Khóa nhi bát pháp - một số kinh nghiệm trong giảng dạy chữ Hán giai đoạn vỡ lòng.
http://hannom.org.vn/detail.asp?param=1814&Catid=520
Phần chữ Hán có nhầm lẫn 1 chỗ: Con cháu tốt hay không tốt ... Trên Blog này chúng tôi đã chỉnh lại.
KHÓA NHI BÁT PHÁP 課兒八法VÀCHÍNH HỌC CA 正學歌KINH
NGHIỆM GIẢNG DẠY CHỮ HÁN GIAI ĐOẠN "VỠ LÒNG"
NGUYỄN ĐỨC
TOÀN
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Giáo dục chữ Hán, từ
giai đoạn "vỡ lòng", còn gọi là tiểu học(1)là giai đoạn quan trọng trong đào tạo dạy học chữ
Hán ở các nước sử dụng văn tự Hán. Các sách Mông học kinh điển 蒙學經典là những tài liệu cơ bản dạy dỗ người học các
tư tưởng đạo đức luân lý của Nho giáo thông qua hình thức học chữ, có vần điệu,
dễ nhớ, dễ học từ đó có thể hành văn trôi chảy lưu loát(2). Thậm trí bổ sung đào tạo kiến thức niêm luật đối
ngẫu chặt chẽ, điển tích điển cố thuần thục. Xây dựng nền tảng khá vững chắc
cho người tiếp thu các tri thức cao về mặt tư tưởng trong Kinh - Sử (經-史). Các giáo trình tiểu
học tiêu biểu mà chúng ta đã từng biết thì có những sách như Tam tự kinh 三字經,
Chu tử trị gia cách ngôn 朱子治家格言, Tăng quảng hiền
văn hóa 增廣賢文化, Minh đạo gia huấn 明道家訓, Minh tâm bảo giám 明心寶鑑,
Ấu học Quỳnh Lâm 幼學瓊林…
Vấn
đề đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu về việc dạy dỗ chữ Hán ở bậc vỡ lòng của các
cương vực văn hóa tương đồng vốn là một vấn đề khá lý thú. Trong bài viết này
chúng tôi chỉ xin giới thiệu về kinh nghiệm giảng dạy trong dạy chữ Hán giai đoạn
vỡ lòng là Khóa nhi bát pháp 課兒八法 (Tám
phép dạy trẻ) và và Chính học ca 正學歌 (Bài
ca về việc học cho đúng - 10 bài) được
chép trong sách Truyền gia bảo 傳家寶 của
tác giả Thạch Thành Kim 石成金,
người đời Thanh, Trung Quốc(3). Cung cấp chút
kinh nghiệm dạy chữ Hán cho con trẻ cũng như người mới học. Khuyên người đi học trong các việc, như: đọc sách, giữ tư thế ngồi đoan chính, đi đứng đàng hoàng, nói năng
khiêm tốn, ăn uống giữ gìn, hiếu với song thân, kính người tôn trưởng, đối đãi với
xóm giềng, an phận giữ nghiệp, răn những việc sai trái. Là những phẩm chất
đức tính cần thiết để rèn luyện mình theo đạo đức luân lý Nho giáo ngay ở giai
đoạn vỡ lòng. Giai đoạn căn bản của giáo dục truyền thống.(4)
Truyền gia bảo toàn tập 傳家寶全集là tác phẩm tiêu biểu của Thạch Thành Kim, gồm 4 tập,
số lượng thiên chương khá dài. Chúng tôi chỉ xin trích dẫn đôi điều về quan điểm
giáo dục của tác giả và chút kinh nghiệm dạy học được tác giả đúc kết trong cuộc
đời dạy học của bản thân là Khóa nhi bát pháp 課兒八法(Tám phép dạy trẻ) trong Quyển 1/ Sơ tập /卷一/初集và Chính học ca
正學歌trong Quyển 6/ Sơ tập/ 卷六/初集những lời thơ
khuyên răn người đi học hiểu rõ giá trị việc học làm người.
Phần đầu
tác giả đã đưa ra quan điểm giáo dục đạo đức khá kỹ lưỡng trong việc dạy trẻ.
Chỉ ra việc yêu thương con trẻ thế nào mới là đúng:
世上接續宗祀,保守家業,揚名顯親,光前耀後,全靠在子孫身上。子孫賢,則家道昌盛;子孫不賢,則家道消敗。這子孫關係甚是重大。無論貧富貴賤,為父祖的俱該把子孫加意愛惜。但是為父祖者不知愛惜之道,所以把子孫都耽誤壞了。何謂愛惜之道,"教"之一字時刻也是少他不得。試看,古者婦人一有懷孕,就目不視邪色,耳不聽淫聲,這叫做胎教,所以生子形容端正,聰明過人;子能吃飯,就教他用右手;子能說話,就戒他出嬌音;六七歲時,男女就坐不同席、食不共器;一切出入、飲食,教他遜讓長者;衣服不許綢帛,飲食俱有時度;八歲入小學,教之以灑掃應對進退之節,禮、樂、射、禦、書、數之文;十五歲入大學,教之以明理正心,修己治人之道;至於女子,十歲時就不許出閨門,教以針剪紡績之法,飲食廚臼之事,一切語言容貌俱要溫恭柔順。古人教訓之法還多,不能盡述。想他當日,豈不知愛惜子孫,為什麼把子孫這樣拘管呢?正為不是這樣拘管,就成不得人。所以孔子曰,愛之能勿勞乎。必定要勞苦子孫,才不耽誤子孫,才是真正愛惜子孫。(Ở đời kế nối việc thờ tự, giữ gìn gia
nghiệp, nổi thanh danh hiển cha mẹ, rạng rỡ đời trước kế nối đời sau, đều là nhờ
ở con cháu. Con cháu hiền giỏi thì nghiệp nhà hưng thịnh; Con cháu không hiền
thì gia phong suy bại. Đấy là cái thiết yếu quan trọng liên quan đến con cháu vậy.
Vô luận nhà giàu nhà nghèo nhà sang nhà hèn, các bậc cha ông đều rất yêu thương
con cháu. Nhưng các bậc cha ông mà không biết cách yêu thương con cháu, cho nên
đều khiến cho con cháu bị mê lầm hư lỡ hết cả. Thế nào gọi là cách để yêu
thương, giờ phút của một chữ “giáo” không thể thiếu khuyết nó được. Hãy thử
xem, thời thượng cổ người phụ nữ hễ khi có mang thì mắt không nhìn tà sắc, tai
chẳng nghe tiếng dâm, đó gọi là Thai giáo 胎教, do đó khi sinh con thì hình dung đoan chính, thông minh
hơn người; Khi con biết ăn cơm, thì dạy con dùng tay phải; Khi con biết nói
năng thì răn con khi nói những lời kiêu ngạo; Khi 6-7 tuổi, trai gái không được
ngồi cùng chiếu, không chung đồ ăn; Tất cả các việc ra vào, ăn uống, dạy con
kính khiêm bậc trên; áo quần không được lụa bông, ăn uống phải có chừng độ; 8
tuổi đi học, dạy cho quét dọn đối đáp tiến lui, dạy cho hiểu Lễ, Nhạc, Xạ, Ngự,
Thư, Số; 15 tuổi học Đại học, dạy cho sáng lý ngay tâm, dạy cho đạo tu thân đãi
người; Còn như con gái, 10 tuổi thì không cho ra khỏi chốn khuê phòng, dạy cho
cách thêu vá cắt may, các việc nấu nướng bếp núc, tất cả hành vi lời nói dung mạo
phải nhu mì cung thuận. Phép dạy của cổ nhân còn nhiều, không thể thuật hết.
Thiết nghĩ các vị lúc bấy giờ, há không yêu thương con cháu sao! Sao lại quản
lý câu thúc cháu con như vậy. Chính là vì không quản lý câu thúc cháu con như vậy,
thì không thành người được. Vậy cho nên Khổng Tử mới nói rằng: Yêu chúng nó có
thể không lao nhọc được sao!(5) Nhất định phải
khiến cho cháu con cần lao khó nhọc, thì mới không để cháu con bị mê lầm hư lỡ.
Đó mới chính là yêu thương con cháu vậy).
Con người có thể trở nên tốt đẹp, có văn hóa hay không chủ yếu ở khâu
đào tạo ngay từ lúc bé: 子孫好與不好,只在個教與不教上起根。蓋不教他儉樸,則必奢華;不教他辛勤,則必游惰;不教他忍耐,則必忿爭;不教他謙恭,則必倨傲。出此入彼,自然之理。但世上的人那一個生下來就是賢人?都從教訓成的;那一個生下來就是惡人?都從不教訓壞的。譬如玉不琢,就是廢玉,怎得能成珍器!田不耕鋤,就是荒田,怎得能成豐熟 !(Con cháu tốt hay không tốt, chỉ căn bản ở có dạy dỗ hay
không dạy dỗ. Đại thể là không dạy nó cần kiệm bộc trực thì nó sẽ xa hoa; không
dạy nó chăm chỉ siêng năng thì nó sẽ chơi bời sa ngã; không dạy nó nhẫn nại thì
nó sẽ tranh đua; không dạy nó khiêm cung thì nó sẽ ngạo mạn. Cứ không cái này
thì ắt là cái kia, là cái lý tự nhiên vậy. Nhưng ở trên đời này ai là người
sinh ra đã là người hiền được ngay đâu? Đều phải có dạy dỗ thì mới thành được;
Ai là người sinh ra đã là ác ngay đâu? Đều là do không dạy dỗ nên mới ra hư hỏng
thế. Như ngọc không chịu mài là ngọc phế, sao thành đồ quý được! Như ruộng
không cày xới, thì thành ruộng hoang, sao có ngày mùa bội thu được!).
Tác giả nhấn mạnh vai trò của các bậc
làm cha làm mẹ. Sự hay dở của con cái đều là trách nhiệm nặng nề của cha mẹ. Những
người làm cha làm mẹ không thể chối bỏ trách nhiệm của mình: 教子一事為何專責在父母身上?假如父母不去教
子,鄉黨親族中就有好人,那能件件教導,日日不離?言語也不相信,情誼也不關切,誰肯像父母的心腸,苦口饒舌惹他厭惡。所以兒子學好學不好,都是為父母的專任。萬一父母不在,才是祖、叔的事。(Dạy dỗ con vì đâu phải chỉ ở mỗi mình
cha mẹ? Giả như cha mẹ không dạy dỗ con cái, thì người trong họ hàng thân tộc
cũng có người tốt, nhưng như thế thì có thể dạy dỗ cho từng thứ từng thứ, ngày
ngày chẳng dời ư ? Lời nói còn chẳng tin, tình nghĩa còn chẳng gần, ai có thể lòng
dạ bằng cha mẹ được, đắng miệng mỏi lưỡi chỉ khiến người ta chán. Do đấy con
cái tốt hay không tốt, đều tại trách nhiệm của bố mẹ cả. Chẳng may mà bố mẹ chẳng
còn, thì mới việc đến ông, đến chú).
Phần giới thiệu về Tám phép dạy
trẻ (課儿八法Khóa
nhi bát pháp) là những
kinh nghiệm đã được tác giả tích lũy chắt lọc trong thời gian dạy học, nó cung
cấp cho những người dạy học ngày nay những phương pháp rất đơn giản nhưng hữu
ích trong việc dạy dỗ trẻ, nhất là đối với việc học chữ Hán, thứ văn tự có đặc
trưng riêng biệt. Tám phép dạy đó là:
子弟讀生書,須於清晨令其連讀,自百遍至二百遍,熟如流水,乃及別事。蓋今日之根本既深,嗣後永不遺忘,及理書時不煩多讀,即通本一氣滾下,何等省力。每見鄉塾中不乘其朝氣熟讀生書,日午糾督,一句一格,先生撻之,而加怒子弟,愈久而氣昏,究竟此書甫讀,彼書又忘,及後竭力溫理,徒苦難 熟。(Học sinh tập đọc sách mới, nên vào lúc sáng
sớm khiến cho đọc được liên tục, từ
100 lần đến 200 lần, thuộc như nước chảy, rồi mới đến các việc khác. Đại thể
cái căn bản của hôm nay đã sâu, từ đó về sau mãi không quên được, đến lúc đọc
sách không phiền hà đọc nhiều, mà đã một mạch tuôn ra, đâu đợi phải phí sức. Mỗi
lần thấy ở trường trong làng chẳng thừa buổi nào ra sức đọc thuộc sách mới, đến
trưa còn đôn đốc, mỗi câu mỗi cách, thầy lại roi vọt, mà thêm quát giận học
trò, càng lâu thành rối dạ, rút cục sách này vừa đọc, sách kia đã quên, về sau
lại ra sức ôn lại, chỉ khổ mà khó thuộc được).
2. Dạy vừa phải 少授
如念書能念十行,只與之七八行念,一則力省易念,二則養其精神講解字義。或曰:“如子教法,能念十行只與之七八行念,則經書不能早完奈何?”予曰:“如十歲念完,或不能透熟,即或熟而一字不解。但依予法,凡念至某第,即講至某第,雖遲一二年念完,其受益更深於早一二年也。
(Như đọc
sách có thể đọc được 10 hàng, chỉ cho đọc 7 - 8 hàng thôi, một là sức khỏi phí
dễ đọc, hai là để dưỡng cái tinh thần mà giảng giải nghĩa chữ. Hoặc khi có hỏi
rằng: Nếu dạy con, có dạy đọc 10 hàng mà chỉ dạy đọc 7 - 8 hàng, thì kinh sách
không đọc sớm hết xong được thì làm thế nào? Ta đáp: Nếu như 10 tuổi mà đọc
xong, có thể không thuộc, cũng có thể thuộc mà không hiểu một chữ. Nhưng cứ
theo phép của tôi, cứ đọc đến chỗ nào, thì giảng đến chỗ ấy, tuy chậm 1 - 2 năm
mới đọc xong, nhưng có ích lâu dài hơn là được sớm 1 - 2 năm).
3. Nhận mặt chữ 認字
宜於其未讀之書,先將字樣依次寫出,每日講解,量資質定其多少,如前一日教以一字“了”字,次日即以“了”字加“一”字,即夫子之“子”、父子之“子”,如此類推,字字識認,字字透解,是書未讀而字已識認,讀生書時最為省事。(Các sách chưa học, trước tiên nên đem tự dạng các chữ
lần lượt viết ra, mỗi ngày lại giảng
giải, xem xét tư chất để tính toán ít nhiều, ví dự như trước đó 1 hôm dạy cho 1
chữ liễu“了”, hôm sau lại cho thêm nét nhất
“一”ngang chữ liễu“了”, tức là thành chữ tử “子”trong từ phu
tử 夫子, phụ tử父子, cứ như thế mà suy, nhận mặt từng
chữ, thấu tỏ từng chữ, thế là sách chưa đọc mà nghĩa chữ đã tường tận, khi đọc
sách mới cực kỳ đỡ sức).
4. Viết ngay ngắn 正畫
字有一定之式,一點一畫不可造次,如省筆字重疊用二點之類,竟不可令之見聞,童而習慣,自一一嚴正矣。(Chữ thì
có quy thức nhất định, 1 chấm 1 nét không thể
vội vàng, các dạng như viết bớt nét, tô hai chấm(5),
càng không thể để học biết, trẻ có thể thành quen, cứ nhất nhất nghiêm sửa hết).
5. Giảng nghĩa 講義
如今早讀某書已熟矣,午刻認字完,下午寫字完、理書完,仍令將生書及十日內書再讀百遍,隨把所讀之書與之講解。蓋字義先已了然,此時貫講,自然明白。隨讀隨講,較之多讀不熟而又不解究者當何如。(Như hôm nay đọc sách mới sớm đã thành thục rồi,
đến trưa nhận mặt chữ xong, đến chiều thì viết chữ xong, lý giải sách xong, lại
đem sách mới ấy trong vòng 10 hôm lại đọc lại 100 lần, vừa đọc vừa giảng giải.
Khi nghĩa chữ đã thông, lúc ấy mới giảng suốt được, mà tự nhiên sáng tỏ hết. Vừa
đọc vừa giảng, so với đọc nhiều mà không thuộc lại không biét giải cứu thì thấy
thế nào).
6. Giữ nếp kính cẩn 存敬
射者必內志正、外體直,況我輩讀書寫字時乎!近見諸生偏首側坐種種違式,何以變其氣質耶?寫字時,須令端坐,兩手均平,兩足齊一;讀書時,目無旁視,身無動搖,字句清朗。萬一有時氣昏,寧令靜息片晌,勿草草了事。即平常無事時,坐必如齋,立必如屍,不獨儒體原該如是,抑生嚴敬之思,收拾 放心,莫逾此法。(Người bắn
tên ắt phải để cái chí bên trong cho thẳng thắn, cái thể bên ngoài cho ngay
chính, huống chi lúc chúng ta đọc sách viết chữ! Gần đây thấy các trò, đầu
nghiêng ngồi vẹo các kiểu đều trái quy thức, làm thế nào để thay đổi được cái
khí chất ấy đây? Khi viết chữ, phải ngồi ngay thẳng, hai tay bằng nhau, hai
chân đều như một; Khi đọc sách, mắt không nhìn ngang, thân không lắc lư, câu chữ
phải rõ ràng. Chẳng may có lúc nào mệt mỏi, thì tĩnh lặng nghỉ 1 lát, chớ có
qua loa cho xong chuyện. Lúc bình thường không có việc gì, ngồi thì ngay ngắn,
đứng thì trang nghiêm, chẳng phải chỉ mỗi thân thể nhà Nho phải như thế đâu, vậy
nên các trò phải nghiêm kính suy nghĩ, thu thập cái tâm phóng túng, chớ vượt
phép ấy).
7. Phải hoạt cơ 活机(6)
夏秋晝永,正務易完,不妨令其隨師閑步,或問其平日所習字義,當日所講書理,或見草木鳥獸,俱與志名識義,或古今帝王師相、曆代賢儒名佐,俱就便敘論。久之,開益神智,積纍自富,正不獨散其困倦已也。(Tiết hè tiết thu ngày dài, các công vụ chính đã xong xuôi, không ngần ngại cùng
với thầy nhàn tản dạo chơi, hoặc hỏi han nghĩa chữ hàng ngày học tập, lý lẽ
sách vở thầy giảng, hoặc như thấy các loài cây cỏ chim thú, đều nhớ tên thuộc
nghĩa, hay như các chuyện vua tôi từ xưa đến nay, hiền nho danh tướng các đời,
tranh thủ mà trình bày lại. Lâu ngày, lại thêm mở mang thần trí, tích lũy tự
làm giàu kiến thức, chính là không chỉ tan mất cái nhàn mỏi mệt vậy thôi).
8. Hỏi nghĩa lý 問理
優緊要者,臨臥時已離師側,為父兄者即於榻前問其今日所讀何書,徹底申理一番,所有遺忘者不拘時候另詢之。又於五更時喚醒,仍如前問。經年無間,其益十倍。至於文章機竅,閑即與之講論,須不令其怠惰為準。(Điều thực
liên hệ trọng yếu, là lúc thường không có bên thầy, những người là bậc phụ
huynh nên tiếp cận gần nơi học hỏi han hôm nay đọc những sách gì, trình bày triệt
để một lần, những điều có quên sót cũng không nề sớm muộn mà hỏi thêm đi. Lại những
lúc 5 canh hô dậy, hỏi việc như trước. Năm tháng không ngừng như thế, có ích lợi
10 lần. Còn như văn chương khéo léo, lúc nhàn rỗi thì giảng luận, không để cho
lười biếng làm quen).
Tiếp
sau là Chính học ca 正學歌,
là một chùm 10 bài thơ chữ
Hán với nội dung khuyên răn kẻ đi học phải biết chuyên cần sách vở, đứng ngồi
nói năng phải đoan chính, giữ gìn đạo hiếu, kính bậc tôn trưởng, đối nhân xử thế
hòa mục. Mười bài như sau:
Đọc sách
Chính ngay đọc sách phải
bền tâm,
Nghĩa lý tỏ tường miệng
rõ âm.
Đọc nhiều quý ở nhiều
lần đọc,
Giảng ra phải cố gắng
suy tầm.
Trước Kinh sau Sử bao
công dụng,
Đọc thấu hành văn sức
lực thêm.
Lúc rỗi chớ nhàn chăm
luyện chữ,
Trước song tranh thủ
chút quang âm(6).
|
|||
Tư thế ngồi
Ngồi khép hai chân buông đủ lề,
Đoan trang như tượng đắp không hề.
Kỵ nhất thân nghiêng phải hoặc trái,
Chớ để hai tay nghịch tứ bề(7).
Với bạn cùng ngồi tay khép gọn,
Đối diện với khách chân chớ rê.
Tối kỵ đùi rung chân dậm đất,
Thế cực hạ tiện khiến người chê.
|
|||
Đi đứng
Đi đứng khoan thai phải nhớ lòng,
Đừng theo cử chỉ lũ cuồng ngông.
E chỗ mấp mô chân vấp ngã,
Sợ đường trơn trượt mất oai phong.
Xóm giềng gần gũi chào gặp gỡ,
Bề trên đứng trước phải khiêm cung.
Hiềm nhất nghi ngờ là phải tránh,
Góc phố đầu thôn gặp gỡ cùng(8).
|
|||
莫逞机鋒樂斗唇。
|
Nói năng
Nói năng ngôn ngữ chớ coi thường,
Coi thường dễ gặp chuyện ngang ương.
Bình thường đối đáp nên chuyện thực,
Thân thiết giao du phải tỏ tường.
Miệng chọc chuyện riêng ấy hiềm nhất,
Rỗi nhàn chớ kể lể xóm giềng.
Gật đầu tai tiếp ra hình khác(9),
Chớ có chích châm sướng miệng mồm.
|
||
Ăn uống
Ẩm thực theo thường no là thôi,
Chớ hay kén chọn với tham mùi.
Như nơi bề trên đừng gắp trước,
Những chỗ ngang hàng khiêm tốn mời.
Vật thừa há để cùng mâm thấy,
Canh dư rất kỵ húp tràn môi.
Người hay chỉ lướt sơ biết vị,
Tham ăn từ trước thẹn ai ơi(10).
|
|||
Hiếu thân
Thử hỏi duyên đâu có thân này,
Một xương một tóc cũng mẹ thầy.
Chỉ xem nuôi dạy ân cần đấy,
Là thấy ngày xưa bú mớm dầy.
Ngửa xem trời rộng suy nguồn gốc,
Ba xuân tấc cỏ báo sao đây.
Trông kìa quạ con mớm lại mẹ(11),
Dám phụ công lao thẹn với mày.
|
|||
Kính trên
Trời đất sinh người có trước sau,
Hễ gặp người trên kính nhường mau.
Cẩn thận thi lễ đừng vượt trước,
Từ từ nối gót tiếp theo sau.
Kính lễ bề trên lẽ trời đặt,
Một thôn hiếu đễ khéo dạy nhau.
Bạc đức xưa nay người kiêu ngạo,
Chớ học cuồng ngông lũ lau nhau.
|
|||
Đối đãi
Sinh ra cùng xóm với cùng làng,
Chẳng phải giao du cũng họ hàng.
Lễ tôn qua lại bồi nhân hậu,
Nghĩa tình họ mạc các đời sang(12).
Chớ vì giận nhỏ mất hoà khí,
Rồi kết thành thù bụng giữ giàng.
Chơi nhau hóa hại nên chuốc luỵ,
Mới hay hoà mục là thân an.
|
|||
An phận
Sĩ nông công thương phải cần lao,
Tự có vinh hoa có phú hào.
Tốt nhất một lòng theo nghề gốc,
Chớ có buông tay đợi sáng sau.
Tinh thần chuyên nhất lòng trời giúp,
Nghề nghiệp thành rồi vận tốt sao.
Đừng có lan man tham lũng đoạn(13),
Cá thèm thành mất củi nhà cao(14).
|
|||
Răn việc trái
Phàm trăm sự trái chớ có làm,
Trái làm nào buổi chẳng đeo giam.
Vô duyên tự khởi cơn sóng ác,
Phạm pháp số đen chớ có than.
Dấy niềm sai trái sao không ngại,
Quay đầu muôn tiếc sửa sao cam.
Chẳng như giữ phận người quân tử,
Ai dám khinh ta ta chẳng
làm.
|
|||
|
|
|
|
Chỉ thông qua mấy lời thô dịch một phần trong Truyền
gia bảo của Thạch Thành Kim. Chúng ta càng thấy rõ ý nghĩa của giai đoạn đào tạo chữ
Hán Tiểu học. Nó không chỉ đem đến cho người học kiến thức, kỹ năng tiếp cận
Hán tự mà còn rèn rũa con người trở nên nề nếp, hiếu thuận, kính trên nhường dưới,
thương yêu mọi người. Nhất là trách nhiệm vai trò của các bậc phụ huynh, những
người làm cha làm mẹ có ảnh hưởng to lớn trong cả quá trình học tập của trẻ nhỏ.
Mười bài thơ của Chính học ca không những là lời thơ rèn đức
cho con trẻ mà là những lời châm, lời minh răn dạy cho cả
những người trưởng thành. Nghiên cứu về giáo dục chữ Hán giai đoạn Tiểu học
còn rất nhiều điều lý thú, góp phần bổ ích cho nền tảng của việc giáo dục con
trẻ ngày nay.
Chú thích:
(1) Quan niệm Tiểu học
ở đây, chúng tôi muốn nói đến giai đoạn học chữ Hán ở giai đoạn vỡ lòng, căn bản.
Khác với cách hiểu Tiểu học, theo nghĩa là các sách vở có tính chất Kinh điển,
được phân định trong Tứ bộ Kinh - Sử - Tử - Tập, quy Tiểu học là
1 phần của Kinh bộ, trong khi các sách thuộc về Mông học kinh điển lại bị
quy về Tử bộ.
(2) Mông học kinh điển
蒙學經典: Các sách dạy chữ Hán giai đoạn vỡ lòng. Thư tịch
cổ Trung Quốc liệt các sách Kinh điển mông học vào hàng Tử bộ trong Tứ bộ Kinh
- Sử - Tử - Tập.
(3) Thạch Thành Kim 石成金, tự là Thiên Cơ 天基, hiệu là Tinh
Trai 惺齋, người Dương Châu. Ông sinh vào khoảng năm Thuận Trị thứ 16 (1658), đời Thanh,
mất vào khoảng những năm đầu đời Càn Long. Thạch Thành Kim xuất thân thuộc dòng
dõi quý tộc ở Dương Châu, thiên tư thông tuệ, từ nhỏ đã học nhiều sách vở thi
văn, Kinh Sử Tử Tập không gì không thông hiểu. Cả đời chỉ lấy trước tác và dạy
học làm nghiệp chính, có rất nhiều tác phẩm, đại biểu là Truyền gia bảo toàn
tập 傳家寶全集.http://bbs.guoxue.com/
(4) Nguyên văn chữ Hán
lấy từ nguồn: http://hi.baidu.com/
;
(6) Viết
bớt nét và tô 2 chấm là kiểu chữ viết tắt, giản hóa các chữ phức tạp. VD: 固
= cố;聞
= văn.
Viết 2 chấm hai bên, có người còn gọi là kiểu chữ tháu đấm.
(7)Linh
hoạt, không máy móc.
(8)Quang
âm 光陰: chỉ thời gian thanh xuân, trai trẻ.
(9)Tứ
bề, là dịch từ Đông Tây 東西,
nghĩa chữ Hán cũng có nghĩa chỉ nghịch đồ vật.
(10)Ý
nói tránh những nơi có thể sinh chuyện thị phi.
(11)Dịch
từ 交頭接耳Giao đầu tiếp nhĩ/ Ghé đầu nói thầm vào tai, tai nghe đã
thành chuyện khác rồi.
(12)饕餮Thao
thiết: Tham ăn
(13)Điển
tích loài quạ, chim non thường mớm mồi lại cho chim mẹ. Nhà Nho lấy hình tượng
này để chỉ đạo hiếu của loài chim.
(14)休慼Hưu
thích: Nói những sự việc lúc nhàn, lúc gấp gáp giúp đỡ tương trợ lẫn nhau; 我先恩Ngã
tiên ân: Chỉ mối thâm giao quen biết từ các đời trước.
(16)Hình
tượng người đi kiếm củi, thấy người câu được cá, bỏ cả buổi kiếm củi để ngồi câu, mong được cá. Nhưng hóa ra cá
không được mà mất công,
mất việc kiếm củi cả 1 ngày.
Tài liệu tham khảo
- Nguyên văn tư liệu chữ Hán lấy từ nguồn:
http://hi.baidu.com/;
http://bbs.renlong.com.cn/;
http://bbs.guoxue.com/
-
Luận ngữ - Hiến vấn.
-
Từ nguyên. Thượng Hải. Thương vụ ấn thư quán, 1997.
-
Hán Việt từ điển. Thiều Chửu. Phiên bản 1.5
(2005.10.28) Copyright © 2003 - 2005.
-
Từ điển Lạc Việt mdt 2005 - CVH.
-
Giáo trình Hán Nôm. Trung tâm giáo dục thường xuyên Nguyễn
Văn Tố. Tài liệu lưu hành Nội bộ. H. 2009./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét