Trang bìa sách: Dương Danh Lập (1839-1903) Cuộc đời và Sự nghiệp. Nxb Văn học. Hà Nội, 2013
Tác giả: Dương Xuân Thự. Hậu duệ cụ Dương Danh Lập
Sách có sự hợp tác của những nhà nghiên cứu Hán Nôm: Cao Việt Anh, Vũ Thị Lan Anh,
Nguyễn Đức Toàn
Tác giả: Dương Xuân Thự. Hậu duệ cụ Dương Danh Lập
Sách có sự hợp tác của những nhà nghiên cứu Hán Nôm: Cao Việt Anh, Vũ Thị Lan Anh,
Nguyễn Đức Toàn
CUỘC ĐỜI DƯƠNG DANH LẬP
Dương Danh Lập (1839 - 1903) tự Học Lễ, hiệu Khắc Trai, biệt hiệu Sơn Nông, sinh trưởng trong một gia đình nho học,
ở xã Khắc Niệm, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Là con Hàn lâm Thị độc học sĩ Dương
Danh Tư(1811 - 1871), tự Phúc Nghị và Tứ phẩm cung nhân Nguyễn Thị Cư, cháu nội của Dương Chức (1770 - 1828), tự Phúc Chí,
đỗ Cử nhân đời Gia Long, đã làm Tri huyện qua các huyện
Phù Ninh, Thanh Miện, Đông Triều, Thanh Trì, Thanh Oai.Thừa hưởng truyền
thống gia đình, ngay từ
nhỏ Dương Danh Lập chăm
chỉ học hành, từng
theo học ở nhà
người bác ruột, sau này
là Tiến sĩ Đốc học
Dương Danh Thành,
tự Tỉnh Hiên. Lớn lên được ra tỉnh theo học Tiến sĩ Vũ Tông Phan, lại
là bạn học với những người bạn sau này thành danh như Tiến sĩ họ Phan ở xã Trang Liệt,
Tiến sĩ họ Nguyễn ở xã Trung Hà (Sơn Tây), Cử nhân họ Ngô ở xã Trảo Nha (Hà Tĩnh). Ngày đi học có tiếng là mạnh bạo và có tài (trì danh nghệ uyển).
Năm Tự Đức 14 Dương Danh Lập
đỗ Tú tài khoa Tân Dậu (1861) tại trường Hà Nội. Năm 1864 khoa thi Hương năm Giáp Tý, Dương Danh Lập đỗ Cử nhân,
có nhiều người
bạn đồng khoa, sau này hay trao
đổi cùng nhau: Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Đỗ Trọng Vĩ,
Bùi Dị... Ngay
năm sau, Ất Sửu, đời Tự Đức 18 (1865)
ông đỗ Phó bảng,
xếp thứ ba trong
số 13 Phó bảng của khoa ấy.
SỰ NGHIỆP
Đầu năm Bính Dần (1866)
Dương Danh Lập được nhận hàm danh dự Hàn lâm viện kiểm thảo, rồi gọi vào làm việc tu thư ở Văn phòng Nội
các, một công việc có thể coi là bước tập sự, trước khi chuyển vào quan trường dưới triều Nguyễn. Tháng 1 năm
sau (1867) được
thăng hàm Đồng
Tri phủ (chánh lục phẩm),
lãnh Tri huyện
huyện Tiền Hải
thuộc phủ Kiến Xương, trấn Nam Định.
Tháng 5 năm
1868 thăng quyền Tri phủ phủ Kiến Xương, tháng 12 chuyển sang phủ Thái Bình, trấn Nam
Định. Chỉ hơn một năm sau, năng lực quản lý của ông đã được cấp trên tín nhiệm và để lại ấn tượng tốt trong nhân
dân. Cho nên năm 1869 Bộ Lại cử ông đi làm Tri phủ Trường Định (Lạng Sơn). Một thời gian sau ông bị bệnh phải về nghỉ ở nhà. Trở lại làm việc tháng 3 năm Tân Mùi (1871), ông được gọi vào Huế nhậm chức Viên ngoại lang (tòng ngũ phẩm) ở Bắc Hiến ty Bộ Hình (trông coi án từmiền Bắc), sau lại chuyển lãnh chức Cấp sự trung (chánh ngũ phẩm)
ở Bộ Binh. Với chức đó ông được khâm phái đi kiểm tra
thuyền vận tải ở Thanh Hóa, Nghệ An, Công việc thanh tra vừa hoàn thành thì được báo tin người cha là Dương Danh Tư qua đời vào ngày 1
tháng 10 năm Tân Mùi (1871) ở quê nhà. Em trai là Dương Danh Dự
đã có đơn xin phép và Bộ Lại
trình lên Hoàng Thượng châu phê vào ngày 19 tháng 10 năm Tự Đức 24 (1-12-1871) cho Danh Lập nghỉ theo lệ chịu tang 12 tháng Sang năm Quí Dậu (1873) có nhiều toán giặc quấy nhiễu, giặc nước Thanh Bạch QuếDương ởvùng Sơn Tây, giặc Hoàng Anh ởHưng Hóa, bọn tựxưng
là Đạo tướng quân ởvùng Từ Sơn (Bắc Ninh)... Mặt khác sau khi bốn tỉnh lần lượt bị thực
dân Pháp đánh chiếm
(Hưng Yên, Hải
Dương, Ninh Bình , Nam Định), Vua Tự Đức đã sắc bảo "...thông sức cho các quan
tỉnh ở Bắc Kỳ, tỉnh nào hiện còn thì
đều nên đánh giữ, cần được vững bền, chớ dẫm phải lỗi nặng, tỉnh nào đã mất thì phải mưu tính lấy lại để bù
tội lỗi. Trong tình hình ấy, Dương Danh Lập được bổ nhiệm Trợ biện Bắc thứ quân vụ kiêm lãnh Tri phủ Từ Sơn (Phủ Từ Sơn khi ấy có
năm huyện: Đông
Ngàn, Quế Dương, Tiên
Du, Võ Giàng và Yên Phong). Tình hình phủ Từ Sơn bấy giờ giữ được ổn định. Dương Danh Lập được
thưởng Kỷ lục quân công. Hoàn thành công việc, ông được
gọi về Huế tháng 3 năm 1874, thăng Viên ngoại lang lĩnh Hộ bộ Tào chính ty Lang trung. Được một năm sau, ngày
11 tháng 4
năm 1875 (6
tháng 3 năm Ất Hợi), niên hiệu Tự Đức 28, được thăng
thụ Hàn lâm viện
Thị độc (tòng tứ phẩm) lãnh Quản đạo Hà Tĩnh. Năm Bính Tý (1876) đạo Hà Tĩnh chuyển thành tỉnh Hà Tĩnh,
Dương Danh Lập được thăng thự Án sát sứ Hà Tĩnh, Trở lại năm 1876 Dương Danh Lập bị khiển trách về việc năm ấy tỉnh Hà Tĩnh ít mưa, BộLễ đã trình lên vua Tự Đức cho rằng quan tỉnh là Đoàn văn Bình và Dương Danh Lập đã không vì dân lập tức đích thân tổ chức cầu đảo ngay mà để chậm, sau mới làm, là sai lệ. Chỉ của nhà Vua đã khiển trách hai ông.
Lại một việc khác xảy ra vào năm Tự Đức 29 (1876): một thuyền vận tải gạo của chủthuyền gặp gió bão đánh chìm, dân sở tại kéo nhau đến lấy gạo. Tỉnh
thần là Đoàn
Văn Bình và Dương Danh Lập đã xét xử, nhưng điều tra thiếu chu đáo và xét xử không hợp lý. Đơn kiện đưa lên, đến năm Tự Đức 31 (1878)
phải tổ chức điều tra lại
và xét xử thỏa đáng hơn. Tuy vậy hai ông vẫn bị giáng một cấp lưu nhiệm.
Một việc nữa: Vào tháng 11 năm Tự Đức 31 (1878)
ở hai thôn Bình Ngô và Ngọc Đới
thuộc phủ Thiệu Hóa (Thanh Hóa) có xảy ra hỏa hoạn. Các quan chức từ xã đến huyện, tỉnh đều bị phạt, trong số đó Dương Danh Lập là cấp tỉnh (tỉnh thần) bị phạt cắt 3 tháng
tiền lương với
lý do không
nghiêm sức tổ chức phòng bị.
Năm Kỷ Mão (1879) mẹ ông bị
ốm, rồi sau đó qua đời, ông phải vềphép chịu tang. Đầu năm Giáp Thân, niên hiệu Kiến Phúc (1884) ông được phái tạm quyền Tổng đốc
tỉnh Bắc Ninh, đến tháng 3 ông lãnh chức quyền Tuần phủ tỉnh Thái Nguyên. Cuối năm ông cáo bệnh về hưu. Được thăng hàm
Quang lộc tự khanh (tòng tam phẩm). Hiện dạy học tại phố tỉnh Hà Nội, học trò theo học rất đông". Trong thời gian dạy học, ông
có điều kiện giao du với bạn bè người thân.
Tình thế nước ta lúc này diễn biến phức tạp. Thực dân Pháp mở rộng đánh chiếm các
tỉnh Bắc Kỳ, Triều đình bất lực trước sự tồn vong của Tổ
quốc, phong trào
kháng chiến trong
nhân dân nổi lên khắp nơi. Lã
Xuân Oai bạn ông bị đầy ra Côn Đảo năm
1890 và sau mất tại đó (Lã
Xuân Oai là bạn, đỗ Phó bảng xếp thứ2 trên
Dương Danh Lập xếp thứ3 cùng khoa thi Ất Sửu).
Năm 1891 ông bị nghi
là hoạt động
chống đối ngầm, ông bị bắt giam ở nhà
tù quân sự. Ông làm bài thơ "Con Cóc" để tỏ lòng hoài cảm:
“Ngót sáu mươi năm đội lốt người
Làm quan hóa cóc cũng nực cười
Mới đây trên ghế che màn gấm
Nay đã trong hang mặc áo sồi...”
Không nhớ đầy đủ bài thơ(8 câu) nhưng chỉ 4 câu thôi đã thấy nỗi niềm tâm sựcủa ông, ông nực cười không phải vì bản thân ông, mà nực cười ở"vị thế"
ngồi "trên ghế che màn gấm", đại diện cho Triều đình, nhưng lại là một Triều đình hèn yếu,
và ông đã phải
vào "hang". Đó
là một nhà
giam quân sự, dưới
quyền của quân đội Pháp
ở Đông Dương. Một hồ sơ khác cho biết rõ hơn là ông bị giam vào tháng
4 năm Thành Thái 3 (1891). Với chế độ tù nhân bản xứ (giao cho cai thầu nấu
cơm tù thực hiện): ăn gạo loại 3, khẩu phần mỗi ngày là 40gr
cá khô và
40gr rau chín. Tiếp theo, hồ sơ cá nhân của ông có ghi ông được ra khỏi trại giam, nhưng phải chuyển về tỉnh Bắc Ninh giao cho chính quyền địa phương quản
thúc (il fut renvoyé à Bắc Ninh sous la surveillance des autorités provinciales).
Ra khỏi nhà tù, ông lại mở trường dạy học, gọi là trường Dương Lập ở phố Hà (Hà Nội) và ở làng Khắc Niệm, quê hương ông. Số học trò của ông đến
hơn nghìn người, thành đạt hơn cả có hai
Tiến sĩ, một Phó bảng, ba mươi Cử nhân, bảy mươi Tú tài. Được biết có hai Tiến sĩ vẫn được các hậu
duệ nhắc đến với tấm lòng kính trọng và cảm phục là cụ nghè Xổ và nghè Bân, cùng đỗ đệ Tam
giáp
đồng Tiến sĩ xuất
thân khoa Tân Sửu (1901)
đời Thành Thái.
Thế nhưng chưa xong, năm Bính Thân (tháng 7 năm 1896) Nha Kinh lược Bắc Kỳ lại chỉ
định ông ra lãnh chức Đốc học tỉnh Hà Nội, thay cho Đốc
học Vũ Phạm Hàm chuyển làm Án sát tỉnh Hưng
Hóa. Ông nhận làm một học
quan, một công việc lúc này phù hợp với ông hơn cả. Nha Kinh lược Bắc Kỳ do vua
Đồng Khánh ra Chỉ dụ thành lập, là cơ quan hành pháp cao nhất của nhà nước phong kiến ở Bắc Kỳ, thay mặt
Vua điều hành
và giải quyết
mọi công việc,
hoạt động trong các năm từ6/1886 đến 7/1897 thì có Dụ giải thể.
Một việc mới đặt ra của địa phương là phải thực hiện việc chuyển tổng Khắc
Niệm thuộc huyện
Tiên Du sáp nhập vào huyện Võ Giàng (huyện Võ Giàng có 6 tổng trong khi huyện Tiên Du có 9 tổng). Riêng tổng Khắc Niệm có 8 xã: Khắc Niệm hạ, Khắc Niệm thượng, Hiên Ngang, Bồ Sơn, Xuân Ổ, Dương Ổ, Vân Khám, Lại Đình. Ông đã họp bàn với
nhân dân 8 xã cùng nhau góp tiền xây dựng một nhà Văn chỉcủa tổng đặt tại vùng núi Niệm Thượng. Từ đó việc tế tự nơi
Văn chỉ được bắt đầu có nề nếp. Tiếc rằng sau hai cuộc kháng chiến, Văn chỉ đã không còn nữa.
Năm Kỷ Hợi (1899) người vợ của ông lâm bệnh và qua đời, ông viết bài điếu tiếc thương vô hạn, nhất là ông đang có dự định làm xong ngôi
nhà ở Long Biên để
cùng Bà
chung sống trong những ngày cuối đời,
không làm quan nữa.
Năm 1902 ông lại được
thăng Tham tri Bộ
Lễ (tòng nhị phẩm) sau 37 năm ở trong quan trường với các nhận xét:
“... là người xuất thân từ tỉnh nhỏ, nhưng ở thành phốHà Nội, dù tuổi đã cao vẫn rất tích cực chăm lo việc giảng dạy tại các trường của thành phố một cách vô tư(désintéressé)... Ông chứng tỏ là
một người có tư cách đứng đắn nghiêm chỉnh, và có tri thức rất uyên bác (homme correct et très lettré)”.
Bản thảo của
Nguyễn Hải Nguyên
cho biết đầu
năm Quí Mão (1903) ông còn là hội viên Hội đồng Tòa án Bắc Kỳ(cải sung Bắc Kỳ án tòa Hội đồng
hội viên). Tuy nhiên thời gian quá ngắn, chỉ từmùa xuân sang
đầu mùa hạ, trời chẳng chiều lòng người, ngày 22
tháng 4 ông
lâm bệnh và mất tại
nơi ở, chiểu
theo quan chếcáo nhận danh hiệu Gia Nghị đại phu, thụy là Ôn Mục.
Ngày mai táng
ông là 13
tháng 5 năm
Quý Mão (tức ngày 8 tháng 6 năm 1903). Tang lễ được tổ chức trọng thể sau nhiều ngày quàn ở nhà để các môn sinh có thể về đông đủ tiễn đưa Thầy.
Có thể nói hơn hết ông đã
là một người Thầy đáng trọng.
Đạo lý thánh hiền đã chỉra
“kinh sư dị đắc, nhân sư nan tầm” (Thầy dạy chữ dễcó, Thầy dạy làm người khó tìm). Các môn sinh đã tặng bức hoành
phi sơn son thếp vàng
có bốn chữ
“Kinh sư, nhân sư” để ở từ đường thờ Thầy. Hai bên có đôi câu đối “Trâm hốt gia thanh
cựu; Thi thư thế trạch
trường” (Tiếng nhà làm quan có từ xưa, Văn chương
đèn sách còn truyền lâu dài). Tiếc rằng sau những biến cố của lịch sử, từ đường bị phá hoại, nay chỉ còn lại những chữ trên ở phần mộ của Thầy.
Dương Xuân Thự (nguồn qua E-mail)
Chân dung Dương Danh Lập
Sách về cơ bản đã nêu rõ được Nhân cách, Cuộc đời của nhà Khoa bảng Dương Danh Lập trong giai đoạn đất nước đổi thay. Tuy nhiên về phần sáng tác, nhất là phần thơ, câu đối được nêu trong sách có nhiều điểm dịch thuật sai lầm cơ bản. Đây là điều không thể tránh khỏi với những văn bản dịch không có đối chiếu Hán Văn và không có sự kiểm tra hiệu đính, góp ý của những người hiểu biết về Hán Nôm.
Xin kính lỗi với bạn đọc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét