Thơ Trần Minh Tông
|
|
夜雨
秋氣和燈失曙明,
碧蕉窗外遞殘更。 自知三十年前錯, 肯把閒愁對雨聲。 |
Dạ vũ
Đèn soi thu khí rạng mờ
Ngoài song chuối biếc phất
phơ canh tàn
Biết sai ba chục năm tròn
Đành đem sầu muộn gửi làn mưa đêm
|
甘露寺
聳翠攢蒼入望多,
溪西月影轉簷斜。 隔林啼鳥尤岑寂, 一徑古松初墜花。 |
Cam Lộ tự
Xanh vút trời xanh mắt ngập
tràn
Khe tây nắng rọi bên thềm
xiên xiên
Cách rừng chim hót quạnh
thêm
Tùng xưa một lối hoa mềm
cánh rơi
Ngập tràn xanh vút trời
xanh
Nằng chiều thềm rọi bên ghềnh
suối Tây
Cách rừng chim hót quạnh
thay
Lối xưa tùng cũ vơi đầy
cánh hoa
|
十一月過泊詠山曉住
月落小窗船,
巖花冷不眠。 曙分山失影, 陽伏水生煙。 往事須臾際, 成人三十年。 不言恍若醒, 坐對一爐前。 |
Thập nhất nguyệt quá bạc Vịnh Sơn hiểu trú
Trăng rơi song nhỏ rọi thuyền
Đầu non hoa lạnh chẳng yên
giấc dài
Rạng(sáng) soi hình núi mất
rồi
Dương sinh mặt nước nhạt
hơi sương mờ (mù)
Việc xưa chốc lát trôi qua
(nhơ mơ)
Nên người đã được hơn ba chục
rồi
Tỉnh ra hoảng hốt không lời
Một mình lặng bóng ngồi soi
bếp hồng
|
送北使撒只瓦,趙子期
馹騎行行瘴霧深,
海邊光照使星臨。 四方專對男兒志, 一視同仁天子心。 越國山河供傑句, 周家雨露播綸音。 明朝相隔雲南北, 今日休辭酒滿斟。 |
Tống bắc sứ Tát Chỉ Ngoã, Triệu Tử Kỳ
Ngựa trạm hàng hàng vượt mù
sâu
Biên cương sao sứ rạng in mầu
Bốn phương giao thiệp nam
nhi chí
Thiên tử lòng nhân đối với
nhau
Non sông nước Việt dâng thơ
đẹp
Mưa móc triề Chu tưới thấm sâu
Mai này xa cách mây nam bắc
Đầy rượu hôm nay chớ chối
nhau
|
月盎山寒堂
宿得非心未出塵,
戲穿百衲半僧身。 滿山花色春三月, 一枕泉聲秋八分。 只恐世間無勝境, 莫言天下欠閒人。 此翁煉得心如鐵, 不復梨花入夢頻。 |
Nguyệt Áng sơn hàn đường
Lòng phi hiểu chửa thoát trần
Dùa mang bá nạp tăng nhân nửa
vời
Hoa xuân ba tháng khắp nơi
Tiếng thu bên gối suối chơi
cung đàn
Chỉ e cảnh đẹp thế gian
Đừng lo thiên hạ người nhàn
hiếm hoi
Ông đây lòng luyện thép tôi
Chẳng còn vương mộng việc đời
hoa lê
|
挽法螺尊者題青梅寺
唾手塵寰以了緣,
覺皇金縷得人傳。 青山蔓草棺藏履, 碧樹深霜殼脫蟬。 夜掩講堂今古月, 晚迷丈室有無煙。 相投針芥嗟非昔, 琢就哀章淚泫然。 |
Vãn Pháp Loa tôn giả Thanh Mai tự
Xoa tay dứt nợ trần duyên
Giây vàng nối đạo phép
truyên Giác vương
Non xanh cỏ dép quan tàng
Sương dày cây biếc khẽ
khàng thoát ve
Giảng đường xưa ánh trăng
che
Trượng đường mờ tỏ đi về
khói bay
Than ôi kim cải khác thay
Sửa sang vần khúc dãi bày lệ
rơi
|
Thơ Trần Nghệ Tông
|
|
送北使牛亮
安南老宰不能詩,
空把茶甌送客歸。 圓傘山青瀘水碧, 隨風直入五雲飛。 |
Tống bắc sứ Ngưu Lượng
Lão tể An Nam thơ chẳng hay
Chỉ có trà suông tiễn khách
này
Tản viên non biếc dòng Lô
biếc
Cưỡi gió theo vào 5 sắc mây
|
幸嘉興鎮寄弟恭宣王
位極讒深便去官,
側身渡嶺入山蠻。 七陵回首千行淚, 萬里捫心兩鬢班。 去武圖存唐社稷, 安劉復睹漢衣冠。 明宗事業君須記, 恢復神京指日還。 |
Hạnh Gia Hưng trấn ký đệ Cung Tuyên Vương
Ngôi cao dèm lắm quan thôi
Lánh mình núi vắng về nơi
quê mùa
Bảy Lăng quay ngắm lệ đưa
Nghĩ về muôn dặm đường xa bạc
đầu
Diệt Võ tồn Đường bảo nhau
An Lưu mũ áo giữ mầu Hán
gia
Minh tông sự nghiệp vua cha
Đế kinh khôi phục là ta trở
về
|
題司徒陳元旦祠堂
山僮扶輦曉衝泥,
纔到崑山日正西。 雨過泉聲穿石遠, 風搖竹影弗簷低。 鹽梅事去碑猶在, 星斗壇荒路轉迷。 寂寞洞天人羽化, 惟存行跡起餘悽。 |
Đề tư đồ Trần Nguyên Đán từ đường
Sơn đồng khiêng kiệu bùn
xông
Côn sơn vừa đến ráng hồng
chuyển tây
Qua mưa suối đá nước xoay
Gió đưa bóng trúc phất ngay
hiên nhà
Bia còn mơ muối đã qua
Đàn hoang tinh đẩu đã mờ lối
đi
Lặng im động vắng tiên quy
Còn duy dấu cũ gợi nghe
thương buồn
|
Thơ Mạc Đĩnh Chi
|
|
晚景
空翠浮煙色,
春藍發水紋。 墻烏啼落照, 野雁送歸雲。 漁火前灣見, 樵歌隔岸聞。 旅顏悲冷落, 借酒作微醺。 |
Vãn cảnh
Biếc không mây nổi
khói trời
Xuân xanh vẻ nước
vẽ vời hoa văn
Nắng chiều quạ đậu
kêu nhăng
Mây về nhạn tiễn
qua đồng chơi vơi
Lửa trài vịnh nước
thấy rồi
Khúc ca tiều phủ
cách đồi còn nghe
Mặt mày lữ khách
buồn ghê
Mượn vài chén rượu
say mê cảnh chiều
|
早行
蝴蝶醒殘夢,
商郎聞櫂歌。 張帆開夙霧, 擺櫂破晴波。 水入九江闊, 山歸三楚多。 濂溪何處是? 我欲訪煙蘿。 |
Tảo hành
Hồ điệp tỉnh giấc mộng tàn
Thương lang chèo tiếng hát
vang đưa về
Buồm dương mở đám sương che
Chèo buông phá rẽ một bề
sóng trong
Nước xuôi dòng cửu mênh
mông
Núi về tam sở một vùng nhấp
nhô
Liêm khê dòng ở nơi mô
Ta thăm viếng hỏi sương mờ
cỏ cây
|
Thơ Trần Quang Triều
|
|
題嘉林寺
心灰蝸角夢,
步履到禪堂。 春晚花容薄, 林幽蟬韻長。 雨收天一碧, 池凈月分涼。 客去僧無語, 松花滿地香。 |
Đề Gia Lâm tự
Nguội lòng giấc mộng sừng
sên
Thong dong dạo bước cửa thiền
dạo chơi
Xuân chầy hoa vẻ mảnh mai
Rừng u vang tiếng ve dài
ngân nga
Mưa tan trời biếc xa xa
Ao trong trăng dọi ánh ngà
lung linh
Khách về sư cũng lặng thinh
Còn hương đầy đất xung
quanh hoa tùng
|
舟中獨酌
秋滿山城倍寂寥,
家書不到海天遙。 人情疏密敲蓬雨, 世態高低拍漫潮。 松菊故留嗟異路, 琴書歲晚喜同條。 幾多磊塊胸中事, 且向樽前譬一驕。 |
Chu trung độc chước
Màu thu hiu hắt khắp non thành Trời bể tin nhà đợi vắng tanh Nết ở nhặt thưa mưa trước mái Mùi đời cao thấp sóng đầu ghềnh Bạn xưa tùng cúc chia đôi ngả Tuổi tác đàn thơ hợp với mình Trong dạ ngổn ngang nào tả xiết Hãy nâng chén rượu dốc lưng bình (Bài này cụ Hoàng giáp Đinh Văn Chấp dịch) |
Thơ Nguyễn Xưởng
|
|
送杜隱綦子還至零
論交如素舊,
同道復同年。 雅韻難諧俗, 首程莫問天。 官清霜壓屋, 詩好月歸船。 別後無如己, 思君一悵然。 |
Tống Đỗ Ẩn Cơ tử hoàn Chí Linh
Luận giao như bạn cũ
Đồng đạo lại đồng niên
Lời nhã khôn hào tục
Tiền trình chớ vấn thiên
Liêm quan sương nặng mái
Thơ tuyệt trăng treo thuyền
Chia tay không tri kỷ
Nhớ bạn sầu vô biên
|
仙遊山萬福寺
佛祖壯嚴侈萬金,
松風吹起海朝音。 雲藏古寺山南北, 塔倚層霄世古今。 汲澗歸僧行木杪, 聽鐘眠客倚花陰。 爛柯問著仙碁事, 石上苔花積漸深。 |
Tiên Du sơn Vạn Phúc tự
Cõi phật nguy nga tốn vạn
vàng
Tùng phong thổi động sóng
triều vang
Mây che chùa cũ non nam bắc
Tháp dựng trời cao đã mấy tầng
Múc nước sư về cây nhẹ lướt
Nghe chuông rợp bóngkhách
mơ màng
Mục búa hỏi chuyện tiên gia
cũ
Đá núi rêu hoa đã mọc lan
|
舟中即事
江闊潮平日又斜,
叩舷乘興答漁歌。 斷虹掛漢天收雨, 畫鷁沿流水寂波。 湖海十年知己少, 功名兩字歉人多。 扁舟塍欲尋張翰, 一味蒪鱸奈爾何。 |
Chu trung tức sự
Sóng bằng sông nước xế tà
Gõ thuyền hoạ khúc ngư ca vui vầy
Sau mưa cầu mọc đẹp thay
Vẽ theo màu nước chèo vầy sóng khơi
Mười năm bạn cũ đâu người
Công danh hai chữ dối đời lừa ta
Dương buồm Trương Hãn xa xa
Mùi thuần rau cá biết là tìm đâu
|
Thơ Nguyễn Ức
|
|
代謝御賜墨畫龍
道人來自崇天宮,
手提一幅糢糊龍。 云是:
重華聖人萬幾暇,
墨戲三昧時從容。 手中造化妙無蹟, 漁梭暫托陶家壁。 洞前獨帶濕雲歸, 鞭起屏翳驅霹靂。 春回五字溪流光, 印分三道珠凝香。 熱檀展拜謝天賜, 吟聲彷彿生公堂。 平生攀龍事則已, 一片禪心隨海水。 至尊若待為霖時, 只合形求築岩士。 |
Đại tạ ngự tứ mặc hoạ long
Sùng Thiên cung có đạo nhân
Tay cầm một bức hiện thân
tranh rồng
Rằng nhàn rỗi Trùng Hoa cung
Thung dung kỳ diệu bức rồng vẽ chơi
Trên tay tạo hoá tuyệt vời
Chiếc thoi ngư phủ gửi nơi họ Đào
Động tiên mây khói ra vào
Tiếng vang roi thét ào ào sấm ran
Xuân về năm chữ lưu quang
Dấu in ba lớp đường son hương thầm
Đốt trầm bái tạ thiên công
Thơ ngâm phảng phất ở trong công đường
Bình sinh giúp chúa đạo thường
Lòng thiền một tấm gửi nhường nước xuôi
Bậc chí tôn muốn giúp đời
Giả hình du ngoạn tìm người trúc nham
|
題顧步鶴圖
一堆老石竹參差,
孤鶴便翾未肯飛。 回首不須防在後, 網羅正是眼前機。 |
Đề cố bộ hạc đồ
Gò đá cũ trúc thưa dày
Một con hạc lẻ chẳng bay dùng dằng
Việc sau lọ có nên chăng
Chỉ e trước mắt lưới giang bẫy giàm
|
客舍和友人韻
窮居隨分寄衡茅,
惟恨梅花不入騷。 夜月屢驚烏繞樹, 春風幾度燕辭巢。 貧交食欖方知味, 世事摶沙只謾勞。 說到此情猶未信, 有如江水暮滔滔。 |
Khách xá hoạ hữu nhân vận
Số nghèo tuỳ phận mái tranh
Hoa mai chỉ tiếc vì mình chẳng hay
Sáng trăng quạ đậu quanh cây
Gió xuân mấy độ yến đây tổ lìa
Bần giao ăn trám biết thừa
Việc đời như năm cát kia mệt nhoài
Giãi lòng ai có tin ai
Chỉ như dòng nước chảy dài chiều hôm
|
Thơ Bùi Mộ
|
|
過 彭 澤
曉 日 開 新 霽
微 吟 擁 黑 裘
數 杯 彭 澤 酒
一 葉 杜 陵 舟
兩 岸 煙 雲 暮
孤 山 草 木 秋
客 中 無 限 思
江 水 自 東 流
|
Quá Bành Trạch
Trời tạnh khoe nắng
mới
Ngâm ngợi áo cừu
thâm
Mấy chén rượu Bành
Trạch
Một con thuyền Đỗ
Lăng
Đôi bờ mờ sương khói
Lẻ loi núi một
vùng
Lòng khách tràn
thi tứ
Sông nước chảy về
đông
|
Mộ Lao, 4/2013/ Cổ Hoan Nam Đường Nguyễn kính.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét