萬年碑記
萬年是何年! 萬歲是幾歲! 古人已有如此之言後人應當如何為.
蓋以設萬之數以比歲月之久與天地之長也. 不是以百年千年億年萬年兆年秭年為限哉.
然而萬字之數其數是圓滿正中環環福果.從一而十十而百百而千千而萬焉.
如佛家之卍, 像法輪常轉之形,吉祥之及於萬民萬國; 教法之于無窮無盡也. 詩曰:
虎拜稽首,天子萬年[1];
漢籍載: 雍容垂拱,永永万年.
此之意也. [2]
昇龍古都河內新都. 西湖是都城名勝迦藍寺院處處有之. 春早之衛湖村今西湖春羅坊是大都之名勝. 春早衛湖之萬年寺亦是名勝之靈跡也. 本寺還有古聯一對曰:
南無大慈悲金碧熒煌三寶座;
北圻此名勝香花頂戴十方民[3]. 考諸全書稽諸禪錄;徵於野史究於口傳[4].
又加實証旁計, 萬年寺李朝稱為萬歲由李太祖順天二年所命建[5].
後有李代慧生草堂辯才多名僧在此住持[6], 多次開場說法為皇家開示教典[7].
在寺曾有顯跡靈瑞. 如:戊辰天成一年五月六日神人見迹于萬歲寺; 己已天成二年冬十月朔萬歲寺階前天雨白米成堆[8];
新制丁亥年亥月亥日亥辰在萬年寺有吉祥風雲會聚焉.
歷自李朝開國建寺釋教崇奉此之謂興耶! 迨諸後代儒風流俗此之謂衰耶! 於斯寺乃依然[9].
後世幾升沉江山多換改, 從兵火干戈從桑田蒼海, 風雨多時寺今已變然而本願泰國安民救迷渡苦又不異, 既得千年已千年[10].
寺改成萬年是何年不徵也. 可為後代萬歲是至尊之稱人人避諱而改之號之為萬年乎. 寺名如此意為國祚延長百姓康樂也. 人生於世上物在于宇內孰得萬年焉得萬歲乎.
只謂華言浮美而已矣乎. 不是也. 深深之處隱隱之微是此名此寺,
是寺是道, 其道在人心. 民彝物則道理綱常同攸萬古.
是慈父之金光恆照[11],
代代渡苦處處救迷也.
實自無始無終佛心已在; 實於十方九有妙法已恆. 只因心迷見執而不覺悟而分差別也. 創於前續於後繼往開來而斯道永傳,
斯寺並於泰山盤石, 天理人心協光明于萬年. 或世態人情是非或道脈興衰否泰, 燃如日月明暝萬年萬年不缺也.
壬申年間順人民所願職色所求香山峝主正派天廚上座釋上圓下成受此寺住持. 還因法緣佛事委任與第五法子大德釋明慧繼管住持萬年寺.
大德俗姓阮在家曰名明, 法字明慧[12].
本貫國威柴山瑞圭人, 父阮貴公字明璨府君; 母阮氏字福多. 本是令族良家純真慕道. 童年出家受法脈天廚香跡.
從任尊師付托下山望闕惓惓. 意弘揚法脈培築禪家. 師徒之道見苦分賒, 法乳之功萬千一答. 此時年少道未精學未馴而離祖脈, 此會鴛雛翼未長羽未多而分群集. 世態多端更改人心覆蓋難量初基仁址樸陋鄉田寄身於繁華. 是非雜亂古寺荒涼若盡恆心信施近空. 然其人其行堅之貞之. 有修補就修補多為多少為少一
年一分一月一段. 或時三關建立或期祖室增培俾風光塽蕩景致康莊愿寺與國家長久.
丁亥年沿湖開路寺地截耗. 大德勸化興工設木牆包裝畫雕密教之奇. 內鑿水池放魚外開木觀望鏡. 勢成陰陽對偶風水展開. 內外湖池月光朗朗, 右天瑞聖祖塔左寶閣觀音樓. 中正金身坐菩提覺慧放于無盡.
庚寅年豎玉殿造玉宮.
十方恆產大力弘施 上有三寶加持下有檀那信恭. 實深圖遠智其人真願力精純其行.
心清品玉價潔純冰; 道行勤修止精止一纔到此度後達此程. 鳩工集匠煉玉尋人,
雕成大日如來一座寶玉, 九品蓮華二柱轉環. 還有如意大玉一塊迴運. 願聖制萬代願國勢萬年願生民萬劫安樂. 碩功洪德代代有之 然一世之功德何為不記載以表明鑑于後. 因以此功此德前願三寶証明後願善繼善述. 遣徵余言, 有以銘永刻留人心也
演國文:
|
時
聖制萬萬年歲在辛卯季冬
河內西湖春羅萬年寺住持國威柴山瑞圭人香山第五法子大德釋明慧敬立.
年制庚辰科北字舉人翰墨待召古驩南塘阮華園子敬撰.
VẠN NIÊN BI KÝ
Vạn Niên là bao nhiêu năm? Vạn Tuế là bao nhiêu tuổi? Người xưa
đã có lời vậy. Hậu thế phải suy xét làm sao. Ấy là lấy cái số Vạn để chỉ sự dài
lâu cùng năm tháng vậy, sự trường tồn cùng trời đất vậy. Chứ đâu phải lấy cái hạn
của thời gian trăm năm, nghìn năm, ức năm, vạn năm, triệu năm, tỷ năm thôi đâu.
Mà số Vạn ấy là cái số tròn đầy viên mãn phúc quả chính trung. Một mà mười, mười
mà trăm, trăm mà nghìn, nghìn mà vạn. Như chữ Vạn của Phật gia卍, như hình Pháp luân xoay mãi không ngừng vậy[13].
Là ý lan tỏa ra vạn dân vạn quốc, cho cát khánh, phúc tường như hằng hà sa số,
đến muôn nơi, đến muôn đời vậy. Kinh
Thi rằng: Hổ ghé đầu lậy, chúc
vua muôn tuổi[14];
Hán thư chép: Ung dung rủ áo, mãi mãi vạn năm[15]. Là ý này đây.
Thăng Long, là cổ đô. Hà Nội, là tân đô. Hồ Tây là danh thắng của đô
thành. Già lam tự viện kể đâu cho hết. Mà thôn Vệ Hồ xã
Xuân Tảo (kim Tây Hồ, Xuân La phường) bên Hồ Tây, lại là danh hương của
đại đô. Chùa Vạn Niên của thôn Vệ Hồ, Xuân Tảo
là linh tích của danh thắng vậy. Chùa cổ còn câu đối rằng:
Bắc kỳ đây danh thắng, hương hoa đội đức dân thập phương[16]
Khảo trong Toàn thư, kê trong Thiền lục; Trưng nơi Dã sử, cứu nơi Khẩu truyền[17].
Lại thực chứng, bàng kê. Chùa Vạn Niên, thời Lý xưng là chùa Vạn Tuế, do Lý
Thái Tổ cho xây dựng năm Thuận Thiên thứ hai (1011)[18].
Sau các danh tăng như Huệ Sinh, Thảo Đường, Biện Tài[19] từng
ở đấy, để thuyết pháp giảng đạo cho Hoàng gia[20].
Chùa có nhiều linh tích kỳ lạ. Ngày 6 tháng 5 năm Mậu Thìn, niên hiệu Thiên
Thành năm thứ 1(1028), có dấu vết của thần nhân hiện ra ở chùa Vạn Tuế. Ngày mồng
1, tháng 10, mùa đông năm Kỷ Tỵ, niên hiệu Thiên Thành năm thứ 2 (1029), trời
mưa gạo trắng thành đống trước bậc thềm chùa Vạn Tuế[21]. Lại giờ Hợi, ngày Hợi, tháng Hợi, năm Đinh Hợi(2007),
ở chùa Vạn Niên có phong vân cát tường hội tụ.
Trải từ Lý triều dựng nước lập chùa, Thích giáo sùng phụng. Hưng đấy ư. Đến
các đời sau, Nho phong lưu hành. Suy đấy ư. Chùa vẫn y nhiên[22].
Hậu thế bao thăng trầm, non sông bao biến đổi. Từ binh lửa chiến tranh, từ tang
thương dâu biển. Mưa gió là bao phen, chùa nay đã khác. Mà nguyện cầu quốc thái
dân an, cứu mê độ khổ thì không khác. Mới được có nghìn năm[23].
Chùa đổi thành Vạn Niên từ năm nào không rõ. Có lẽ về sau, Vạn Tuế là từ
để tôn xưng ngôi chí cao[24]
nên người ta kiêng mà đổi ra là Vạn Niên chăng.
Tên chùa như thế, ý muốn mong cho vận nước được dài lâu, cho sinh dân được
khang thọ vậy. Nhưng ở đời người ta, cái gì mà được vạn năm, ai mà được vạn tuổi.
Phải chăng lời chúc cầu hoa mỹ đấy thôi ư! Không phải vậy đâu. Mà sâu xa cốt tủy
là tên ấy gắn với chùa ấy, chùa ấy gắn với đạo ấy, đạo ấy còn mãi ở lòng người
vậy. Dân di vật tắc, luân lý cương thường, đạo đồng muôn thủa là ở đó. Đó là
nói đạo vàng của Từ phụ[25]
ta được hoằng dương, cứu mê độ khổ khắp cả muôn nơi, trải cả muôn đời vậy. Thực
từ vô thủy vô chung, Phật đạo mầu nhiệm đã có. Thực khắp thập phương cửu hữu,
Phật tâm hằng tại đã luôn. Chỉ vì người đời mê lầm mà không nhận ra, bởi vì chấp
kiến mà phân sai biệt đó. Người xây dựng đời trước, người kế tục đời sau mà đạo
này còn mãi mãi, chùa này còn vững bền, thiên lý nhân tâm soi tỏ đến muôn vạn
năm vậy. Dù cho cuộc đời có biến đổi, dù cho dòng đạo có hưng suy mà vạn niên vẫn
vạn niên không mòn vậy.
Nhận lời thỉnh của chính quyền và nhân dân, năm Nhâm Thân (1992) Động chủ
Hương Sơn, Thiên Trù chính phái Thượng tọa Thích thượng Viên hạ
Thành nhận lời trụ trì bản tự. Ủy cho đệ ngũ pháp tử là Đại Đức Thích Minh Tuệ[26]
quản nhiệm trụ trì chùa Vạn Niên.
Đại đức tục tính Nguyễn,
tại gia viết Danh Minh, pháp tự Minh Tuệ. Bản quán Thụy Khuê, Sài Sơn, Quốc Oai
nhân. Phụ Nguyễn quý công tự Danh Xán phủ quân, mẫu Nguyễn thị tự Phúc Đa. Vốn
dòng lương gia thuần hậu, mộ đạo chân tâm.
Xuất gia từ thủa hình đồng, thụ giới pháp dòng Thiên Trù Hương
Tích. Tự khi nhận ủy nhiệm của tôn sư, lòng thắc thỏm trông về núi cũ. Ý những
hoằng dương pháp mạch, bồi trúc thiền gia. Tình sư đồ phải lúc chia xa, ơn pháp
nhũ mong muôn vàn đền một. Thiếu niên đạo học chưa thuần sớm lìa mạch tổ, chim
non cánh lông chưa đủ côi cút xa bầy. Lại gặp thời buổi canh cải đa đoan, hẵng
còn sơ cơ nền móng. Tính người chân quê giản dị, đem thân đến chốn thị phi. Đô
hội phồn hoa, chùa cũ hoang tàn như hết, hằng tâm tín thí gần không. Vẫn một
lòng bền chí vững tâm. Ít sửa ít, nhiều sửa nhiều. Năm nay sửa một, năm sau sửa
một. Lúc dựng Tam quan, khi xây Tổ thất. Khiến cảnh chùa ngày một khang trang vững
trãi, ý những cùng non nước muôn thu. Năm Đinh Hợi (2007) làm đường quanh hồ
Tây, diện tích chùa bị hao mòn. Đại đức khuyến hóa, làm thêm tường bao gỗ, họa
thiết Mật giáo chi kỳ, trong thì đào ao, dựng cửa Mộc trông ra hồ lớn. Thế
thành âm dương đối ngẫu. Phong thủy trong ngoài được rạng tỏ lòng trăng. Bên
thì Thiên Thụy Thánh tổ tháp, bên thì gác báu Quan âm lâu. Chính giữa Kim thân
tọa bồ đề, chiếu hào quang ư vô tận.
Năm Canh Dần (2010) dựng
ngọc điện, tạo ngọc cung. Thập phương hằng sản, đại lực hoằng thi. Trên có Tam
bảo gia trì, dưới có Đàn na tín cúng. Phải là người thâm đồ trí viễn, phải là
người nguyện lực tinh thuần. Tâm thanh phẩm ngọc, giá khiết thuần băng; Đạo hạnh
cần tu, chỉ tinh chỉ nhất. Mới nên đức độ ấy, công trình ấy. Tuyển công tập thợ,
kén ngọc tìm người. Điêu khắc thành Đại nhật Như lai một tòa ngọc báu. Cửu phẩm
liên hoa hai trục vần xoay. Lại thêm Như ý ngọc một khối luân chuyển. Nguyện
thánh chế muôn vạn đại, nguyện thế nước muôn vạn năm, nguyện sinh dân vạn kiếp
an lạc. Đại công đại đức, đời nào cũng có. Nhưng công đức của một đời sao không
nhắc đến. Để công trước được nhớ ghi, để gương sáng được soi mãi về sau. Nhân
dĩ thử công thử đức, nguyện cho Tam bảo trên dưới chứng minh. Nguyện cho đời
sau kế tiếp. Khiển trưng dư ngôn. Nhân có lời minh ghi vào lòng mãi mãi:
Vạn Niên chùa cũ năm
nào
Tây hồ thắng tích biết bao công trình
Dựng từ triều Lý sáng danh
Nghìn năm trở lại nhật tinh đổi dời
Công lao đời trước còn dài
Vạn năm còn bởi tại người nối sau
Bản sư Thích ca Ni mầu
Đệ tử nối pháp non sâu Thiên Trù
Viên Thành nhất đẳng tôn sư
Dòng truyền Đạo Hạnh thánh Từ Sài Sơn
Thụy Khuê làng đó một thôn
Nguyễn Danh dòng họ vốn truyền
lương gia
Pháp danh Minh Tuệ gần xa
Chân tâm nhập đạo kể đà xiết bao
Tôn sư ủy nhiệm thác trao
Vạn Niên nghiệp đức trông vào mình con
Một thân chèo lái cô đơn
Thiền đăng một ngọn
khêu bên Tây hồ
Chùa xưa còn được đến
giờ
Là nhờ công quả đợi chờ
bao năm
Trên Tam bảo dưới muôn
dân
Lại thêm Đại đức bội
phần công lao
Công lao ghi tạc thế
nào
Để cho con cháu trông
vào mà noi
Mấy lời mượn bút thảnh
thơi
Ghi câu công đức muôn
đời còn đây
Vạn năm sau vẫn đất
này
Vẫn còn chùa cũ vẫn cây bên hồ
Mong cho non nước
nghìn thu
Muôn dân còn đó con đò
độ mê
Vạn niên Vạn tuế là gì
Là còn công đức vẫn ghi trong lòng.
Thời
Thánh chế
vạn vạn niên tuế tại Tân Mão quý đông (2011).
Hà Nội - Tây Hồ - Xuân La, Vạn Niên tự Trụ trì, Quốc Oai -
Sài Sơn - Thụy Khuê nhân, Hương Sơn đệ ngũ pháp tử, Đại đức Thích Minh Tuệ kính
lập.
Niên chế Canh Thìn khoa Bắc tự Cử nhân, Hàn mặc đãi triệu,
Cổ Hoan -Nam Đường Nguyễn - Hoa Viên tử, kính soạn.
[4] Toàn thư: Đại Việt sử ký toàn thư; Thiền lục: Thiền uyển tập anh; Dã sử: Đại Việt sử lược;Khẩu truyền: Tây Hồ chí.
[5] 辛亥順天二年城內左起大清宮右起萬歲寺(大越史記全書)Tân Hợi, [Thuận Thiên] năm thứ 2 [1011],
Năm ấy, ở trong thành bên tả dựng cung Đại Thanh, bên hữu dựng chùa Vạn Tuế. (Đại Việt sử ký toàn thư)
[6] Huệ Sinh: tức Lâm Huệ Sinh, từng làm chức
Tăng thống thời Lý Thánh Tông; Thảo Đường: thiền sư Thảo Đường, thông hiểu Phật
pháp. Lưu lạc sang Chiêm Thành. Trong chiến tranh Việt – Chiêm, sư bị bắt làm
tù binh, sau được Lý Thánh Tông phát hiện tài năng phong làm Quốc sư, mở ra Thiền
phái Thảo Đường thời Lý, nhiều Hoàng thân quốc thích nhà Lý đến theo học đạo. Tây Hồ chí chép, Sư Thảo Đường ở chùa
Khai Quốc và cả chùa Vạn Tuế; Biện Tài: Thiền sư người Quảng Châu, Trung Quốc
vân du sang phương Nam, được nhà vua cho ở chùa Vạn Tuế để sửa sách chép kinh.
[7] Sách Thiền
uyển tập anh ghi lại, nhiều lần các vua nhà Lý, Thái hậu, hoàng hậu, quan lại
đến tham học Phật pháp của các danh tăng ở đây. Kể cả các danh tăng từ nơi khác
cũng đến đây để lĩnh ngộ yếu chỉ Thiền tông, như Tăng tống Khánh Hỷ, đến tham học
với Thiền sư Biện Tài.
[8] ư戊辰天成一年五月六日神人見迹于萬歲寺Mậu Thìn, [Thiên Thành] năm thứ 1 – Thuận Thiên thứ 19 [1028], tháng 5,
ngày 6, có dấu vết của thần nhân hiện ra ở chùa Vạn Tuế; 己已天成二年冬十月朔萬歲寺階前天雨白米成堆(大越史記全書)Kỷ Tỵ, niên hiệu Thiên Thành năm thứ 2
[1029], Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, trời mưa gạo trắng thành đống trước bậc
thềm chùa Vạn Tuế. (Đại Việt sử ký toàn
thư).
[9] Thời Lý – Trần sùng phụng Phật giáo như
là Quốc giáo. Sang các đời Lê – Nguyễn về sau, suy tôn Nho học, đạo Phật không
còn là Quốc giáo, nhưng lại càng lan truyền mạnh mẽ trong đời sống tâm linh
nhân dân, đến nay nước ta vẫn là nước có gần 90% dân số theo đạo Phật thuộc các
hệ phái.
[10] Năm 2010, Việt Nam mới tổ chức đại lễ Kỷ
niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, tính từ khi Lý Thái Tổ định đô ở Thăng Long,
chùa Vạn Niên xây dựng từ 1011, thời Lý Thái Tổ, cũng chừng ngần ấy tuổi 999 năm.
[12] Đại đức Thích Minh Tuệ, sinh năm 1971, tục
danh Nguyễn Danh Minh, nguyên quán Thụy Khuê, xã Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Tây (nay
thuộc về Hà Nội). Bố tên là Nguyễn Danh Sán, mẹ là Nguyễn Thị Đa. Xuất gia năm
1985, thụ giới Sa di năm 1990, thụ giới Tỳ kheo năm 1991. Năm 1992 về trụ
chùa Vạn Niên.
[13] Chữ
Vạn của nhà Phật: 卍
[17] Toàn thư: Đại Việt sử ký toàn thư; Thiền lục: Thiền uyển tập anh; Dã sử: Đại Việt sử lược;Khẩu truyền: Tây Hồ chí.
[18] 辛亥順天二年城內左起大清宮右起萬歲寺(大越史記全書)Tân Hợi, [Thuận Thiên] năm thứ 2 [1011],
Năm ấy, ở trong thành bên tả dựng cung Đại Thanh, bên hữu dựng chùa Vạn Tuế. (Đại Việt sử ký toàn thư)
[19] Huệ Sinh: tức Lâm Huệ Sinh, từng làm chức
Tăng thống thời Lý Thánh Tông; Thảo Đường: thiền sư Thảo Đường, thông hiểu Phật
pháp. Lưu lạc sang Chiêm Thành. Trong chiến tranh Việt – Chiêm, sư bị bắt làm
tù binh, sau được Lý Thánh Tông phát hiện tài năng phong làm Quốc sư, mở ra Thiền
phái Thảo Đường thời Lý, nhiều Hoàng thân quốc thích nhà Lý đến theo học đạo. Tây Hồ chí chép, Sư Thảo Đường ở chùa
Khai Quốc và cả chùa Vạn Tuế; Biện Tài: Thiền sư người Quảng Châu, Trung Quốc
vân du sang phương Nam, được nhà vua cho ở chùa Vạn Tuế để sửa sách chép kinh.
[20] Sách Thiền
uyển tập anh ghi lại, nhiều lần các vua nhà Lý, Thái hậu, hoàng hậu, quan lại
đến tham học Phật pháp của các danh tăng ở đây. Kể cả các danh tăng từ nơi khác
cũng đến đây để lĩnh ngộ yếu chỉ Thiền tông, như Tăng tống Khánh Hỷ, đến tham học
với Thiền sư Biện Tài.
[21] ư戊辰天成一年五月六日神人見迹于萬歲寺Mậu Thìn, [Thiên Thành] năm thứ 1 – Thuận Thiên thứ 19 [1028], tháng 5,
ngày 6, có dấu vết của thần nhân hiện ra ở chùa Vạn Tuế; 己已天成二年冬十月朔萬歲寺階前天雨白米成堆(大越史記全書)Kỷ Tỵ, niên hiệu Thiên Thành năm thứ 2
[1029], Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, trời mưa gạo trắng thành đống trước bậc
thềm chùa Vạn Tuế. (Đại Việt sử ký toàn
thư).
[22] Thời Lý – Trần sùng phụng Phật giáo như
là Quốc giáo. Sang các đời Lê – Nguyễn về sau, suy tôn Nho học, đạo Phật không
còn là Quốc giáo, nhưng lại càng lan truyền mạnh mẽ trong đời sống tâm linh
nhân dân, đến nay nước ta vẫn là nước có gần 90% dân số theo đạo Phật thuộc các
hệ phái.
[23] Năm 2010, Việt Nam mới tổ chức đại lễ Kỷ
niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, tính từ khi Lý Thái Tổ định đô ở Thăng Long,
chùa Vạn Niên xây dựng từ 1011, thời Lý Thái Tổ, cũng chừng ngần ấy tuổi 999 năm.
[24] Thời phong kiến thường xưng tụng Hoàng
thượng là Vạn tuế hoặc Vạn tuế gia, …. Có lẽ vì thế về sau, tránh húy phạm ngôi
chí tôn nên chùa đổi thành Vạn Niên chăng ?
[26] Đại đức Thích Minh Tuệ, sinh năm 1971, tục
danh Nguyễn Danh Minh, nguyên quán Thụy Khuê, xã Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Tây (nay
thuộc về Hà Nội). Bố tên là Nguyễn Danh Sán, mẹ là Nguyễn Thị Đa. Xuất gia năm
1985, thụ giới Sa di năm 1990, thụ giới Tỳ kheo năm 1991. Năm 1992 về trụ
chùa Vạn Niên.
quá tuyệt vời, tri ân tác giả đã bò nhiều tâm tư vào đây. Đã gọi là blog yêu hán - nôm mà chỉ đọc toàn bản dịch chữ quốc ngữ thì chán lắm!!!
Trả lờiXóa