Bài viết đã được đăng trên Thông báo Hán Nôm học
http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1439&Catid=520 với tiêu đề Lời bàn về Thái hậu Ỷ Lan qua biển gỗ đền Phú Thị (Nguyễn Đức Toàn)
http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1439&Catid=520 với tiêu đề Lời bàn về Thái hậu Ỷ Lan qua biển gỗ đền Phú Thị (Nguyễn Đức Toàn)
Đền Phú Thị nằm trong một quần thể
di tích bao gồm Đình - Đền - Chùa thuộc địa bàn phường Phú Thị, huyện Gia Lâm,
Hà Nội. Đất Phú Thị còn có tên gọi Nôm là làng Sủi, nên đình - đền - chùa cũng
còn được gọi gắn với tên địa danh ấy, đền Sủi, chùa Sủi. Tương truyền, chùa Sủi
có tên chữ là Đại Dương Thiền tự 大楊禪寺 do Thái hậu Ỷ Lan cho xây dựng từ thời Lý, hiện trên
văn bia tại chùa vẫn còn nhắc đến. Theo chính sử ghi, Thái hậu rất sùng đạo Phật,
cho xây nhiều chùa chiền, mà cũng tục truyền Thái hậu do ân hận về việc giết hại
Dương thái hậu nên cho xây chùa để sám hối:
“Quý Sửu, /Thái Ninh/ năm thứ 2 [1073], (Tống Hy Ninh năm thứ 6). Giam
Hoàng thái hậu họ Dương, tôn Hoàng thái phi làm Linh [7a] Nhân hoàng thái hậu.
Linh nhân có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu với
vua rằng: "Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú quý người khác
được hưởng thế thì sẽ để mẹ già vào đâu?". Vua bèn sai đem giam Dương thái
hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng
Thánh Tông.
Ất Mùi, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 6 [1115], (Tống Chính Hòa năm thứ 5), … Thái hậu dựng chùa thờ Phật, trước
sau hơn trăm chùa. (Tục truyền rằng thái hậu hối về việc Thượng Dương thái hậu
và các thị nữ vô tội mà bị chết, làm nhiều chùa Phật để sám hối rửa oan).”
Nhưng nội dung tấm biển gỗ treo tại đền Sủi, có niên đại
năm Nhâm Thân niên hiệu Bảo Đại thứ 7 (1932), do Cử nhân Hoàng Thúc Hội soạn,
căn cứ đối chiếu với tư liệu thần tích tại đền lúc đó lại có lời bàn tương đối
độc lập so với lời “tục truyền” trong chính sử. Chúng tôi xin giới thiệu nguyên
văn, phiên âm và thêm tư liệu để hiểu dịch tấm biển
này, mong cung cấp thêm nguồn tư liệu tại địa phương về Thái hậu Ỷ Lan, góp phần
gợi hé về vụ án cung Thượng
Dương cách đây gần 10 thế kỷ.
Ảnh chụp (Thiền Phong)
Ảnh chụp (Thiền Phong)
Nguyên văn chữ Hán :
奉 案 倚 蘭 黎 夫 人 好 逑 李 帝 璜 瑀 凝 禧 誕 毓 仁 皇 光 華 復 旦 其 發 祥 為 有 自 矣 俗 所 傳 魚 骨 女 裝 鳳 鞋 宮 選 不 經 甚 矣 以 史 考 之 征 占監 國 功 懋 丹 庭 贖 貧 嫁 鰥 春 生 白 屋 國 民 頌 之 曰 觀 音 女 妃 后 中 鮮 有 其 儔 矣 惟 上 陽 宮 一 案 為 盛 累 史 又 以 為 夫 人 後 回 悔 故 多 修 福 造 寺 以 懺 之 鉄 案 也 然 考 之 御 案 正 編 楊 妃 非 嫡 辯 之 以 詳 又 參 之 神 跡 所 載 者 夫 人 幼 有 日 者 謂 他 日 大 貴 但 不 免 十 八 年 限 障 耳 果 而 蘭 倚 野 叢 桑 垂 雲 蓋 天 作 之 合 矣 當 此 桂 腋 承 恩 椒 房 擅 寵 以 常 情 論 楊 未 必 不 之 妒 及 皇 儲 尚 晚 帝 意 耽 憂 聖 主 祈 神 觀 音 送 子 而 彼 此 益 以 相 形 假 作 有 身 陰 謀 奪 子 浸 潤 献 讒 幽 囚 其 母 想 楊 為 之 而 宮 人 党 之 也 十 八 載 冷 宮 孤 燈 隻 影 念 佛 誦 經 長 門 之 苦 何 況 可 思 以 辰 並 宋 人 記 者 曾 比 之 包 公 劉 李 案 也 幸 而 震 宮 日 出 旱 魃 仁 事 親 不 足 於 孝 欤 主 上 倣 桑 林 而 自 責 回 天 可 有 其 機 矣 宮 人 提 故 事 以 升 聞 幽 宮 促 駕 膏 雨 隨 車 感 應 之 機 不 爽 而 白 頭 雙 鬂 紅 痴 兩 肩 母 猶 得 以 相 見 宜 帝 之 恨 之 深 而 刑 之 濫 也 夫 又 從 而 寬 解 之 真 所 謂 觀 音 女 也 然 則 宮 裡 幽 戕 山 陵 逼 殉 或 楊 自 作 之 孽 耶 非 然 者 但 以 預 正 而 妒 之 則 仁 之 仁 何 至 於 殺 又 何 至 於 七 十 六 人 之 繁 有 徒 哉 據 此 所 言 與 史 大 異而 情 理 頗 近 未 可 以 稗 剩 略 之 也 但 記 者 文 用 國 音 又 無 表 志 不 知 何 所 據 而 云 然 辛 未 冬 偶 遊 祠 瞻 拜 畢 閱 神 跡 題 詩 二 首 文 家 之 常 套 耳 寺 僧 者 曰 是 詩 也 無 論 工 拙 破 千 古 之 疑 案 發 潛 德 之 幽 光 可 以 備 一 說 請 勒 之 于 祠 故 引
其 一
睿 哲 君 臨 號 聖 皇
宮 中 底 事 自 蒼 黃
南 征 幾 度 無 纖 芥
內 治 當 初 驗 採 桑
十 八 年 間 消 愛 障
廿 餘 寺 所 發 神 光
只 應 慧 果 風 陳 鍊
到 得 生 修 證 佛 堂
其 二
休 將 底 事 恨 君 王
幾 載 長 門 德 愈 彰
雲 罩 桑 田 天 作 合
福 凝 椒 腋 日 重 光
自 然 旱 魃 仁 商 后
何 必 包 公 假 玉 皇
他 日 蓮 花 成 佛 果
甘 醍 遍 洒 一 枝 楊
安 山 舉 人 黃 叔 會 拜 題
保 大 壬 申 秋 本 寺 住 持 僧 阮 惟 進 敬 書 恭 鐫
Dịch nghĩa :
Phụng án rằng: Ỷ Lan
phu nhân họ Lê[1] phối duyên với vua Lý (Thánh Tông), như ngọc hoàng, ngọc vũ[2] ngưng kết điềm lành, sinh
ra vua (Lý)
Nhân Tông, quang
hoa rực rỡ[3], triệu
phát cát tường đã sẵn rõ. Nghe tục truyền rằng,
phu nhân có vẻ nữ trang ngư cốt, gót phượng vào cung[4], không phải qua tuyển chọn khắt khe. Khảo xét trong chính sử thì các việc khi vua Thánh Tông đi
chinh phạt Chiêm Thành, bà làm giám quốc,
công lớn khắp triều. (Giúp) chuộc kẻ nghèo hèn, (dựng) vợ cho người
cô độc[5],
khiến những nhà nghèo khó cũng được vui vẻ làm ăn[6],
người dân trong nước ca tụng là Phật
Quan âm[7].
Trong đám cung phi, hoàng hậu ít người sánh kịp. Duy có một vụ án cung Thượng Dương
là gây tiếng lụy lớn[8].
Sử sách lại cho rằng Phu nhân về sau hối hận vì cái án ấy mà làm nhiều điều
phúc, xây dựng chùa chiền để tự
sám hối[9],
thành ra cái án sắt như vậy. Nhưng mà, khảo trong Ngự án
chính biên[10] Dương phi
không phải là mẹ đích, biện luận đã rõ ràng. Lại tham khảo ở ghi chép trong Thần tích[11], thì thấy (có đoạn):
Phu
nhân khi còn nhỏ có nói “(Ta)
ngày sau ắt sẽ đại quý, chỉ hiềm không tránh được ách hạn 18 năm thôi”.
Quả nhiên, nơi ruộng bãi dựa gốc lan, lá dâu vầng mây rủ lọng[12], đúng là duyên trời sắp đặt vậy. Đương lúc
ấy, gội ơn vua quế dịch ân nồng, nơi tiêu phòng chuyên lòng sủng ái. Lấy tình thường mà luận, họ Dương
kia chưa chắc đã không đem lòng đố
kỵ. Đến như (lúc ấy) ngôi hoàng thái tử còn đương muộn màng[13], nên lòng vua càng thêm say đắm. Thánh quân (làm lễ) cầu khấn Phật Quan âm
ban con cho, mà đây kia lại thêm lấy vẻ tướng hình ngoài[14]
giả
tác có mang, âm
mưu đoạt con, ngấm ngầm sàm tấu để giam cầm người mẹ. Thiết
tưởng, ấy là do họ Dương kia làm nên mà bọn cung nhân thì hùa theo bè
đảng. Suốt 18 năm nơi lãnh cung, đèn côi
bóng chiếc, niệm phật tụng kinh, chịu
khổ như ở cung Trường Môn[15].
Huống chi lại còn xét với việc thời bấy
giờ của người Tống ghi, từng so ví (việc ấy) với án Lưu Lý của Bao Công vậy[16]. May thay, cung Chấn vầng
dương[17]
hiện, hạn hán tai
ương cũng liên quan đến việc người[18].
Phải chăng kẻ làm con thờ cha mẹ mà không đủ hiếu chăng
! Chúa thượng tự lui về chốn ruộng dâu để tự trách[19], mong có cơ mà vãn hồi ý trời.
Gặp được cung nhân nhắc lại chuyện cũ, chốn u
cung thúc giá tìm đến,
mưa ngọt theo xe tưới nhuần, cái cơ cảm ứng thật
nhạy bén. Người
mẹ gặp được con mà đầu bạc hai búi, bệnh tấy hai vai. Vậy nên lòng hận của vua thật là sâu mà dẫn đến
việc gia hình quá lạm vậy. Phu nhân lại thuận theo mà khuyên giải khoan dung[20], thật đáng gọi là Phật Quan âm vậy.
Nhưng còn chuyện thâm cung giam cấm, bức tuẫn táng chốn sơn lăng, hoặc là do họ
Dương kia tự gây nên mầm nghiệt họa
chăng! (Chứ) không phải như vậy, thì chỉ
lấy việc ghen ghét không được tham dự chính sự,
thì người nhân đức, đâu đến nỗi tàn sát, lại liên lụy tai vạ đông đến tận 76
cung nhân ư[21]
!
Cứ theo lời nói ở đây so với chính sử thì
khác xa mà cả tình cả lý lại có vẻ hợp, chứ không thể coi đấy là những điều dư thừa hỗn tạp của văn chương[22]
mà bỏ, lược thuật qua loa được. Nhưng những
điều ghi chép đây, lại dùng văn Quốc âm, lại không có chép biểu tấu gì, thì căn cứ vào
đâu mà nói.
Mùa
đông năm Tân Mùi (1931), (ta) ngẫu
nhiên đến thăm đền, làm lễ chiêm bái xong, duyệt
xem thần tích, liền đề
hai bài thơ, ấy cũng là cái thói thường của kẻ văn gia thôi.
Vị sư trụ trì chùa nói : Thơ này, không luận bàn về cái khéo cái dở, mà
là chỗ phá tan được nghi án của muôn đời,
khiến đức ngầm mở phát hào quang, có thể đầy đủ để làm một lời thuyết giải, xin được khắc lại ở đền. Thế nên làm bài
dẫn (này)
Bài 1
Duệ triết giúp vua thành bậc chúa
sáng,
Nhưng việc nhỏ trong cung lại phải tự bôn ba.
Nhà vua mấy lần đi đánh phương Nam thì không có một họa nhỏ nào,
Việc nội trị trong nước vẫn giữ được như cũ, nghiệm như việc hái dâu.
Mười tám năm[23]
trời tiêu tan hết khổ hạn,
Hơn hai mươi nơi chùa viện[24]
còn sáng tỏ ánh thần quang.
Chỉ vì tuệ quả được đào luyện với phong trần,
Nên sống mới tu chứng thành được trước phật đường.
(Khoan dung đỡ chúa bậc thánh minh,
Trong cung gây hấn chịu một mình.
Nam chinh mấy độ không tai họa,
Nội trị yên bình nghiệm dâu xanh.
Mười tám năm trời tiêu khổ hạn,
Hai mươi chùa viện rạng quang minh.
Phong trần đào luyện nên tuệ quả,
Phật đường đắc đạo chứng tu thành.)
Bài 2
Chớ vì việc nhỏ mọn mà oán trách bậc quân vương,
Mấy năm trời chịu khổ như cung Trường Môn, đức lại càng tỏ rạng.
Mây che phủ khắp ruộng dâu, thực là duyên do trời tác hợp,
Phúc lành ngưng kết, lại có ngày hiện ánh trùng quang.
Tự nhiên hạn hán báo điềm nhân như việc vua nhà Thương,[25]
Đâu cần đến Bao Công phải giả làm Ngọc hoàng.[26]
Ngày sau hoa sen nở
thành Phật quả,
Nước ngọt cam đề một nhành dương vẩy khắp.[27]
(Việc chi nhỏ mọn hận quân vương,
Trường Môn chịu khổ đức càng dương.
Mây lành che phủ duyên trời dựng,
Ngưng kết trùng quang phúc cát tường.
Hạn báo điềm nhân Thương hậu cũ,
Bao công chi bận giả Ngọc hoàng.
Ngày sau sen nở nên quả phật,
Cử nhân Hoàng Thúc Hội, hiệu Yên
Sơn bái đề.[28]
Mùa thu năm Nhâm Thân, niên hiệu Bảo Đại (1932), trụ
trì bản tự là Nguyễn
Duy Tiến kính chép
và khắc.
Sách
tham khảo:
1. Đại Việt sử
ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 3. Nxb KHXH, H.,1993.
2. Đại Việt sử
lược, quyển 2. Nxb TP.HCM, 1993.
3. Khâm định
Việt sử thông giám cương mục. Nxb GD, H.,2000.
4. Phạm Minh Đức, Về hai tấm bia ghi về Hội Hoa Nghiêm ở chùa Tảo Sách của Cúc Hương
Hoàng Thúc Hội. Tạp chí Hán Nôm 5(72)/2005.
5. Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Việt Nam , Nxb KHXH, H.,1985. 6. 後 李 聖 宗 時 陰 神 一 位 宮 妃 玉 譜 古 錄 AEa6/10.
7. 興 安 省 文 林 縣 如 瓊 總 如 瓊 社 玉 瓊 村 神 跡 AEa3/14.
8. 興 安 省 文 林 縣 大 慈 總 葛 盧 社 神 跡 AEa3/8.
9. 興 安 省 文 林 縣 同 舍 總 蜀 求 社蜀 求 村 神 跡 AEa3/9.
10. 興 安 省 文 林 縣 各 社 神 跡 AEa3/17
11. 太 平 省 延 河 縣 青 鄧 社 俗 例 AFa5/6.
12. 宋 史
[1]
Ỷ Lan phu nhân (?-1117), họ Lê,
không rõ tên thực là gì, người làng Thổ Lỗi (Nay thuộc xã Dương Xá, huyện Gia
Lâm, Hà Nội).
[3]
光華復旦 Quang hoa phúc đán: Giáng sáng đẹp rực rỡ,
tráng lệ.
[4]
Nguyên văn: 魚 骨 女 裝. Các bản thần tích đều có mô-típ giống
chuyện Tấm Cám “Ỷ Lan tên tục
là nàng Tấm, ... nàng Tấm chôn xương cá dưới chân giường, quá 100 ngày đào lên thì được bộ hài
và quần áo đẹp, có con chim lạ cắp đôi hài của Tấm
bay đến kinh chỗ vua Lý Thánh Tông, ... sau nhà vua gặp nàng lúc dựa gốc lan,
đưa về kinh thử hài thì vừa in, Tấm cũng nhận ra hài cũ của mình ...”. Ý chỉ vẻ đẹp của
người con gái từ bộ nữ
trang do thần tiên hóa từ xương cá ra. (Thư mục tham khảo, Sđd)
[5] “lại phát tiền kho nội phủ chuộc những gái nghèo đã bị cầm đợ mà gả cho người không có vợ”.(KĐVSTGCM,
Chính biên, quyển 3)
[7] “Kỷ Dậu11, [Thiên Huống Bảo Tượng] năm thứ 2 [1069], (Từ tháng 7 về sau là niên hiệu Thần Vũ năm thứ 1; Tống Hy Ninh năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, vua thân đi đánh Chiêm Thành, bắt được
vua nước ấy là Chế Củ và dân chúng 5 vạn người. trận này vua đánh
chiêm thành mãi không được, đem quân về đến châu Cư Liên, nghe tin
Nguyên phi giúp việc nội trị, lòng dân [5a] cảm hoá hoà hợp. Trong cõi vững vàng, tôn sùng
Phật giáo, dân gọi là bà Quan Âm, vua nói: "Nguyên
phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay
sao?". Bèn quay lại đánh nữa, thắng được.”(ĐVSKTT-BK-QIII)
[8] “Đường
thư : Cung Thượng Dương được xây cất giữa niên hiệu Thượng Nguyên đời vua Đường Túc Tông. Vua Đường Cao Tông ở cung ấy, để dự thính triều chính”. Do đó, triều nhà Lý lấy chữ "Thượng Dương" đặt tên cho cái cung của bà Thái hậu ở, Thái hậu ở trong, buông rèm kín cùng xử lý việc nước, vì Thái hậu ở cung ấy nên gọi là Thái hậu Thượng Dương”.( Ngự chế Việt sử tổng vịnh)
[9] “Ất Mùi, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 6 [1115], (Tống Chính Hòa năm thứ 5). Mùa xuân, tháng giêng, phong ba hoàng hậu là Lan Anh, Khâm Thiên, Chấn Bảo và 36 cung nhân, Bấy giờ vua không có con trai, cho nên lập nhiều hoàng hậu và cung nhân, làm đàn chạy để cầu tự. Thái hậu dựng chùa thờ Phật, trước sau hơn trăm chùa. (Tục truyền rằng thái hậu hối về việc Thượng Dương thái hậu và các thị nữ vô tội mà bị chết, làm nhiều chùa Phật để sám hối rửa oan).(Sđd)
[11] Nói Thái hậu họ Dương không phải mẹ đích
của Lý Nhân Tông. Thần tích đền Phú Thị, nơi có đền thờ Nguyên phi Ỷ
Lan. Chúng tôi không được tiếp xúc với bản thần tích này, tuy vậy chúng tôi đã
tham khảo các bản thần tích khác về Thái hậu Ỷ Lan hiện có tại Viện nghiên cứu
Hán Nôm với nội dung tương tự. (X. Thư mục tham khảo)
[12] Các bản thần tích đều chép khi Ỷ Lan ở ruộng dâu thì trên
đầu như có mây rủ che, là điềm phú quý.
[13] “Quý Mão, [Chương Thánh Gia Khánh] năm thứ 5 [1063], (Tống Gia Hựu năm thứ 8).Bấy giờ vua xuân thu đã nhiều, tuổi 40 mươi mà chưa có con trai nối dõi, sai Chi hậu nội nhân Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa, sau đó Ỷ Lan phu nhân có mang,
sinh hoàng tử Càn Đức tức Nhân Tông”(Sđd).
[14] Nguyên văn: 彼 此 益 以 相 形 Bỉ thử ích dĩ tướng hình. Theo mạch văn đối chiếu cùng các bản thần
tích thì Dương hậu ngầm mưu giả có thai để tráo đổi, đoạt con của Ỷ Lan. (Thần tích, xem thư mục tham khảo)
[15]長 門 Trường Môn: Tên một cung điện dưới thời Hán Vũ Đế, là nơi giam cấm các
phi tần bị thất sủng.
[16]包 公 劉 李 案: Bao Công Lưu Lý án: Tức vụ án thời Tống Nhân Tông, Bao Công xử án vụ Li miêu hoán chúa, Lý phi thông mưu với
Quách Hòe tráo đổi con trai của Lưu Chiêu nghi để giành ngôi, sau con trai của
Chiêu nghi lên ngôi, sự việc phát giác, Bao Công xử án cho tìm lại họ Lưu để
minh oan.
[17]震 宮 日 出Chấn cung nhật
xuất: Cung Chấn, trong quẻ Dịch chỉ ngôi của Hoàng Thái tử, đây chỉ Lý Nhân
Tông.
[18]旱 魃 Hạn bại: Tên vị thần chủ việc nắng hạn, tức chỉ việc hạn hán, tai ương.
Ý cả câu nói thuyết “thiên nhân cảm ứng”,
do chính sự có điều u ám bất minh dẫn đến thiên tai.
[19]桑 林Tang lâm: Địa
danh, thời vua Thang, 7 năm hạn hán, vua lấy năm việc để tự trách, đến Tang Lâm
cầu đảo. Đoạn này nói trời hạn hán, Lý Nhân Tông theo phép cổ tự trách bản
thân, tìm lỗi lầm để cầu giải hạn.
[20] “... Vua và mẹ hận
Dương hậu trá mưu, liền giết những cung tần cùng mưu gian 72 người, chôn theo
lăng Thánh Tông Dương thị vì trước hại mẹ mình. Lê thị ngăn can không được liền
dựng 72 ngôi chùa lớn để tụng kinh... ” (Thần tích AEa3/17)
[21] Qúy Sửu, Thái Ninh năm thứ 2 [1073], (Tống Hy Ninh năm thứ 6). Bấy giờ mưa dầm, rước phật Pháp Vân1 về kinh để cầu tạnh. Cúng thần núi Tản Viên. Giam Hoàng thái hậu họ Dương, tôn Hoàng thái phi làm Linh [7a]
Nhân hoàng thái hậu. Linh nhân có tính ghen, cho mình là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu với vua rằng: "Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú qúy người khác được hưởng thế thì sẽ để mẹ già vào đâu?". Vua bèn sai đem giam Dương thái hậu và 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng Thánh Tông.(Sđd); Thần tích chép là 72 người.(Sđd)
[22] 稗 Bài: 1. Cỏ tạp; 2. Thông xưng của tiểu thuyết, tạp gia. Đây chỉ các ghi
chép bằng Quốc âm trong các bản Thần tích. Tạm hiểu là: không nên vì coi những
điều chép của Thần tích là vụn vặt, tạp nhạp mà lược bỏ đi. Xem xét thấy nó hợp
tình hợp lý hơn là những lời luận trong chính sử. Chúng tôi tạm thông dịch là những điều dư thừa hỗn tạp của văn chương.
[23] Mười tám năm: Tức là 18 năm Ỷ
Lan phu nhân bị Hoàng hậu Thượng Dương sàm tấu, bị giam cầm nơi lãnh cung.
[24] “Thái hậu dựng chùa thờ Phật, trước sau hơn trăm chùa.” (Sđd). Đây thì cho là hơn hai mươi廿 餘 寺 所.
[26] Bao công xử án Quách Hòe, hoạn quan chủ mưu tham gia vụ án Lưu Lý. Quách Hòe thề khi nào chết gặp Diêm
vương mới khai sự thật. Bao công sai mọi người thiết đặt công đường như Âm ti,
giả làm Diêm vương phán xét sự dương thế, khiến Quách phải khai. Đây lại ghi là
giả Ngọc hoàng, hoặc giả giai thoại có dị bản chăng; Thần tích chữ Nôm chép
trong các bản tục lệ AFa5/6, AEa3/17 cũng có mô-típ tương tự: Vua Nhân Tông cho
thiết đặt cảnh Thiên đường địa ngục để lấy cung khai của các cung nữ đồng mưu với
Dương hậu.
[27] Dùng lại điển ví Ỷ Lan phu nhân như
Phật Quan âm, dùng nhành dương liễu rẩy nước Cam Lộ khắp nhân gian.
[28] Hoàng Thúc Hội (1870-1938) tự là Gia Phủ, hiệu Cúc Hương,
biệt hiệu Yên Sơn, người Hạ Yên Quyết, huyện Từ Liêm. Đỗ Cử nhân năm 1906,
không làm quan, ở nhà dạy học. Để
lại nhiều tác phẩm, thơ văn đề vịnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét