bốn trang
Đó là thủ bút rõ ràng
Tấm lòng nhân vật quả càng quý thay
Hoàng Xuân Hãn nhận thư này
Bức thư được viết bởi Trần Trọng Kim
Đều hai nhân vật nổi danh
Của thời biến động rành rành Việt Nam
Trở thành để lại mai sau
Một trang tài liệu khó phai bao giờ
Nước nhà đang lúc vật vờ
Nổi trôi thế sự biết là về đâu
Bên Nhật Pháp thảy biết rồi
Còn bên Quốc Cộng đã thời ra chi
Ai người dấn bước cứu nguy
Ai người dẫn lửa vào dầu cháy thêm
Đúng là thời buổi đã thèm
Ở đâu sự thật hay toàn nói điêu
Dân ngu nào biết gì nhiều
Mới thành cớ sự tiêu điều giang sơn
Khiến cho đất nước vỏ vàng
Làm cho dân tộc điều tàn ai hay
Danh từ như núi chất đầy
Nhưng mà thực chất tấm lòng tìm đâu
Nên chi tài liệu bạc màu
Nhưng toàn lịch sử được hầu khơi lên
Thật là ý nghĩa vang rền
Trở thành bảo vật quốc gia muôn đời
THƯỢNG NGÀN
(21/5/17)
Tư liệu lịch sử quý giá
Trả lờiXóaquý quá
Trả lờiXóaThật đáng tiếc cho đất nước đã mai một một nhân tài ...
Trả lờiXóaCảm ơn bác đã đăng tư liệu này. Sau 8 năm bài đăng, hôm nay tôi tình cờ được biết qua chia sẻ trên trang "Hà Nội tri thức", đọc mà thấy bồi hồi và thêm quí trọng tấm lòng yêu nước của tiền nhân.
Trả lờiXóa