Nguyên văn chữ
Hán:
恭步春日偶作原韻
世事經過出念奇,
那堪蹠是與尭非.
黃梁做夢能深醒,
白髮何人可百為.
南北混行原有術,
薰蕕辬駁笑無知.
從今拋卻鳩形杖,
勞動榮光耄耋期.
己亥年三月十七晚五點敬上裴大人閣下俯鑑
賤僕璧園濫步
范武閥拜
Phiên âm:
Cung bộ Xuân nhật
ngẫu tác nguyên vận
Thế sự kinh qua xuất niệm kỳ
,
Na kham Chích thị dữ Nghiêu phi
.
Hoàng lương tố mộng năng thâm
tỉnh ,
Bạch phát hà nhân khả bách vi.
Huân do biện bác tiếu vô tri
.
Tòng kim phao khước cưu hình
trượng ,
Lao động vinh quang mạo điệt
kỳ .
Kỉ hợi niên tam nguyệt thập
thất vãn ngũ điểm
Kính thượng Bùi đại nhân các
hạ phủ giám
Tiện bộc Bích Viên lạm bộ
Phạm Vũ Phiệt bái
Đây là bài thơ cụ Phạm Vũ Nhạc
họa lại bài Xuân nhật ngẫu tác của
Bùi Đại nhân (tức cụ Bùi Bằng Phấn[1])
Dịch nghĩa:
Tiêu đề:
Cung kính theo nguyên vận bài Xuân nhật ngẫu tác
Thế sự trải qua bao phen, ngẫm
thấy nhiều sự kỳ lạ quá,
Giấc mộng Hoàng lương[4]
đang đắm sâu có thể tỉnh ra không,
Người đầu bạc xưa nay ai mà dễ
có được trăm năm.
Đạo đời Nam Bắc hỗn độn hàng lối,
nguyên đã thuật sẵn, [5]
Tuổi già được lao động cho khỏe
mạnh mới thực là giai đoạn vinh quang.
Năm giờ, tối ngày 17 tháng 3
năm Kỉ hợi (1899)
Kính dâng lên Bùi đại nhân các hạ chiếu giám
Kẻ hèn là Bích Viên[8],
trộm lạm bàn nối vần
Phạm Vũ Phiệt cúi chép.[9]
Dịch thơ:
Thế sự bao phen, ngẫm lạ kỳ,
Đạo Chích là phải, đạo Nghiêu suy.
Giấc mộng Hoàng lương có tỉnh được,
Đầu bạc trăm năm dễ mấy khi.
Bắc Nam
hỗn độn, mưu rắp sẵn,
Thanh trọc khôn phân, chẳng biết gì.
Tuổi già chống gậy thôi vứt nhỉ,
Lao động vinh quang quên già đi.
Năm giờ, tối ngày 17 tháng 3
năm Kỉ hợi (1899)
Kính dâng lên Bùi đại nhân các hạ chiếu giám
Kẻ hèn là Bích Viên, trộm lạm
bàn nối vần
Phạm Vũ Phiệt cúi chép.
Dịch một vần Lục Bát cho vui
Trải bao truyện thế lạ kỳ,
Đạo Chích là thịnh, suy thì đạo Nghiêu.
Hoàng lương đắm mộng còn nhiều,
Trăm năm đầu bạc bấy nhiêu con người.
Bắc Nam
hỗn loạn những ai,
Khôn phân trong đục, tự cười bản thân.
Tuổi già bỏ gậy luyện
chân,
Quên già lao động thêm phần vinh quang.
[1] Theo lời kể của Bác Phạm Vũ Úy cháu đích tôn dòng Phạm
Vũ.
[2] Đạo Chích: Nhân vật thời Xuân Thu, là tên trộm cướp
khét tiếng, dẫn đầu lâu la đến hơn nghìn tên. Người đời sau dùng tên của y để
chỉ bọn đạo tặc, kẻ bất lương vô đạo.
[3] Nghiêu: vua hiền đời thượng cổ. Được coi là người có
đạo đức, chăn nuôi muôn dân. Người đời sau dùng tên vua Nghiêu với tên vua Thuấn
để chỉ những người có đạo đức phẩm hạnh, làm lãnh đạo muôn dân. Còn có ý chỉ đời
thái bình thịnh trị, người quân tử được nắm quyền chính trị, thi hành sự giáo
hóa, luân lý.
[4] Hoàng lương mộng: Giấc mộng hoàng lương. Nguyên xưa các
cụ dịch là giấc mộng Kê Vàng. Người nọ nấu một nồi kê, đang lúc nấu, nằm ngủ
quên. Trong mơ, thấý mình đỗ đạt phú quý danh vọng tột bậc, sau rồi bị sa sút,
bị kẻ gian hãm hại mất hết cả của cải, chức quyền, phải tội chờ chém. Bỗng sực
tỉnh mộng, dậy thấy nồi kê còn chưa chín. Về sau dùng Điển tích này để ví sự đời
phù hoa như một giấc mộng tàn ngắn ngủi mà thôi.
[5] Thời kỳ hỗn loạn, suy thoái đạo đức, nam bắc khó
phân. Kẻ lừa đảo, xảo trá đã rắp mưu thuật từ trước.
[6] Như mùi hương thơm thanh quý với mùi hôi hám rác rưởi
bị lẫn lộn. Trong quá trình phân biệt giữa trong và đục, tác giả tự cười mình
là đã có lúc ngây thơ, vô tri, không biết gì cả.
[7] Gậy hình chim Cưu: nguyên ngày xưa người già được chống
gậy, trên gậy thường vẽ hình con chim cưu để trang trí. Về sau dùng từ Cưu Trượng
để ví chỉ người cao niên. Câu thơ tỏ ý, rằng tuổi cao mà vẫn còn sức khỏe để
làm việc mới thực là giai đoạn vinh quang nhất đời.
[8] Bích Viên: tên hiệu của cụ Phạm Vũ Nhạc (theo lời kể
của bác Phạm Vũ Úy, con cháu trong họ Phạm Vũ). Cụ Nhạc khiêm tốn trước ông họ
Bùi mà tự nhận mình là kẻ hèn, dám lạm bàn nối vần của cụ Bùi. Thực ra là tỏ
tình thân thiết giữa hai cụ.
[9] Phạm Vũ Phiệt là con cụ Phạm Vũ Nhạc (Theo lời Bác Phạm
Vũ Úy)
Minh Khai ngày 09/12/2011
Thân gửi anh Nguyễn Đức Toàn,
Rất cám ơn anh về bản dịch
bài thơ của cụ nội tôi mà anh đã thực hiện rất nhanh với nội dung vượt qua mong
đợi của tôi. Hai bài dịch của anh bác rất thích, và gia đình bác chắc nhiều
người cũng sẽ rất thích đấy. Cám ơn anh nhiều.
Về bài dịch, tôi muốn trao
đổi với anh một số ý kiến như sau:
1) Để tiện cho
việc trao đổi ý kiến với anh, trước hết tôi xin được nêu lên những dữ kiện liên
quan như sau:
Cụ
nội tôi là PV.Nhạc (1866-1917), hiệu là Hy Hải, Mộng Hải hoặc Mộng Tử. Cụ giao
du nhiều với cụ Tú Bùi Bằng Phấn (1882-1949) và cụ Nghè Bùi Bằng Thuận (1883-1947).
Ông
nội tôi là Bích Viên Phạm Vũ Phiệt (1893-1973). Hai em của ông nội tôi là ông
hai Khuê Viên PV.Thiềm và ông ba Thư Viên PV.Vu đều lấy vợ người họ Bùi ở Liên
Bạt. Ông nội tôi cũng quan hệ thông gia với cụ Bùi Bằng Đòan (1889-1955) bởi chú
tôi (là em sau bố tôi) lấy con cụ BB.Đoàn.
Bài
thơ đề năm Kỷ Tị, thì chỉ có năm 1899
là phù hợp với sinh thời của ba anh em cụ họ Bùi (1882-1955) mà thôi
...
3) Về tác giả của bài thơ làm năm 1899 thì chỉ có thể
là cụ PV.Nhạc chứ không thể là của cụ Bích Viên PV.Phiệt (lúc này mới 6 tuổi).
Tuy nhiên, cụ Nhạc lúc này cũng chỉ mới 33 tuổi, mà ta biết rằng cụ còn tham
gia hoạt đông yêu nước tới năm 1908, sau khi tiễn đưa cụ Nguyễn Thượng Hiền
xuất dương (tức là 9 năm sau bài thơ) thì cụ mới trở về quê nhà, an phận với
nghề làm thuốc và dạy học. Hay phải chăng cụ đã bi quan sớm, nghĩ mình đã về
già và an phận chọn nghề thầy lang ở hiệu thuốc Nam Thọ từ hồi năm 1899 này ? Kể
từ năm 1899 làm bài thơ này, cho đến năm quy tiên, cụ PV.Nhạc sống thêm được 18
năm.
4) Tôi còn thấy rằng hai chữ “lạm bộ” trong phần lạc
khỏan đã bị xóa đi để dòng này được chữa thành “Tiện bộc Bích Viên Phạm Vũ Phiệt
bái”. Như vậy, có thể là cụ Phiệt chỉ chép lại bài thơ nguyên vận của bố mình (cụ
Nhạc) đến dòng thứ 7 (Kỷ Hợi niên tam nguyệt . . . . . . kính” là kết thúc. Còn
câu “Thượng Bùi đại nhân các hạ phủ giám” là diễn lời cụ Phiệt gửi tới cụ
BB.Phấn chăng ?
Nếu vậy thì vấn đề ở đây chỉ là do ông nội tôi đã
không ghi tên tác giả bài thơ vào trước chữ “kính” ở cuối lạc khỏan của bài thơ
mà thôi. Song điều này cũng không thành vấn đề nếu việc sao chép bài thơ này là
do cính cụ BB.Phấn yêu cầu.
Tôi
được biết câu chuyện năm 1902 khi cụ Tuần phủ Vũ Nghĩa Quỳ người cùng làng Đôn
Thư nhờ cụ Phạm Hy Hải đến làng Bặt (Liên Bạt) thưa giúp việc xin với hai cụ BB.Phấn
và BB.Thuận (lúc này cụ thân sinh của hai cụ họ Bùi đã qua đời), gả em gái lớn
là cụ Thái Hồng Bùi Thị Lộc (1885-1940) về làm dâu họ Vũ lấy con trai thứ ba cụ
Tuần Vũ là cụ Cương Long Vũ Hạ Trúc (1886-1939). Việc giao dịch này đạt kết quả
cho thấy mối thân tình của cụ Hy Hải PV.Nhạc với họ Bùi làng Bặt đã được người
làng biết cả.
Ngoài
ra, sự việc ông nội tôi gửi bài viết “Mông tử truyền gia” lên cụ BB.Phấn đọc xem
và được cụ Phấn nhận xét là có thể gọi bài viết này là “Minh đức kinh” cũng cho
thấy cụ Phấn (kém cụ Nhạc 16 tuổi) kính nể cụ Hy Hải PV.Nhạc vậy.
...
...
Thân
ái,
Phạm Vũ Úy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét