Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

Vụ án cung Thượng Dương - lời minh oan cho Thái hậu Ỷ Lan trên biển gỗ đền Sủi

Bài viết đã được đăng trên Thông báo Hán Nôm học
http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1439&Catid=520 với tiêu đề Lời bàn về Thái hậu Ỷ Lan qua biển gỗ đền Phú Thị (Nguyễn Đức Toàn)
Đền Phú Thị nằm trong một quần thể di tích bao gồm Đình - Đền - Chùa thuộc địa bàn phường Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Đất Phú Thị còn có tên gọi Nôm là làng Sủi, nên đình - đền - chùa cũng còn được gọi gắn với tên địa danh ấy, đền Sủi, chùa Sủi. Tương truyền, chùa Sủi có tên chữ là Đại Dương Thiền tự 大楊禪寺 do Thái hậu Ỷ Lan cho xây dựng từ thời Lý, hiện trên văn bia tại chùa vẫn còn nhắc đến. Theo chính sử ghi, Thái hậu rất sùng đạo Phật, cho xây nhiều chùa chiền, mà cũng tục truyền Thái hậu do ân hận về việc giết hại Dương thái hậu nên cho xây chùa để sám hối:
“Quý Sửu, /Thái Ninh/ năm thứ 2 [1073], (Tống Hy Ninh năm thứ 6). Giam Hoàng thái hậu họ Dương, tôn Hoàng thái phi làm Linh [7a] Nhân hoàng thái hậu. Linh nhân có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu với vua rằng: "Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú quý người khác được hưởng thế thì sẽ để mẹ già vào đâu?". Vua bèn sai đem giam Dương thái hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng Thánh Tông.
Ất Mùi, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 6 [1115], (Tống Chính Hòa năm thứ 5), … Thái hậu dựng chùa thờ Phật, trước sau hơn trăm chùa. (Tục truyền rằng thái hậu hối về việc Thượng Dương thái hậu và các thị nữ vô tội mà bị chết, làm nhiều chùa Phật để sám hối rửa oan).”

   Nhưng nội dung tấm biển gỗ treo tại đền Sủi, có niên đại năm Nhâm Thân niên hiệu Bảo Đại thứ 7 (1932), do Cử nhân Hoàng Thúc Hội soạn, căn cứ đối chiếu với tư liệu thần tích tại đền lúc đó lại có lời bàn tương đối độc lập so với lời “tục truyền” trong chính sử. Chúng tôi xin giới thiệu nguyên văn, phiên âm và thêm tư liệu để hiểu dịch tấm biển này, mong cung cấp thêm nguồn tư liệu tại địa phương về Thái hậu Ỷ Lan, góp phần gợi hé về vụ án cung Thượng Dương cách đây gần 10 thế kỷ.
Ảnh chụp (Thiền Phong)

Nguyên văn chữ Hán :
      占監               異而                  
   
 
 
 
廿  
 
 
   
 
   
 
 
 
 
        
Dịch nghĩa :
          Phụng  án rằng: Ỷ  Lan  phu  nhân họ [1]  phối duyên với  vua Lý  (Thánh Tông),  như ngọc hoàng, ngọc[2]  ngưng kết điềm lành,  sinh ra  vua (Lý) Nhân  Tông,  quang  hoa rực rỡ[3],  triệu phát cát tường  đã sẵn rõ.  Nghe tục  truyền rằng,  phu nhân  có vẻ nữ trang ngư cốt, gót  phượng  vào cung[4],  không phải qua tuyển  chọn khắt khe. Khảo  xét trong chính sử  thì các việc khi vua Thánh Tông  đi  chinh  phạt Chiêm  Thành, bà làm giám  quốc,  công  lớn khắp triều.  (Giúp) chuộc kẻ nghèo hèn, (dựng) vợ cho người cô độc[5], khiến những nhà nghèo khó cũng được vui vẻ làm ăn[6], người dân trong nước ca  tụng  là  Phật Quan  âm[7]. Trong đám cung  phi, hoàng hậu  ít người sánh kịp. Duy  có một vụ án cung  Thượng Dương  là gây tiếng lụy lớn[8]. Sử sách lại cho rằng Phu  nhân  về sau hối hận vì cái án ấy mà làm nhiều điều phúc, xây  dựng chùa chiền để  tự  sám  hối[9], thành ra cái án sắt như vậy.  Nhưng mà, khảo  trong Ngự  án  chính  biên[10]  Dương phi  không phải là mẹ đích, biện luận đã rõ ràng. Lại tham khảo  ở ghi chép trong  Thần  tích[11],  thì thấy (có đoạn):
Phu  nhân  khi còn nhỏ có nói “(Ta) ngày sau ắt sẽ đại quý, chỉ hiềm không tránh được ách hạn 18 năm thôi”.
Quả  nhiên, nơi ruộng bãi dựa gốc lan,  lá dâu vầng mây rủ lọng[12],  đúng là duyên trời sắp đặt vậy.  Đương  lúc ấy, gội ơn vua quế  dịch ân nồng, nơi  tiêu  phòng  chuyên lòng sủng ái.  Lấy  tình  thường  mà  luận,  họ Dương  kia chưa chắc đã không đem lòng  đố kỵ.  Đến như (lúc ấy) ngôi  hoàng thái tử còn đương muộn màng[13],  nên lòng vua càng  thêm say đắm. Thánh quân (làm lễ) cầu khấn Phật  Quan  âm  ban con cho, mà đây  kia lại thêm lấy vẻ tướng hình ngoài[14]  giả  tác  có mang,  âm  mưu  đoạt con,   ngấm ngầm sàm tấu để  giam cầm người  mẹ.  Thiết tưởng, ấy là do họ  Dương  kia làm nên mà bọn cung nhân thì hùa theo bè đảng.  Suốt 18 năm nơi lãnh cung, đèn côi bóng chiếc,  niệm  phật  tụng  kinh,  chịu khổ như ở cung Trường Môn[15]. Huống chi lại còn xét với việc thời  bấy giờ của người Tống ghi, từng so ví (việc ấy) với án Lưu Lý của Bao Công vậy[16].  May thay, cung  Chấn  vầng dương[17] hiện, hạn  hán tai ương cũng liên quan đến việc người[18]. Phải chăng kẻ làm con thờ cha mẹ mà không đủ  hiếu  chăng ! Chúa  thượng  tự lui về chốn ruộng dâu để tự trách[19], mong có cơ mà vãn  hồi  ý trời.  Gặp được cung  nhân  nhắc lại chuyện cũ,  chốn u  cung  thúc  giá tìm đến,   mưa ngọt theo xe tưới nhuần, cái cơ  cảm  ứng  thật  nhạy  bén.   Người mẹ gặp được con mà đầu bạc hai búi, bệnh tấy hai vai.  Vậy nên lòng hận của vua thật là sâu mà dẫn đến việc gia hình quá lạm vậy.  Phu  nhân lại thuận theo mà khuyên giải  khoan dung[20],  thật đáng gọi là Phật Quan  âm  vậy. Nhưng còn chuyện thâm cung giam cấm, bức tuẫn táng chốn sơn lăng, hoặc là do họ  Dương kia tự gây nên mầm  nghiệt  họa chăng!  (Chứ) không phải như vậy, thì chỉ lấy việc ghen ghét không được tham  dự  chính  sự, thì người nhân đức, đâu đến nỗi tàn sát, lại liên lụy tai vạ đông đến tận 76 cung nhân ư[21] !
Cứ  theo lời nói ở đây so với  chính  sử  thì khác xa mà cả tình cả lý lại  có vẻ  hợp,  chứ không thể coi đấy là những  điều dư thừa hỗn tạp của văn chương[22] mà bỏ, lược thuật qua loa được.  Nhưng những điều ghi chép đây, lại dùng văn Quốc  âm,  lại không có chép biểu tấu gì, thì căn cứ vào đâu mà nói.
Mùa đông năm  Tân   Mùi  (1931),  (ta) ngẫu  nhiên đến thăm đền,  làm lễ chiêm   bái  xong,   duyệt  xem thần  tích,  liền đề  hai bài thơ, ấy cũng là cái thói thường của kẻ văn  gia thôi.  Vị sư trụ trì chùa nói : Thơ này, không luận bàn về cái khéo cái dở, mà là chỗ phá tan được nghi án của  muôn đời, khiến đức ngầm mở phát hào quang, có thể đầy đủ để làm một lời thuyết  giải, xin được khắc lại ở đền. Thế nên làm bài dẫn (này)
          Bài 1 
Duệ triết giúp vua  thành bậc chúa sáng,
Nhưng việc nhỏ trong cung lại phải tự bôn ba.
Nhà vua mấy lần đi đánh phương Nam thì không có một họa nhỏ nào,
Việc nội trị trong nước vẫn giữ được như cũ, nghiệm như việc hái dâu.
Mười tám năm[23] trời tiêu tan hết khổ hạn,
Hơn hai mươi nơi chùa viện[24] còn sáng tỏ ánh thần quang.
Chỉ vì tuệ quả được đào luyện với phong trần,
Nên sống mới tu chứng thành được trước phật đường.
(Khoan dung đỡ chúa bậc thánh  minh,
Trong cung gây  hấn chịu một mình.
Nam chinh mấy độ không tai họa,
Nội trị yên bình nghiệm dâu xanh.
Mười tám năm trời tiêu khổ hạn,
Hai mươi chùa viện rạng quang minh.
Phong trần đào luyện nên tuệ quả,
Phật đường đắc đạo chứng tu thành.)
          Bài 2 
Chớ vì việc nhỏ mọn mà oán trách bậc quân vương,
Mấy năm trời chịu khổ như cung Trường Môn, đức lại càng tỏ rạng.
Mây che phủ khắp ruộng dâu, thực là duyên do trời tác hợp,
Phúc lành ngưng kết, lại có ngày hiện ánh trùng quang.
Tự nhiên hạn hán báo điềm nhân như việc vua nhà Thương,[25]
Đâu cần đến Bao Công phải giả làm Ngọc hoàng.[26]
Ngày sau hoa sen nở thành Phật quả,
Nước ngọt cam đề một nhành dương vẩy khắp.[27]
(Việc chi nhỏ mọn hận quân vương,
Trường Môn chịu khổ đức càng dương.
Mây lành che phủ duyên trời dựng,
Ngưng kết trùng quang phúc cát tường.
Hạn báo điềm nhân Thương hậu cũ,
Bao công chi bận giả Ngọc hoàng.
Ngày sau sen nở nên quả phật,
Cam đề nước ngọt một nhành dương.)
          Cử  nhân  Hoàng  Thúc  Hội,  hiệu Yên  Sơn  bái  đề.[28]
          Mùa thu năm Nhâm  Thân, niên hiệu Bảo  Đại  (1932),  trụ  trì  bản  tự  là  Nguyễn  Duy  Tiến   kính  chép và khắc.
Sách tham khảo:
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 3. Nxb KHXH, H.,1993.
2. Đại Việt sử lược, quyển 2. Nxb TP.HCM, 1993.
3. Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Nxb GD, H.,2000.
4. Phạm Minh Đức, Về hai tấm bia ghi về Hội Hoa Nghiêm ở chùa Tảo Sách của Cúc Hương Hoàng Thúc Hội. Tạp chí Hán Nôm 5(72)/2005.
5. Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Việt Nam, Nxb KHXH, H.,1985. 6. AEa6/10.
7. AEa3/14.
8.  AEa3/8.
9. 社蜀 AEa3/9.
10. AEa3/17
11. AFa5/6.
12.





[1] Ỷ Lan phu nhân (?-1117), họ Lê, không rõ tên thực là gì, người làng Thổ Lỗi (Nay thuộc xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội).
[2]Hoàng: Ngọc hoàng; Vũ: Ngọc vũ, là hai loại ngọc quý. Ngưng hi: Nói đã kết sẵn điềm lành.
[3] 光華復旦 Quang hoa phúc đán: Giáng sáng đẹp rực rỡ, tráng lệ.
[4] Nguyên văn: . Các bản thần tích đều mô-típ giống chuyện Tấm Cám Ỷ Lan tên tục là nàng Tấm, ... nàng Tấm chôn xương cá dưới chân giường, quá 100 ngày đào lên thì được bộ hài và quần áo đẹp, có con chim lạ cắp đôi hài của Tấm bay đến kinh chỗ vua Lý Thánh Tông, ... sau nhà vua gặp nàng lúc dựa gốc lan, đưa về kinh thử hài thì vừa in, Tấm cũng nhận ra hài cũ của mình ...”. Ý chỉ vẻ đẹp của người con gái từ bộ nữ trang do thần tiên hóa từ xương cá ra. (Thư mục tham khảo, Sđd)
[5] li phát tin kho ni ph chuc nhng gái nghèo đã b cm đ mà g cho người không có vợ”.(KĐVSTGCM, Chính biên, quyển 3)
[6] Nguyên văn: Chỉ nhà nghèo.
[7] Kỷ Dậu11, [Thiên Hung Bo Tượng] năm th 2 [1069], (T tháng 7 v sau là niên hiu Thn Vũ năm th 1; Tng Hy Ninh năm th 2). Mùa xuân, tháng 2, vua thân đi đánh Chiêm Thành, bt được vua nước y là Chế Cvà dân chúng 5 vn người. trn này vua đánh chiêm thành mãi không được, đem quân v đến châu Cư Liên, nghe tin Nguyên phi giúp vic ni tr, lòng dân [5a] cm hoá hoà hp. Trong cõi vng vàng, tôn sùng Pht giáo, dân gi là bà Quan Âm, vua nói: "Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi li chng được vic gì hay sao?". Bèn quay li đánh na, thng được.”(ĐVSKTT-BK-QIII)
[8] “Đường thư : Cung Thượng Dương được xây ct gia niên hiu Thượng Nguyên đi vua Đường Túc Tông. Vua Đường Cao Tông cung y, đ d thính triu chính”. Do đó, triu nhà Lý ly ch "Thượng Dương" đt tên cho cái cung ca bà Thái hu , Thái hu trong, buông rèm kín cùng x lý vic nước, vì Thái hu cung y nên gi là Thái hu Thượng Dương”.( Ng chế Vit s tng vnh)
[9] “Ất Mùi, /Hi Tường Đi Khánh/ năm th 6 [1115], (Tng Chính Hòa năm th 5). Mùa xuân, tháng giêng, phong ba hoàng hu là Lan Anh, Khâm Thiên, Chn Bo và 36 cung nhân, By gi vua không có con trai, cho nên lp nhiu hoàng hu và cung nhân, làm đàn chy đ cu t. Thái hu dng chùa th Pht, trước sau hơn trăm chùa. (Tc truyn rng thái hu hi v vic Thượng Dương thái hu và các th n vô ti mà b chết, làm nhiu chùa Pht đ sám hi ra oan).(Sđd)
[10] Ngự án chính biên: Chỉ có lời phê trong Ng chế Vit s tng vnh mới xưng như vậy. (?)
[11] Nói Thái hậu họ Dương không phải mẹ đích của Lý Nhân Tông. Thần tích đền Phú Thị, nơi có đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan. Chúng tôi không được tiếp xúc với bản thần tích này, tuy vậy chúng tôi đã tham khảo các bản thần tích khác về Thái hậu Ỷ Lan hiện có tại Viện nghiên cứu Hán Nôm với nội dung tương tự. (X. Thư mục tham khảo)
[12] Các bản thần tích đều chép khi Ỷ Lan ở ruộng dâu thì trên đầu như có mây rủ che, là điềm phú quý.
[13] “Quý Mão, [Chương Thánh Gia Khánh] năm th 5 [1063], (Tng Gia Hu năm th 8).By gi vua xuân thu đã nhiu, tui 40 mươi mà chưa có con trai ni dõi, sai Chi hu ni nhân Nguyn Bông làm l cu t chùa Thánh Chúa, sau đó Ỷ Lan phu nhân có mang, sinh hoàng t Càn Đc tc Nhân Tông”(Sđd).
[14] Nguyên văn: Bỉ thử ích dĩ tướng hình. Theo mạch văn đối chiếu cùng các bản thần tích thì Dương hậu ngầm mưu giả có thai để tráo đổi, đoạt con của Ỷ Lan. (Thần tích, xem thư mục tham khảo)
[15] Trường Môn: Tên một cung điện dưới thời Hán Vũ Đế, là nơi giam cấm các phi tần bị thất sủng.
[16] : Bao Công Lưu Lý án: Tức vụ án thời Tống Nhân Tông, Bao Công xử án vụ Li miêu hoán chúa, Lý phi thông mưu với Quách Hòe tráo đổi con trai của Lưu Chiêu nghi để giành ngôi, sau con trai của Chiêu nghi lên ngôi, sự việc phát giác, Bao Công xử án cho tìm lại họ Lưu để minh oan.
[17] Chấn cung nhật xuất: Cung Chấn, trong quẻ Dịch chỉ ngôi của Hoàng Thái tử, đây chỉ Lý Nhân Tông.
[18] Hạn bại: Tên vị thần chủ việc nắng hạn, tức chỉ việc hạn hán, tai ương. Ý cả câu nói thuyết “thiên nhân cảm ứng”, do chính sự có điều u ám bất minh dẫn đến thiên tai.
[19] Tang lâm: Địa danh, thời vua Thang, 7 năm hạn hán, vua lấy năm việc để tự trách, đến Tang Lâm cầu đảo. Đoạn này nói trời hạn hán, Lý Nhân Tông theo phép cổ tự trách bản thân, tìm lỗi lầm để cầu giải hạn.
[20] ... Vua và mẹ hận Dương hậu trá mưu, liền giết những cung tần cùng mưu gian 72 người, chôn theo lăng Thánh Tông Dương thị vì trước hại mẹ mình. Lê thị ngăn can không được liền dựng 72 ngôi chùa lớn để tụng kinh... (Thần tích AEa3/17)
[21] Qúy Sửu, Thái Ninh năm th 2 [1073], (Tng Hy Ninh năm th 6). By gi mưa dm, rước pht Pháp Vân1 v kinh đ cu tnh. Cúng thn núi Tn Viên. Giam Hoàng thái hu h Dương, tôn Hoàng thái phi làm Linh [7a] Nhân hoàng thái hu. Linh nhân có tính ghen, cho mình là m đ mà không được d chính s, mi kêu vi vua rng: "M già khó nhc mi có ngày nay, mà bây gi phú qúy người khác được hưởng thế thì s đ m già vào đâu?". Vua bèn sai đem giam Dương thái hu và 76 người th n vào cung Thượng Dương, ri bc phi chết chôn theo lăng Thánh Tông.(Sđd); Thần tích chép là 72 người.(Sđd)
[22] Bài: 1. Cỏ tạp; 2. Thông xưng của tiểu thuyết, tạp gia. Đây chỉ các ghi chép bằng Quốc âm trong các bản Thần tích. Tạm hiểu là: không nên vì coi những điều chép của Thần tích là vụn vặt, tạp nhạp mà lược bỏ đi. Xem xét thấy nó hợp tình hợp lý hơn là những lời luận trong chính sử. Chúng tôi tạm thông dịch là những điều dư thừa hỗn tạp của văn chương.
[23] Mười tám năm: Tức là 18 năm Ỷ Lan phu nhân bị Hoàng hậu Thượng Dương sàm tấu, bị giam cầm nơi lãnh cung.
[24] Thái hu dng chùa th Pht, trước sau hơn trăm chùa.” (Sđd). Đây thì cho là hơn hai mươi廿   .
[25] Thương hậu tức nói vua Thành Thang nhà Thương. Xem chú thích 15.
[26] Bao công xử án Quách Hòe, hoạn quan chủ mưu tham gia vụ án Lưu Lý. Quách Hòe thề khi nào chết gặp Diêm vương mới khai sự thật. Bao công sai mọi người thiết đặt công đường như Âm ti, giả làm Diêm vương phán xét sự dương thế, khiến Quách phải khai. Đây lại ghi là giả Ngọc hoàng, hoặc giả giai thoại có dị bản chăng; Thần tích chữ Nôm chép trong các bản tục lệ AFa5/6, AEa3/17 cũng có mô-típ tương tự: Vua Nhân Tông cho thiết đặt cảnh Thiên đường địa ngục để lấy cung khai của các cung nữ đồng mưu với Dương hậu.
[27] Dùng lại điển ví Ỷ Lan phu nhân như Phật Quan âm, dùng nhành dương liễu rẩy nước Cam Lộ khắp nhân gian.
[28] Hoàng Thúc Hội (1870-1938) tự là Gia Phủ, hiệu Cúc Hương, biệt hiệu Yên Sơn, người Hạ Yên Quyết, huyện Từ Liêm. Đỗ Cử nhân năm 1906, không làm quan, ở nhà dạy học. Để lại nhiều tác phẩm, thơ văn đề vịnh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét