Hồi mới vào cq, đi làm di tích cùng chú Chiêu Nhuận, sưu tầm nơi di tích có cái bia hình nữ Oa đội mặt trời rất hay, bia đục rõ cả cái kẽ "ấy". Trong làng vẫn còn cụ bô lão kể, ngày xưa cụ còn bé ra chùa chơi bi, nghịch lấy bi lăn vào cái chỗ "ấy" của bà trên bia. Bia ấy giờ đã mất, chỉ còn thác bản trên kho Hán Nôm. Đem Thần tích đức Thánh ra diễn dịch lại. Viết thành bài cùng với ông Xã Đỗ. Lâu nay vẫn vậy không sửa gì thế mà có web cũng up rồi.
Di tích lịch sử văn hoá Chùa Ông
Nguồn gốc
và sự tích:
Chùa Ông còn có
tên chữ Hán là Bản Tịch tự, ngôi chùa nằm trên địa bàn thôn Bình Lương, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm, tỉnh
Hưng Yên. Đây là một ngôi chuà cổ được xây dựng vào khoảng thế kỷ XII-XIII, phụng
thờ Hoàng đế thứ 5 nhà Lý là Lý Thần Tông và
Thiền sư Từ Đạo Hạnh.
Theo văn bia
của chùa còn ghi lại1 thì chùa
được sáng lập dưới thời vua Lý Thần Tông (1128-1138). Văn bia mang ký hiệu
5527-5528: Bản Tịch tự bi minh - Chính Hoà 20 (1699) ghi lại cả ý nghĩa việc
đặt tên chùa là chùa Bản Tịch:
Chùa ấy
vốn là danh lam cổ tích xưa, được gây dựng từ vua Lý Thần Tông, hoàng đế thứ 5
triều Lý. Bên trong phụng thờ Đại Thánh Từ Đạo Hạnh Tôn Giả, phật nhật hào
quang, pháp luân chuyển mãi, (Đại Thánh) bản tính tịch nhiên không hề lay động,
thế nhân lấy mà đặt cho tên chùa (là Bản Tịch)
Tên Nôm gọi là
Chùa Ông có lẽ do nhân dân ta vẫn thường tôn xưng đức thánh Từ Đạo Hạnh là Ông
Thánh Láng2 nên gọi tên chùa là như vậy. Thác bản
ký hiệu 5529 - 5530: Bản Tịch tự phúc điền bi - Thịnh Đức 5 (1657) còn ghi :
Di tích
cũ ở thôn Lương Xá, xã Đình Loan, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An có chùa phật, là
nơi Đại Thánh Từ Đạo Hạnh Tôn Giả từng tu hành. Chùa do vua thứ 5 triều là Lý
Thần Tông sáng lập.
Qua khảo sát về
diên cách địa lý hành chính qua các đời thì Chùa Ông dưới thời Lê là nằm chủ
yếu trên địa phận hai thôn Bình Lương, Lương Xá, xã Đình Loan, huyện Gia Lâm,
phủ Thuận An thuộc xứ Kinh Bắc3. Đời nhà
Mạc thì lấy Thuận An đổi lệ vào trấn Hải Dương. Đến khi nhà Lê trung hưng thì
lại cho về như cũ. Năm Minh Mạng thứ 13(1832) đổi thành tỉnh Bắc Ninh4. Về cuối đời Nguyễn mới gọi là huyện
Văn Lâm thuộc tỉnh Hưng Yên.
Cũng giống như
những nơi khác thờ phụng Thiền sư Từ Đạo Hạnh, như chùa Chiêu Thiền (Chùa
Láng), chùa Thiên Phúc (chùa Thầy) ngoài tượng đức thánh Từ Đạo Hạnh ra đều có thờ tượng của vua Lý Thần Tông, nhân
dân thôn Bình Lương -Lương Xá coi chùa Bản Tịch (chùa Ông) cũng thờ cả Lý Thần
Tông, vì theo huyền thoại thì vua Thần Tông chính là hoá thân của Từ Đạo Hạnh.
Hiện trong hậu cung phía bên hữu, chùa còn giữ được một bức tượng bằng đồng
hình một vị sư, mặc áo tu hành đang ngồi thiền. Gian bên ngoài, phía hữu có một
bài vị đề là:
Lý Thần Tông Đệ Ngũ Hoàng Đế
Đại Thánh Từ
Đạo Hạnh Tôn Giả
Từ Đạo Hạnh là
“một trong ba vị thánh được thờ rất phổ biến và nổi tiếng dưới triều Lý”1 (Không Lộ, Giác Hải, Từ Đạo Hạnh). Sự
tích về tài phép thần thông cùng việc
đầu thai, hoán kiếp thành vua Lý Thần Tông của Từ Đạo Hành được ghi lại đầy đủ
trong các sách Hán Nôm như:
-Lĩnh Nam
Chích Quái,
-Việt Điện U
Linh,
-Thiền Uyển
Tập Anh,
-Đại Việt Sử
Lược,
-An Nam Chí
Lược,
-An Nam Chí
Nguyên,
-Việt sử
Tiêu án,
-Đại Việt sử
Ký Toàn Thư,
-Đại Nam
Nhất Thống Chí,
Và bản Thần
tích: -Hưng Yên tỉnh Văn Lâm huyện Nghĩa Trai tổng Đình Loan xã Bình Lương
thôn thần tích2.
Ngoài ra, sự
tích về việc tu hành của Từ Đạo Hạnh còn luôn gắn liền với các huyền thoại của
hai Thiền sư Minh Không và Giác Hải trong các tập Thần tích khác như:
- Đại Thánh
Không lộ linh thông ngọc phật,4
Từ những tư
liệu trên, chúng tôi xin tóm tắt sự tích về ngài:
Thiền sư họ Từ huý là Lộ trú quán ở làng Yên Lãng
(tức làng Láng), cha là Từ Vinh, giữ chức Tăng quan đô sát, mẹ là Tăng Thị
Loan. Từ Lộ ngày thường thì chơi bời đàn hát, đánh đáo chọi gà, đến đêm khuya
thì mới chăm chỉ đọc sách, cha không biết tưởng Từ Lộ là người lêu lổng. Đến
một tối, đi ngang qua phòng sách của con mới hay Lộ là người có chí, từ đó
không còn lo lắng gì về con nữa.
Tương truyền Từ
Vinh có hiềm khích với Diên Thành hầu, nhà Diên Thành hầu có người pháp sư tên
hiệu là Đại Điên. Hầu nhờ Đại Điên dùng phép thuật đánh chết Từ Vinh, quẳng
thây suống sông Tô Lịch. Xác Từ Vinh trôi đến cầu Quyết, trước nhà Diên Thành
hầu thì dựng đứng lên chỉ tay vào nhà kẻ thù. Diên Thành hầu sợ hãi, lại nhờ
Pháp sư Đại Điên đến làm phép niệm chú, cái thây mới chịu trôi đi. Đạo Hạnh căm
giận muốn trả thù cho cha, nhưng khi cầm gậy đến định đánh Đại Điên thì nghe
trên không trung có tiếng quát : “Chớ ! Chớ !”, Đạo Hạnh biết Đại Điên phép
thuật còn cao hơn mình, bèn quyết chí tìm đường sang Tây Trúc học đạo, sau đó
trở về tu luyện phép thuật. Khi phép thuật đã tinh thông có thể khiến cả Tứ
trấn thiên vương sai xuống làm đệ tử để hầu hạ. Đạo Hạnh thử phép thuật bằng
cách ra sông Quyết, thả cây gậy xuống, chiếc gậy tự trôi ngược đến tận Tây
Dương (tức Cầu Giấy). Ngài bèn thu gậy về, biết phép mình đã cao hơn phép của
Đại Điên, liền tìm Đại Điên để trả thù. Đại Điên thấy Đạo Hạnh đến liền nói:
“Mày không nhớ
chuyện khi trước sao ?”
Đạo Hạnh ngẩng lên trời thấy không có tiếng quát như
lần trước, liền dùng pháp trượng đánh. Đại Điên liền phát bệnh chết.
Sau khi trả
được thù cha, dứt luyến hồng trần, Đạo Hạnh liền bỏ đi vân du các nơi. Thấy
phong cảnh chùa Phật Tích (tức chùa Thầy ngày nay) núi Sài Sơn thanh u tĩnh
mịch, liền đến dựng am để tu hành.
Lúc bấy giờ là
vào thời vua Lý Nhân Tông, nhà vua ở ngôi đã lâu mà không có con để kế ngôi,
nhà vua nhiều lần lập đàn tràng1 cầu
trời phật phù hộ nhưng chưa được, ý cũng muốn nhận con nuôi để cho có người nối
dõi. Tương truyền linh hồn Đại Điên còn chưa tan, nên hoá phép biến thành đứa
bé 3 tuổi ở bờ biển xứ Thanh, thông minh xuất chúng cái gì cũng biết, tự nhận
tên là Giác Hoàng, con đích của nhà vua, phàm vua làm điều gì đứa trẻ ấy cũng
biết. Tiếng đồn đến kinh đô, nhiều người cho rằng đứa bé là do thần nhân đầu
thai để kế thừa ngôi vị ứng điềm cầu con của nhà vua. Vua bèn sai người đón đứa
bé về cung ý cũng định lập làm người kế tự. Các quan hết sức can ngăn, có người
nói nếu đứa bé ấy quả thực linh dị tất thác sinh vào nội cung rồi sau mới lập
làm Thái tử được. Vua nghe theo, cho mở hội lớn bảy ngày bảy đêm để làm phép
thác thai.
Đạo Hạnh nghe
chuyện nghĩ: “Kẻ này dùng phép yêu dị để mê hoặc mọi người, rối loạn chính
pháp, ta nỡ nào ngồi nhìn”. Đạo Hạnh liền kết một xâu chuỗi, làm phép rồi nhờ
người chị gái giả làm người đi xem hội, lén đem chuỗi hạt treo lên dèm cửa. Đến
ngày thứ 3 thì Giác Hoàng kêu đau, bảo mọi người:
“Ta đi khắp
Hoàng thành đâu cũng có lưới sắt bủa vây, muốn thác sinh cũng không biết làm
cách nào”.
Vua sai người
điều tra thì phát hiện ra chuỗi hạt của Đạo Hạnh, liền sai quân đi bắt, trói
dưới lầu Hưng Thánh để định tội.
Lúc ấy có em
trai vua là Sùng Hiền hầu đi qua, Đạo Hạnh liền giãi bày sự tình nhờ Hầu xin
giúp cho, sau này sẽ đầu thai để đáp tạ ơn đức (Sùng Hiền hầu cũng chưa có con
trai), Hầu nhận lời. Khi vào chầu Sùng Hiền hầu tâu:
“Giác Hoàng nếu
quả thật có thần lực thì dù trăm Từ Lộ làm bùa phép cũng không hại được. Đằng
này lại bị lưới phép của Từ Lộ phá, chứng tỏ Từ Lộ phép cao hơn Giác Hoàng, xin
bệ hạ tha cho Từ Lộ và để cho Từ Lộ được thác sinh”.
Vua nghe theo
lời tâu của Sùng Hiền hầu mà tha cho. Đạo Hạnh liền đến phủ của Sùng Hiền hầu,
đi vào chỗ phu nhân nằm. Lại dặn Hầu rằng:
“Khi nào phu
nhân sắp sinh thì cho người báo cho bần tăng biết trước”.
Từ đó phu nhân
cảm thấy mình có thai. Đến ngày sinh, phu nhân đẻ khó, mãi không ra. Sùng Hiền
Hầu nhớ ra lời Ngài dặn, sai người phi ngựa đến Sài Sơn báo tin. Đạo Hạnh liền
tắm gội sạch sẽ, dặn dò lại đệ tử rằng:
“Nghiệp
duyên của ta chưa dứt, nên phải thác sinh làm vua ở cõi nhân gian. Sau này thọ
chung sẽ làm thiên tử ở cõi trời thứ 33. Nếu thấy chân thân ta hư nát thì lúc
ấy ta mới nhập Niết bàn, không còn trong vòng sinh diệt nữa”1.
Nói xong liền
đi vào hang mà hoá2. Phu
nhân của Sùng hiền Hầu liền sinh con trai, đặt tên là Lý Dương Hoán.
Dương Hoán mới
lên hai tuổi mà khôi ngô đĩnh ngộ lạ thường.
“Năm Đinh
Dậu niên hiệu Hội Tường Đại Khánh 8 (1117), vua Nhân Tông cho tìm con trai
trong tông thất để nuôi trong cung : Trẫm cai trị muôn dân mà lâu không có con
nối, ngôi báu biết truyền cho ai. Vậy trẫm nuôi các con trai của các vị Sùng
Hiền hầu, Thành Khánh hầu, Thành Quảng hầu, Thành Chiêu hầu, Thành Hưng hầu,
chọn người nào giỏi thì lập làm Thái tử. Bấy giờ con của Sùng Hiền Hầu là Dương
Hoán mới lên hai mà thông minh lanh lợi, vua rất yêu mến lập làm Hoàng Thái tử.”3
Việc Từ Đạo
Hạnh đầu thai thành vua Lý Thần Tông được truyền tụng rất nhiều trong dân gian.
Ngoài các sách dã sử, thần tích thì ngay cả bộ chính sử lớn như Đại Việt Sử
Ký Toàn Thư cũng đề cập đến chuyện này như một câu chuyện huyền thoại về vị
vua rất tôn sùng đạo phật. Việc đó phần nào lý giải việc nhà vua rất mộ đạo,
cho xây dựng rất nhiều chùa tháp. Nhận xét của các sử gia phong kiến về Lý Thần
Tông, ngoài những ưu điểm và đóng góp của ông thì các vị đều thống nhất một
quan điểm là nhà vua tôn sùng đạo phật.
Về vua Lý Thần
Tông, trong Toàn Thư có ghi rõ về tính tình và đức độ của vua. Cho dù
chỉ ở ngôi trong một thời gian ngắn (11 năm, 1128-1138), hưởng thọ có 23 tuổi
(1116-1138), nhưng thời gian vị vua trẻ này trị vì đã đóng góp một phần quan
trọng trong giai đoạn phát triển và hưng thịnh của triều Lý. Toàn Thư
nhận xét :
Vua huý là “Dương
Hoán, cháu gọi Thánh Tông bằng ông, gọi Nhân Tông bằng bác, con của Sùng Hiền
Hầu, do phu nhân họ Đỗ sinh ra. Mới hai tuổi được nuôi trong cung, lập làm
hoàng Thái tử. Nhân Tông băng bèn lên ngôi báu ... Khi vua mới lên ngôi, hãy
còn trẻ dại, đến khi lớn lên tư chất thông minh độ lượng, nên việc sửa sang
chính sự, dùng người hiền tài, thuỷ chung đều chính, nhiệm nhặt khúc nôi không
gì sai lệch”1.
Lúc mất được
tôn thuỵ hiệu là Quảng Nhân Sùng Hiếu Văn Vũ Hoàng Đế, miếu hiệu là Thần
Tông.
Dưới thời vua
Lý Thần Tông rất nhiều chùa chiền được xây dựng, nhà vua rất tôn sùng đạo phật.
Thời kỳ Lý Trần
là thời kỳ cực kỳ hưng thịnh của Phật giáo Việt Nam, các vua nhà Lý cùng các
hoàng hậu, quốc thích rất mộ đạo thường đóng góp công đức tu sửa đền đài, đúc
chuông tô tượng, xây dựng những công trình rất quy mô. Tuy nhiên bên cạnh việc
tôn sùng phật giáo người Việt còn có tục thờ Thánh. Có những ngôi chùa không
chỉ đơn thuần thờ phật mà còn kết hợp với tín ngưỡng bản địa của người Việt như
thờ Mẫu, thờ Thánh. Có chùa kết cấu khu thờ theo kiểu “Tiền Phật hậu Thánh”.
Nghĩa là có thờ phật và thờ cả thánh,“khám thờ Thánh luôn đóng kín suốt năm
không ai được vào và chỉ được mở trong một số ngày lễ hội nhất định. Các vị đều
là những nhân thần, có nghĩa là những con người có thực, nhờ học tập, tu luyện
đã có tài thần thông biến hoá, giúp dân giúp nước, được nhân dân một vùng hay
nhiều vùng thờ phụng ... như những đức thánh, những vị thần thật sự”2. Đây chính là kiểu kết cấu thờ của chùa Ông, Đức Thánh Từ Đạo
Hạnh chính là một trong những vị như thế. Theo truyền thuyết về ngài ở vùng thờ
chính là chùa Thầy, Hà Tây, ngài là người có công dạy dân ở đây cày cấy, dạy
nghề múa rối nước3, bốc
thuốc chữa bệnh và làm bánh chè Lam. Còn theo nhân dân thôn Bình Lương thì ngài
có công đem “một số cây thuốc dược liệu và cây má đề về để phổ biến cho nhân
dân trồng, từ đó nên xã Tân Quang có nghề truyền thống làm cây dược liệu”1.
Các đợt
trùng tu trong lịch sử:
Ngày nay, di
tích chùa Ông vẫn còn, trải qua bao nắng mưa thời gian cùng sự huỷ hoại của
chiến tranh, chùa đã bị mai một đi nhiều. Nguồn gốc hình thành và khởi điểm xây
dựng của chùa hiện nay không còn văn bản nào ghi lại được. Duy chỉ còn hai bài
văn bia mà mà bản dập còn lưu tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, có ghi là được xây
dựng dưới thời Lý Thần Tông.
Ngoài ra, chúng
tôi thu thập các văn bản Hán Nôm về chùa Bản Tịch, là những thác bản bia hiện
còn tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm cho thấy, chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu.
Các thác bản mang ký hiệu:
N° 5531
-5532 Lưu truyền Bản Tịch tự bi. Dương
Hoà 6 (1640)
N° 5529 - 5530
Bản Tịch tự phúc điền bi. Thịnh Đức 5 (1657)
N° 5527 -
5528 Bản Tịch tự bi minh. Chính Hoà 20
(1699).
N° 5524
-5526 Hậu phật bi ký. Chính Hoà 24
(1703)
N° 5533
-5534 Hậu phật bi ký. Chính Hoà 24
(1703)
N° 5572 -5573
Hậu phật bi ký. Cảnh Hưng 10 (1749)
N° 5523 -5524 Hậu phật bi ký. Quang Trung 5 (1792)
Trong đó có ghi
được 3 lần trùng tu lớn:
-Lần một lần
khoảng năm Dương Hoà 6 (1640), do bà Vương phi Nguyễn Thị Ngọc Duệ, Đạo Huệ
Pháp Bảo, hiệu Viên Quang cung tiền, thác bản N° 5531 -5532 ghi lại.
- Lần hai trong
khoảng niên hiệu Thịnh Đức (1653-1657) do các cung tần của Thanh vương Trịnh
Tráng là Nguyễn Thị Ngọc Tuyền, Trần Thị Ngọc Yến và Quận chúa Trịnh Thị Ngọc
Thuyên cung tiền. Có bài văn bia do Thượng thư Bộ Công là Nguyễn Văn Lễ soạn,
ghi lại việc này. Thác bản N° 5529 - 5530.
-Lần ba trong
khoảng thời Chính Hoà 20 (1699), qua thác bản N° 5527 -5528 ghi việc bà Vương phi Trần Thị
Ngọc Yêm cung tiến tu sửa chùa.
Thêm nữa, Ban
quản lý di tích chùa còn thu được một số viên gạch cổ có nét hoa văn đời Mạc
(1527-1585)2. Điều đó chứng tỏ dưới
đời Mạc chùa đã được đại trùng tu một lần nữa.
Điều đặc biệt
là trong số thác bản này có một thác bản đề niên hiệu vua Quang Trung năm thứ 5
(1792)3.
Kiến trúc
xây dựng:
Kiến trúc chùa
mang dấu ấn của kiểu kiến trúc thời Lê, được xây dựng trên một khu đất rộng
khoảng 14.000 m², trong đó phần
Nội tự chiếm khoảng hơn 900 m². Tuy bị
hư hỏng nhiều, mô hình chùa Ông rất gần gũi với chùa Thầy và chùa Láng. Theo
kiến trúc cũ thì chùa xây theo kiểu “Nội vương ngoại quốc”, nghĩa là hình chữ
nhật, bên trong (tính cả gian Tiền Tế) là 3 dãy nhà ngang như hình chữ Tam
thông nhau, trong đó gian hậu cung hẹp hơn nhà Tiền tế và Trung điện một chút,
hình vuông xây theo kiểu bốn mái, bốn góc có đầu đao cong vút. Sân trong là gác
chuông, bao hậu là 3 dãy hành lang (nay chỉ còn hai dãy hai bên). Phía trước
sân rộng nguyên xưa có bệ bằng đá và
đường lát đá xanh ra đến tận Tam quan, có bậc xuống tận bến ao phía trước, hai
bên sườn là vườn cây xanh tốt. Ngày nay toàn cảnh chùa không còn được nguyên
vẹn như xưa.
Trong thời kỳ
kháng chiến, chùa Ông được chính quyền cách mạng sử dụng một phần làm kho chứa
quân nhu để phục vụ cho chiến đấu. Nay chùa đang bị xuống cấp nghiêm trọng, các
đồ thờ tự bị chiến tranh, bom đạn cũng như sự thiếu ý thức của con người phá
huỷ, làm mất mát đi nhiều đồ quý giá. Ngày nay, dưới sự chỉ đạo của chính quyền
xã Tân Quang, Mặt trận tổ quốc và Hội người cao tuổi trong thôn, Ban bảo quản di
tích chùa Ông đã được nhân dân thôn Bình Lương khôi phục lại, trở thành một địa
điểm văn hoá tín ngưỡng của địa phương, làm phong phú sinh hoạt văn hoá tinh
thần của nhân dân, góp phần trong xây dựng văn hoá thời kỳ mới “phát huy và bảo
tồn di sản truyền thống”. Mong rằng các cơ quan có chức năng đóng góp ý kiến
chỉ đạo, giúp đỡ địa phương xây dựng lại và bảo tồn di tích này được tốt hơn
trong tương lai, đúng với sự đánh giá của nhà nước.
Một số
nhận xét:
Tóm lại, chùa
Ông ở thôn Bình Lương là một ngôi chùa cổ được xây dựng khoảng dưới thời Lý
Thần Tông (1128-1138), trải qua các thời kỳ chùa đã được trùng tu, sửa chữa
nhiều lần, đặc biệt là dưới thời Lê Trung hưng. Đến nay chùa đã có lịch sử gần
900 năm.
Chùa Ông thờ cả Phật và Thánh, nên nó mang trong mình
những giá trị văn hoá có tính bản sắc riêng của dân tộc. Bản sắc ấy đáng được
chúng ta và con cháu đời sau gìn giữ và tôn tạo.
Người viết:
Nguyễn Đức Toàn
Đỗ Ngọc Tiến
|
1 Bia hiện không còn, chỉ còn thác bản hiện lưu trữ tại
Viện nghiên cứu Hán Nôm (VHN)
2 Làng Láng (tức Yên Lãng) là nơi nhà cũ của ông ở. Cũng
như chùa Thầy ở Hà Tây, tên chữ Hán là Thiên Phúc tự, nhưng nhân dân vẫn quen
tôn xưng ngài là Thầy nên gọi chùa là chùa Thầy.
3 Thác bản bia: Bản Tịch tự
phúc điền bi ký, Ký hiệu 5529-5530 (VHN)
4 Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận
Hoá, 1999.
1 Vũ Ngọc Khánh, Đạo Thánh Việt Nam, Nxb. VH,. H. 1999
tr72
2 Ký hiệu AE. a 3 / 13 (VHN) . Nhưng đây chỉ là những
bản Thần tích được nhân dân sao chép lại từ các bản ở Chùa Thầy; chùa Láng;
làng Phục Lạp, Yên Sơn, Sơn Tây.
3 Nam Định tỉnh, Trực Ninh huyện, Mạt Lăng xã thần tích,
AE. a 15/24 (VHN)
4 Ninh Bình tỉnh, Yên Khánh huyện, Yên Vệ xã thần tích,
AE. a 4/32 (VHN)
5 Như trên...
6 Hà Tây tỉnh, Thạch Thất huyện, Canh Nậu xã thần tích,
AE. a 10/18 (VHN)
7 Thái Bình tỉnh, Trực Định huyện, Đông Trì xã thần
tích, AE. a 5/9 (VHN)
1 Toàn Thư (TT), Bản kỷ(Bk), quyển (q)3, 17b
1 Thiền
uyển tập anh, bản dịch của Ngô Đức Thọ-Nguyễn Thuý Nga, Nxb Vh, H,. 1995
2 Hang ấy
nay ở chùa Thầy, gọi là hang Thánh Hoá, trong hang còn có vết chân của Từ Đạo
Hạnh.
3 TT, Bk,
q3, 18b.
1 TT, Bk,
q3, 28b.
2 Hà Văn
Tấn: Chùa cổ Việt Nam, Nxb. KHXH, H,. 1999, tr24-25.
3 Ngày nay
ở chùa Thầy vẫn còn nhà Thuỷ đình dùng làm nơi biểu diễn rối nước trong mùa lễ
hội, tiêu biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam. Có thể coi Từ Đạo Hạnh là ông tổ nghề
múa rối nước.
1 Trích
theo đơn đề nghị của nhân dân, đại diện chính quyền, mặt trận, ban bảo vệ di
tích thôn Bình Lương. 10/4/1995.
2 Số gạch
này hiện còn tại chùa, do Ban quản lý di tích bảo quản.
3 Nhà
Nguyễn trả thù nhà Tây Sơn rất khốc liệt, cả về mặt văn tự, nhiều di vật mang
dấu tích thời Tây Sơn thường bị phá huỷ. Vậy mà chùa vẫn còn giữ được tấm bia
này(ít ra là đến đầu thế kỷ XX, vì hiện nay chỉ còn thác bản)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét